KHI NHÀ VĂN LẠM BÀN LỊCH SỬ
- Nguyễn Mạnh Quang -
http://sachhiem.net/NMQ/KNV/PhanI2.php
10-07-2008
Toàn tập:
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
PHẦN I
LỜI TUYÊN BỐ CỦA ÔNG NGẠN TRONG CUỐN
VIDEO PARIS BY NIGHT SỐ 81 (5)
II.- BỐI
CẢNH LỊCH SỬ CỦA BA NƯỚC ĐỨC, TRIỀU TIÊN VÀ VIỆT
NAM
Trước khi
lãnh thổ bị chia cắt, bối cảnh lịch sử của cả ba nước Đức, Triều Tiên và
Việt Nam ở trong hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau và nguyên nhân đưa đến
tình trạng đất nước bị chia cắt cũng hoàn toàn khác nhau. Phần trình bày
dưới đây cho chúng ta thấy rõ sự kiện này.
BỐI CẢNH
LỊCH SỬ NƯỚC ĐỨC
Trước khi bị Đồng Minh Mỹ, Nga, Anh,
Pháp đưa nước Đức lên bàn mổ chia cắt ra làm bốn mảnh, Đức là một trong
ba nước nằm trong phe Trục Đức – Ý - Nhật và cũng là một trong ba nước
chủ chiến thi hành chính sách xâm lăng gây ra Đệ Nhị Thế Chiến (bùng nổ
vào ngày 1 tháng 9 năm 1939). Cuộc chiến này thực sự chấm dứt ở Âu Châu
vào sáng sớm ngày 7/5/1945 khi Tướng Đức Gustav Jodt nhân danh Tổng Tư
Lệnh quân đội và nhân dân Đức thân hành đến Bộ Tổng Hành Dinh của Tướng
Eisenhower tại Reims (Đống Bắc nước Pháp) ký nhận đầu hàng Đồng Minh vô
điều kiện. Hiệp ước đầu hàng này được chính phủ Đức phê chuẩn vào ngày
8/5/1945. Trong khi đó cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn tại mặt trận Á Châu
cho đến khi Nhật chính thức đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện vào ngày
15/8/1945.
Tóm lại, Đức là nước gây chiến, nhưng
lại là nước thua trận và phải chịu số phận của một nước bại trận do phe
thắng trận quyết định.Theo sách Đệ Nhị Thế Chiến Và Chiến Tranh Lạnh,
các nước Đồng Minh Mỹ, Nga, Anh và Pháp nhóm họp tại Cecilienhof gần
Potsdam (phía Tây Nam thành phố Berlin) từ ngày 17/7/1945 đến ngày
2/8/1945) để thảo luận việc trừng phạt nước Đức và cuối cùng họ đạt được
một thỏa hiệp về vấn đề này. Theo thỏa hiệp này, ngoài việc phải bồi
thường chiến tranh, Đức còn bị trừng phạt nặng nề:
Về phương diện lãnh thổ
, vùng đất nằm ở phía đông hai con sông Oder và
Neisse bị cắt xén nhường cho Ba Lan, tính ra Đức mất đi tới 24% lãnh
thổ. Phần lãnh thổ còn lại bị chia ra làm 4 vùng, mỗi vùng giao cho một
trong bốn cường quốc đồng minh thắng trận quản trị, v.v…
Về phương diện kinh tế
, Đồng Minh kiểm soát chặt chẽ các hoạt động kinh tế
để:
1.- Thực hiện việc tháo gỡ các cơ sở kỹ
nghệ trước kia.
2.- Bảo đảm việc sản xuất chỉ nhằm đáp
ứng cho nhu cầu các lực lượng chiếm đóng và để giữ cho mức sống của dân
Đức không thể cao hơn mức sống của nhân dân các quốc gia khác ở Âu Châu.
3.- Bảo đảm sự phân phối những sản phẩm
thiết yếu sao cho được đồng đều giữa các vùng chiếm đóng nhằm mục đích
giữ cho nền kinh tế được quân bình khắp trong nước Đức và cũng là giảm
thiểu nhu cầu phải nhập cảng.
4.- Kiểm soát nền kỹ nghệ và thương mại
Đức nhằm mục đích không thể tăng cường tiềm lực chiến tranh.
5.- Phân tán kinh tế Đức, thủ tiêu mọi
tổ hợp, ….
Về phương diện chính trị
, trong hoàn cảnh hiện tại, Đức chưa thể được phép
thiết lập một chính quyền trung ương.
Dù là đã quyết định như vậy, nhưng rồi
thời cuộc biến đổi khiến cho ba nước Đồng Minh Mỹ, Anh và Pháp cũng phải
thay đổi chính sách đối với các vùng Đức do ba cường quốc này chiếm
đóng. Năm 1946, tam cường Mỹ, Anh và Pháp đồng thuận cho phép nhân dân
Đức trong các vùng bị chiếm đóng được phép đi bầu để chọn các nhân viên
chính quyền địa phương. Năm 1947, họ lại được phép đi bầu để chọn đại
diện vào các cơ quan lập pháp tại các tiểu bang trong vùng.
Năm 1948, tam cường Đồng Minh Anh, Mỹ và
Pháp nhóm họp tại Luân Đôn có các đại diện của các nước Bỉ, Hòa Lan và
Lục Xâm Bảo tham dự để thảo luận vấn đề sáp nhập khu vực Pháp chiếm đóng
vào hai khu vực Anh và Mỹ chiếm đóng thành một vùng hợp nhất. Vùng hợp
nhất này được gọi là Tây Đức. Hội nghị mong muốn nhân dân trong cả ba
vùng Anh, Pháp, Mỹ kiểm soát thiết lập các cơ cấu chính quyền hầu có thể
đảm nhiệm việc điều hành guồng máy chính quyền và chỉ cần tuân hành một
số điều kiện của Đồng Minh. Các vị thống đốc quân sự của Đồng Minh được
lệnh chỉ thị cho phép các nhà hữu trách các tiểu bang thuộc ba vùng
chiếm đóng của Anh, Pháp và Mỹ triệu tập quốc hội lập hiến để soạn thảo
hiến pháp cho Cộng Hòa Liên Bang Đức. Mọi việc đều diễn ra đúng như ý
muốn của hội nghị.
Như vậy, Tây Đức đã được trao trả quyền
độc lập, nhưng vẫn bị ràng buộc bởi một số những điều kiện trong Hiệp
Ước đầu hàng vô điều kiện như đã nói ở trên. Vì thế, từ lúc đó cho đến
nhiều năm sau này, Tây Đức chỉ có lực lượng cảnh sát để duy trì trật tự
và lo việc nội an, quân đội vẫn bị giới hạn, chỉ đủ cho nhu cầu nội an
mà thôi. Ngoài ra, quân đội Đồng Minh vẫn còn trú đóng ở Tây Đức. Từ
cuối năm 1949, quân đội Đồng Minh trú đóng tại Tây Đức còn lãnh thêm
nhiệm vụ canh chừng những hoạt động quân sự của khối Cộng Sản do Liên Xô
lãnh đạo.
Đồng thời, cũng vào năm 1948, Liên Xô
cũng tổ chức chính quyền trong vùng chiếm đóng của họ và gọi là chính
quyền Đông Đức, rồi trả độc lập cho Đông Đức dưới quyền lãnh đạo của
đảng viên Cộng Sản là Friedrich Abert, giống như các nước Anh, Pháp, Mỹ
đã làm ở Tây Đức. Dĩ nhiên là Đông Đức cũng bị ràng buộc bởi những điều
kiện đầu hàng vô điều kiện được ký kết giữa chính quyền Đức và Đồng Minh
vào ngày 7/5/1945.
Như vậy,
ngoài việc bị ràng buộc bởi những điều kiện quy đình trong hiệp ước đầu
hàng Đồng Minh, cả Tây Đức và Đông Đức đều bị quân đội Đồng Minh Trú
đóng tại Tây Đức để theo dõi và kìm kẹp. Với tình trạng này, cả Tây Đức
và Đông Đức đều không có sức mạnh quân sự và cũng không có căn bản pháp
lý hay chính nghĩa để phát động cuộc chiến thống nhất đất nước hay xua
quân xâm lăng lẫn nhau.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TRIỀU TIÊN
Nước Triều Tiên còn có tên là Cao Ly hay
Đại Hàn. Với diện tích rộng chừng 220 ngàn cây số vuông (bằng khoàng 2/3
diện tích Việt Nam), Triều Tiên là một tiểu quốc nằm ở phía nam Mãn
Châu, và cũng là một bán đảo nằm giữa Hoàng Hải và Biển Nhật Bản (Đông
Bắc Trung Hoa), chỉ cách Nhật Bản qua eo biển Nhật Bản giống như bán đảo
Florida (Hoa Kỳ) cách Cuba qua eo biển Florida. Trong quá khứ, Triều
Tiên vốn là một quốc gia nằm trong vùng ảnh hưởng của Trung Hoa, giống
như Việt Nam trước năm 1884. Từ khi Nhật trở nên một cường quốc tiền
tiến và bành trướng ảnh hưởng vào lục địa Trung Hoa, Triều Tiên lại chịu
thêm ảnh hưởng của Nhật Bản. Tình trạng này khiến cho Triều Tiên ở vào
vị thế nằm giữa hai gọng kìm Trung Hoa và Nhật Bản, giống y hệt như vị
thế của Ba Lan nằm giữa hai nước Đức và Nga, và vị thế của Cao Miên nằm
giữa Việt Nam và Thái Lan.
Sách sử
ghi lại rằng, người Trung Hoa chiếm đóng bán đảo Triều Tiên vào năm 108
TCN. Kể từ đó, Triều Tiên bị ảnh hưởng Trung Hoa về cả học thuật, tổ
chức chính quyền và văn hóa, giống y như Việt Nam trước năm 1885. Một
phấn lớn thế kỷ 13 và thế kỷ 14, Triều Tiên bị người Mông Cổ thống trị.
Năm 1392, thế lực của người Mông Cổ suy yếu, dân Triều Tiên nổi lên đánh
đuổi người Mông Cổ giành lại quyền tự chủ và lập nên triều đại Yi.
Triều đại này cai trị Triều Tiên cho đến năm 1910 thì quân xâm lăng Nhật
tràn vào đánh bại. Kể từ đó, Triều Tiên nằm dưới ách thống trị của người
Nhật. Trong thời gian 1910-1945, Nhật Bản chiếm đóng quốc gia này, tất
nhiên cũng có bọn Hàn gian làm tay sai tiếp tay cho Nhật trong bộ máy
đàn áp nhân dân và lo việc quản trị hành chánh (giống như chính quyền Bảo Đại
làm tay sai cho Liên Minh Pháp - Vatican được mệnh danh là “chính quyền
quốc gia” ở Việt Nam trong những năm 1945-1954.) Dĩ nhiên là cũng có một vài tổ chức của nhân dân
Triều Tiên nổi lên chống Nhật, nhưng không có tổ chức nào thành công như
phong trào kháng chiến chống Liên Minh Pháp - Vatican ở Việt Nam do Mặt
Trận Việt Minh Lãnh đạo trong cuộc chiến 1945-1954.
Ngày 15/8/1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Các cường quốc Đồng
Minh phải lo việc giải giới quân đội Nhật ở Triều Tiên cũng như ở Việt
Nam và nhiều nơi khác. Theo sách Đệ II Thế Chiến Và Chiến Tranh Lạnh,
các nước Đồng Minh thắng trận nhóm họp ở Yalta (nằm trên bán đảo Crimée
thuộc Nga) vào tháng 2/1945 và tại Potsdam (gần Bá Linh) từ 17/7/1945
–28/1945 để bàn về vấn đề này. Riêng tại Triều Tiên, các hội nghị đã
quyết định việc giải giới quân đội Nhật được trao cho Liên Xô đảm trách
từ vĩ tuyến 38 trở lên phía Bắc, và Hoa Kỳ từ vĩ tuyến 38 trở xuống phía
Nam.
Mãi tới
ngày 8/9/1945, quân đội Hoa Kỳ mới đổ bộ vào Nam Hàn để thi hành sứ mạng
giải giới quân đội Nhật, trong khi đó, Hồng Quân Liên Xô đã tràn vào Bắc
Hàn từ ngày 8/8/1945. Chỉ trong vòng ba tuần lễ, quân đội Liên Xô đã thủ
tiêu xong các cơ cấu chính trị, hành chánh thân Nhật, và thiết lập xong
các uỷ ban hành chánh nhân dân để điều hành bộ máy cai trị tại Bắc Hàn.
Tháng 12/1945, Ủy Ban Lâm Thời và Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia được
thành lập tại Bình Nhưỡng (thủ đô Bắc Hàn).
Theo Hội
Nghị Mạc Tư Khoa (nhóm họp vào hồi tháng 12/1945), Hoa Kỳ và Liên Xô
cùng thỏa thuận tìm một giải pháp trao trả độc lập cho Hàn quốc, nhưng
mãi tới mùa thu năm 1947, hai đại cường Mỹ và Nga cũng vẫn chưa đạt được
một thỏa hiệp nào để thực hiện quyết định này. Tháng 9/1947, Hoa Kỳ đề
nghị tổ chức một cuộc tổng tuyển cử đặt dưới quyền giám sát của Liên
Hiệp Quốc để bầu quốc hội và chính phủ lâm thời cho cả hai miền Nam -
Bắc Hàn, nhưng bị Liên Xô bác bỏ. Hoa Kỳ bèn đưa đề nghị này ra Đại Hội
Đồng Liên Hiệp Quốc.
Trong khi
đó, Liên Xô lại đưa ra một đề nghị khác, theo đó thì Hoa Kỳ và Liên Xô
cùng triệt thoái quân đội ra khỏi hai miền Nam và Bắc Hàn vào đầu năm
1948. Liên Hiệp Quốc bác bỏ đề nghị này của Liên Xô, và quyết định chấp
thuận việc thành lập chính phủ lâm thời cho cả hai miền Nam - Bắc Hàn.
Liên Xô phản đối và tuyên bố sẽ không tiếp nhận đại diện Liên Hiệp Quốc
tại Bắc Hàn.
Ngày
10/5/1948, chính quyền Nam Hàn tổ chức tổng tuyển cử và đặt dưới quyền
giám sát của Liên Hiệp Quốc mà thực ra là dưới quyền đạo diễn của Hoa Kỳ
để bầu quốc hội lập hiến. Sau đó, Lý Thừa Vãn, một tín đồ Da-tô, được
bầu (theo kiểu bầu Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam) làm tổng thống
nước Công Hòa Triều Tiên (Nam Hàn) và Hán Thành được chọn làm thủ đô.
Hoa Kỳ và Trung Hoa Quốc Gia (Tưởng Giới Thạch) công nhận chính phủ của
ông Lý Thừa Vãn. Hoa Kỳ loan báo sẽ viện trợ kinh tế cho chính quyền Nam
Hàn.
Tháng
10/1948, chính phủ Liên Xô loan báo sẽ triệt thoái toàn bộ quân Nga ra
khỏi Bắc Hàn vào cuối năm 1948. Đầu năm 1949, Hoa Kỳ cũng loan báo sẽ
triệt thoái quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Nam Hàn vào cuối tháng 6/1949 và chỉ
để lại một phái bộ cố vấn quân sự ở trên phần đất này.
Như vậy,
việc chia đôi Hàn quốc ra làm hai miền Nam và Bắc qua vĩ tuyến 38 đã
được (Liên Hiệp Quốc) mặc nhiên công nhận. Triều Tiên nghiễm nhiên thành
hai quốc gia theo hai chế độ chính trị khác hẳn nhau và đối nghịch nhau.
Tuy nhiên, cả hai chính quyền Nam và Bắc Hàn đều không thỏa mãn với sự
chia cắt này. Cả hai chính quyền của hai miền đều tuyên bố rằng chủ
quyền của họ bao trùm lên toàn thể lãnh thổ Triều Tiên.
Việc Bắc
Hàn tấn công xuống Nam Hàn vào ngày 25/6/1950 gây nên cuộc chiến vô cùng
khốc liệt như đã nói ở trên. Theo hiệp ước ngưng chiến được ký kết vào
ngày 27/7/1953, quân đội Hoa Kỳ được trú đóng tại Nam Hàn để canh chừng
Bắc Hàn. Vì lẽ này, nếu không được sự tích cực ủng hộ của Liên Xô và
Trung Quốc, Bắc Hàn không thể nào lại có thể phát động cuộc chiến thống
nhất đất nước lần thứ hai được nữa (Nguyễn Mạnh Quang, Sđd., tr.
276-278)
BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC VIỆT NAM
Trước khi đất nước bị chia đôi, bối cảnh
lịch sử Việt Nam hoàn toàn khác biệt với bối cảnh lịch sử của nước Đức,
và cũng hoàn toàn khác với bối cảnh lịch sử của Triều Tiên. Phần trình
bày dưới đây cho thấy rõ vấn đề này.
1
.- Việt Nam bị Liên Minh Pháp – Vatican thống trị.-
Liên Minh Thánh Pháp – Vatican bắt đầu đem quân đến đánh chiếm Việt Nam
vào năm 1858 và thống trị cho đến ngày 7 tháng 5 năm 1954. Trong thời
gian này, liên minh giặc luôn luôn phải đối phó với các lực lượng nghĩa
quân kháng chiến của nhân dân ta vì rằng ngay từ khi tiếng súng xâm lăng
vừa mới khai hỏa tấn công, ngoại trừ một nhóm thiểu số Việt gian mãi
quốc cầu vinh, và một thiểu số tín đồ Da-tô cuồng tín “thà mất nước,
chứ không thà mất Chúa”, toàn thể nhân dân ta đều quyết tâm lao đầu
vào đại cuộc đánh đuổi quân cướp ngoại thù trong hai thời kỳ (thời kỳ bảo vệ tổ quốc
[(1858-1884) và thời kỳ giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc
(1884-1945
)].
Khi nhà Nguyễn còn khả năng kháng chiến,
quân sĩ triều đình liều chết chống giặc đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ
tổ quốc: Nguyễn Tri Phương bị thương, thất trận và bị giặc bắt, nhất
định không chịu trị thương và nhịn ăn mà chết. Hoàng Diệu không giữ được
thành Hà Nội đành phải tuẫn tiết chết theo thành. Khi giặc tiến chiếm
kinh thành Huế, không đủ khả năng trực diện đối đầu với giặc, Tôn Thất
Thuyết phải dìu vua Hàm Nghi đi trốn để lập chiến khu chống giặc và ban
hành lệnh kêu gọi “Cần Vương” cứu nước.
Khi triều đình bất lực không còn khả
năng chống giặc, nhân dân ta khắp nơi từ Nam ra Bắc tự động nổi lên tổ
chức thành những lực lượng nghĩa quân chống giặc và chống cho đến cùng.
Các tổ chức nghĩa quân của các nhà ái quốc như Trương Công Định, Nguyễn
Trung Trực, Mai Xuân Thưởng, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng
Hoa Thám, Lương Ngọc Quyến, Trịnh Văn Cấn, tổ chức Tâm Tâm Thư Xã với
cái chết oai hùng của Phạm Hồng Thái, tổ chức Quốc Dân Đảng của nhà ái
quốc Nguyễn Thái Học, vân vân, và sau cùng là Mặt trận Việt Minh, tất
cả ra đời với mục đích duy nhất là đánh đuổi quân cướp ngoại thù là
Liên Minh Pháp – Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc. Tất
cả cho chúng ta thấy rõ tinh thần bất khuất và ý chí cương quyết chiến
đấu đến cùng của dân ta để đánh đuổi quân cướp ngoại thù Pháp và Vatican
ra khỏi quê hương.
Với chiến thắng Điện Biên Phủ vào ngày
7/5/1954, Mặt Trận Việt Minh đã hoàn thành được sứ mạng cao cả mà các tổ
chức nghĩa quân kháng chiến của những vị anh hùng tiền bối (từ đó trở
ngược về năm 1858) “chỉ thành nhân mà không thành công”. Giả dụ
như không có Mặt Trận Việt Minh, hay Mặt Trận Việt Minh không thành công
trong sứ mạng cao cả này, tất nhiên là sẽ còn có nhiều tổ chức nghĩa
quân kháng chiến khác đứng lên chiến đấu cho đến khi đất nước sạch bóng
quân cướp ngoại thù.
Có một điều chắc chắn là tất cả các tổ
chức này không phải do bọn cuồng nô Da-tô vô tổ quốc hay những tên Việt
gian phản quốc đã từng làm tay sai đắc lực cho Liên Minh Thánh Pháp –
Vatican đứng ra tổ chức và lãnh đạo.
Tại sao người viết lại khẳng định như
vây? Xin thưa rằng, tín đồ Da-tô được dạy dỗ rằng Giáo Hội La Mã là Mẹ
của họ, họ phải tuyệt đối vâng lời và triệt để tuân hành những lệnh
truyền của Giáo Hội như vâng lời một người Mẹ. Giáo Hội cấu kết với Pháp
thành lập Liên Minh Thánh Pháp - Vatican đem quân tấn công Việt Nam từ
năm 1858 và thống trị Việt Nam cho đến năm 1954. Trong suốt thời kỳ
này, vì “đức vâng lời” của họ đối với Giáo Hội La Mã, họ luôn luôn tỏ ra
hồ hởi đứng trong hang ngũ Liên Minh Pháp – Vatican chống lại dân tộc và
tổ quốc Việt Nam. Ngoài ra, đức vâng lời này của họ đối với Tòa Thánh
Vatican còn được thể hiện ra qua cung cách suy tư, lời nói, hành động và
cung cách hành xử đối với mọi người bên lương mà ai ai cũng có thể thấy
rõ. Hơn nữa, trong thời gian năm 1858 cho đến tháng 7 năm 1954, nhóm
thiểu số tín đồ Da-tô người Việt luôn luôn được chính quyền Liên Minh
Pháp – Vatican ưu đãi, ban cho rất nhiều đặc quyền đặc lợi, coi như là
một lớp người đáng tin tưởng nhất, và được dùng làm lực lượng nòng cốt
chống lại đại khối dân tộc thuộc tam giáo cổ truyền. Với tình trạng như
vậy, làm sao tín đồ Da-tô người Việt có thể đứng ra tổ chức được một lực
lượng nghĩa quân kháng chiến đánh đuổi người Mẹ của họ đang là một thành
phần trong chính quyền liên minh bảo hộ thời bấy giờ được?
2.- Chính sách “Chia Để Trị
”của Liên Minh Pháp - Vatican: Trong thời kỳ
thống trị Việt Nam, Liên Minh Pháp – Vatican triệt để thi hành chính
sách “Chia Để Trị” bằng cách xé nước Việt Nam ra ba miền, mỗi miền thi
hành một chính sách cai trị về tổ chức hành chánh và luật pháp khác với
hai miền kia. Thâm độc và dã man hơn nữa, trong những năm 1945-1954,
chúng thi hành chính sách:
2.1.- Xé nước Việt Nam ra làm nhiều mảnh
vụn theo biên giới địa lý Bắc Trung Nam, theo biên giới sắc tộc để thành
lập các tiểu quốc Tây Kỳ ở Cao Nguyên Nam Trung Bộ, tiểu quốc Thái ở
vùng Tây Bắc Bắc Bộ, theo biên giới tôn giáo tức là lập ra hai giáo khu
tự trị Phát Diệm và Bùi Chu.
2.2.- Dùng người Việt đánh người Việt
bằng việc thi hành “Giải Pháp Bảo Đại” (the Bao Dai Solution) với việc
thành lập chính quyền Bảo Đại và đầu tháng 6 năm 1948 để làm tay sai cho
chúng và khoác cho chính quyền này cái nhãn hiệu “chính quyền Quốc Gia”.
Tên vua hề Bảo Đại khét tiếng ăn chơi mà các nhà viết sử gọi là một tên
playboy được đưa lên làm quốc trưởng, và những tên Việt gian như Nguyễn
Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm, Phan Văn Giáo, Trần Văn Hữu, cùng những tên
hoạt đầu cơ hội chủ nghĩa như Vũ Hồng Khanh, Trần Trung Dung, Trần Chánh
Thành, v.v…được cho nắm giữ những chức vụ tổng bộ trưởng trong cái chính
phủ bù nhìn nay. Đây là dã tâm thâm độc trong chính sách dùng người
Việt đánh người Việt và dùng tín đồ Da-tô cai trị đại khối dân lương
thuộc tam giáo cổ truyền dân tộc. Đồng thời, để giúp cho bọn cuồng nô vô
tổ quốc làm tay sai cho chúng giảm nhẹ cái mặc cảm bị nhân dân Việt Nam
khinh rẻ là “Những quân Việt gian phản quốc”, Liên Minh Pháp – Vatican
chế biến ra danh xưng “chính quyền quốc gia” để khoác lên chính quyền bù
nhìn Bảo Đại và gọi chúng là “những người Việt quốc gia”. Rồi cái đạo
quân đánh thuê do chúng thành lập và đài thọ tất cả mọi chi phí huấn
luyện, trang bị và trả lương hàng tháng được khoác cho cái danh xưng là
“Quân Đội Quốc Gia”.
Thế là những tên phản quốc này tức khắc
được quan thày khoác cho cái nhãn hiệu là “Người Việt Quốc gia chân
chính”. Đồng thời, Vatican lại chế ra lá cờ vàng ba sọc đỏ và bảo
rằng đây là biểu tượng cho cái gọi là “lý tưởng hay chính
nghĩa quốc gia” mà “những người Quốc Gia chân chính” đang
chiến đấu để theo đuổi. Ai cũng biết rằng, trong thực tế, dù là mang
nhãn hiệu là “nguời Việt Quốc Gia chân chính”, bản chất của bọn người
này cũng vẫn không thay đổi và vẫn là bọn Việt gian phản quốc đã bán
nước cho Lỉên Minh Pháp – Vatican từ những năm trước năm 1945 cho đến
lúc bấy giờ, và từ lúc đó (tháng 6 năm 1948) chúng vẫn còn tiếp tục làm
Việt gian bán nước cho Liên Minh Pháp – Vatican.
Về là cờ vàng ba sọc đỏ, theo sách The
Fall and Liberation of Saigon (New York: St. Martin’s, 1976, p. 261) của
sử gia Tiziano Terzani, lá cờ này là do Linh-mục Trần Hữu Thanh chế ra
và được ông ta giải thích rằng “ba sọc đỏ đại diện cho ba miền
Bắc Trung Nam và cũng là tượng trưng cho Chúa Ba Ngôi
” Tam vị nhất thể, chúa cha, chúa con và chúa thánh
thần). Dưới đây là nguyên văn lời tác giả Tiziano Terzani viết:
“Trong số các linh mục di cư từ Bắc
vào Nam năm 1954, Linh-mục Thanh là một trong số những linh mục có nhiều
ảnh hưởng nhất. Vừa là một người có ý thức hệ cực đoan, vừa là cố vấn
cho Diệm, chính ông là người vẽ ra là cờ vàng “ba sọc” bay phất phới ở
Sàigòn cho đến ngày giải phóng. Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba miền của
Việt Nam: Bắc, Trung Nam – nhưng cũng là “Ba Ngôi (Trinity, Tam vị nhất
thể, chúa cha, chúa con và Thánh Thần), ông đã có lần giải nghĩa cho tôi
nghe như vậy.” Nguyên văn: “Of all parish priests who had
fled from the North in 1954, he had been one of the most influential. An
ideologue and adviser to Diem, it was he who designed the “three-banded”
flag that flew over Saigon until the Liberation. “The three red stripes
represent the three regions of Vietnam – Tonkin, Annam, and Cochin China
– but also the Trinity,” he once explained to me. (tr. 261” Đỗ Mạu, Tâm
Thư (Houston, TX: Hòa Thân & Thân Hữu,1995), tr. 336 và 338..
Như vậy là danh xưng “người Việt Quốc
Gia chân chính” được sử dụng như là một bức bình phong để che đậy những
thành tích tội ác “cõng rắn cắn gà nhà” của những tên Da-tô Việt gian
phản quốc từ thời Nguyễn Ánh (Giám-mục Bá Đa Lộc tức Pigneau de Béhaine
móc nối và kết thân) cho đến khi "Giải Pháp Bảo Đại" được cho ra đời vào
năm 1948, và những năm tiếp theo đó. Một trong những người này là tên
tam đại Việt gian Da-tô Ngô Đình Diệm. Đây là một trong những quái chiêu
do Giáo Hội La Mã chủ động và được bọn Pháp thực dân đồng thuận tiến
hành. Tiếp theo sau quái chiêu này, bọn văn nô Da-tô người Việt ồ ạt mở
những chiến dịch tuyên truyền tôn vinh những tên Việt gian làm tay sai
cho giặc có những thành tích chống lại dân tộc và tổ quốc ta bằng cách
gọi chúng là “những người Quốc Gia chân chính”. Đó là những tên
Da-tô Việt gian khét tiếng như Trần Lục, Trần Bá Lộc, Lê Hoan, Ngô Đình
Khả, Nguyễn Hữu Bài, Huyện Sĩ, Petrus Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Công Tấn,
Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Lê Hứu Từ,
Nguyễn Trường Tộ, Phạm Ngọc Chi, Hoàng Quỳnh, Mai Ngọc Khuê, Đinh Xuân
Hải, Nguyễn Lạc Hóa, Nguyễn Văn Thiệu, Đỗ Cao Trí, Hoàng Xuân Lãm, Ngô
Du, Nguyễn Văn Toàn, Đặng Văn Quang, Trần Khắc Kính, Ngô Thế Linh, Lê
Quang Tung, Lê Quang Triệu, Dương Văn Hiếu, Phan Quang Đông, Nguyễn Văn
Hai, v.v…
Thế là, qua bộ máy tuyên truyền với bọn
văn nô Da-tô người Việt, Giáo Hội La Mã đã biến những tên Da-tô Việt
gian đã có thành tích làm tay sai cho liên minh giặc Pháp – Vatican từ
giữa thế kỷ 19 cho đến lúc bấy giờ thành “những người Việt quốc gia yêu
nước” Ai cũng biết rằng chúng gọi bọn Da-tô Việt gian như vậy là “cưỡng
từ đoạt lý” hay “hiếp dâm ngôn ngữ” Thế nhưng, bọn Việt gian này vẫn tự
nhận hay tự phong là “những người Việt quốc gia” hay “những người Việt
quốc gia chân chính yêu nước” dù rằng chúng cũng biết rõ là gọi như vậy
là “vô liêm sỉ”..
Với tình trạng như
vậy, chúng ta phải dùng một từ ngữ nào khác để gọi những người những
người Việt thực sự yêu nước đã từng chiến đấu chống lại Liên Minh Pháp
Vatican và chống lại bọn Da-tô Việt gian trên đây từ năm 1858 cho đến
năm 1954 để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc. Có như vậy, thì
mới tránh được tình trạng nhập nhằng “vàng thau lẫn lộn”, mới có thể
tránh cho các thế hệ mai sau khỏi bị lầm lẫn mà tường lầm rằng bọn
Da-tô Việt gian như Trần Bá Lộc, Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Lê Hoan,
Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, Ngô Đình Thục, v.v…, đặc biệt là thằng tam đại
Việt gian Da-tô Ngô Đình Diệm là những người Việt Quốc Gia chân chính
yêu nước; và cũng là tránh được tình trạng lầm tưởng rằng tất cả
những người chiến đấu trong các lực lượng nghĩa quân của nhân dân ta
dưới quyền lãnh đạo của các nhà ái quốc như Trương Công Định, Nguyễn
Trung Trực, Mai Xuân Thưởng, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng
Hoa Thám, Lương Ngọc Quyến, Trịnh Văn Cấn, Nguyễn Thái Học và đặc biệt
nhất là Mặt Trận Việt Minh là những quân phản loạn.
Ngoài ra, chúng ta
cũng nên đặt ra vấn đề là nếu chúng ta gọi các nhà ái quốc trong các lực
lượng nghĩa quân trên đây là “những người quốc gia yêu nước”, rồi lại
cũng gọi bọn Việt gian trên đây là “những người quốc gia yêu nước” thì
chẳng hóa ra chúng ta đã đánh đồng họ (các nhà ái quốc trên đây) với bọn
Da-tô Việt gian “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” như một
thứ “cà mè một lứa” hay sao?
Do đó, chúng ta phải
dứt khoát phải gọi tất cả những người đã đứng về phía Giáo Hội La Mã và
liên minh giặc Pháp – Vatican chiến đấu chống lại dân tộc và tổ quốc
Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử từ cuối cuối thế kỷ 18 cho đến
tháng 7 năm 1954 và trong hàng ngũ Liên Minh Mỹ - Vatican thống trị miền
Nam trong thời kỳ 1954-1975 là những thằng Việt gian bán nước cho
Vatican, cho Pháp và cho Mỹ. Có như vậy thì chúng ta mới không rơi vào
cái bãy trong cái quái chiêu “nhập nhằng đánh lận con đen” trên đây của
bộ máy tuyên truyền cúa Giáo Hội La Mã.
Tháng 7 năm 1954, người Pháp rút khỏi
Việt Nam và Liên Minh – Pháp Vatican chính thức tan vỡ. Trong tình huống
này, cái gọi là chính quyền quốc gia và đạo quân đánh thuê cho Liên Minh
Pháp – Vatican với danh xưng là “Quân Đội Quốc Gia” rơi vào tình trạng
của những tên đầy tớ mất chủ hay bị chủ bỏ rơi. Nhưng cũng vào thời điểm
này Liên Minh Mỹ - Vatican được thành lập và người Mỹ đến Việt Nam thay
thế người Pháp. Kể từ đó, người Mỹ chính thức trở thành chủ nhân ông của
cả cái gọi là “chính quyền Quốc gia” và đạo quân đánh thuê đã bị người
Pháp bỏ rơi. Cũng từ đó, ông chủ Mỹ bỏ tiền ra đài thọ cho tất cả các
khoản tiền chi phí cho tổ chức, huấn luyên trang bị, trả lương hàng
tháng cho tất cả các nhân viên công quyền (công chức) và tất cả các quân
nhân các cấp trong quân đội để phục vụ cho quyền lợi của Hoa Kỳ và của
Vatican. Đây là sự kiện lịch sử Việt Nam trong thời hiện đại, không ai
có thể phủ bác được.
Thực ra, kể từ khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm
dứt vào ngày 15/8/1945, người Mỹ không những viện trợ và đài thọ cho tất
cả những phí khoản như trên ở miền Nam Việt Nam, mà họ cũng làm như vậy
ở rất nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Tây Đức, Nhật Bản, Nam
Hàn.
Có một điều đặc biệt là tuy rằng họ bỏ
tiền ra (viện trợ) để tài trợ cho tất cả mọi khoản tiền chi phí như trên
và đem cố vấn đến các quốc gia nhận viện trợ để huấn luyện và chỉ đạo
cho nhân viên chính quyền và sĩ quan quân đội bản địa phải làm việc theo
đường lối của họ, nhưng phần lớn những khoản tiền viện trợ này thường
thường được trao cho bọn cai thầu người bản địa làm tay sai cho họ quản
lý.
Tại Nhật Bản và Tây Đức, những người bản
địa được người Mỹ đưa lên lãnh đạo chính quyền làm tay sai cho họ, không
có ai vốn là tín đồ Da-tô đã từng là Nhật gian hay Đức gian bán nước cho
Đế Quốc Vatican hay một đế quốc thực dân xâm lăng nào khác, mà toàn là
những người yêu nước của một quốc gia bại trận trước sức mạnh quân sự
của Hoa Kỳ và bị thống trị bởi các quốc gia thắng trận. Vì là những
người yêu nước, vì cảm thấy mối nhục của một quốc bị bại trận và bị nước
ngoài thống trị, cho nên khi có cơ hội lên nắm chính quyền, họ quyết
tâm đem hết tất cả trí óc và tài năng ra lợi dụng những khoản tiền
viện trợ
Mỹ
(có mục đích biến nước họ thành tiền đồn chống Cộng cho Mỹ
) để phát triển xứ sở và canh tân nước họ bằng cách
dân chủ hóa chính quyền mà không cần phải thiết lập những tổ chức công
an, mật vụ, cảnh sát chìm, cảnh sát nổi như thiên la địa võng, không cần
phải mở những chiến dịch tố cộng để truy lùng những thành phần yêu nước
khác tín ngưỡng với nhà cầm quyền bị gán cho là Cộng Sản rồi giam cầm,
tra tấn và sát hại chỉ vì họ là những người không phải là tín đồ Da-tô
như ở miền Nam Việt Nam.
Đồng thời, Nhật Bản và Tây Đức không hề
bị Vatican chi phối. Cho nên hàng năm, hai quốc gia này không hề mất một
xu nào gửi về đóng góp vào kho nhà Chúa ở Vatican, không hề tổ chức đại
lễ rồi mời sứ thần của Tòa Thánh Vatican đến chủ tế dâng nước họ cho
Vatican với danh nghĩa là dâng lên “Đức Mẹ Vô Nhiễm”, không hề sử dụng
quyền lực của nhà nước để cưỡng bách người dân phải theo đạo Da-tô. Hơn
nữa, Nhật Bản và Tây Đức còn có những ưu điểm là không hề xẩy ra tình
trạng gia đình trị, không hề xẩy ra tệ trạng tham nhũng, và các nhà lãnh
đạo chính quyền của quốc gia này cũng không hề liên hệ đến việc buôn mán
ma túy.
Nhờ vậy mà chẳng bảo lâu, hai quốc gia
này trở nên hùng mạnh. Ngay từ cuối thập niên 1950, Nhật Bản và Tây Đức
đã tiến lên hàng cường quốc về kinh tế. Cho đến ngày nay, không ai chối
cãi được rằng, ngoại trừ lãnh vực quân sự, cả Nhật và Đức đều trở thành
cường quốc về tất cả mọi phương diện như kinh tế, khoa học, kỹ thuật,
giáo dục và học thuật, tất cả có thể nói là vượt hơn cả Anh lẫn Pháp và
không thua kém gì Hoa Kỳ.
Tại Nam Hàn, từ năm 1948, quốc gia này
cũng được Hoa Kỳ viện trợ như Nhật Bản và Tây Đức, nhưng những đồng tiền
Mỹ viện trợ lại qua bàn tay của tên cai thầu Da-tô Lý Thừa Vãn, một tên
bạo chúa mà sử gia Nigel Cawthorne đã quy liệt vào cuốn sách TYYRANTS
History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004,
p.138.) Da-tô Lý Thừa Vãn vốn đã sống ở Mỹ từ năm 1910. Năm 1945, khi
Nhật sắp sửa đầu hàng Đồng Minh, Mỹ đưa Vãn về Triều Tiên múa may hoạt
náo, tổ chức các đội quân võ trang để sát hai và khủng bố tinh thần các
đối thủ chính trị. Năm1948, Vãn được Liên Minh Mỹ - Vatican đưa lên cầm
quyền ở Nam Hàn.
Kể từ đó, tên bạo chúa Da-tô này tác oai
tác quái và cai trị Nam Hàn cho đến khi bị nhân dân Nam Hàn vùng lên
tống cổ ra khỏi nước vào ngày 27/4/1960. Tính ra tên bạo chúa Da-tô ác
độc này cầm quyền hơn 12, tức là Nam Hàn đã phải ở trong tình trạng bị
kìm hãm trong cái tròng Da-tô (Catholic loop) hơn 12 năm trời. Mãi tới
ngày 27/4/1960, Nam Hàn mới giẫy dụa ra khỏi được cái tròng Da-tô này và
lại phải trải qua một thời gian xáo trộn do bọn tàn dư Da-tô tôn thờ tên
bạo chúa Da-tô Lý Thừa Vãn gây ra (giống y như ở miền Nam trong những
năm 1964-1967). Tình trạng này kéo dài cho đến đầu thập niên 1980. Mãi
tới đầu thập niên 1980 trở đi, một phần vì nội tình đã ổn định, một phần
vì tình hình quốc tế cũng thuận lợi, Nam Hàn mới dần dân dồn nỗ lực vào
việc dân chủ hóa chính quyền, loại bỏ hẳn ảnh hưởng của Vatican ra ngoài
chính quyền như các nước Âu Mỹ, nhờ vậy quốc gia này mới tiến bộ và trở
thành một trong những con rồng Á Châu như ngày nay.
Riêng ở Việt Nam, ngay từ cuối năm 1945,
Toà Thánh Vatican đã có âm mưu sử dụng tên vua Việt gian Bảo Đại thành
lập chính quyền bù nhìn và sử dụng nhóm thiểu số tín đồ Da-tô làm thành
phần nòng cốt và lực lượng xung kích giúp cho Liên Minh Pháp – Vatican
trở lại tái chiếm Đông Dương. Sự kiện này được sách Việt Nam Niên
Biểu 1939-1975 (Tập A: 1939-1946) ghi lại rõ ràng với nguyên văn như
sau:
"Ngày 28/12/1945: HUẾ:
Tổng Giám Mục Antoni Drapier, đại diện Roma, tuyên bố:
"Gia đình Bảo Đại
là gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus
francophile de tois les annmites) và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại lên
ngôi như trước ngày 9/3 (À mon avis, il serait avantageux pour le
calm de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars; DOM [aix],
CP 125). DRAPIER cũng đưa ra giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo Long
kế vị, và Nam Phương làm Giám Quốc [Phụ Chính]." Chính Đạo, Việt
Nam Niên Biểu 1939-1975 -T?p A: 1939-1946 (Houston, TX: Văn Hóa, 1996), tr. 295.
2.3.- Dùng tín đồ Da-tô để cai trị đại
khối nhân dân thuộc các tôn giáo cổ truyền của dân tộc.
3.- Vai trò của Giáo Hội La Mã trong
việc vân động với Hoa Kỳ trong việc chia đôi Việt Nam ra làm hai miền
Bắc và Nam. Dưới đây là diễn biến những việc làm giây chuyền do việc làm
bất chính này này của Gíao Hội gây ra:
3.1.- Từ năm 1950, ngay khi Liên Quân
Xâm Lăng Pháp – Vatican bị đại bại tại các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng và
Bắc Kạn, Vatican đã sớm nhìn ra là Pháp sẽ không thể nào tiếp tục duy
trì quyền lực ở Đông Dương. Vì lẽ này, Vatican đã ra lệnh cho Giám-mục
Ngô Đình Thục dẫn tín đồ ngoan đạo Da-tô Ngô Đình Diệm sang Mỹ giao cho
Hồng Y Francis Spellman vận động thành lập Liên Minh Thánh Mỹ - Vatican
và tìm cách đưa ông Diệm lên cầm quyền để làm tay sai phục vụ cho quyền
lợi của cả Vatican và Mỹ ở Việt Nam.
3.2.- Khi thấy rằng không thể tiếp tục
tái chiếm được Việt Nam, Pháp bằng lòng nghiêm chỉnh thương thuyết với
chính quyền Kháng Chiến Việt Nam tại Hội Nghị Genève 1954, công nhận
quyền độc lập của dân tộc Việt Nam và rút quân về nước, Vatican liền bỏ
rơi Pháp, dồn nỗ lực vận động và cấu kết với siêu cường Hoa Kỳ với dã
tâm là dựa vào sức mạnh của Hoa Kỳ để thi hành sách lược “cáo mượn oai
hùm” trong mưu đồ duy trì quyền lực ở Việt Nam.
3.3.- Ngay khi Hội Nghị Genève 1954 đang
thương thuyết để chấm dứt chiến tranh Đông Dương, Mỹ làm áp lực với cả
Nga và Trung Quốc để hai quốc gia này phải chấp nhận giải pháp tạm
thời chia đôi Việt Nam và sẽ được tái thống nhất qua một cuộc tổng tuyển
cử do Thỏa Hiệp Genève quy định vào tháng 7 năm 1956.
3.4.- Sợ rằng nếu làm găng với Mỹ thì sẽ
có thể phải đương đầu với Mỹ và có thể đưa đến chiến tranh nguyên tử
trong khi khả năng nguyên tử của Nga còn yếu kém nếu so với Mỹ, cho nên
Nga Sô đã nhân nhượng và thuyết phục chính phủ Kháng Chiến Việt Nam bằng
lòng chấp nhận giải pháp tạm thời chia đôi Việt Nam như trên.
3.5.- Về phần Trung Quốc, một mặt vì
không muốn có một quốc gia hùng mạnh ở sát biên giới cho nên không muốn
Việt Nam thống nhất, mặt khác vì cũng sợ rằng nếu làm găng với Mỹ thì sẽ
phải đụng độ với Mỹ ở Đông Dương như ở Triều tiên trước đó, cho nên Chủ
Tịch Mao Trạch Đông và Thủ Tướng Châu Ân Lai cũng thuyết phục chính
quyền Việt Nam Kháng Chiến phải chấp nhận giải pháp tạm thời chia đôi
Việt Nam.
3.6.- Thấy rằng cả Nga Sô và Trung Quốc
đều không ủng hộ lập trường cứng rắn đòi Pháp phải công nhận chủ quyền
độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam, chính quyền Kháng
Chiến Việt Nam đành phải chấp nhận giải pháp tạm thời chia đôi đất nước,
coi như là phải nín thở qua sông, dù sao cũng còn hy vọng đất nước sẽ
thống nhất qua cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ được tổ chức sau đó hai năm như đã
qui định.
3.7.- Ai cũng biết rằng, dân tộc Việt
Nam đã theo đuổi cuộc chiến đánh đuổi Liên Minh Pháp – Vatican kéo dài
cả gần một thế kỷ (từ năm 1858) cho đến khi Liên Quân Xâm Lăng Pháp -
Vatican bị đại bại tại Điện Biên Phủ (ngay 7/5/1954). Lúc đó, dân ta
tràn đầy hy vọng h Pháp phải công nhận chủ quyền độc lập cùng sự toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam và rút lui quân về nước. Thế nhưng, vì có siêu
cường Hoa Kỳ và Vatican ở hậu trường thọc gậy bánh xe, khiến cho Hội
Nghị Genève 1954 phải chiều theo ý muốn mà thêm vào điều khoản qui định
Việt Nam tạm thời chia đôi và sẽ được thống nhất qua một cuộc tổng tuyển
cử được tổ chức và tháng 7 năm 1956.
3.8.- Miền Nam từ chối Tổng Tuyển Cử.
Vào giữa năm 1955, khi chính quyền miền Bắc yêu cầu chính quyền miền Nam
cùng thảo luận về phương cách tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất
nước theo như Hiệp Ước Genève đã quy định. Lời yêu cầu này của chính
quyền miền Bắc bị chính quyền miền Nam từ chối. Chính quyền miền Nam
cương quyết không chịu bàn thảo về việc tiến hành vấn đề này. Như vậy,
rõ ràng là chính quyền miền Nam có dã tâm duy trì Việt Nam mãi mãi ở
trong tình trạng chia đôi theo ý muốn của Hoa Kỳ và đặc biệt nhất là của
Vatican. Đây là chủ tâm của Hoa Kỳ biến miền Nam thành tiền đồn chống
lại ngọn triều Cộng Sản tràn xuống từ phương Bắc và cũng là chủ tâm của
Vatican là để duy trì và cùng cố quyền lực ở phần đất này. Dân ta lại
một lần nữa thất vọng!
Vai trò của Hoa Kỳ và của Giáo Hội La Mã
trong việc ra lệnh cho chính quyền miền Nam từ chối, không cho tiến hành
tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam được tác giả Alfred W.
McCoy ghi nhận trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia với
nguyên văn như sau:
“Trận đánh đẫm máu ở trong các đường
phố Sàigòn trong tháng 4 và 5 năm 1955 đánh dấu sự cáo chung nền thống
trị của người Pháp và khởi đầu thời kỳ của nguời Mỹ can thiệp trực tiếp
vào Việt Nam. Khi Cuộc Chiến Đông Dương Thứ Nhất chấm dứt, chính quyền
Pháp đã dự trù rút dần quân đội ra khỏi Việt Nam trong thời kỳ từ hai
đến ba năm để bảo vệ quyền lợi của Pháp về chính trị và kinh tế ở miền
Nam Việt Nam. Cuộc thương thuyết tại Hội Nghị Geneva, Thụy Sĩ, kết thúc
cuộc chiến và quy định Đoàn Quân Viễn Chinh Pháp rút về trú đóng ở miền
Nam Việt Nam trong hai năm, cho tới khi cuộc tổng tuyển cử (trưng cầu
dân ý) được tiến hành để quyết định tương lai chính trị của Việt Nam.
Mạnh tin rằng ông Hồ Chí Minh và Viêt Minh Cộng Sản sẽ đại thắng trong
kỳ bầu cử này, người Pháp bắt đầu thương thảo với chính quyền Hà Nội để
đạt được một thỏa hiệp.
Nhưng những người chiến binh đạo đức
mang máu lạnh ở Hoa Kỳ lại không uyển chuyển như vậy. Ngay sau khi Hiệp
Ước ký kết được mấy tuần, Hồng Y Cardinal Spellman, một giáo chủ Da-tô
có thế lực của địa phận New York, đến nói chuyện với Hội Nghị Lê Dương
Hoa Kỳ (American Legion Convention), cảnh báo rằng,
“Nếu Geneva hay những gì được thỏa thuận
ở đó, tất cả có ý nghĩa gì, nó có ý nghĩa là tiếng chuông báo tử cho
những hy vọng của tự do ở Đông Nam Á Châu! Là những tiếng chuông báo cho
biết hàng triệu người Đông Dương đã bị phản bội. Những người này bây giờ
phải học để biết về những sự kiện khủng khiếp của cuộc đời nô lệ với
những Ông Chủ Cộng Sản
.”
Thay vì trao miền Nam Việt Nam cho nhà
cầm quyền Cộng Sản vô thần, chính quyền Eisenhower lại quyết định tạo
dựng ra một quốc gia mới là “miền Nam Việt Nam” mà trước đó không hề có.
Nhìn lại những chính sách của Hoà Kỳ trong thời sau Thỏa Hiệp Geneva vào
thời điểm giữa thập niên 1960, Tài Liệu Ngũ Giác Đài đã kết luận rằng
miền Nam Việt Nam chỉ là sản phẩm của Hoa Kỳ
.”
Không có sự ủng hộ của Hoa Kỳ, hầu như
chắc chắn là ông Diệm không thể củng cố được quyền lực ở miền Nam trong
những năm 1955 và 1956.
Không có sự đe doạ can thiệp của Hoa Kỳ,
miền Nam Việt Nam đã không thể từ chối bàn thảo với miền Bắc để tiến
hành tổng tuyển cử như Thỏa Hiệp Geneva đã quy định mà không bị quân đội
Việt Minh đè bẹp ngay tức thì.
Không có viện trợ của Hoa Kỳ trong những
năm tiếp theo đó, chế độ Diệm và cả miền Nam nữa hầu như chắc chắn là
không thể tồn tại được
.”
Nguyên văn
: “The bloody Saigon street fighting of April- May
1955 marked the end of French colonial rule and the beginning of direct
American intervention in Vietnam. When the first Indochina War came to
an end, the French government had planned to withdraw its forces
gradually over a two year or three year period in order to protect its
substantial political and economic interests in southern Vietnam. The
armistice concluded at Geneva, Switzerland, in July 1954 called for the
French Expeditionary Corps to withdraw into the southern half of Vietnam
for two years, until an all-Vietnam referendum determined the nation’s
political future. Convinced that Ho Chi Minh and the Communist Viet Minh
were going to score an overwhelming electoral victory, the French began
negotiating a diplomatic understanding with the government in Hanoi.
But America’s moralistic cold warriors
were not quite so flexible. Speaking before the American Legion
Convention several weeks after the signing the Geneva Accords, New
York’s influential Catholic prelate, Cardinal Spellman, warned that
,
“If Geneva and what was agreed upon
there means anything at all, it means … taps for the burried hopes of
freedom in Southeast Asia! Taps for the newly betrayed millions of
Indochinese who must now learn the awful facts of slavery from their
eager Communist Masters.”
Rather than surrendering southern
Vietnam to the “Red rulers “godless goon,” the Eisenhower
administration decided to create a new nation where none had existed
before. Looking back on America’s post Geneva policies from the vantage
point of the mid 1960s, the Pentagon Papers concluded that South Vietnam
“was essential the creation of the United States”:
“Without U.S. support, Diem almost
certainly could not have consolidated his hold on the South during 1955
and 1956.
Without the threat of U.S.
intervention, South Vietnam could not have refused to even discuss the
elections called for in 1956 under the Geneva settlement without being
immediately overrun by the Viet Minh armies.
Without U.S. aid in the years following,
the Diem regime certainly, and independent South Vietnam almost as
certainly, could not have survived.” Alfred W. McCoy, The Politics of
Heroin in Southeast Asia (New York:Harper & Row Publishers, 1972),
pp. 149-150.
4.- Vì không thể thống nhất bằng đường
lối hòa bình qua một cuộc tổng tuyển cử, vô kế khả thi, chính quyền miền
Bắc (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) đành phải quyết định thống nhất đất nước
bằng lực lượng vũ trang.
Phần trình bày trên
đây cho chúng ta thấy từ năm 1858, tiền nhân của chúng ta đã trải qua
không biết bao nhiêu là gian khổ, đổ ra không biết bao nhiêu là công
lao, tiền của và xương máu trong các cuộc kháng chiến đánh đuổi liên
Minh Thánh Xâm Lăng Pháp – Vatican với cứu cánh giành lại chủ quyền độc
lập và toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc. Lớp người trước ngã xuống, lớp
người sau tiến lên. Mãi đến năm 1954, khi sắp sửa thành công, thì bỗng
dưng Vatican lại cấu kết với siêu cường Hoa Kỳ để phá hoại thành quả cả
gần một trăm năm công lao kháng chiến của dân tộc ta. Hai thế lực này
(Hoa Kỳ và Vatican) đã phỗng tay trên một nửa nước và đặt dưới quyền
thống trị của họ.
Với tình trạng bị
ức hiếp như vậy, làm sao nhân dân Việt Nam nói chung, và miền Bắc nói
riêng, lại có thể ngồi yên bất động để cho đất nước tiếp tục bị phân
chia, để cho một nửa nước vẫn còn nằm trong tay của kẻ thù bất cộng đái
thiên của dân tộc là Vatican và bọn Việt gian Da-tô hoành hành tác oai
tác quái?
Do đó, chúng ta có
thể khẳng định rằng, đứng trên lập trường dân tộc, miền Bắc phát động
cuộc chiến thống nhất đất nước là thi hành sứ mạng cao cả của lịch sử và
đáp lại khát vọng của dân tộc trong sứ mạng giải phóng một phần tổ quốc
vẫn còn nằm trong tay của thế lực ngoại bang để thống nhất đât nước đem
giang sơn về một mối.. Đây là việc làm mà bất cứ quốc gia nào cũng phải
làm nếu chẳng may ở vào tình trạng như Việt Nam lúc bấy giờ.
Vì bối cảnh lịch sử
Việt Nam của chúng ta hoàn toàn khác hẳn với bối cảnh lịch sử của nước
Đức và nước Triều Tiên, chúng ta không thể đem việc nước ta bị chia đôi
để so sánh với việc chia đôi của hai quốc gia này. Làm như vậy chẳng hóa
ra chúng ta đã đánh đồng một cách vô ý thức lắm sao!
Các bài cùng tập
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Phụ Lục 1: Vì sao bỏ nước ra đi - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Khi Nhà Văn... - Lời Mở Đầu - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Bối Cảnh Lịch Sủ của Ba Nước - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn 2 - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn chót - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Nội Tình của Ba Nước - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Phụ Lục 2: Sai Lầm Trong Cuốn 1945-1995.. - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Sai Lầm Trong Cuốn "Xóm Đạo" - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Nếu Miền Bắc Không Tấn Công - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Chuyện giáo dân bị sát hại - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Đạo Công Giáo và Thực Dân - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Tiền Lương Quân Nhân Công Chức - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Việc kèm ghép các vị sư - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Trường Hợp Bắc Hàn - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn 1 - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ ▪
Trang Nguyễn Mạnh Quang