KHI NHÀ VĂN LẠM BÀN LỊCH SỬ
- Nguyễn Mạnh Quang -
http://sachhiem.net/NMQ/KNV/PhulucI.php
10-07-2008
Toàn tập: 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14
PHẦN III
PHỤ LỤC 1
VỀ
CÂU NÓI “VÌ CỘNG SẢN VIỆT NAM TÀN ÁC QUÁ CHO NÊN NGUỜI DÂN MỚI BỎ NƯỚC
RA ĐI NHIỀU NHƯ VẬY!”
Có nhiều người Việt Nam ở hải ngoại cho rằng, “trong lịch sử nhân loại, chưa bao giờ có dân tộc nào có cuộc di tản đau thương như người Việt từ năm 1975 đến nay, cho thấy Việt Nam Cộng Sản là những người tàn ác nhất.”
Tuy không có ý biện minh cho bên này hay bên kia, dưới ánh
sáng lịch sử, người viết cho rằng lời tuyên bố trên đây hoàn
toàn không đúng. Những người đưa ra lời tuyên bố sai lầm này
không được học và cũng không chịu tìm hiểu lịch sử thế giới cho
nên mới có ý nghĩ và lời tuyên bố vừa chủ quan, vừa sai lầm, vừa
nói lên tình trạng ngu dốt của họ về lịch sử thế giới.
Sự thật trong chiều dài lịch sử nhân loại, từ Đông sang Tây,
đã có rất nhiều đợt hay làn sóng người lìa bỏ quê hương đi đến
một nơi xa lạ để mưu sinh chỉ vì thảm họa độc tài chuyên chính
tại quê nhà, đặc biệt là vì cái thảm họa đạo phiệt Thiên Chúa
Giáo La Mã (đạo phiệt Da-tô), một thảm họa kinh khủng nhất và
ghê tởm nhất trong lịch sử nhân loại.
(quân đội
Hoa kỳ đốt nhà tình nghi là ổ VC, nguồn: http://en. wikipedia.org/wiki/)
Cách đây hơn 2.500 (hai ngàn năm trăm năm), chuyện này đã xẩy ra ở
bên Trung Hoa mà nguyên nhân thuần túy là bị áp bức và bị bóc lột, chứ
không phải là bị miệt thị và bị sát hại vì không cùng tín ngưỡng, như
chuyện dưới đây:
"Hà chính mãnh ư hổ: Đức Khổng Tử khi sang nước Tề, đi qua núi Thái
Sơn, thấy một người đàn bà khóc ở ngoài đồng, nghe thê thảm lắm. Ngài
nói rằng: "Người đàn bà này xem như trong nhà có trùng tang." Rồi sai
thầy Tử Cống đến hỏi.
Người đàn bà thưa rằng: "Ở đây lắm hổ, bố chồng tôi đã chết vì hổ,
chồng tôi đã chết vì hổ, bây giờ con tôi lại cũng chết vì hổ nữa. Thảm
lắm ông ạ!" Thầy Tử Cống bảo: "Thế sao không bỏ chỗ này đi ở chỗ khác?"
Người đàn bà nói, "Tuy vậy, nhưng ở đây chính sách quan trên không đến
nỗi hà khắc tàn bạo như các nơi khác. Thầy Tử Cống đem câu chuyện thưa
lại với Đức Khổng Tử, Đức Khổng Tử nói, "Các ngươi nhớ đấy: Chính sách
hà khắc khốc hại hơn hổ ! " Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân,
Cổ Học Tinh Hoa – Quyển Thứ Nhất (Hà Nội: Tinh Hoa Miền Nam, 1925), tr.
165-166.
Nguyên do tỵ nạn của gia đình người đàn bà trong chuyện này là bị áp
bức và bóc lột do bọn cường hào ác bá địa phương gây ra mà thôi.
Sau này, bước vào thời Trung Cổ, đặc biệt là kể từ khi Giáo Hội La Mã
nhẩy lên bàn độc, làm mưa làm gió trên sân khấu chính trị Âu Châu, lại
có những làn sóng người Âu Châu di cư hay tỵ nạn đạo phiệt Da-tô diễn ra
liên tục kể từ đó. Câu tục ngữ “nơi nào có tự do, nơi đó sẽ là quê
hương” của người La Mã là bằng chứng rõ ràng nhất cho sự kiện này. Từ
đầu thế kỷ 16, vào khi Phong Trào Tin Lành nổi lên chống lại Giáo Hội La
Mã, những làn sóng tị nạn chạy trốn Giáo Hội La Mã hay các chế độ đạo
phiệt Da-tô tại Âu Châu càng trở nên mãnh liệt hơn nữa, vì rằng đúng với
thời điểm này, người Âu Châu đã khám phá ra Mỹ Châu, những người bị Giáo
Hội coi là tà giáo và bị Giáo Hội trù ẻm mới quyết tâm liều thân lìa bỏ
quê hương xứ sở, tìm đến Mỹ Châu hay bất cứ nới nào không có áp bức,
không có cưỡng bức, không có chèn ép, không có bất công, không có miệt
thị và không sát hại những người không cùng tín ngưỡng để được sống đời
tự do mưu sinh nuôi sống gia đình. Sách sử cho biết có hàng mấy chục
triệu người phải bỏ xứ sở đi đến một nơi xa xôi, lạ cảnh, lạ người, cách
biệt quê hương bằng cả một đại dương mênh mông vô tận. Cũng nên biết,
thời đó, các phương tiện di chuyển chưa được cơ giới hóa và cũng không
có một tổ chức quốc tế hay một siêu cường giầu có nào đổ tiền ra chu cấp
và giúp đỡ để ổn định đời sống của họ trong cái buổi ban đầu “vạn sự
khởi đầu nan” như người Việt Nam khi tìm đến Hoa Kỳ xin tị nạn cả về
chính trị lẫn kinh tế từ năm 1975 cho đến ngày nay. Dưới đây là một số
trường hợp trong những chuyện người Âu Châu bỏ nước đi Mỹ Châu để thoát
khỏi các chế độ đạo phiệt Da-tô tàn ngược ở Âu Châu với hy vọng được tự
do được thờ phượng theo ý muốn.
1.- TẠI TÂY BAN NHA: Thi hành chính sách Ki-tô hóa
nhân dân bằng bạo lực do Giáo Hội La Mã chủ trương, chính quyền đạo
phiệt Da-tô Tây Ban Nha đối xử với các nhóm dân theo đạo Do Thái và Hồi
Giáo rất là dã man khiến họ phải bỏ nước cuốn gói ra đi. Sự kiện này
được hai nhà viết sử Anatole G. Mazour và John M. Peoples ghi lại trong
cuốn Men and Nations - A World History với nguyên văn như sau:
"Những tín đồ Da Tô nhiệt thành (ngoan đạo) của Giáo Hội La Mã
không thích những người Moors theo đạo Hồi và dân Do Thái theo đạo Do
Thái. Ngay cả sau khi xứ Granada sụp đổ, người Moors vẫn tiếp tục sống
hòa bình ở Tây Ban Nha. Người Do Thái đã sinh sống ở Tây Ban Nha từ khi
quốc gia này trở thành một phần trong lãnh thổ Đế Quốc La Mã. Năm 1492,
Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella ra lệnh cho tất cả những người Do
Thái trong vương quốc của họ hoặc là phải theo đạo Da Tô (Kitô La Mã),
hoặc là phải bán xới đi khỏi nước Tây Ban Nha. Mấy năm sau, hai vợ chồng
ông vua này lại bắt dân Moors phải tuân hành lệnh trên đây. Hầu hết
những nạn nhân trong hai nhóm dân này đều quyết định thà bán xới bỏ nước
Tây Ban Nha mà đi, chứ nhất định là không chấp nhận theo đạo Da Tô để
được ở lại nước Tây Ban Nha." Nguyên văn: “Ardent Catholics, they looked
with displeasure at the many Moors and Jews in Spain. Even after the
fall of Granada, Moors had continued to live peacefully in Spain. Jews
had been in Spain since the time it was a part of the Roman empire. In
1492, Ferdinand and Isabella ordered that all Jews within their two
kingdoms must either become Christians or leave Spain. Several years
later, they offered the Moors the same choice. Most people of both
groups chose to leave rather than accept Christianity.” Anatole G.
Mazour và John M. Peoples, Men and Nations - A World History (New York:
Harcourt Brace Jovanovich, 1975), p 238.
Nói về tình trạng của những người
Moors và Do Thái ở Tây Ban Nha trong thời kỳ này, Ông Lương Minh Sơn ghi
nhận như sau:
"The Spanish Inquisitons" là thời kỳ Hoàng Gia Tây Ban Nha ra lệnh
bắt bớ và tàn sát những người theo các giáo phái khác vì cho là "dị
giáo". Thời kỳ này bắt đầu từ năm 1478, khi Hoàng Hậu Isabella I de
Castille khởi động phong trào bắt bớ những người Do Thái, mặc dầu đã
theo đạo Thiên Chúa La Mã nhưng vẫn còn bí mật duy trì những tục lệ của
Do Thái Giáo. Năm 1483, Vua Ferdinand và Hoàng Hậu Isabella cử giáo sĩ
Tomas de Torquemada của giòng tu Spanish Dominican lên nắm quyền tư lệnh
để thi hành chương trình "Inquisition" trên toàn lãnh thổ và những vùng
thuộc địa của Tây Ban Nha. Năm 1487, Đức Giáo Hoàng Innocent VIII phong
thưởng cho giáo sĩ de Torquemada danh hiệu "The Grand Spanish
Inquisitor", một "Inquisitor" vĩ đại, và ra lệnh khởi động chương trình
"Inquisition" trên toàn thế giới.
Ngày 31-03-1492, Hoàng Gia Tây Ban Nha ra sắc lệnh bắt buộc 150 ngàn
người Do Thái ở thành phố Granada phải bán hết của cải để rời khỏi Tây
Ban Nha trước ngày 31 tháng 7 vì lý do để làm sạch cho "danh dự và sự
rực rỡ của Thượng Đế." Hằng ngàn người Do Thái phải miễn cưỡng "theo
đạo" nhưng sau này vẫn bị nguyền rủa là "Los Marranos" (Loài Heo Dơ
Bẩn). Hơn 60 ngàn người phải đút lót tìm đường vào định cư ở Bồ Đào Nha.
Một số khác được Hoàng Đế Bajazet của Ottoman (Cổ Thổ Nhĩ Kỳ) thâu nhận,
mặc dầu giáo phái chính của đế quốc này là Chánh Thống Giáo (Orthodox).
Năm 1499, một "Spanish Inquisitor" khác là Tướng Francisco Jimenez de
Cisneros áp đặt phương cách làm lễ biến đổi những người "dị giáo" sang
Thiên Chúa Giáo La Mã một cách tập thể, và chuyện này đã bắt lửa cho
cuộc đại loạn đẫm máu ỏ Granada. Năm 1543, các "Spanish Inquisitors" ra
lệnh xử đốt những người Tin Lành (Protestants) trên các phong thánh giá.
Cuộc đàn áp tôn giáo này kéo dài 342 năm. Năm 1820, khi Hoàng Đế
Ferdinand thứ VII ra lệnh chấm dứt thời kỳ "Inquisition" thì đế quốc Tây
Ban Nha cũng đã mất gần hết các thuộc địa tại Trung Mỹ [TRA, "Human
Rights and Social Justice": 1478, 1483, 1492, 1499, 1543, 1820]. Gần thế
kỷ sau, ngày 14-11-1994, trong một bài hiệu triệu gởi các hàng giáo phẩm
của Thiên Giáo La Mã, Đức Giáo Hoàng John Paul Thứ II lên tiếng kêu gọi
"Giáo Hội của Ngài phải ăn năn thống hối đối với những tội lỗi mà người
Thiên Chúa Giáo La Mã đã lầm lẫn gây ra trong quá trình lịch sử, chỉ vì
họ đã bảo vệ đức tin một các quá nhiệt thành". Ngài nói, "Giáo Hội Thiên
Chúa Giáo La Mã không thể nào bước qua được ngưỡng cửa của thiên kỷ mới
nếu không khuyến khích giáo dân hãy rửa mình cho tinh khiết, bằng cách
ăn năn về những lỗi lầm trong quá khứ", [LAT]. Lê Hữu Dản, Sự Thật - Đặc
San Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, CA: TXB, 1997), tr. 28.
Lệnh thi
hành chương trình "Inquisition" từ mẫu quốc Tây Ban Nha thì tất nhiên
tại các thuộc địa của Tây Ban Nha làm sao thoát khỏi! Sách Homeland of
The World viết về tình trạng dân Da Đỏ tại các thuộc địa cuả Tây Ban Nha
ở Châu Mỹ La-tinh như sau:
"Người
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha khi đến Châu Mỹ La-tinh mang theo niềm tin tôn
giáo của họ. Họ cho rằng người dân Da Đỏ là những dân tà giáo (dị giáo)
hay không có tôn giáo gì cả. Sự thật, người Da Đỏ có tôn giáo riêng của
họ. Tôn giáo của họ dựa vào lòng tin tưởng của họ đối với quyền lực
thiên nhiên ở chung quanh họ. Họ thờ mặt trời, thờ thần gió và các quyền
lực khác của thiên nhiên. Người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha không cho đó
là một tôn giáo và quyết định dùng bạo lực đàn áp tôn giáo của nguời Da
Đỏ. Người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha tin rằng nhiệm vụ của họ là phải
cưỡng bách người Da Đỏ phải theo đạo Thiên Chúa La Mã." Nguyên văn:
The Spanish and Portuguese settlers in Latin America brought their
religion with them. They believed the Indians to be pagans, or people
who had no religion. In fact, the Indian did have their own religion. It
was based on their belief in the powers of nature around them. They
worshiped the sun, the winds, and the forces of nature. The Spanish and
the Portuguese did not think this was a religion, and they took steps to
crush it.” Jack Abramowitz & Kenneth Job, Homelands of the World
Resources and Cultures (Cleveland, Ohio: Modern Curriculum Press Inc.
1982), p 245.
Chính
sách Ki-tô hóa dã man này đã làm cho các dân tộc bản địa (gọi là dân Da
Đỏ) gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Theo sách Smokerscreens, con số nạn
nhân bị chính quyền đạo phiệt Da-tô Tây Ban tra tấn, gây thương tật và
tàn sát cả ở chính quốc và ở các thuộc địa ở Châu Mỹ La-tinh và Phi
Luật Tân và lên tới 68 triệu người:
"Chỉ nội
trong thời kỳ thi hành chương trình Inquisition ở Tây Ban Nha, Giáo Hội
La Mã đã tra tấn, gây thương tật và sát hại là 68 triệu, và nhiều nạn
nhân này cũng là những người Thiên Chúa Giáo tin tưởng vào Thánh Kinh." Nguyên văn: “The Roman Catholic Institution tortured, maimed and
murdered 68 million people during the Spanish Inquisition alone, and
many these were Bible-believing Christians.” J..T.C., Smokerscreens
(Chino, CA: Chick Publications, 1983), P. 35.
2.-
TẠI NƯỚC PHÁP: Trên đây là
những chuyện xẩy ra tại Tây Ban Nha và ở Châu Mỹ La-tinh. Như chúng tôi
đã nói trước đây, ở đâu có quyền lực của Giáo Hội La Mã vươn tới hay tín
đồ ngoan đạo của Giáo Hội lên cầm quyền là ở đó những người dân thuộc
các tín ngưỡng khác bị kỳ thị, bị đàn áp, bị tàn sát, bị đầy đọa, bị
khinh rẻ như loài thú vật. Ngay cả tín đồ của Giáo Hội cũng là một thứ
nô lệ và bị bóc lột đến tận xương tận tủy. Chuyện tín đồ của Giáo Hội bị
bóc lột như thế nào, sẽ được trình bày trong một tiểu mục khác. Trong
mục này, chúng tôi xin nói đến tình cảnh khốn khổ của khối dân Tin Lành
Huguenots, cùng thờ Chúa Jesus như tín đồ Da Tô La Mã, nhưng chỉ vì
không tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican và không chấp nhận cái
lối thờ phượng quái gở (trong đó có cả nghi lễ "Hôn kính giầy dép" của
các đấng bề trên của Giáo Hội và “hôn hít bàn chân” của Giáo Hoàng) mà
bị chính quyền tay sai của Giáo Hội đối xử vô cùng tàn ngược, cưỡng bách
họ hoặc là phải theo đạo Da-tô La Mã, hoặc là phải bỏ nước ra đi. Sách
sử nước Pháp và sách sử thế giới đều nói rõ vấn đề này cả trước
khi ban hành Sắc Lệnh Nantes và sau khi hủy bỏ Sắc
Lệnh Nantes.
Chúng ta
cũng nên biết nguyên do TẠI SAO Sắc lệnh Nantes được ban hành và TẠI SAO
Sắc Lệnh này lại bị hủy bỏ.
Nguyên nhân tại sao Sắc Lệnh Nantes được ban hành.- Nguyên nhân này hơi dài dòng, những người viết
cũng cố gắng trình bày đầy đủ ngọn ngành của nó. Có ở trong chăn mới
biết chăn có rận. Không ai biết rõ tội ác của Giáo Hội La Mã bằng những
ông tu sĩ của Giáo Hội thuộc hàng trí thức. Linh-mục Martin Luther
(1483-1546) là một trong những người này.
Thấy
rằng trong hơn một ngàn năm qua, Giáo Hội La Mã đã phạm phải quá nhiều
tội ác, đặc biệt là những tội ác bịa đặt ra những tín điều nhảm nhí để
mê hoặc và lừa bịp người đời, tội ác muợn danh nghĩa Thượng Đế để tàn
sát những người không chịu khuất phục Giáo Hội, và tội ác bóc lột nhân
dân một cách hết sức dã man, năm 1517, nhân chuyện Tòa Thánh Vatican
đang tiến hành dịch vụ bán giấy miễn tội (indulgences) cho giáo dân để
lấy tiền nói rằng để xây cất nhà thờ mà thực tế lấy tiền để chi phí cho
cuộc sống huy hoàng đàng điếm của tập đoàn giáo sĩ cao cấp trong giáo
triều Vatican, Linh-mục Martin Luther (1483-1546) liền nắm lấy chứng cớ
này để công khai chống lại Giáo Hội La Mã và công bố bản cáo trạng nêu
lên 95 đề tài nói về khu rừng tội ác và những sai lầm của Giáo Hội La Mã
rồi đem dán vào cánh cửa chính nhà thờ Wittenberg ở Đức vào ngày
31-10-1517. Thấy vậy, Giáo Hoàng Hoàng Leo X (1513-1521) liền quyết định
trừng phạt ông bằng cách rút phép thông công. Đồng thời, ông giáo hoàng
này còn ra lệnh cho chính quyền địa phương tại Đức phải bắt ông giải về
cho Tòa Án Dị Giáo để trị tội. Cũng may cho ông, lúc bấy giờ, cả dân Đức
và dân các quốc gia khác ở Âu Châu đều không thể nào nhịn nhục khoanh
tay để cho Giáo Hội tiếp tục giết hại những người đã liều chết chiến đấu
cho quyền lợi của giáo dân và nhân dân dưới quyền thống trị của Vatican.
Họ vùng lên thành một phong trào phản kháng Giáo Hội để bảo vệ ông, nhất
định không để cho chính quyền Đức bắt ông giao cho Toà Án Dị Giáo của
Vatican. Phong trào nổi dậy này đã làm bọn vua chúa Đức nhìn ra
sức mạnh của nhân dân để rồi họ không những đã không tuân hành lệnh bắt
Linh-mục Martin Luther (của Giáo Hội La Mã) giao cho Tòa Án Dị Giáo, mà
còn triệt để bảo vệ ông. Nhờ vậy mà Linh-mục Martin Luther mới thoát
chết để rồi tiếp tục công cuộc đấu tranh đòi lại quyền làm người cho
nhân dân Đức và cho cả Âu Châu.
Thấy
rằng, phong trào phản kháng này được nhân dân và chính quyền Đức hết
lòng ủng hộ, ông (Linh-mục Luther) cùng ông Philipp Melanchthon
(1497-1560) và nhiều người khác bắt tay vào việc tiến hành thiết lập hệ
thống tổ chức Giáo Hội Tin Lành, và tiến hành biên sọan giáo lý, loại
bỏ những lời cầu khẩn lảm nhảm, loại bỏ nhiều phép bí tích và loại bỏ
việc thờ bà Maria. Vì đáp ứng được khát vọng của nhân dân, Giáo Hội
Tin Lành của Linh-mục Luther, không những được hầu hết nhân dân Đức
hưởng ứng nhiệt thành mà gần như hầu hết đại khối nhân dân khắp trong
các miền Tây Âu và Bắc Âu hưởng ứng và cũng vùng lên đi theo để chống
lại Giáo Hội La Mã. Vì thế mà chỉ trong thời gian có mấy năm, Giáo Hội
Tin Lành của Linh-mục Martin Luther bành trường thành một thế lực vô
cùng hùng mạnh. Các nhà viết sử mới gọi chuỗi biến cố lịch sử này là Phong
Trào Tin Lành Luther.
Sở dĩ
phong trào Tin Lành thành công một cách hết sức dễ dàng là vì chính
sách bạo trị của Tòa Thánh Vatican đã làm cho toàn thể nhân dân Âu Châu
vô cùng căm thù và phẫn uất, chỉ chờ mong có cơ hội là họ vùng lên làm
đại cuộc. Dĩ nhiên là những người có trình độ thông minh dưới trung bình
(IQ dưới 90) hay những người bị điều kiện hóa bới chính sách ngu dân và
nhồi sọ của Giáo Hội không còn đủ lý trí để nhìn ra sự thật này.
Phước
bất trùng lai, hoạ vô đơn chí. Phong trào Tin Lành của Linh-mục Luther ở
Đức đã khích lệ nhân dân các nước khác ở Âu Châu hăng say cũng đứng lên
phất cờ chống lại Giáo Hội La Mã. Một trong những nhân vật quan trọng
thành công trong việc phất cờ chống lại Vatican và cũng thành công như
Linh-mục Luther là ông John Calvin (1509-1564). Lúc đó ông John Calvin
đang sống lưu vong ở Thụy Sĩ. Phong trào Tin Lành Luther được nhân dân
Đức triệt để ủng hộ Âu Châu làm cho ông cảm thấy vô cùng phấn khởi, hăng
say theo gương Linh-mục Luther đứng lên làm đại cuộc giải phóng nhân
dân Pháp thoát khỏi gông cùm Vatican. Lý thuyến về tín lý Ki-tô của ông
để chống lại lý thuyết Ki-tô của Giáo Hội La Mã gần giống như lý thuyết
về tín Ki-tô của Linh-mục Luther, có một vài điều khác biệt. Ông Calvin
cho rằng điều quan trọng là việc cứu rỗi hay không được cứu rỗi là do
nơi Thượng Đế đã sắp đặt trước rồi (tiền định). Vì thế, người đời không
thể làm cách gì để thay đổi được nữa, chỉ có một việc làm duy nhất là
vinh danh Thượng Đế mà thôi.
Đại
cương những tư tưởng của ông Calvin đều được trình bày rõ ràng trong
cuốn sách nổi tiếng có tựa đề là "The Institutes of the Christian
Religion" (Cơ Chế Thiên Chúa Giáo). Phong trào Tin Lành Calvin đặt trụ sở trung ương tại thành phố Geneva, và lấy Thụy Sĩ là vùng đất
khởi phát. Vào lúc đó, lòng căm thù của nhân dân Âu Châu, đối với Giáo
Hội La Mã đã lên đến cực điểm và càng quyết tâm chống lại Giáo Hội La
Mã. Cho nên, cũng như Phong Trào Tin Lành Luther, Phong Trào Tin Lành
Calvin được nhân dân Âu Châu, đặc biệt là nhân dân Pháp và nhân dân Bắc
Âu, nồng nhiệt tiếp đón và hăng say gia nhập. Tại Pháp những người theo
Phong Trào Tin Lành Calvin được gọi là những người Tin Lành Huguenots.
Những
hành động dã man của Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô trước khi Sắc Lệnh
Nantes được ban hành.- Để
đối phó với Phong Trào Tin Lành Luther và Phong Trào Tin Lành Calvin,
Tòa Thánh Vatican phát động cuộc chiến để tận diệt hai phong trào này và
kêu gọi các nhà cầm quyền vốn là tín đồ ngoan đạo của Giáo Hội khởi binh
tấn công vào những khu vực hay quốc gia của người Tin Lành bất kể là
thuộc Phong Trào Tin Lành Luther hay Phong Trào Tin Lành Calvin. Tình
trạng này khiến cho Âu Châu rơi vào thảm họa chiến tranh tôn giáo giữa
những người cùng thờ Chúa Bố Jehohavah và Chúa Con Jesus. Sách Living
World History ghi nhận tình trạng chiến tranh tôn giáo ở Âu Châu lúc bây
giờ với nguyên văn như sau:
“Nội
chiến làm phá vỡ nước Pháp.- Trong khi người Tây Ban Gia (Da-tô La
Mã) chiến đấu chống lại Người Anh (Anh Giáo) và người Hòa Lan (Tin Lành)
thì nước Pháp lâm vào tình trạng nội chiến. Nguời Pháp Tin Lành
Huguenots chiến đấu chống lại người Pháp Da-tô La Mã trong nhiều trận
chiến từ năm 1562 đến năm 1598 để tranh giành ngai vàng. Trong hầu hết
thời gian này, nước Pháp nằm dưới quyền cai trị của mấy ông vua nhu
nhược. Một vị nhiếp chính là Bà Catherine de’ Medici nắm thực quyền. Dù
rằng lúc đầu bà cố gắng đứng trung lập giữa Tin Lành và Da-tô La Mã,
nhưng về sau bà đứng hẳn về phía Da-tô La Mã. Lòng thù ghét của bà đối
với Tin Lành càng ngày càng mãnh liệt và lên đến cao độ trong vụ tàn
sát nguời Tin Lành Huguenots vào năm 1572 ở nhà thờ St. Bartholomews mà
bà định giết hết tất cả những người thuộc giáo phái này. Dù là đã có
tới 10 ngàn người bị sát hại trong vụ này, những hệ phái Tinh Lành cũng
vẫn không bị hủy diệt hoàn toàn.” Nguyên văn: “Civil war
disrupted France.- While Spanish were fighting the Dutch and
English, civil war broke out in France. Huguenots contended with Roman
Catholics in a series of conflicts between 1562 and 1598 over the issue
of which faction would control the throne. During most of this time,
France was ruled by weak kings. A regent, Catherine de’ Medici,
exercised great power. Although at first she tried to steer a middle
course between Protestant and Catholics, she finally went over to the
Catholic side. Her hatred of Protestantism grew, culminating in the St.
Bartholomews Day Massacre of 1572 in which she planned to have all the
Huguenots killed. Although at least 10,000 Huguenots were slain,
Protestantism was not extinguished in France….” Arnold Schrier & T.
Walter Wallbank, Living World History (Genview, Illinois: Scott,
Foresman and Company, 1974), p.321
Trong
những năm có chiến tranh tôn giáo trên đây kể từ đầu thập niên 1560, Tòa
Thánh Vatican cũng như các chính quyền đạo phiệt Da-tô và tín đồ ngoan
đạo của Giáo Hội La Mã đã có những hành động cực kỳ dã man đối với tín
đồ Tin Lành. Sách Smookescreens ghi lại sự kiện này với nguyên văn như
sau:
"Ngày
22-8-1572 bắt đầu xẩy ra một cuộc tàn sát đẫm máu ở nhà thờ St.
Bartholomew. Đây là một trong những vụ tàn sát ghê gớm để tiêu diệt
phong trào Tinh Lành ở Pháp. Pháp Hoàng đã khôn khéo sắp đặt cuộc hôn
nhân giữa người em gái của nhà vua với Đô Đốc Coligny, một nhân vật lãnh
đạo của Tin Lành. Một bữa tiệc lớn được tổ chức ăn mừng lễ cưới. Sau bốn
ngày, quân lính của tân lang Coligny được cho ăn uống no say, một hiệu
lệnh được ban hành. 12 giờ đêm hôm đó, tất cả nhà cửa của những người
Tin Lành ở trong thành phố đều bị bắt buộc phải mở cửa. Đô Đốc Coligny
bị giết. Thi hài của ông bị liệng qua cửa sổ ra ngoài đường. Thủ cấp của
ông bị cắt đem gửi cho giáo hoàng. Hai cánh tay và bộ phận sinh dục của
ông cũng bị cắt. Rồi chúng lôi kéo phần còn lại của xác chết này đi khắp
các đường phố cả ba ngày trời. Sau đó, chúng treo ngược cái xác chết
không đầu, không tay, không bộ phận sinh dục này ở một nơi ngoại ô thành
phố. Đồng thời, chúng còn tàn sát nhiều người Tin Lành khác nữa. Trong 3
ngày, hơn mười ngàn dân Tin Lành (ở Paris) bị giết hại. Những xác chết
này bị liệng xuống sông và máu nạn nhân lênh láng chẩy thành dòng ra tới
tận cửa sông giống như một dòng máu. Trong cơn hung hãn này, chúng có
thể giết cả những người đồng đạo của chúng nếu nạn nhân bị nghi ngờ là
không mạnh tin vào Giáo Hoàng. Từ Paris, bịnh dịch tàn sát vì lòng cuồng
tín như vậy lan tràn ra khắp nơi trong nước Pháp. Tính ra có tới hơn tám
ngàn nạn nhân (ở các nơi khác trong nước Pháp – NMQ) bị sát hại. Rất ít
người Tin Lành thoát khỏi tai họa trong cơn hung hãn của chúng.”
"Một vụ
tàn sát người tập thể tương tự như vậy cũng xẩy ra ở Ái Nhĩ Lan vào năm
1641. Bọn tín đồ Da-tô chủ mưu chọn ngày 23 tháng 10 là ngày kỷ lễ niệm
Ignatius Loyola, người sáng lập ra Dòng Tên: Chúng dự trù một cuộc tổng
nổi dậy trong toàn quốc. Tất cả những người theo đạo Tin Lành đều phải
bị giết ngay tức thì. Để làm cho những người Tin Lành không chú ý đến
việc làm của chúng, chúng tỏ ra rất là tử tế với họ. Sáng sớm ngày
vùng dậy, bọn chủ mưu đều có võ trang đi lùng bắt những người Tin lành.
Gặp người nào là chúng giết người đó, không một chút thương xót. Những
người Tin Lành này chưng hửng trong kinh hoàng. Họ đã sống trong yên
bình từ nhiều năm. Giờ đây, gặp cảnh ngộ như vậy, họ không biết phải
chạy trốn đi đâu. Những kẻ tàn sát họ lại là những người láng giềng, bạn
bè và bà con của họ. Phụ nữ bị trói vào cọc (cột) lột trần đến thắt
lưng, vú bị cắt đứt ra để cho máu chẩy cho đến chết. Những đàn bà mang
thai thì bị trói và treo vào cành cây. Chúng mổ bụng nạn nhân lấy thai
nhi ra để cho chó ăn. Trong khi đó thì những ông chồng của nạn nhân bị
cưỡng bách phải đứng nhìn những cảnh dã man như vậy."
Nguyên văn: “On August 22,
1572, the bloody St. Bartholomew massacre began. This was to be one
fatal blow to destroy the Protestant movement in France. The king of
France had cleverly arranged a marriage between his sister and Admiral
Coligny, the chief Protestant leader. There was a great feast with much
celebrating. After 4 days of feasting, the soldiers were given a signal.
At twelve o’clock midnight, all the houses of the Protestants in the
city were forced open at once. The Admiral was killed, his body thrown
out of a window into the street where his head was cut off and sent to
the pope. They also cut off his arms and privates and dragged him
through the streets for three days until they finally hung his body by
the heels outside the city.
They
also slaughtered many other well-known Protestants. In the first three
days, over ten thousand were killed. The bodies were thrown into the
river and blood ran through the streets into the river until it appeared
like a stream of blood. So furious was their hellish rage that they even
slew their own followers if they suspected that they were not very
strong in their belief in the pope. From Paris, the destruction spread
to all parts of the country. Over eight thousand more people were
killed. Very few Protestants escaped the fury of their persecutors.
A
similar massacre occurred in Ireland in 1641. The conspirator picked
October 23, the feast of Ignatius Loyola, the founder of the Jesuit
Order. They planned a general uprising for the whole country. All
Protestants would be killed at once. To throw them off guard while the
plan was being made, extra acts of kindness were shown to the
Protestanats. Early in the morning, the conspirators were armed and
every Protestant they could find was immediately murdered. They showed
no mercy. From children to the aged, they were killed. Even the invalids
were not spared. They were caught by complete surprise. They had lived
in peace and safety for years and now found no place to run. They were
massacred by neighbors, friends, and even relatives.
Death
often was the least they had to fear. Women were tied to posts, stripped
to the waist, their breasts cut off with shears and left to bleed to
death. Others who were pregnant were tied to tree branches, their unborn
babies cut out and fed to the dogs while the husband were forced to
watch.” J.T.C., Smokerscreens (Chino, CA: Chick Publications, 1983),
P.14-17.
Hậu
quả của các cuộc chiến tranh giữa hệ phái Da-tô La Mã và hệ phái Tin
Lành.- Những vụ tàn sát tín
đồ Tin Lành một cách hết sức dã man trên đây khiến cho nước Pháp rơi
vào tình trạng chiến tranh tôn giáo triền miên giữa một bên là tín đồ
Da-tô với sự chỉ đạo của Giáo Hội La Mã có chủ trương cưỡng bách tất cả
mọi người phải theo đạo Da-tô và một bên là đại khối nhân dân bị trị
chiến đấu trong hàng ngũ Tin Lành để đòi được quyền tự do tôn giáo hay
tự do không tin theo tôn giáo nào cả. Nhân cơ hội này, người Pháp Da-tô
dựa vào quyền lực nhà nước tàn sát người Pháp Tin Lành và người Pháp yêu
chuộng hòa bình, thèm khát sông đời tự do. Tình trạng này càng khiến cho
nhân dân Pháp Tin Lành và người Pháp không tin tưởng vào tôn giáo nào cả
(những người theo tự do thần giáo) vô cùng căm thù nhà vua. Chính vì thế
tên bạo chúa đạo phiệt Da-tô Henry III (1574-1589) mới bị đâm chết vào
ngày 1/8/1589.
Người
lên kế nghịệp vua Henry III là Henry IV (1589-1610). Tuy cũng là tín
đồ Da-tô của Giáo Hội La Mã, nhưng ông ta còn có lương tâm và lý trí,
thấu hiểu được cái triết lý "kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân" của Nho giáo
ở Đông Phuơng. Vì thế nhà vua mới cho ban hành Sắc Lệnh Nantes vào
ngày 13/4/1598, công nhận quyền tự do tôn giáo của người dân Pháp.
Nhờ có sắc lệnh này, cuộc chiến giữa những người Da-tô La Mã và người
Tin Lành ở Pháp mới chấm dứt. Thế nhưng, việc này làm cho Giáo Hội
La Mã và tín đồ Da-tô ngoan đạo người Pháp bất bình và thù ghét nhà vua.
Đây là nguyên nhân khiến cho nhà vua bị ám sát vào năm 1610. Cũng từ
đây, chiến tranh tôn giáo từ nước Pháp lan rộng ra gần hết lục địa Âu
Châu và kéo dài tới hơn 30 năm trời. Sách Living World History ghi nhận
Cuộc Chiên 30 Năm với nguyên văn như sau:
“Giai
đoạn chót của những cuộc chiến tôn giáo là một cuộc chiến dữ dội diễn ra
ở nước Đức từ năm 1618 kéo dài cho đến năm 1648, gọi là Cuộc Chiến Ba
Mươi Năm. Nguyên nhân quan trọng của cuộc chiến này là Hòa Ước Augsuburg
không giải quyết được những vấn đề tôn giáo ở Đức. Hòa Ước này chỉ công
nhận hệ phái Tin Lành Luther trong số nhiều hệ phái Tin Lành và không
cần biết đến hệ phái Tin Lành Calvin. Hòa ước này cũng không ngăn chặn
đuợc việc giành giật tài sản của Giáo Hội La Mã. Sau năm 1552, một số tu
sĩ Da-tô của Giáo Hội La Mã đã trở thành tín đồ Tin Lành Luther nhưng
vẫn giữ đất đai của Giáo Hội La Mã mà trước kia họ quản trị. Các ông
hoàng lãnh đạo chính quyền các hầu quốc (tiểu qốc Đức) cũng tiếp tục
chiếm đoạt đất đai của Giáo Hội La Mã mà Giáo Hội cho rằng Hòa Ước
Augsburg đã cấm, không cho làm như vậy.
Sự kình
địch nhau về chính trị cũng giữ một vai trò quan trọng trong cuộc chiến
này. Nhiều nhà lãnh đạo chính quyền can thiệp vào cuộc chiến và dùng
cuộc chiến này để thỏa mãn tham vọng đất đai, tìền bạc và quyền lực.
Hoàng Đế Ferdinand II của Đế Quốc Thần Thánh (nước Đức) muốn đoàn kết
các hầu quốc trong đế quốc Đức để củng cố tư thế của ông ở Âu Châu.
Nước Đức
là nơi xẩy ra những trận đánh quan trọng trong cuộc Chiến Ba Mươi Năm
bùng nổ ở Bohemia. Khởi đầu là cuộc chiến chỉ có liên hệ với các ông
hoàng lãnh đạo chính quyền các hầu quốc (tiểu quốc Đức), được tổ chức
thành Liên Minh Tin Lành. để chống lại Liên Minh Da-tô La Mã gồm các ông
hoàng Da-tô La Mã và Hoàng Đế Thần Thánh (Đức Quốc). Rồi các quốc gia
khác cũng nhẩy vào vòng chiến.”
Nguyên văn: “The last phase
of religious warfare was a savage struggle waged in Germany from 1618 to
1648, known as the Thirty Years’ War. An important cause of the war was
the faillure of the Peace of Augsburg to settle all the religious
problems of Germany. It recognized only Lutheranism among the Protestant
sects and had ignored Calvinism. Nor did it prevent struggle for the
Church property. Some of the clergy who became Lutheran after 1552 kept
the lands they had held as Catholics. Protestants princes had continued
to take over Church territory, a practice which Catholics felt the Peace
had prohibited.
Political rivalry also played an important role. Many of the leaders
involved in the war used it to satisfy their desires for land, money,
and power. Ferdinand II, the Holy Emperor, wanted to unite the
principalities of his empire in order to strengthen his position in
Europe.
Germany
formed the main battleground for the Thirty Years’ War, which broke out
in Bohemia. At first, the fighting involved mainly the Protestant
princes, organized in the Protestant Union, and their opponents, the
Catholic princes and Holy Roman Emperor, who formed the Catholic League.
Then other countries enter the fight.” Arnold Schrier & T. Walter Wallbank,
Ibid., p. 324.
Bàn
tay của Giáo Hội La Mã trong việc thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô để
củng cố quyền lực tại Pháp.- Vua Henri IV bị ám sát và qua đời vào năm 1610. Vua Louis XIII (
1610-1643) lên nối ngôi, lúc đó mới 10 tuổi. Giáo Hội bố trí cho Hồng Y
Richelieu nắm giữ chức vụ thủ tướng, thao túng việc triều cương, nắm
quyền quyết định tất cả mọi vấn đề nội chính cũng như đối ngọai. Quyền
hành chính trị hoàn toàn nằm trong tay Tòa Thánh Vatican qua ông hồng y
này và các tu sĩ cùng những tín đồ Da-tô khác tuyệt đối trung thành với
Giáo Hội La Mã.
Theo
lệnh của Giáo Hội, Hồng y Richelieu cố gắng biến nước Pháp thành một
nước theo đạo Da-tô hùng mạnh nhất Âu Châu để khống chế các nước khác
theo đạo Tin Lành và biến ông vua nước Pháp thành một tên bạo chúa
Da-tô đúng theo khuôn mẫu một nhà cầm quyền lý tưởng của Giáo Hội [như
các bạo chúa Ferdinand V (1452-1516), Isabella I (1451-1504), Philip II
(1527-1598) của Tây Ban Nha và Mary I (1553-1558) với tục danh là "Con
Mụ Mary Khát Máu" (Bloody Mary) của nước Anh.] Sự kiện này được sách
Living World History ghi lại như sau:
"Với
dáng người mảnh khảnh và nước da xanh xao do một căn bệnh bất khả trị
gây nên, nhưng Hồng Y Richelieu lại có một ý chí sắt đá. Ông đã thành
công đạt được hai mục tiêu là (1) tăng cường quyền lực của nhà vua và
(2) làm cho nước Pháp trở nên hùng mạnh nhất ở Âu Châu. Để có thể hoàn
thành được mục tiêu thứ nhất, ông cho ban hành những biện pháp tiêu hủy
những quyền chính trị của tín đồ Tin Lành Huguenots và quyền lực của
giới quý tộc. Ông ra lệnh tấn công vào thành phố quan trọng La Rochelle
của người Tin Lành Huguenots để cưỡng bách họ phải từ bỏ đặc quyền duy
trì quân lính của họ trú đóng ở trong các thị trấn của họ. Ông ban hành
một sắc lệnh tiêu hủy tất cả các lâu đài của giới quý tộc mà không cần
thiết cho việc phòng thủ quốc gia. Giới quý tộc tại các địa phương phải
nhường quyền hành cho các bồi thần tay sai thân tín của nhà vua có nhiệm
vụ canh chừng và theo dõi mọi họat động của những người bị coi như là kẻ
thù của nhà vua. Hồng Y Richelieu hòan thành được mục tiêu thứ hai bằng
cách làm suy yếu quyền lực của triều đình Hapsburgs (Liên Bang các tiểu
bang Đức). Ông đẩy nước Pháp vào Cuộc Chiến 30 Năm và sau cùng nước Pháp
trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất Âu Châu.
Hà khắc
và luôn luôn hà khắc, Hồng Y Richelieu tỏ ra rất ít quan tâm đến đời
sống người dân thường của nước Pháp. Chính ông đã cưỡng bách nhân dân
Pháp phải gánh chịu thuế khóa nặng nề. Cũng vì thế mà khi ông ta chết
vào năm 1642 cũng là lúc nhân dân Pháp hân hoan reo mừng. "
Nguyên văn:“The cardinal,
pale and delicate from incurable disease, had a will of iron. He
succeeded in his two aims: to strengthen the power of the king in France
and to make France supreme in Europe. To accomplísh the fírst goal, he
took steps to destroy the political rights of the Huguenots and the
power of the nobles. By attacking their chief town, La Rochelle, he
forced the Huguenots to give up their privilege of maintaining fortified
towns garrisoned by their own troops. He issued an edict for the
destruction of all nobles' castles that were not necessary for national
defense. Nobles lost their jurisdiction over local districts to new
royal officials called intendants, who kept a watchful eye on the king’
s enemies. Cardinal Richelieu achieved his his second aim chiefly by
weakening the power of the Hapsburgs. He plunged France into the Thirty
Years' Wars, from which, it emerged as the strongest nation in Europe.
"Richelieu, harsh and relentless, showed little concern for the common
people of France, who had to bear heavy tax loads, and they rejoiced at
his death in 1642. " Arnold Schrier & Walter Wallbank, Living World
History (Glenview, Illinois: Scott, Foresmana and Company, 1074) p. 358.
Vua
Louis XIII qua đời vào năm 1643, người lên kế nghiệp là vua Louis XIV
(1643-1715), lúc đó mới 5 tuổi. Quyền hành nằm trong tay Giáo Hội với
Hồng Y Mazarin nắm giữ chức vụ thủ tướng thay thế Hồng Y Richelieu (đã
qua đời vào ngày 4 tháng 12 năm 1642.) Ông hồng y này đi theo con đường
của ông hồng y (Richelieu) tiền nhiệm do Giáo Hội La Mã vạch ra từ
trước, và đã hoàn thành nhiệm vụ biến vua Louis XIV thành một tên bạo
chúa lừng danh của nước Pháp với lời tuyên bố để đới "L' État, c' est
moi" (I am the state). Trong khi đó, thì nhân dân Pháp thù ghét cái
chế độ đạo phiệt Da-tô này đến tận xương tận tủy. Đoạn văn sử dưới đây
là bằng chứng:
"Một
năm sau, vua Louis XIII cũng qua đời, người con trai của nhà vua lên nối
ngôi là Louis XIV, lúc đó mới có 4 tuổi. Trước khi chết, Hồng Y
Richelieu đã huấn luyện được người chuẩn bị thay thế ông là Hồng Y
Mazarin gốc Ý Đại Lợi. Trong thời kỳ tuổi thơ của Vua Louis XIV, Hồng Y
Mazarin nắm trọn quyền chính trong tay. Các nhà quý tộc có thế lực cố
gắng chống lại để giành quyền bị ông hồng y này đàn áp thẳng tay. Vì thế
mà nước Pháp rơi vào thảm cảnh nội chiến. Các nhà viết sử gọi cuộc nội
chiến này là "The Fronde". Cuối cùng vào năm 1653, các thế lực chống đối
đều bị dẹp tan hay quy phục chính quyền của nhà vua (thực ra là của
Hồng Y Mazarin có Giáo Hội La Mã ở hậu trường). Khi Hồng Y Mazarin qua
đời vào năm 1661, Vua Louis XIV đã 22 tuổi, và trực tiếp nắm trọn mọi
việc triều cương.
Vua Louis XIV là một trong những ông
vua quyền thế trong các ông vua của nước Pháp. Ông cầm quyền cho đến
năm 1715 và được gọi là một thí dụ điển hình của một bạo quân chuyên
chế. Ông tuyên bố "Quốc gia là ta", môt lời nói diễn tả chính xác thái
độ của ông đối với nước Pháp."
Nguyên văn: Louis XIII died
a year later, and his son became king - Louis XIV - at the age of four.
Richelieu had trained Jules Mazarin, an Italian born-cardinal, to be his
successor, and during Louis' childhood, Mazarin held the reins of rule
in his capable hands. Strong nobles tried to gain control of the
government, but after a civil war known as the Fronde, Mazarin in 1653
suppressed the challenge of the nobles to royal power. When Mazarin died
in 1661, Louis XIV, then twenty years-two old, personally took over the
direction of the government.
Louis
XIV was one of the most powerful French kings. Louis XIV ruled France
until 1715, and has called the perfect example of absolute ruler. He is
supposed to have declared "L'Etat, c'est moi" (I am the state), a
saying that accurately describes his attitude toward France.". Arnold
Schrier & Walter Wallbank, Ibid., 358. [i]
Phần
trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ bàn tay của Giáo Hội La Mã
trong việc gây ra thảm trạng chiến tranh tôn giáo tại Pháp cũng như việc
rèn luyện vua Louis XIV trở thành một tên bạo chúa Da-tô lừng danh
trong lịch sử nước Pháp. Bạo chúa Louis XIV (1661-1715) không những lừng
danh về lời tuyên bố "L' État C'est moi", và còn nổi tiếng về việc ông
xây Điện Versailles và chính sách đàn áp các tôn giáo khác với những
biện pháp vô cùng dã man trong đó có việc ký Sắc Lệnh Huỷ bỏ Sắc Lệnh
Nantes vào ngày 18/10/1685 tại Fontainebleau. Vi ký tại Fontainebleau
cho nên sắc lệnh này còn được gọi là Sắc Lệnh Fontainebleau. Nội dung
sắc lệnh này được sử gia Pierre Gaxotte ghi lại như sau:
“Trong
phần mở đầu (của Sắc Lệnh Hủy Bỏ Sắc Lệnh Nantes), Vua Louis XIV chấp
nhận lý thuyết cho rằng Sắc Lệnh Nantes chỉ là một biện pháp tạm thời
nhằm chuẩn bị cho việc tái lập đoàn kết quốc gia. “Vì rằng phần lớn
những thành phần ưu tú trong cái gọi là “Tôn Giáo Cải Cách” (Tin Lành)
đã theo đạo Da-tô La Mã, việc thi hành Sắc Lệnh Nantes trở nên không
cần thiết (vô nghĩa).” Điều 1 ra lệnh triệt phá các nhà thờ Tin Lành.
Các Điều 2 và 3 cấm không đuợc hội họp để cử hành lễ tôn giáo theo nghi
thức thờ phượng Tin Lành ở bất cứ nơi nào, ở lâu đài cũng như ở tư gia.
Các Điều 4, 5 và 6 ra lệnh cho các mục sư Tin Lành phải đi khỏi vương
quốc (nước Pháp) trong vòng hai tuần lễ và hứa hẹn những người bằng lòng
đổi sang đạo Da-tô La Mã sẽ được hưởng nhiều quyền lợi. Điều 8 quy đinh
rằng con cái những gia đình Tin Lành sẽ được dạy dỗ giống như những tín
đồ Da-tô La Mã. Các Điều 10 và 11 cấm tín đồ Tin Lành không được đi khỏi
nước Pháp. Nam tín đồ vi phạm sẽ bị kết án tù khổ sai làm nô lệ chèo
thuyền, nữ tín đồ vi phạm sẽ bị kết án tù chung thân. Những người đã bỏ
nước ra đi phải trở về, bằng không tất cả tài sản của họ sẽ bị tịch thu.
Điều 12 buộc tín đồ Tin Lành phải ăn năn hối cải. Miễn rằng họ không tụ
tập với nhau để thờ phượng theo nghi lễ Tin Lành, họ vẫn có thể ở lại
trong nước mà không cần phải tuyên bố từ bỏ đạo Tin Lành cho đến khi nào
họ cảm thấy họ muốn làm như vậy. Chúa sẽ soi sáng cho họ…” Nguyên văn:
“In the preamble Louis adopts the theory that the Edict of Nantes was
merely a provisional measure intended to prepare for re-establishment of
unity. “Since the better and larger part of our subjects belonging to
the so-called Reformed Religion has been converted to Catholicism, the
implementation the Edict of Nantes has become pointless.” Articles 1
orders the demolition of Protestant churches. Articles 2 and 3 forbid
assemblies to be held for any reasons of Protestant worship in any place
whatever, castle or private house. Articles 4, 5, and 6 order the
Protestant pastors to leave the kingdom within two weeks and promise
various benefits to those who will convert. Aricle 8 stipulates that
children of Protestant parents will be brought up as Catholics. Article
10 and 11 forbid Protesttant to leave the kingdom, threatening male
offenders with the galleys and female offenders with life imprisonment.
Those who have already left must return; otherwise their possession will
be consficated. Article 12 suggests a feeling of remorse. Provided they
will not gather together and do not engage in Protestant worship, “our
subjetcs of the so-called Reformed Religion may remain in the kingdom
without recanting, until such a time as it may please. God to enlighten
them…”Pierre Gaxotte, The Age of Louis XIV (New York, The Macmillan
Company, 1970), tr. 211.
Những
hành động dã man của Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô từ khi Sắc Lệnh
Nantes bị hủy bỏ vào năm 1685.- Nhận xét về việc hủy bỏ Sắc-lệnh
Nantes, Sách Men and Nations - A World History viết:
" … Rồi
thì Vua Louis XIV phạm một lỗi lầm làm suy yếu nước Pháp. Ông ta nhất
quyết cho rằng người dân Tin Lành Huguenots là những người bất trung và
là mối nguy hiểm cho đất nước. Năm 1685, nhà vua ra lệnh hủy bỏ Sắc Lệnh
Nantes, luật này cho phép người Tin Lành được hưởng quyền tự do tôn
giáo. Hơn một trăm ngàn dân Pháp theo đạo tin lành Huguenots đành phải
bỏ nước Pháp mà đi còn hơn là phải từ bỏ tín ngưỡng của họ và theo đạo
Da-tô La Mã để được ở lại nước Pháp." Nguyên văn: “Then Louis
(XIV) made an error that tended to weaken France. He became convinced
that the Huguenots were disloyal and a danger to the nation. In 1685, he
revoked, or canceled, the Edict of Nantes, which had given the Hugenots
religious fredom. Over 100,000 French Protestants chose to leave France
rather than give up their faith.” .” Anatole G. Mazour và John M.
Peoples. Ibid., P.349..
Sách
Living World History viết:
"Hành
động bất khoan dung về tôn gíao của Vua Louis XIV làm thiệt hại cho nước
Pháp ngang ngửa với việc ông ta cho xây cung điện Versailles. Năm 1685,
ông ta cho hủy bỏ Sắc Lệnh Nantes để tước đoạt quyền tự do thờ phượng
của người dân Huguenots theo đạo Tin Lành. Hậu quả là hàng ngàn người
dân cần cù đang làm ăn phát đạt phải bỏ nước Pháp, chạy trốn sang nước
Phổ, nước Anh và các thuộc địa của Anh ở Mỹ Châu. Hành động này của Vua
Louis XIV làm suy yếu nước Pháp về kinh tế vì làm như thế là làm cho
nước Pháp mất đi những người dân tiến bộ nhất." Nguyên văn:
Louis’ religious intolerence was as damaging to France as was
Versailles. In 1685 he revoked the Edict of Nantes depriving Huguenots
of their freedom of worship. As consequences thousands of these
prosperous industrious citizens fled to Prussia, England, and the
English colonies in America. Louis’ action weakend France economically
by depriving the nation of some of its most progressive citizens.”
Arnold Schrier & T. Walter Wallbank, Living World (Glenview, Illinois:
Scott, Foresman and Company, 1974), p. 361.
Sách
Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi viết:
"Ngày
17-10-1685, Vua Louis XIV đã ký một đạo luật đặt đạo Tin Lành ra ngoài
vòng pháp luật. Kể từ đó, lính của nhà vua và những người Thiên Chúa
Giáo (La Mã) triệt phá các nhà thờ Tin Lành, lùng bắt các mục sư Tin
Lành để giam cầm và sát hại. Từ 250 ngàn đến 400 ngàn người Tin Lành
phải bỏ nước ra đi để lánh nạn. Số còn lại bị tù đày, bị giết chết, hay
bi bắt làm nô lệ. Cũng từ đó nhân loại lên án Vua Louis XIV. Còn các sử
gia Pháp gọi hành động bạo ngược này của nhà vua là làm nhục quốc thể.
Và cũng từ đó, đạo Tin Lành khắp thế giới mỗi ngày một bành trướng và
tín đồ Cơ Đốc (Da Tô) bỏ đạo cũ để theo đạo Tin Lành ngày một đông hơn."
Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993),
tr. 532.
Việc hủy
bỏ Sắc Lệnh Nantes gây ra không biết bao nhiêu là thống khổ đau thương
cho người Pháp Tin Lành, đau thương nhất là họ phải bỏ nước ra đi tìm tự
do và trở thành làn sóng người trốn khỏi nước Pháp đi tìm tự do kéo dài
cả mấy chục năm.Trong cuốn The Age of Louis XIV, sử gia Pierre Gaxotte
dành hẳn Chương X gồm gần 30 trang sách với nhan đề là The Religious
Struggles and the Revocation of the Edict of Nantes để nói về chuyện
người Pháp bỏ nước ra đi tìm tự do tôn giáo trong những năm đó. Dưới đây
là mấy đoạn văn trong chương sách này:
"Như vậy, vương quốc Pháp đã trở thành
một quốc gia mà tôn giáo của nhà cầm quyền là tôn giáo của quốc gia.
Chính sách bất khoan dung trở thành luật lệ khắp trong nước. Louis XIV
đã tự hạ giá xuống mức đến độ tầm thường như những người khác. Mọi người
trong nước Pháp đều nhìn thấy rõ sự suy thoái này. Việc hủy bỏ Sắc Lệnh
Nantes chẳng giải quyết được gì cả; trái lại, nó còn làm cho mọi sự việc
trở thành bất ổn. Nhà vua cấm di cư ra khỏi nước, nhưng người ta vẫn ồ
ạt bỏ nước ra đi. Lúc đầu, chính quyền không có hành động gì để ngăn
chặn những người trốn ra ngoại quốc, trái lại còn tỏ ra hài lòng nữa.
Nhưng khi con số người bỏ nước ra đi càng ngày càng nhiều hơn, chính
quyền bèn áp dụng những biện pháp kiểm soát tại các vùng ven biên và các
trạm xuất hành để ngăn chặn. Có nhiều vụ đụng độ. Nhiều người bị sát
hại, nhiều người bị thương, nhiều người bị bắt và bị đưa đi làm lao nô
tại các tầu thuyền của nhà nước. Những kế hoạch tổ chức đưa người đi
trốn được điều nghiên thận trọng hơn và có phương pháp hơn. Những người
hướng dẫn, làm lái đò, làm giao liên tại các trạm tiếp nhận và dẫn người
đi đều phải ngụy trang. Có cả những tổ chức làm giấy thông hành giả và
có những lộ trình bí mật để đưa người đi trốn. Có bao nhiêu người bỏ
nước ra đi? Ước lượng khác nhau rất nhiều, khoảng từ 60 ngàn người đến
hai triệu. Theo Vauban, riêng vào thời của ông thì có khoảng 100 ngàn
người. Nhưng việc người ta bỏ trốn ra khỏi nước không phải chỉ xẩy ra
trong thời gian ngắn giới hạn trong một năm, mà còn kéo cả hơn 50 năm.” Nguyên văn: “The kingdom had thus once
again become a state where the religion of the sovereign was the law.
Intolerance was the rule almost everywhere: Louis XIV lowered himself to
the level of the rest. This regression was enthusiastically hailed by
all of France. But the revocation settled nothing, on the contrary, it
unsettled things. The king forbade emigration, but emigration got under
way. At first no attempt was made to stop it, and there was even a show
of satisfaction. But as the movement grew, extensive measures were taken
along the borders and in places of embarkation. Skirmishes took place;
fugitives were killed and others wounded, captured, sent to the galleys.
The exodus was then more carefully planned and became methodical.
Guides, ferrymen, relays, disguises came to be used; agencies sprang up
where false passports could be obtained, and secret intineraries were
worked out. How many emigrated? Estimates vary considerably, ranging
between sixty thousand and two million. Speaking of his own time, Vauban
put the figure at 100.000. But the exodus did not occur in a single year
It proceeded irregularly and over a fifty-year span.") Pierre Gaxotte,
Ibid., 211-212.
3.-
TẠI ANH QUỐC: Chúng ta biết
rằng ngày nay đại khối dân tộc Anh theo Anh giáo hoàn toàn biệt lập với
Giáo Hội La Mã. Tuy nhiên, trước khi đi đến tình trạng này như ngày nay,
nhân dân Anh cũng đã phải trải qua một thời kỳ khốn đốn với nhà cầm
quyền cuồng tín muốn Da Tô Hóa toàn dân Anh bằng bạo lực. Dưới đây là
những bản văn lịch sử nói về nữ bạo chúa Bloody Mary cùng với phe cánh
tín đồ cuồng tín của Vatican sử dụng bạo lực cưỡng bách nhân dân Anh
phải theo đạo Da Tô. Sử gia Thomas P. Neil viết:
"Mary đã
được khuyến cáo là nên đối xử tử tế với những người đã bỏ đạo Da Tô
(those who had left the faith), nhưng vây cánh bên cạnh bà vô cùng quá
khích, cương quyết chống lại những người tà giáo. Trong thời gian 5 năm
tại vì của bà, có tới khoảng ba trăm người bị hành hình vì tín ngưỡng
của họ khác với đạo Da Tô La Mã….Thực ra, so với các nhà cầm quyền đạo
phiệt Da-tô khác ở Âu Châu vào thời bấy giờ, Nữ Hoàng Mary cũng không tệ
hơn họ, nhưng việc bà bách hại những người chống đạo Da-tô La Mã đã gây
nên phản ứng chống bà và chống luôn cả đạo Da-tô La Mã. Các sử gia đã
đặt cho bà biệt danh là "Bloody Mary (Mụ Mary khát máu). Triều đại ngắn
ngủi của bà đã làm tiêu tan mọi cơ hội phục hồi đạo Ki-tô La Mã ở Anh
quốc." Nguyên văn: “Mary was advised to be lenient with those who
had left the faith. The queen was not personally inclined to be severe,
but many of her subordinates went to extremes against “heretics.” About
three hundred were executed for their anti-Catholic beliefs during her
reign. ..… Mary was no worse than other rulers of time, but the
persecution caused a reaction against the queen and Catholicism, and
historians soon dubbled her “Bloody Mary.” Her short reign ruined any
chance for a Catholic restoration.” Thomas P. Neil, Story of Mankind
(New York: Holt, Rinehart & Winston Inc., 1968) p. 366. (10).
Năm
1558, dân Anh vùng lên lôi cổ bà ra khỏi ngai vàng và đưa Anh giáo trở
lại địa vị làm quốc giáo như trước, rồi loại bỏ hết mọi ảnh hưởng của
Tòa Thánh Vatican. Nhưng cũng như đạo Da-tô La Mã, Anh giáo cũng kỳ thị
và khinh miệt những người thuộc các tôn giáo khác và ngay cả những người
cùng thờ ông Jesus như các hệ phái Tin Lành cũng bị kỳ thị. Chính vì
vậy, vào năm 1620, 102 người Pilgrims đã quyết tâm lên tầu Mayflower từ
bỏ Anh quốc đến lập nghiệp ở Massachusetts. Chuyện 102 người Pilgrim lìa
bỏ nước Anh đi Mỹ Châu lập nghiệp được sách This Is America’ s Story kể
lại như sau:
“Đồng
thời với những người đầu tiên đến định cư ở Jamestown (hầu hết là những
người đi tìm vàng), một số người Anh khác di chuyển đến thành phố Leyden
ở Hoa Lan. Họ là những người dân thường gồm những thanh niên và phụ nữ
đã từng ly khai ra khỏi Giáo Hội Anh để được tự do thờ phượng theo ý
muốn. Vì lý do trên đây, người ta gọi họ là những người ly khai. Ở Anh,
vì bị ngược đãi, họ trốn sang Hòa Lan. Nhưng ở Hòa Lan, họ cũng chẳng
được sung sướng. Ngôn ngữ, tập tục và dân chúng Hòa Lan, tất cả đều xa
lạ đối với họ. Những người Anh lang thang mất quê hương này (về sau
người ta gọi họ là người Pilgrim) không muốn con cái của họ quên mất
nguồn gốc và truyền thống của người Anh. Vốn là người quen sống bằng
nghề nông ở đồng quê, họ không thích sống và làm việc ở thành phố. Cho
nên họ quyết định đi tìm quê hương mới ở Mỹ Châu.
Người
Pilgrims đi Mỹ Châu: Một số
người trong bọn họ trở về Anh quốc để lo việc lập kế hoạch cho cuộc
phiêu lưu mới này. Lúc đó, cũng có một nhóm người ly khai khác cũng muốn
rời bỏ Anh quốc và hợp tác với họ. Là những người nghèo nên họ cần được
giúp đỡ cung ứng tầu thuyền chuyển vận cùng các thức ăn, nước uống và đồ
cần dùng cho chuyến đi. Một trong những công ty thương mại bằng lòng
giúp họ vấn đề này. Đổi lại, người Pilgrims phải đồng ý sẽ làm việc cho
công ty này một thời gian là 7 năm. Trong thời gian 7 năm này, họ chỉ
được cung cấp những gì cần thiết cho cuộc sống hàng ngày thôi. Những gì
họ sản xuất được đều thuộc về công ty.
Tháng 9
năm 1619, đoàn người Pilgrims từ hải cảng Plymouth, Anh quốc, bước lên
chiềc tầu buồm nhỏ bé có tên là Mayflower vượt biển. Tất cả có 102
người. Cơn bão lớn ở ngoài khơi Đại Tây Dương thổi dạt con tầu này xa về
phía Bắc của nơi họ dự trù đến định cư. Cuối cùng, vào tháng 11 năm đó,
tầu Mayflower đến bỏ neo ở một nơi an toàn mà ngay nay gọi là
Massachusetts. Tuy đến nơi an toàn rồi, nhưng họ lại gặp một vấn đề rắc
rối. Đó là giấy phép của Anh hoàng cho phép họ đến lập nghiệp ở vùng đất
do công ty London làm chủ ở Virginia. Họ không tới đó, mà lại tới vùng
đất ngoài phạm vi của công ty London. Họ phải giải quyết vấn đề này ra
sao? (Họ phải tìm cách giải quyết vấn đề này.)”
Nguyên văn: “At the same
time that the first settlers were landing at Jamestown, another group of
English people moved to the city of Leyden in Holland. These were humble
men and women who at home had wished to separate from the Church of
England and worship as they saw fit. For this reason, they were called
Separatists. Because they had been persecuted in England, they fled to
Holland. But they were not happy there. The language, customs, and
people of Holland seemed strange to them. These English wanderers, or
Pilgrims, as they later came to be called, did not want their children
to forget English ways. Also, the Separatists were farmer folk who did
not like working in a city. They decided to seek new homes in America.
The
Pilgrims go to America: Some
of the Pilgrims returned to England to make plans for new venture. They
were joined by other Separatists who wished to leave England. Because
they were poor people, they had to get help. One of the trading
companies agreed to furnished a ship and supplies. In return, the
Pilgrims agreed to work for seven years as servants of the company.
Everything they produced was to go to the company except supplies which
they needed for their own use.
In
September, 1620, the Pilgrims set sail from Plymouth, England in a tiny
vessel called Mayflower. There were 102 persons on board. Fierce
Atlantic storms drove the Maylower far north of her destination. In
November, 1620, she finally came to anchor in a harbor in what is now
Massachusetts. The charter of the Pilgrims gave them permission to
settle on land owned by London Company in Virginia. But the land they
had reached was outside of the region owned by the company. What were
they to do?” Harriett McCune Brown, Robert P. Ludlum & Howard B. Wilder,
This Is America’ s Story (Atlanta, GA: Houghton Mifflin Company Boston,
1975. pp. 76-78.
Bị ngược
đãi vì tôn giáo ở ngay chính quê hương, nhóm người Anh Pilgrims trên đây
đã phải liều chết vượt Đại Tây Dương bằng một cuộc hải hành đầy phong ba
bão táp dài thăm thẳm hàng chục ngàn cây số để đi tìm tự do. Nhóm người
này được coi như là những người Âu Châu thứ nhất vượt biển đến Mỹ Châu
để được hưởng quyền tự do thờ phượng theo ý muốn. (Thực ra, năm 1607, đã
có hơn 100 người Âu Châu đến định cư tại một địa điểm trên bờ sông James
thuộc tiểu bang Virginia ngày nay. Nhưng động lực đến Mỹ Châu của những
người này là đi tìm vàng hay châu báu, chứ không phải là động lực vượt
biển đì tìm tự do tôn giáo, giống như 102 người Pilgrims trên đây.)
Cũng nên
biết, vào thời kỳ này, tại Âu Châu, tình trạng bị ngược đãi vì không
cùng tôn giáo với các nhà cầm quyền đạo phiệt tay sai của Tòa Thánh
Vatican rất phổ quát. Cũng vì thế mà con số người tìm cách trốn bỏ Âu
Châu đến Mỹ Châu để được tự do thờ phượng theo ý muốn càng ngày càng
nhiều hơn. Phần lớn những những người này khinh bỉ và ghê tởm đạo Ki-tô
La Mã, trong đó có nhiều người trở thành những nhân vật rường cột trong
Cuộc Chiến Cách Mạng Hoa Kỳ (1776-1783) và cũng là những người góp phần
quan trọng vào việc biên soạn Hiến Pháp Hoa Kỳ làm nên tảng cho cơ cấu
tổ chức chính quyền Liên Bang Hoa Kỳ hiện nay. Một số những nhân vật
rường cột này là các ông James Madison, vị tổng thống thứ 2 của Hoa Kỳ,
Thomas Jefferson, vị tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ, Benjamin Franklin
(1706-1790), Thomas Paine (1737-1809), v.v…
Tổng
Thống Hoa Kỳ James Madison (1751-1836) nói:
"Trong
gần 15 thế kỷ cơ sở hợp pháp của Kitô giáo đã được phán xét, hoa trái
của Kitô giáo là gì? Ở khắp nơi, không nhiều thì ít, sự lười biếng và
hợm hĩnh của giới giáo sĩ, sự ngu tối và quỵ lụy của giới tín đồ, sự mê
tín, sự cố chấp và bạo hành trong cả hai giới." Nguyên Văn:
“During almost 15 centuries has the legal establishment of Christianity
been on trial? More or less in all places, pride and indolence in the
clergy; ignorance and servility in the laity, in both, superdtition,
bigotry, and persecution.”(Trần Chung Ngọc, Đức Tin Công Giáo (Garden
Grove, CA., Giao Điểm, 2000), tr. 292.
Tổng Thống Thomas Jefferson (1743-1826)
tuyên bố:
“Trong
mọi quốc gia và trong mọi thời đại, linh mục đều đã thù nghịch đối với
tự do. (In every country and in
every age, the priest has been hostile to liberty).” “Thần
Ki-Tô là một nhân vật có những tính cực kỳ độc ác, bất khoan dung, đồng
bóng, và bất công,” (The God is being of terrific character cruel,
vindictive, capricious and unjust.) “Đã tới 50, 60 năm từ ngày
tôi đọc cuốn Khải Huyền, và từ đó tôi coi nó chỉ là những lời điên dại
mê sảng của 1 kẻ điên cuồng.” (It
had been 50 and 60 years since I read the Apocalypse, and I then
considered it merely the ravings of a maniac.) Trần Chung Ngọc, Sđd.,
tr. 292
Ông
Benjamin Franklin (1706-1790) nói:
"Cách
nhìn mọi sự việc bằng đức tin là phải nhắm con mắt của lý trí lại (không
được sử dụng đến lý trí.)" (The Way
see by faith is to shut the eye of reason.) Trần Chung Ngọc, tr. 290..
Triết
gia Anh Thomas Paine (1737-1809), tác giả cuốn sách nổi tiếng "Thời Đại
Của Lý Trí" (Age of Reason) nhận xét:
a.- "Cuốn
Tân Ước dạy chúng ta những gì? Tin rằng Đấng Toàn Năng phạm tội lăng
nhăng với một người đàn bà đã có chồng; và tin vào cái chuyện lăng nhăng
này gọi là đức tin." (What is the
New Testament teaches us? To believe that the Almighty committed
debauchery with a woman engaged to be maried; and to belief of this
debauchery is called faith.)
b.- "Nguồn
gốc của những sự độc ác ghê tởm nhất, của những sự tàn bạo dã man khủng
khiếp nhất và của những nỗi khốn khổ to lớn nhất giáng lên đầu nhân loại
nằm ở trong cái gọi là mặc khải, hay tôn giáo mặc khải." Nguyên văn: “The most detestable
wickedness, the most horrid cruelties, and the greatest miseries that
have afflicted the human race have had their origin in this thing called
revellation, or revealed religion.”
c.- "Tin
vào một vị thần độc ác làm cho con người thành độc ác." (Belief in ruel god makes a cruel man.)
d.- "Một
ông thầy giáo giỏi có ích hơn là 100 (một trăm) ông linh mục." (One good
school master is of more use than a hundred priests.) Trần Chung Ngọc,
Sđd., tr. 292.
Chính vì sự kiện
này mà Hiến Pháp Hoa Kỳ mới có điều khoản tách rời tôn giáo ra khỏi
chính quyền (Tu Chính Hiến 1), và kể từ đó chính quyền Hoa Kỳ luôn luôn
có thái độ và hành động cứng rắn và thẳng thừng đối với Vatican. Thực
trạng này được nhà viết sử Lương Minh Sơn ghi lại trong bài viết Bài Học
Chiến Tranh Việt Nam Nhìn Từ Hậu Trường Chính Trị Hoa Kỳ với nguyên văn
như sau:
“Đối với
Hoa Kỳ, mặc dù là đất nước được gầy dựng trên nền tảng luân lý và đạo
đức của niềm tin nơi Thiên Chúa (Judo-Christian), tổ tiên của người Mỹ
là những người Âu Châu đã từng bỏ chạy qua đây để tránh sự ruồng bắt của
Tòa Thánh La Mã trong thời kỳ “Inquisition”. Thành thử, Hiến Pháp Hoa Kỳ
nghiêm cấm và tách rời mọi sự liên hệ về quyền lực chính trị giữa chính
quyền và tôn giáo, không phải chỉ vì trình độ ý thức chính trị cao mà
còn là vì những kinh nghiệm đau đớn có thật lúc trước. Nếu Hoa Kỳ đã cấm
bang giao với Cộng Sản Trung Quốc trong 23 năm (1949-1972), với Cộng Sản
Việt Nam trong 19 năm (1975-1994) vì không tương quan trên chính kiến và
quyền lợi, thì Hoa Kỳ cũng đã từng cấm bang giao với Vatican trong 117
năm (1867-1984).” Lê Hữu Dản, Sự Thật - Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997
(Fremont, CA: TXB, 1997), tr 28.
Trên đây
là nói về những người bị cưỡng bách phải bán xới quê hương, bỏ nước ra
đi đến một nơi xa lạ để sinh sống vì nhất định không chịu theo đạo Da-tô
(trường hợp ở Tây Ban Nha và ở Pháp), và những người quyết tâm liều chết
ra đi đến nơi xa lạ để định cư chỉ vì cái nạn đạo phiệt Ki-tô ở quê
hương họ đã không dung thứ cho họ được hành xử cái quyền tự do tôn giáo
(trường hợp ở Anh). Cũng nên biết là vào thời kỳ đó:
1.-
Không có phương tiện di chuyền bằng đường hàng không.
2.- Các
phương tiện di chuyển bằng đường thủy và đường bộ chưa được cơ khí hóa.
3.-
Không có tổ chức Liên Hiệp Quốc với các tổ chức giúp người ti nạn.
4.-
Không có siêu cường Hoa Kỳ giầu có và các cường quốc khác mở rộng vòng
tay đón nhận và giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần để ổn định trong những
lúc “ban đầu khởi đầu nan” và sẵn sàng nuôi báu cô những người không có
khả năng làm việc để mưu sinh.
Ấy thế
mà chỉ vì lý do bị các chính quyền đạo phiệt Da-tô kỳ thị và bách hại,
người ta cũng phải liều chết bỏ nhà, bỏ quê hương đất tổ ra đi đến lập
nghiệp ở một nơi xa lạ, chưa biết số phận ra sao! Chỉ riêng ở nước Pháp
trong mấy năm kể từ khi Vua Louis XIV huy bỏ Sắc Lệnh Nantes vào ngày
18/10/1685, đã có từ nhiều trăm ngàn lên đến hàng triệu người bỏ nước ra
đi trốn bỏ cái chế độ đạo phiệt Da-tô khốn nạn ở quê nhà để được tư do
thờ phượng theo ý muốn của họ. Áy là chưa nói tới hàng triệu người dân ở
các nước Âu Châu khác và ở các lục địa khác bỏ nước ra đi đến Mỹ Châu
lập nghiệp cũng có một đích chung là chạy trốn các chế độ cha cố khốn
nạn và có một những trường hợp mà ta thường gọi là “tỵ nạn kinh tế” như
một số người Việt trốn khỏi Vỉệt Nam từ cuối thập niên 1970 trở về sau.
Sự kiện
này cho chúng ta thấy rõ thảm họa đạo phiệt Da-tô nói riêng và độc tài
tôn giáo nói chung còn kinh khủng, dã man và ghê tởm gấp trăm gấp ngàn
lần nếu so với bất kỳ chế độ độc tài chính trị nào trong lịch sử nhân
loại. Phần trình bày dưới đây cho chúng ta thấy rõ hơn nữa về vấn đề
này.
CƯỜNG ĐỘ
VÀ ĐẶC TÍNH DÃ MAN
CỦA NGƯỜI TÍN HỮU DA TÔ LA MÃ
Trong lịch sử nhân loại, đã từng có rất nhiều vụ
tàn sát hay giết hại người tập thể vào những khi một thế lực mới lên nắm
chính quyền hay bọn giặc cỏ, giặc biển và cướp núi bắt được những con
mồi, nhưng không có thế lực chính trị hay giặc cướp nào lại tàn ngược và
dã man bằng những tín hữu Da-tô đối với những thành phần thuộc các tôn
giáo khác khi mà quyền lực lọt vào trong tay họ. Suốt trong chiều dài
lịch sử từ thế kỷ 4 cho đến ngày nay, quyền lực của Giáo Hội La Mã La Mã
vươn tới đâu thì ở đó chính quyền đạo phiệt Da-tô tay sai của Giáo Hội
và tín đồ của Giáo Hội phóng tay tàn sát những thành phần thuộc các tôn
giáo khác một cách cực kỳ dã man, và ngay cả tín đồ Ki-tô thuộc các hệ
phái khác cũng cùng không thoát khỏi. Cường độ và đặc tính dã man này đã
được phơi bày ra qua:
1.- Việc Giáo Hoàng Stephen VII (896-897) khai
quật mồ Giáo Hoàng Formous (891-896) để lấy xác vị giáo hoàng tiền nhiệm
này để trả thù (Malachi Martin, The Decline And Fall Of The Roman
Church, New York, G.P. Putnam’s Sons, 1981, pp.121-122 và Nhiều tác giả,
Vatican Thú Tội và Xin Lỗi?, Garden Grove, CA., Giao Điểm, 2000,
169-182).
2.- Những dụng cụ và phương cách tra tấn nạn nhân
của các Toà Án Dị Giáo (Trần Chung Ngọc, Công Giáo Chính Sử, Garden
Grove, CA., Giao Điểm, 1999, tr. 99-134),
3.- Con số nạn nhân bị Giáo Hội sát hại lên đến hơn
250 triệu người (Lloyd M. Graham, Deceptions and Myths Of The Bible,
Secaucus, N.J., 1999, p. 463),
4.- Cung cách mưu sát Đô Đốc Coligny và gần 20
ngàn tín đồ Tin Lành ở nước Pháp vào hạ tuần tháng 8/1572 mà sử Pháp gọi
là “The St. Bartholomew’s Day Massacre of 1572” (J.T.C, Smokerscreens,
Chino, CA., 1983, pp.14-17). Chuyện dã man này đã được ghi lại ở trên.
Đó là những chuyện đã xẩy ra riêng ở Âu Châu trong
thời trước khi Cách Mạng Pháp 1789 bùng nổ.
Chưa nói tới những hành động tàn ác và dã man khi
các đoàn quân thập tự của Giáo Hội trong thời Trung Cổ tiến vào vùng
Palestine và vào miền Nam nước Pháp, chưa nói đến những hành động tàn ác
và dã man của các chính quyền đạo phiệt Da-tô và quân thập tự cũng như
tín hữu Da-tô ở các lục địa Phi Châu, Mỹ Châu và Á Châu khi quân đội của
các Liên Minh Thánh Tây Ban Nha - Vatican, Liên Minh Thánh Bồ Đào Nha –
Vatican và Liên Minh Thánh Pháp – Vatican tiến vào đánh chiếm và thống
trị các vùng mục tiêu trên các lục địa này từ đầu thế kỷ 16 cho đến giữa
năm 1994 (thời điểm con số hơn 800 ngàn người dân Rwanda bị chế độ cha
cố của Giám-mục Augustin Misago tàn sát trong vòng 100 ngày), chỉ nói sơ
qua những cung cách tra tấn, hành hạ nạn nhân của tu sĩ và tín hữu
Da-tô kể từ thời Đệ Nhị Thế Chiến cho đến ngày nay thôi, chúng ta cũng
phải rùng mình khiếp sợ. Một trong những chuyện vô cùng rùng rợn xẩy ra
ở Croatia trong những năm 1941-1945 được sách Smokerscreens ghi lại với
nguyên văn như sau:
“Nạn nhân của bọn mật vụ
Ustachi (đạo phiệt Da-tô Croatia trong thời bạo chúa Ante Pevalich)
không những bị tra tấn tàn nhẫn về thể xác, mà còn bị hành hạ đau đớn về
tinh thần và lương tâm nữa. Một trường hợp vô cùng dã man và tàn ác chưa
từng thấy như trường hợp dưới đây đã được ghi lại và phối kiểm qua nhiều
nhân chứng có tuyên thệ: "Tại Nevesinje, bọn mât vụ Ustachi càn bắt hết
tất cả cha mẹ (vợ chồng) và bốn người con của một gia đình người Serb
(theo đạo Chính Thống). Người cha bị giam riêng ở một chỗ khác, người
mẹ và 4 người con bị giam ở một chỗ khác. Suốt trong 7 ngày giam giữ,
chúng hành hạ và tra tấn nạn nhân bằng cách không cho ăn uống gì hết.
Rồi thì chúng mang đến cho người mẹ và 4 đứa con một miếng thịt nướng
khá lớn và nước uống thừa thãi. Sau nhiều ngày không được ăn uống,
những người bất hạnh này ăn hết sạch miếng thịt nướng đó. Sau khi ăn
xong, bọn mật vụ Ustachi cho họ biết rằng miếng thịt nướng đó thực sự là
thịt của người cha của chúng." Nguyên văn: "The atrocities of the Ustachi far surpassed mere
physical torture. Their victims were tormented emotionally as well. An
example of the unprecedented brutality is recorded by the sworn
testimony of several witnesses regarding the following incident. At
Nevesinje, the Ustachi arrested one whole Serbian family consisting of
father, mother and four children. The mother and children were separated
from the father. For senven days they were tortured by starvation and
thirst. Then they brought the mother and children a good-sized roast,
and plenty of water to drink. These unfortunates were so hungry that
they ate the entire roast. After they finished, the Ustachi told them
that they had eaten the flesh of their father."J.T.C., Ibid., p. 32.
Cũng nên
biết, trong những năm 1941-1945, có tới hơn 700 ngàn người dân thuộc Do
Thái Giáo và Chính Thống Giáo ở Croatia bị chế độ đạo phiệt Da-tô Ante
Pavelch sát hại. Sự kiện này được sử gia Avro Manhattan ghi ron nơi
trang vii trong sáchThe Vatican’s Holocaust (Springfield, MO: Ozark
Book, 1986).
Một
chuyện khác cũng hết sức rùng rợn diễn ra ở Việt Nam được sách Bước Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng Hay Đế Bờ Ảo Vọng kể lại với nguyên văn như sau:
“Khu tự trị Phát Diệm đã là một thành
lũy của Pháp xây dựng để chống lại Việt Minh và cũng là tiền đồn ngăn
chặn Việt Minh ở Liên Khu Tư. Sau đây là một chuyện hãi hùng xẩy ra đã
mấy chục năm qua làm tôi không thể nào quên được khi nhớ lại chuyện
:"Liên Tôn Diệt Cộng" mà người Da Tô An Nam nhúng tay vào:
"Hồi ấy nhiều vùng ở Nam Định và Ninh
Bình, phần nhiều những làng có dân Gia Tô cư ngụ Pháp để tuyển mộ lính
"Partisan, commandos", tổ chức và phát súng ống để chống lại Việt Minh.
Nhiều làng ban ngày thì Hội Tề kiểm soát, ban đem thì Việt Minh kiểm
soát. Việc đi lại của dân chúng rất khó khăn, thường hay xẩy ra bắt bớ.
Nếu ai không chứng minh được giấy tờ hay lý lịch thì bị làm khó dễ, nếu
không bị lính của Tây bắt nhốt trong đồn thì cũng bị Du Kích của Việt
Minh bắt giữ và giam lỏng tại trụ sở Ủy Ban Hành Chính. Thật là cảnh ly
loạn do thực dân Pháp mang đến làm khổ dân tình. Vì tình trạng xẩy ra
như vậy cho nên người dân, nhất là những người đi buôn bán ở những vùng
xôi đậu đều phải thủ giấy tùy thân trong người. Có người có đến hai giấy
tờ của cả hai bên. Còn những người khôn khéo rộng xã giao có khi chẳng
cần lận một thứ giấy tờ gì trong người mà ải nào qua cũng lọt. Khổ nhất
là người dân ở vùng xôi đậu bị một cổ hai tròng vì nhà cửa, ruộng vườn,
mồ mả ông cha cho nên khó bề mà bỏ đi đâu được. Nhất là những ngày Pháp
hành quân. Phần tôi, gốc gác ở Liên Khu Tư, có vóc dáng học sinh trắng
trẻo và lại cũng biết chút tiếng Pháp. Phần khác, gia đình tôi quen rất
nhiều cha cố và các công chức làm việc cho Pháp ở vùng Tề nên sự đi lại
của tôi lúc bấy giờ không mấy lo ngại.
Hôm ấy
nhằm những ngày gần cuối năm. Tuy súng vẫn nổ cắc bùng mà ở vùng nào dân
mình cũng chuẩn bị ăn Tết Nguyên Đán. Gia đình tôi cũng sửa soạn Tết. Vì
biết tôi gan dạ nên Mẹ tôi đưa tiền tôi vào vùng Pháp chiếm đóng để sắm
Tết và luôn thể thăm những người thân. Tôi đang đi ở vùng Tề thì đột
nhiên nghe nhiều tiếng súng nổ một cách khác thường. Ngay sau đó là
những toán lính Sénégalais rạch mặt đi đường ruồng bố. Không may cho
tôi, có mây tên người Việt thám báo nghi ngờ tôi là liên lạc viên của
Việt Minh bèn bắt giữ tôi lại. Chúng dẫn tôi về Phòng Nhì để giao lại
cho viên sĩ quan Pháp. Nhờ nhanh trí, khi gặp viên sĩ quan Phòng Nhì
Pháp, tôi bình tĩnh nói tôi là học sinh, muốn đi học lại nên muốn đến
Ninh Bình liên lạc với người bà con hiện làm ở Tòa Án để thu xếp việc
dời đổi nơi ở. Không hiểu vì cảm tình nghe tôi nói tiếng mẹ đẻ của hắn
hay vì một lý do nào khác, tên Trung Úy Phòng Nhì này không làm khó dễ
gì tôi, mà còn cấp cho tôi một giấy chứng nhận tôi là học sinh. Thế là
tôi thoát nạn. Từ nay có bửu bối trong mình nên được tự do đi lại trong
vùng Pháp chiếm đóng.
Vì có cuộc hành quân của Pháp ở dọc
đường nên làm trễ nải việc đi bộ của tôi đến Ninh Bình. Đi qua Nho Quan
đã xa, đi mãi thỉnh thoảng gặp những toán lính Pháp gốc Phi Châu hành
quân dọc đường. Một lần nữa tôi bị một toán lính Phi Châu chặn lại hỏi
giấy. Vừa may, lúc ấy có một sĩ quan Pháp đến. Tôi liền móc túi lấy giấy
vừa được cấp, trình ngay cho viên sĩ quan Pháp. Hắn bảo tôi: "Gần tối
rồi. Đừng đi nữa. Nhà binh đang hành quân". Tôi chỉ gật đầu tỏ vẻ cung
kính, nói: "Oui, mon lieutenant". Chắc hắn tội nghiệp tôi vì thấy tôi có
dáng nho nhã học sinh. Hắn liền gọi tên trưởng đồn người Việt lại, rồi
bảo tên này: "Nhà mày rộng. Xếp cho anh này một chỗ nằm đêm nay". Rồi
hắn quay lại nói với tôi: "Đi theo Trưởng Đồn về nhà hắn ngủ. Nhớ sáng
mai có đi cũng đừng đi sớm. Nhà binh đang hành quân. Nguy hiểm lắm!" Tôi
cảm ơn hắn rồi đi theo tên trưởng đồn về nhà.
Nhà tên
trưởng đồn ở ngay sát cạnh đồn. Tối hôm ấy, vì lạ chỗ tôi không ngủ
được. Phần vì ở ngay bên cửa sổ buồng tôi ngủ, có những tiếng quát tháo
om xòm và những tiếng kêu la thất thanh vọng đến như đập vào tai tôi. Hình như có nhiều người đang bị tra tấn, đánh đập ngay ở bên kia đồn
và cứ liên tục cho đến gần sáng.
Sáng
lại, có mấy chiếc xe nhà binh chở những người võ trang của Cha Tổng mà
sau này tôi mới biết là Cha Tổng Hoàng Quỳnh cùng toán lính tự vệ của
ông ở Phát Diệm đến vào nhà tên trưởng đồn. Bên này, tôi nghe cuộc nói
chuyện giữa Cha Tổng và tên trưởng đồn không mấy rõ, tiếng được, tiếng
mất. Hình như Cha Tổng ra lệnh bắn bỏ mấy tên Việt Minh vừa bị bắt, giết
xong thì chặt đầu rồi bêu ở ngõ ra vào làng để làm gương và để hù dọa
những người theo Việt Minh. Thế rồi, chỉ một lúc sau là Cha Tổng và toán
lính ra về.
Sau đấy,
tôi định ra chào tên trưởng đồn nói cám ơn, nhưng tên này đã đi sang đồn
rồi. Tôi liền ra chợ gần đấy tìm mua xôi ăn để tiếp tục lên đường. Lúc
ra đến chợ thì thấy mấy tên lính Commandos giải ba người bị trói ra phía
trước chợ. Những người bị bắt đầu tóc bù xù, quần áo tả tơi, mình dính
đầy máu. Có một người đi không nổi, bị bọn lính kéo lê lết. Có tiếng kêu
xin của một người tù: "Tôi đâu có tội tình gì, chỉ đi mua gà lợn để về
bán Tết. Các ông cứ hỏi người trong làng này đều biết tôi là người buôn
bán, chứ không là Việt Minh gì hết. Xin các ông tha cho. Tôi còn vợ, còn
con ở nhà trông đợi!". Mặc cho lời kêu xin, họ vẫn bị lôi đi xồng xộc.
Lúc đó,
chợ đã họp đông. Đi sau mấy người tù là mấy tên lính giải tù cùng viên
thiếu úy trưởng đồn. Cùng đi hộ tống viên trưởng đồn, có một tên mang
lon cai xếp (hạ sĩ nhất). Đôi mắt tên cai xếp đỏ ngầu, không hiểu đỏ vì
rượu hay đỏ vì say máu người. Đến một cái bệ xây bằng xi măng thì tên
cai xếp hô: "Chúng bay quỳ xuống". Có một hai người tù hình như cưỡng
lại, không chịu quỳ. Tên cai xếp đến bên lấy báng súng đánh cái chát vào
đầu gối. Người tù kêu ối một tiếng rồi quỵ xuống. Mấy tên lính lôi ba
người tù đặt quỳ thành hàng ngang. Tên cai xếp lại nói: "Bọn bay muốn
được các ông tha để về ăn Tết với vợ con, khôn hồn thì hô theo chúng
ông". Tức thì tên cai xếp hô: "Đả đảo Việt Minh! Đả đảo Hồ Chí Minh!"
Hình như chỉ có một người hô theo một cách yếu ớt. Hai người còn lại cứ
trơ ra. Tên cai xếp bước đến trước mặt một người tù rồi nói to: "Mày là
tên đầu xỏ. Cứng đầu thì ông cho một nhát dao về chầu ông bà, ông vải
bây giờ. Khôn hồn thì hô theo ông, hô mau đi: "Đả đảo Việt Minh! Đả đảo
Hồ Chí Minh!" Người tù này như vận dụng hết sức mình, bèn hô lớn: "Đả
đảo bọn Việt gian bán nước! Việt Nam Độc Lập muôn năm! Hồ Chí Minh muôn
năm!"
Có tiếng lao xao của một vài người đàn
ông trong chợ: "Đập bỏ mẹ chúng nó đi". Lại có tiếng hét to: "Cứ giết
hết bọn đi lương". Các lời xúi giực như dầu đổ vào lửa, làm tên trưởng
đồn tức giận. Hắn rút con dao găm đeo bên hông, bước lại trước mặt người
tử tội vừa hô đả đảo, vung dao lên, đâm một nhát, nghe cái "bóp", rồi
rút dao ra đâm tiếp thêm mấy nhát, máu ở ngực người tử tội đỏ lòm tuôn
ra xối xả. Người tử tội ngã vật xuống nền chợ như cây chuối bị tróc gốc.
Tên cai xếp tiến đến thưa với tên trưởng đồn: "Thiếu Úy đi rửa tay đi.
Để chúng nó đấy cho em". Tên cai xếp quay sang một tên lính đứng bên,
nói như ra lệnh: "Mày chạy đi kiếm cái thau, mau đi!" Tên lính nghe thấy
thế liền ba chân bốn cẳng chạy vào chợ. Phút chốc, hắn mang đến một cái
thau nhôm nhỏ. Tên cai xếp gật đầu rồi đến bên người tử tội, hắn cúi
xuống, đưa dao lên cao rồi đâm mạnh một nhát vào giữa bụng người tử tội.
Người tử tội không nhúc nhích, hình như đã chết vì mấy nhát dao của tên
trưởng đồn. Tên cai xếp nắm chặt cán dao, rạch một đường dài ở bụng nạn
nhân. Đoạn, hắn thò cả hai bàn tay hộ pháp dùng sức mạnh banh toạc da
thịt chỗ bụng nạn nhân mà hắn vừa mới rạch, rồi thò tay vào lôi ra một
lá gan bầy nhầy còn bám cả máu đỏ tươi. Những tế bào của gan bị va chạm
và đứt lìa khỏi thân thể con người nên lớp màng của lá gan trồi lên,
trụt xuống tựa hồ như con ếch đang thở. Hắn bỏ lá gan vào trong cái thau
nhôm, rồi quay lại hỏi tên trưởng đồn bằng một giọng nịnh bợ: "Còn hai tên kia Thiếu Úy Trưởng Đồn
tính xử cách nào?" Tên trưởng đồn chưa kịp trả lời thì vợ hắn ở đâu
không biết chạy đến bên, nói như hét vào tai hắn: "Giê-su-ma! Các ông
giết người dã man như thế không sợ sa hỏa ngục hay sao?"
Phần tôi, tôi cảm động rơm rớm nước
mắt. Tôi như cảm thấy một cái lạnh từ sau ót chạy dài xuống xương sống
và thấy nằng nặng ở nơi lồng ngực.
Vợ tên trưởng đồn nói tiếp: "Muốn xử
tử người ta thì bắn một phát cho người ta chết. Đừng làm bậy mà phải
tội". Nói xong, chị ta lườm nguýt anh chồng một cái rồi bỏ đi một mạch.
Không biết vì sợ lời nói phải của vợ
hay vì sợ tội sa địa ngục, tên trưởng đồn ra lệnh cho đàn em mang hai
người tử tội còn lại ra ngoài đầu làng để bắn. Rồi hắn bỏ đi, để mặc cho
tên cai xếp và bọn lính còn lại muốn làm gì thì làm.
Hai
người tử tội được ba tên lính dẫn đi. Sau khi tên trưởng đồn đi khỏi,
tên cai xếp ra vẻ ta đây làm lớn. Hắn đằng hắng lên giọng: "Thằng nào đi
lấy cho tao chai rượu và mượn một cái lò than của chị bán bánh đa mang
lại đây mau". Hai tên lính đứng gần đấy có vẻ mặt dữ tợn. Một tên có cái
sẹo lớn nơi má, hình như là lốt chém. Tên kia thì mắt lác. Cả hai tên
cùng chạy vào chợ. Chỉ một thoáng, một tên cầm trên tay hai chai rượu
trắng, tên kia bê cái thau có than hồng đang cháy, bên trên có cái vỉ
sắt, rồi đặt trên cái sạp gỗ trống. Mặt tên cai xếp lúc ấy trông rất cô
hồn. Hắn vẫn tỉnh táo, chứ chưa say vì lúc đó hắn chưa uống một ngụm
rượu nào. Hắn lấy con dao găm lẻo cái gan ra thành nhiều miếng, đặt lên
chiếc vỉ sắt rồi ra lệnh cho một tên lính quạt cho than cháy đỏ. Còn cái
mật người, hắn khẽ lấy mũi dao dí dí cho thủng lỗ rồi nhét cái mật vào
chai rượu. Rồi hắn dùng một tay vừa bịt miệng chai vừa xóc xóc chai cho
nước mật bắn tung ra. Màu đen của mật hòa lẫn với rượu trắng biến chai
rượu thành một thứ màu xám không ra xám, xanh không ra xanh, đen không
ra đen. Mặt hắn vênh vênh, váo váo. Hắn thản nhiên xem làng nước không
ra gì vì ở đây không ai lớn bằng Cha Tổng của hắn. Cha đã xuống lệnh
giết thì hắn có quyền muốn giết bằng cách nào là tùy ý ở bọn hắn, miễn
là giết chết được Việt Minh thì thôi! Ngoài Cha Tổng và tên trưởng đồn
ra, lúc này hắn không còn kiêng sợ ai nữa. Hắn đưa chai rượu lên uống
ừng ực. Mắt hắn đỏ hơn trước. Hắn gọi bọn đàn em lại uống với hắn, nhưng
chỉ có hai tên vừa rồi đến để uống chia sẻ chiến công của bọn hắn. Uống
xong, bọn hắn bốc mấy miếng gan người bỏ vào mồm nhai ngấu nghiến như
con cá sấu nuốt mồi. Mùi khét lẹt của gan người tanh nồng trải ra làm
tôi muốn nôn, nhưng phải ráng nuốt cái nước chua chua ở cổ họng xuống,
sợ bọn đầu trâu mặt ngựa kiếm chuyện vì chúng đang say máu người.
Không chịu nổi cảnh tượng vừa xẩy ra,
tôi từ từ rút lui. Ra khỏi làng bỗng nghe nhiều tiếng súng. Tôi tự nhủ
thầm: "Lại thêm hai mạng người vô tội gục ngã. Tôi những tưởng bọn hắn sẽ tha
cho người hô đả đảo theo bọn hắn. Không ngờ chúng giết tất cả, không
chừa một ai". Ba bốn hôm sau, trên đường trở về, đi qua làng thì thấy ba
cái đầu lâu người được xuyên vào ba cái sào tre được cắm ngay bên vệ
đường. Ruồi nhặng đã bắt đầu bu lại. Tôi cắm đầu bước nhanh, đi cho
khuất cảnh tượng hãi hùng đó. Ôi! Thật là dã man! Không còn tình người
nữa. Lương tâm con người ở đâu? Đức Chúa Trời của họ dạy nhân từ, bác
ái, thương người bằng cách ấy hay sao? Lòng lành của những người Da Tô
là như vậy đó!" Lê Trọng Văn, Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng Hay Đến Bờ Ảo Vọng (San Diego: Mẹ Việt Nam, 1996, tr. 188-192.
Tại miền
Nam Việt Nam, trong những năm 1954-1963, riêng ở các tỉnh Thừa Thiên,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Khánh Hòa, có tới khoảng 300 ngàn
người bị chế đô cha cố Ngô Đình Diệm sát hại (Chu Bằng Lĩnh, Đảng Cần
Lao (San Diego: Mẹ Việt Nam, 1993, tr. 133).
Những
chuyện rùng rợn trên đây khiến cho người viết nhớ lại lời nhà báo Long
Ân ghi nhận:
“Con
người đã nhân danh tôn giáo để làm những chuyện điên cuồng nhất, đã nhân
danh tôn giáo để biện minh cho quyền lực phi nhân áp đặt lên đầu kẻ
khác. Con người đã phản lại tôn giáo, đã chặt đứt cây cầu đưa đến cuộc
tìm kiếm chính mình, đã cúi đầu đi trên bốn chân để từ con người trở về
với nguồn gốc của cong người súc sinh.” Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất
Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 340.
Những
câu chuyện trên đây cũng giúp cho người viết biết rõ tại sao mà văn hào
Voltaire lại gọi đạo Thiên Chúa La Mã là “cái tôn giáo ác ôn” Bùi Đức Sinh, Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo - Phần
Nhì (Saigòn: Chân Lý, 1972), tr. 165., và học giả Da-tô Henri Guillemin
lại gọi Giáo Hội La Mã là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn” (Malheureuse Église) Nhiều tác giả, Vatican Thú
Tội và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 92.
Khi được
nghe Giáo Hội La Mã bị lên án một cách hết sức nặng nề như trên, tu sĩ
và tín đồ Da-tô nguời Việt thường biện minh và chạy tội cho Giáo Hội
bằng cách đặt ra một câu hỏi ngược lại à, “Nếu đạo Da-tô là “cái
tôn giáo ác ôn” và Giáo Hội La Mã
là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn”,
thì TẠI SAO Giáo Hội La Mã lại có tới gần một tỉ tín đồ?
Để trả
lời cho câu hỏi trên đây, chúng ta có thể dùng câu nói của nữ học giả
Da-tô là Bà Joane H. Meehl tuyên bố trong rác phẩm “The Recovering
Cathloic” (Promethus Books) của bà rằng:
“Đạo
Công Giáo (Da-tô) chỉ thịnh hành và phát triền trong giới người nghèo và
ngu dốt, nó chỉ có thể khắc phục được bằng giáo dục và kinh tế sung
túc.” Nguyên văn: “Catholicism thrives and grows among the poor and
ugnorant. It is overcome by education and economic well-being.” Nguyễn
Mạnh Quang, Thực Chất của Giáo Hội La Mã - Quyển Một (Tacoma, WA: TXB,
1999), tr. 86-87.
Họ lại
đặt ra vấn đề là, nói rằng “đạo Công Giáo chỉ phát triển trong giới
người nghèo và ngu dốt”, thì TẠI SAO trong quá khứ cũng như hiện tại,
trong cộng đồng Công Giáo, có rất nhiều tín đồ Da-tô có bằng cấp cao như
tiến sĩ, thạc sĩ, v. v…, có những người đã làm đến tổng thống ở Hoa Kỳ
cũng như ở nhiều nước khác và ở miền Nam Việt Nam, lại có rất nhiều
người giầu có thuộc hàng tỉ phú ở Mỹ cũng như ở nhiều quốc gia khác ở
trên thế giới?
Xin thưa
rằng, từ thế kỷ 4 cho đến nay, Giáo Hội La Mã vốn bám chặt lấy chính
quyền và các đế quốc thực dân xâm lược để củng cố và duy trì quyền lực.
Có quyền lực trong tay rồi, Giáo Hội mới ban đặc quyền đặc lợi cho những
tín đồ tay sai đắc lực của Giáo Hội. Có quyền lực trong tay rồi, Giáo
Hội mới dùng miếng mồi danh lợi (chức vụ trong chính quyền) để dụ khị
những phường háo danh, hám lợi và thèm khát quyền lực chạy theo bắt mồi
rồi bị vướng vào cái tròng Da-tô (Catholic loop). Có quyền lực ở trong
tay rồi, Giáo Hội mới dùng bạo lực của nhà nước để chèn ép hay cưỡng
bách nhân dân dưới quyền phải theo đạo. Tình trạng này cũng đã được
Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi nhận khá rõ ràng ở nơi các trang 128-130
trong cuốn Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris, Sudestasie, 1978).
Chúng ta
cũng biết rằng, thói đời thường hay phù thịnh, rất ít người phù suy. Một
khi Giáo Hội đã dùng những chức vụ trong chính quyền và đặc quyền đặc
lợi để câu nhử những kẻ tham lợi, háo danh, và thèm khát quyền lực chạy
theo bắt mồi, thì tất nhiên thế nào cũng có những phường tôn thờ “chủ
nghĩa phù thịnh” lợi dụng cơ hội này để “mượn đạo tạo danh thời” với hy
vọng sẽ được Giáo Hội ban bố cho chức vụ này chức vụ nọ. Nhờ vậy mà nên
danh nên giá. Ngô Đình Khả, Lê Hoan, Trần Lục, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình
Khôi, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Đặng Văn Quang, Huỳnh Hữu Nghĩa,
Lâm Văn Phát, Lâm Lễ Trinh, v.v…, há chẳng phải là những loại người này
hay sao? Trong số những nguời này, cũng có mấy người đã leo lên đến chức
tổng thống, và họ cũng là những triệu phú và tỉ phú đó hay sao? Và
những người này cũng có con hay cháu học hành đỗ đạt lên đến cử nhân,
luật sư, thạc sĩ, tiến sĩ. Chúng ta cũng đã chứng kiến:
1.- Cựu
luật sư Nguyễn Văn Chức viết láo viết ẩu, múa rìu qua mắt thợ trong uốn
Việt Nam Chính Sử (Fall Church, VA: Alpha, 1992) và đã được người viết
nói rõ trong nơi các trang 554-565, Chương 16 trong bộ sách Thực Chất
của Giáo Hội La Mã (Tacoma, WA:TXB, 1999),
2.- Cựu
thẩm phán Nguyễn Cần với bút hiệu Lữ Giang viết láo viết lêu trong cuốn
Những Bí Ẩn Lịch Sử Dáng Sau Cuộc Chiến Việt Nam (California: TXB, 1999)
và ở trong nhiều bài báo đăng trên tờ Sàigòn Nhỏ phát hành ở hải ngoại
từ nhiều năm nay. Người viết đã dành ra tới 4 chương (từ Chương 17 đến
Chương 20) gôm 130 để nói rõ về vấn đề này.
3.- Ông trí thức Kitô Nguyễn Xuân Sơn: Trong tác phẩm Evangelization Vietnamese Buddhist Refugees đệ
trình phân khoa thần học tại Claremont (presented to the Faculty of the
School of Theology at Claremont) tháng 5 năm 1995, nơi trang 76, ông
Nguyễn Xuân Sơn viết:
"We
need not be ashmed to share the saving power of Jesus Christ, whom, as
we have mentioned , the Buddhist refugees need the most in their time of
crisis. Moreover, we need to be more concerned about the conversion of
Buddhism, especially in the case of Mahayana. This I believe, can be
done only through dialogue with the Buddhist intellectuals. Vietnamese tradition gives the highest
respect to scholars: "sĩ, nông, công, thương" (The scholar is the
first, 'second is the farmer, third is the government official,
and the last is the businessman). To that end, The
Vietnamese Christian Church, as a whole, need to prepare a working agenda for the task
of evangelization of Buddhists at the intellectual level." Son Xuan
Nguyen, Evangelization Vietnamese Buddhist Refugees (Ann Arbor. Michigan, Umi Dissertation Services,
199), tr 76.
[ii]
Ông trí
thức Kitô Tiến sĩ Nguyễn Xuân Sơn này rất dốt về xã hội cổ truyền của
dân tộc Việt Nam nhưng lại thích làm ra vẻ ta đây là người hiểu biết,
học cao hiểu rộng. Vì thế, ông ta mới rơi vào tình trạng viết về xã hội
tứ dân của Việt Nam ta trong "cái thời trước khi đất nước ta rơi vào ách
thống trị của liên minh giặc Pháp - Vatican" là như vậy. (Công
là công chức và thương là
nhà kinh doanh) . Đúng nghĩa của chữ "công" và chữ "thương" trong xã hội tứ dân ở Việt Nam ngày xưa là "những
người làm nghề thủ công nghệ (artians) hay các ông thợ trong các nghề
chuyên môn như thợ mộc, thợ nề, thợ đóng cối say, thơ chạm hay các nhà
điều khắc, còn "thương" có nghĩa là thương nhân (merchants), chứ không phải là doanh nhân hay doanh nghiệp gia mà
gọi là "businessman".
5.- ông
Tiến sĩ Vương Gia Thụy.- Ông tiến sĩ này là tác giả cuốn Getting To
Know The Vietnamese Culture (New York: Frederick Ungar Publishing,
1976), trong đó nơi trang 22, ông viết:
"The Vietnamse man: According
to Confucian teaching, to be a man one must take four important steps:
he must be first know how to ciltivate himself (tu thân); then he must
govern or run his family properly (tề gia ); without these two
prerequisites, he might not be able to rule the country (trị quốc); and
only after fulfillment of the three above required steps might he pacify
the whole world (bình thiên hạ).
In order to achieve the first step of
self-cultivation, he must meet five requirement: 1) he must be merciful,
kind, beneviolent, and human (nhân) ; 2) he must adhhere to rites and
ceremonies and strictly observe the family and social hierarchies (lễ);
3) he must help the needy and desperate (nghĩa); 4) he must
have strong will power and determination (chí); 5) he should be
consistent and loyal so that people can trust and have confidence in him
(tín)."Vuong Gia Thụy, Getting To Know The Vietnamese Culture (New York: Frederick Ungar Publishing,
1976, tr 22.[iii]
Ông
Tiến-sĩ này không hiểu được chữ "nghĩa" trong đạo Khổng và đã hiểu lầm chữ "trí" sang chữ "chí" trong bản văn nói về phần này của nền đạo lý
Khổng Mạnh. Mong rằng ông tiến sĩ Vương Gia Thụy cũng nên tìm đọc cuốn
the Ageless Chinese - A history by Dun J. Li (New York:Charles's Sons,
1978) và đọc thêm cuốn A Historical Survey of Educational Developments
In Vietnam (Lexington, Kentucky, University of Kentucky, 1959) của Tiến
sĩ Vũ Tam Ích để hiểu rõ về đạo Khổng. Trong trường hợp nếu đọc được
tiếng Việt, ông Tiến-sĩ Thụy nên tìm đọc bộ sách Nho Giáo của tác giả
Trần Trọng Kim, Khổng Học Tinh Hoa của Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ và bộ sách
Khổng Học Đăng của cụ Phan Bội Châu để biết rõ về đạo Khổng .
6.- Về Ông Giáo-sư Nguyễn Ngọc Bích, ông này xuất thân từ một gia
đình quan lại trong thời Liên Minh Pháp – Vatican thống trị Việt Nam và
là một trí thức có tên tuổi ở hải ngoại. Ví không nhận thức được cái hữu
hạn trong cái mớ kiến thức mà ông đã học hỏi và thâu nhận được trong
cuộc đời của ông, cho nên ông mới nhẩy vào lãnh vực văn học Việt Nam (có
thể không nằm trong lãnh vực ông nghên cứu hay có nghiên cứu mà không
được tường tận). Tình trạng vơ vào này khiến cho ông đã dịch chữ “biển
dâu” của Việt Nam sang tiếng
Anh là “mulberry sea” và chữ “cá mè” thành chữ “sesame fish”. Sư kiện này khiến cho ông Lê Trúc Huynh ghi lại
mấy lời ngỡ ngàng như sau:
“Cách đây hơn 10 năm , tôi có đọc một vài bài thơ Việt được
một vị học thiệt có bằng Tiến Sĩ đàng hoàng và hình như ông ta cũng có
chân trong hội Văn Bút VN ở hải ngoại thì phải, dịch ra tiếng ... Ăng
Lê.
Ông dịch chữ "biển dâu trong câu thơ
"Biển dâu xanh ngát / hóa một cồn lau / ra chữ “mulberry -sea" và chữ
"cá mè" trong câu "Phú ông xin đổi một xâu cá mè" ra chữ “ sesame fish".
Tôi ngơ ngẩn hoài một thời gian khá lâu về mấy chữ Việt được dịch ra
tiếng Anh này. Chả lẽ các thầy, cô dạy cho tôi chữ "biển dâu" có nghĩa
là sự thay đổi trong cuộc đời, xuất xứ' từ câu "thương hải biến vi tang
điền" ( biển xanh hóa ra ruộng dâu ), còn cá mè là tên 1 loại cá sông,
ăn rất béo và ngon miệng và mè là tên 1 loại hạt thuộc loại mễ cốc , đều
dạy trật lất hết sao?”Lê Trúc
Huỳnh. “Linh Hồn Ðánh Mất.” www.VietHaven.com
Ngày 19/12/2002 [iv]
Và
ông Aladin Nguyên viết trong thaoluan@yahoogroups.com, ngày 30/6/2005
trong đó có hai đoạn với nguyên văn như sau:
“ Nguyễn ngọc Bích vì háo danh muốn lấy le với đời, muốn trổ
tài cho mọi người biết ta đây là giỏi, là tài, là bậc thông thái nên
gã đã đem thơ Kiều của Nguyễn Du và những thơ hay của Việt Nam ra dịch
sang tiếng Anh, mà trong đó có câu "tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ
Xương" chuyển thành "Tho Xuong chicken soup" hoặc chữ "biển dâu" (trải
qua một cuộc bể dâu những điều trông thấy mà đau đớn lòng hoặc biển dâu
trong tích tang điền...) để trở thành tiếng Anh là "mullberry sea" một
cách ẩu trỉ và ngu đần đến thế.
Vì
chuyện "biển dâu" (mullberry sea) này mà khi sinh tiền ký gỉa Tú Rua Lê
Triết đem nó ra mà phê bình, góp ý sửa sai với "giáo sư" Nguyễn ngọc
Bích qua nhiều số báo, ấy thế mà NNB đã viết sai, làm quấy lại không
biết phục thiện, sửa đổi lại bản dịch của mình, lại còn ngon cố cứng
đầu, quay sang mắng chửi chụp mũ người đã phê bình mình là ký gỉa Tú Rua
Lê Triết một cách thậm tệ Nhưng khi Ông Tu Rua Lê Triết sống thì
Nguyễn ngọc Bích không lần nào dám hó hé lên tiếng với Ông ấy cả, dù là
lên tiếng để tranh luận nói về chuyện "biển dâu .. dâu bể" (mullberry
sea) của cuộc đời, hoặc là bàn đến một... tô canh gà nổi tiếng ở
vùng Thọ Xương kia đi chăng nữa.” Aladin Nguyên. “Nguyễn Ngọc Bích là
ai?”thaoluan@yahoogroups.com, ngày 30/6/2005.
7.-
Nhiều ông trí thức khác đã được người viết nêu đích danh nơi Chương 21
trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Công Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Hou ston, TX:
Văn Hóa, 2000) cũng ở vào tình trạng tương tự như các ông trí thức trên
đây.
8.- Các
nhân vật nổi của cái gọi là Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation được
thành lập vào tháng 7 năm 1973 là ông bác sĩ Nguyễn Xuân Vinh, Tiến-sĩ
Nguyễn Văn Canh, Nguyễn Bá Cẩn (Cao Học Hành Chánh), v.v… đều là những
người trí thức cả đó. Ấy thề mà họ lại muối mặt viết thư thỉnh cầu Liên
Hiệp Quốc và chính phủ Hoa Kỳ làm áp lực với chính quyền Việt Nam phải
tôn trọng Thỏa Hiệp Paris 1973, tái lập tình trạng chia đôi đất nước
Việt Nam để lấy một nửa nước giao cho bọn Việt gian mà chính bản thân họ
hay ông cha họ đã từng có thành tích làm tay sai cho Liên Minh Đế Quốc
Thực Dân Xâm Lược trong thời 1858-1945 hay Liên Minh Mỹ - Vatican trong
những năm 1954-1975. Vấn đề này đã được người viết nêu lên trong cuốn
Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa
Nguyên, 2004).
Tình
trạng kiến thức và cung cách hành xử của các ông trí thức trên đây đã
khiến cho người viết nhớ đến lời nói “Trí thức không bằng cục phân”của
ông Mao Trạch Đông. Thiển nghĩ rằng câu nói này rất thích hợp với ông
trí thức Da-tô trên đây.
CÁC
NƯỚC KHÔNG CỘNG SẢN KHÁC
CŨNG
BỎ NƯỚC TÌM ĐẾN HOA KỲ
Phần
dưới đây sẽ nói về những người tại các quốc gia không có chính
quyền là Cộng Sản mà vẫn phải bỏ nước tìm đến Hoa Kỳ mưu sinh với hy
vọng sẽ có một đời sống tốt đẹp hơn dù là quê hương của họ đã được Giáo
Hội đem Tin Mừng và Hông Ân Thiên Chúa đến ban phát cho họ từ những năm
đầu của thế kỷ 16. Chúng ta hãy tìm hiểu TẠI SAO những người này phải
lìa bỏ quê hương xứ sở đến Hoa Kỳ sinh sống:
Thứ
nhất, cái tâm lý kinh tởm và
muốn lánh xa các chế độ chính trị bạo ngược đã có từ ngàn xưa. Ngay cả
vào những năm 1954-1975, NẾU Hoa Kỳ mở rộng con tim đón nhận người Việt
Nam vào Hoa Kỳ định cư lập nghiệp và có những khoản tiền trợ cấp (như họ
đã cấp cho những người Việt đến Hoa Kỳ tỵ nạn từ tháng 4 năm 1975 cho
đến nay), thì chắc chắn là đã có rất nhiều người trong giai cấp bị trị ở
miền Nam Việt Nam ào ào kéo nhau đi khỏi xứ.
Vì không
có khả năng để khử diệt các chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm và quân
phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu, và cũng vì ngại khó khăn nguy hiểm đến
sinh mạng, họ không dám liều mình dấn thân gia nhập Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam, mà chỉ muốn thoát khỏi cái chính sách kỳ thi tôn giáo, tệ nạn
lãnh chúa áo đen, tệ nạn tham nhũng và tệ nạn cường hào ác bá và hung
thần ở địa phương mà người ta muốn bỏ nước ra đi tìm đến Hoa Kỳ để mưu
sinh với hy vọng sẽ được tự do giống như những người Âu Châu đã lìa bỏ
quê cha đất tổ đến sinh sống ở Mỹ Châu từ đầu thế kỷ 17 cho đến ngày
nay.
Cũng nên
biết, ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, ác bá là những hung
thần ác quỷ trong 13 tổ chức công an, mật vụ, an ninh quân đội của chế
độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm Ác bá tại các địa phương cũng là những
bọn nhân dân tự vệ, nhân viên an ninh của khóm, phường, xã, quận, tỉnh.
Và ác bá là những đạo quân thập tự của các ông lãnh chúa áo đen trong
các xóm đạo hay trong các trại định cư.
Nếu được
ra đi như vậy người ta sẽ "tránh được cảnh quấy nhiễu của cảnh sát" như
Linh-muc Trần Tam Tỉnh đã ghi nhận nơi các trang 128-130 trong tác phẩm
Thập Giá và Lưỡi Gươm của ông. Tuy nhiên, chắc chắn là những thành phần
nằm trong giai cấp thống trị của các chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình
Diệm và quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu không hề nghĩ đến chuyện bỏ
nước ra đi đến Hoa Kỳ lập nghiệp. Lý do là ở miền Nam trong những năm đó
là cái thời vàng son của họ. Lúc đó, họ đang được hưởng những ưu đãi về
chính trị, xẫ hội và kinh tế, đang ở thế ăn trên ngồi trước, hét ra lửa
mửa ra khói, tha hồ tung tác hà hiếp những người lép vế thế cô.
Thứ
hai, không phải chỉ có người
dân ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 mới có cái khát vọng
tìm đến Hoa Kỳ mưu sinh như đã trình bày ở trên, mà ngay cả những nước
Pháp, Nam Hàn, Trung Hoa, Phi Luật Tân, Châu Mỹ La-tinh, Ấn Độ và nhiều
nước ở trong vùng Trung Đông và Châu Phi, nếu có cơ hội, cũng có rất
nhiều người muốn dứt khoát lìa bỏ quê cha đất tổ để đến mưu sinh ở Hoa
Kỳ. Những con số người nhập cư vào Hoa Kỳ trong những năm gần đây do ký
giả Genaro C. Armas ghi nhận trong bài báo "Immigrants Still Pouring
Into U.S." đăng trong tờ The News Tribune, ấn bản phát hành ngày Thứ Sáu
7 tháng 11 năm 2003 là bằng chứng rõ rệt nhất cho sự kiện này. Dưới đây
là nguyên văn của bài báo này:
"By the
numbers.- The foreign population in the United States, the region of the
World from which they arrived and the number who arrived between March
2000 and March 2003 according to an analysis of Census Bureau estimates
by the Center for Immigration Studies. Totals might not exactly add up
due to rounding.
Region |
Total |
2000-2003 |
Mexico |
9,966,000 |
1,530,000 |
Canada |
657,000 |
47,000 |
Central America |
2,379,000 |
348,000 |
Caribbean |
3,381,000 |
308,000 |
South America |
2,120,000 |
379,000 |
Europe |
4,500,000 |
440,000 |
East Asia |
5,868,000 |
690,000 |
South Asia |
1,596,000 |
332,000 |
Middle East |
1,060,000 |
153,000 |
Sub-Saharan Africa |
635,000 |
133,000 |
Oceania |
1,215,000 |
174,000 |
Total |
33,377,000 |
4,494,000 |
Nhìn vào
bảng con số người bỏ quê cha đất tổ tìm đến Hoa Kỳ mưu sinh trên đây,
chúng ta thấy:
1.-
Tổng số người ngoại quốc đến Hoa Kỳ định cư là 33,377,000, thì số
dân từ Mexico, Central America, Caribbean và South America (là những nơi
có tới trên 95% tín đồ Da-tô của Giáo Hội La Mã) chiếm tới 17,846,000
người. (Khoảng 53% trên tổng số).
2.- Tổng
số dân ngoại quốc đến Mỹ định cư từ năm 2000 đến năm 2003 là 4,494,000, thì số dân từ Mexico, Central America, Caribbean và South
America chiếm tới 2,565,000 (khoảng 53%).
Các quốc
gia trong các vùng này, ngoại trừ Cuba thuộc vùng biển Caribbean với dân
số là 11,015,000 (vào năm 1995), đều không phải là nước theo chế độ Cộng
Sản, và là những quốc gia đã được Giáo Hội mang Tin Mừng và Hồng Ân
Thiên Chúa đến cho họ từ đầu thế kỷ 16. Được hưởng ẩn sủng của Chúa Cha
Jehovah, Chúa Mẹ Maria và Chúa Con Jesus lâu dài cả 4 thế kỷ ròng rã như
vậy, ấy thế mà TẠI SAO chỉ trong vòng có 3 năm mà con số người ở những
nước này phải lìa bỏ quê cha đất tổ đến Hoa Kỳ để mưu sinh lại nhiều như
vậy? Con số người bỏ nước, bỏ Chúa, bỏ Giáo Hội quê nhà ra đi còn lớn
gấp mấy lần người Việt Nam đến Hoa Kỳ trong thời gian từ 1975 đến 2000!
Trong số
mấy triệu người này, có tới hàng triệu người cũng đã phải đến Hoa Kỳ
bằng những chuyến đi cực kỳ phiêu lưu do bọn người mối lái dẫn người lậu
vào Hoa Kỳ để kiếm tiền như chúng ta đã từng thấy khi đã bị các cơ quan
truyền thông phanh phui và phơi bày ra trước công luận từ nhiều năm nay.
Trường hợp điển hình ở Ba Lan: Đại đa số nhân dân ở các nước Tây Ban Nha, Tiệp
Khắc và Ba Lan là tín đồ của Giáo Hội Công Giáo. Thế mà từ khi có tổng
tuyển cử theo thể chế dân chủ tự do (Tây Ban Nha sau năm 1975, Tiệp Khắc
và Ba Lan sau năm 1990) thì dân chúng của các quốc gia này lại không
bầu cho ứng cử viên vây cánh hay tay sai của Giáo Hội. Trái lại, họ
lại bầu cho ứng cử viên vốn là cựu đảng viên Cộng Sản hay đảng Xã Hội;
những chính đảng đã từng có những thành tích chống lại Giáo Hội. Rõ
ràng nhất là tại nước Ba Lan. Tín đồ Da-tô tại quốc gia này chiếm tới
95% dân số. Ấy thế mà trong kỳ bầu cử Tổng Thống Ba lan được tổ chức vào
ngày 19/11/1995, họ lại dồn phiếu cho ứng cử viên Aleksander
Kwasniewski, một cựu đảng viên Cộng Sản có thành tích chống Giáo Hội;
chứ không bầu cho ứng cử viên Da-tô Lech Waslessa được Giáo Hội triệt để
ủng hộ. Sự kiện này được tờ Người Việt Tây Bắc (chủ nhân là một tín đồ
Da-tô ngoan đạo) số 469, phát hành ngày Thứ Sáu 1 tháng 12 năm 1995 đăng
tin như sau:
"Giáo
Hội Ba lan theo dõi từng bước sự thắng cử của Tân Tổng Thống cựu Cộng
Sản.- Warsaw, Ba Lan (Reuter). Vị đứng đầu Công Giáo Ba Lan,
Đức Hồng Y Jozef Glemp, hôm 27/11, tuyên bố sẽ theo dõi kỹ càng
các sự thay đổi chính trị tại Ba Lan, sau khi một cựu đảng viên Cộng Sản
Ba Lan đã vừa đắc cử tổng thống nước này.
Đức Hồng Y J. Glemp tuyên bố trong cuộc phỏng vấn dành cho cơ quan thông tin Công Giáo (CIA), sau khi
ứng cử viên Tổng Thống cựu đảng viên Cộng Sản Aleksander Kwasniewski
thắng thế trước ứng cử viên Lech Waslessa, cựu lãnh tụ Công Đòan Đòan
Kết, tín đồ Thiên Chúa ngoan đạo, như sau:
"Lẽ dĩ nhiên, chúng tôi sẽ không đưa ra
bất cứ đề nghị nào có tính cách cách mạng với tân tổng thống cả. Tôi
không nghĩ rằng, với tư cách đại diện Giáo Hội, chúng tôi sẽ không đảm
trách vai trò chính trị nào trong tân chính phủ, tuy nhiên, chắc chắn
chúng tôi sẽ theo dõi kỹ càng mọi diễn biến xẩy ra trên chính trường,"
Sự thắng cử với tỷ lệ phiếu mong manh của ứng cử viên Tổng Thống
Kwasniewski trong cuộc bầu cử 19/11 vừa qua bị coi là một sự thất bại
cho Giáo Hội Công Giáo Ba Lan, mà trước năm 1989, vẫn là hạt nhân chính
yếu của phe đối lập để chống lại hệ thống vô thần Cộng Sản, mà ứng cử
viên Kwasniewski từng là một viên chức cao cấp.
Tổng Thống tân cử Kwasniewski tuyên
bố, ông muốn hàn gắn mọi sự dị biệt với Giáo Hội Công Giáo Ba lan, tuy
nhiên, điều này có lẽ không dễ dàng gì. Ngày 26/11, vị lãnh đạo
giáo xứ Jasna Gora, từng được coi là chiến tuyến công giáo của Ba Lan
ngay từ thế kỷ 17, để chống lại quân xâm lăng Thụy Điển, đã nói thẳng ra
rằng, Ngài sẽ không cho Kwasniewski đặt chân lên khu giáo xứ của ông.
Vị lãnh đạo giáo xứ trên, Ngài Szezpan
Kosnik, tuyên bố trước hàng ngàn giáo dân tề tựu tại giáo đường Pauline
ở Czestochowa, nằm ở phía Nam Ba Lan, như sau:
"Các cửa ngỏ của giáo xứ Jasna Gora sẽ
được bít kín chống lại các kẻ thù của lòng tin Chúa, bất kể đến việc họ
đã đạt đến cấp bậc lãnh đạo cao ra sao đi chăng nữa."
Các ủng hộ viên của tân Tổng Thống
Kwasniewski đã lên án sự ủng hộ của Giáo Hội đối với ông Lech Waslessa
ngay khi vận động tranh cử, và cảnh cáo tiếp rằng điều này chỉ có hại
cho Giáo Hội mà thôi." ["Giáo
Hội Ba lan theo dõi từng bước sự thắng cử của Tân Tổng Thống cựu Cộng
Sản." Người Việt Tây Bắc số 469,
ngày 1/12/1995]
Chúng ta
thấy rằng lời tuyên bố trên đây của ông tu sĩ Da-tô Szezpan Kosnik quả
thật là xấc xược và vô cùng ngược ngạo, đúng như truyền thống của đạo
"Da-tô". Qua lời tuyên bố "Các cửa ngỏ của giáo xứ Jasna Gora
sẽ được bít kín chống lại các kẻ thù của lòng tin Chúa, bất kể đến việc
họ đã đạt đến cấp bậc lãnh đạo cao ra sao đi chăng nữa.”, chúng ta thấy ông tu sĩ (giám-mục hay linh mục)
Szezpan Kosnik đã biến giáo xứ Jasna Gora thành một quốc gia trong quốc
gia Ba Lan.
Tất cả
ngôn từ, cung cách hành xử và việc làm của ông tu sĩ Szezpan Kosnik
giống y hệt như bọn lãnh chúa áo đen ở trên toàn cõi Việt Nam từ năm
1858 cho đến năm 1954 và ở miền Nam cho đến ngày 30/4/1975. Thái độ cũng
như hành động xấc xược ngược ngạo và trịch thượng của ông tu sĩ Da-tô Ba
Lan cao cấp trên đây đã làm cho nhân dân Ba Lan nói riêng, và nhân dân
thế giới nói chung, vô cùng khinh bỉ và ghê tởm. Vì thế mà trong cuộc
bầu cử được tổ chức sau khi hết nhiệm kỳ thứ nhất, Tổng Thống
Kwasniewski, một cựu đảng viên Cộng Sản, lại đắc cử với đại đa số phiếu
và ứng cử viên của phe bảo thủ thân Giáo Hội La Mã lại bị rớt đài một
lần nữa. Sự kiện này được ông Lưu Vũ ghi lại trong www.danchiemmviet.com Ngày 24/6/2006 với nguyên văn như sau:
“Cái
không thích của một cá nhân không thể chống lại mong muốn của đa số.
Giống hệt ở Ba Lan. Hiến pháp Ba Lan cấm chủ nghĩa cộng sản hoạt động.
Những người cựu cộng sản Ba Lan đã khôn ngoan, lột xác, từ bỏ ý thức hệ
cộng sản chuyển sang khuynh hướng dân chủ - xã hội. Đã hai nhiệm kỳ (8
năm trong 17 năm nay chuyển hoá chế độ) họ giành được đa số phiếu và nắm
quyền lãnh đạo đất nước, trước sự hằn học, tức tối của các đảng cánh hữu
chia rẽ, mất đoàn kết, tranh giành nhau ngôi thứ. Những con chim đầu đàn
của Công Đoàn Đoàn Kết tranh đấu cho Ba Lan dân chủ phải nhịn nhục chào
thua, đành nuốt quả đắng khôi phục lại lực lượng để giành lại lá phiếu
trong kỳ bầu cử tiếp theo. Làm gì hơn? Chả lẽ anh lại gây bạo động chống
lại chính cái mục đích mà anh đã dấn thân: người dân lựa chọn lãnh đạo
bằng lá phiếu." Lưu Vũ. "Cờ quạt và
nỗi bất hạnh của người Việt." www.danchimviet.com Ngày 24/6/2006.
NHẬN XÉT
Qua toàn
bộ những phần trình bày trên đây,chúng ta thấy rằng:
1.- Về
mức độ tàn ác và dã man đối với nhân dân dưới quyền và những người thuộc
các tôn giáo khác, Giáo Hội La Mã cũng như các chính quyền đạo phiệt
Da-tô tay sai của Giáo Hội chiếm kỷ lục trong lịch sử nhân loại.
2.- Cũng
vì chiếm kỷ lục về mức độ tàn ác và dã man, cho nên, tại các quốc gia
nằm dưới ách thống trị của Giáo Hội La Mã hay chế độ đạo phiệt tay sai
của Giáo Hội, con số người bỏ nước ra đi đến các quốc gia khác để tìm tự
do tôn giáo và được sống đời tự do no ấm chiếm kỷ lục và trong lịch sử
nhân loại.
Do đó,
câu nói “Trong lịch sử nhân loại, chỉ có Việt Nam Cộng Sản tàn ác
quá cho nên người ta mới bỏ nước ra đi nhiều như vậy!” là một câu nói
của những người hoặc là không có kiến thức lịch sử thế giới và lịch sử
Giáo Hội La Mã, hoặc là có chủ ý rêu rao tô đậm những sai lầm của
chính quyền Việt Nam hiện nay với ý đồ che lấp thành tích tội ác
tàn ngược và dã man của Giáo Hội La Mã và các chính quyền đạo phiệt tay
sai của Giáo Hội trong gần hai ngàn năm qua.
Nói cho
gọn, bàn tay không che nổi mặt trời. Câu tuyên bố đó nếu không phải là
một thủ đoạn tuyên truyền của những tín đồ Da-tô ngoan đạo của Giáo Hội
La Mã, thì cũng chỉ là một ý kiến hết sức kém cỏi của những người không
biết gì về lịch sử thế giới và lịch sử Giáo Hội La Mã.
[i] Arnold Schrier & T. Walter Wallbank, Living World History., Ibid., p 358
[ii] Sơn Xuân Nguyễn, Evangelization
Vietnamese Buddhist Refugees (Ann Arbor. Michigan, Umi Dissertation
Services, 199), tr 76.
[iii] Vương Gia Thụy, Getting To Know The
Vietnamese Culture (New York: Frederick Ungar Publishing, 1976, tr 22.
[iv] Lê Trúc Huỳnh.
“Linh Hồn Ðánh Mất.” www.VietHaven.com Ngày
19/12/2002.
Các bài cùng tập
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Phụ Lục 1: Vì sao bỏ nước ra đi - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Khi Nhà Văn... - Lời Mở Đầu - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Bối Cảnh Lịch Sủ của Ba Nước - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn 2 - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn chót - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Nội Tình của Ba Nước - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Phụ Lục 2: Sai Lầm Trong Cuốn 1945-1995.. - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Sai Lầm Trong Cuốn "Xóm Đạo" - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Nếu Miền Bắc Không Tấn Công - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Chuyện giáo dân bị sát hại - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Đạo Công Giáo và Thực Dân - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Tiền Lương Quân Nhân Công Chức - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Việc kèm ghép các vị sư - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Trường Hợp Bắc Hàn - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn 1 - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ ▪
Trang Nguyễn Mạnh Quang