Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam
Nguyễn Mạnh Quang
https://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_07a.php
|
bản in |
¿ trở ra mục lục
| 29 tháng 3, 2009
PHẦN II
CHƯƠNG 7
(tiếp theo mục I và II)
◎◎◎
III.- ĐỜI SỐNG DÂM
LOÀN
CỦA GIÁO HOÀNG VÀ GIAI CẤP GIÁO SĨ
Sách Gia Tô Thực Dân Sử Liệu (The Documented
History of Catholic Colonialism) viết:
"Giáo Hoàng Felix III (483-492) trong
thời gian là giáo hoàng có tới 3 người con (3 người con này đều chết
cả…) Giáo Hoàng Hormidas (514-523) đã kết hôn với bà Marouzia và có
một nguời con trai với bà này. Giáo Hoàng Adrian II (867-872) sống
chung với vợ và con gái ở điện Lateran. Giáo Hoàng Sergius III
(904-911) vốn là một giám-mục có người vợ, tên là Mazouzia và đã có
một người con trai với bà này. Tới năm 904, khi lên ngôi Giáo Hoàng,
ông ta mới lấy hiệu là Sergius III. Nhờ sẵn có thế lực của cha mẹ,
mấy chục năm sau, người con trai này trở thành Giáo Hoàng John XI
(931-936). Giáo Hoàng John XII (955-963) đã từng loạn luân với em
gái và bị chết vào ngày 14-5-964 khi đang … với một cô nhân tình...
Giáo Hoàng Leo VIII (963-964) chết đột ngột vì bị máu xâm trong lúc
đang phạm tội thông dâm. Giáo Hoàng Benedict IX (1033-1044) lên ngôi
lúc 12 tuổi, đã từng giết người, thông dâm ngay giữa ban ngày, cướp
bóc tiền bạc của những người hành hương mộ thánh tử đạo… bị dân La
Mã tống xuất khỏi La Mã… "Giáo Hoàng Pius II (1458-1464) có hai
người con hoang, từng công khai nói chuyện về các phương pháp dụ dỗ
đàn bà. Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) loạn luân với bà chị ruột
và có một người con trai với bà này... Giáo Hoàng Innocent VIII
(1484-1492) có tới bẩy hay tám người con trai với nhiều bà khác
nhau. Nhiều vợ và nhiều con quá, ông phải tìm cách tăng thêm 26 chức
vụ thư ký trong giáo triều để bán với giá mỗi chức là 62,400 đồng
duca. Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) tên thật là Borgia, một
con quỷ đã công khai loạn luân với hai người em gái và loạn luân
luôn với cả con gái ruột tên là Lucretia (that monster who lived in
public incest with his two sisters and his own daughter from whom he
got a child). Đặc biệt hơn nữa, ngày 31-10-1501, ông cho tổ chức
một bữa tiệc cực kỳ dâm loạn ở ngay trong điện Vatican với 50 cô
gái trẻ đẹp khiêu vũ khỏa thân để mua vui cho thực khách.”
[15]
Riêng về đời sống phóng đãng và loạn luân của
Giáo Hoàng John XII (955-963), cuốn sách trên đây (trang 108-110)
ghi lại như sau:
"Giáo Hoàng La Mã thứ 131 John XII
(955-963). Tên thật là Octavian con của Alberic, cháu nội bà
Marozia. "năm 955, đứa cháu trai của cô gái điếm Marozia, sau vài
trận đổ máu với các đối thủ, hắn lên kế nghiệp ngôi Giáo Hoàng dưới
tên là John XII." [In the years 955, the
grandson of the prostitute Marozia, after several bloody encounters
with his opponents, succeeded in taking possession of the pontifical
throne under name of John XII].
John XII lên ngôi Giáo Hoàng khi mới 18
tuổi, được mô tả như một kẻ vô đạo thất học (a heathen).
"... ông đã từng loạn luân với em gái ông. " (...he committed
incest with his sisters .. ),
Hành vi dâm loạn của Giáo Hoàng John XII đã
được Giám-mục Luitprand mô tả như sau:
"Không có cô gái lương thiện nào dám xuất
hiện nơi công cộng vì Giáo Hoàng John (XII) không từ bất cứ một ai,
kể cả các cô gái độc thân, những bà có chồng hay các góa phụ, chắc
chắn đều bị Giáo Hoàng cưỡng hiếp ngay trên mộ các Thánh Tông Đồ,
Peter và Paul." [No honest lady dared to show
herself in public, for Pope John had no respect either for single
girls, married women, or widows - they were sure to be defiled by
him, even on the tombs of the holy apostles, Peter and Paul.",
Vì thế nên người đương thời đã "kết án Giáo
Hoàng John (XII) can các tội bất kính với Thánh Thần, buôn bán chức
Thánh, lời thề giả đối, giết người, thông dâm và loạn luân..."
[John was accused of sacrilege, simmony,
perjury, murder, adulter, and incest...]"
Sách Catholic Encyclpedia miêu tả Giáo Hoàng
John XII như là: "Một người đàn ông lỗ mãng, vô đạo đức, sống trong
tòa lâu đài Lateran được dư luận xem như một nhà thổ. Ông là loại ký
sinh trùng trong hành vi thông dâm." A coarse, immoral man whose
life was such that "the Lateran was spoken of as a brothel." He was
striken with paralysis in the act of adultery."
Cũng vì trác táng nên Giáo Hoàng John XII
chỉ ở ngôi được có 8 năm 4 tháng (lên ngôi ngày 16/12/955, chết ngày
14/5/964) "... Giáo Hoàng John (XII) bị chết, người ta nói ông bị
cảm liệt trong khi viếng thăm cô nhân tình của ông. Ông chết vào
ngày 14/5/964, không xưng tội, không chịu phép bí tích.”
[John was dead, it was said he was struck
with paralysis while visiting his mistress. He died on 14 May, 964
without confession or receiving the sacrements."
Cái chết của Giáo Hoàng John XII sau này
được minh bạch: Trong lúc Giáo Hoàng John đang thông dâm với một
con chiên nữ ngoan đạo bị ông chồng bà ta bắt quả tang tại trận:
"Chính Giáo Hoàng John XII đã bị một đàn ông
quý tộc giết ngay lập tức khi ông ta khám phá ra Giáo Hoàng thông
dâm với vợ ông ta." [That same John XII, was
instantly killed by a gentleman, who found him committing the act
of adultery with his wife.”
Đường đường là một vị Giáo hoàng nắm quyền lãnh
đạo tối cao của Giáo Hội La Mã mà sống đời loạn luân ăn ở với em gái
sinh con (loạn luân giống như chuyện trong Thánh Kinh đã nói ở
trên), lại dùng quyền lực “cấp giấy hành nghề mở nhà chứa”,
“cấp giấy phép cho các ông nhà giầu được quyền "an ủi" các bà có
chồng xa nhà” và đánh thuế các tu sĩ nào muốn công khai sống với
tình nhân (bạn gái” để lấy tiền chi phí cho cuộc sông xa hoa,
đãng điếm và loạn luân như vậy! Sự kiện này cho chúng thấy thấy rõ
ràng quả thật các ông giáo hoàng là những tên “trùm đĩ”, không sai
một chút nào. Giáo Hòang là người lãnh đạo tối cao của một thế lực
tự xưng là “Hội Thanh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông
truyền” mà còn như vậy, thì những dòng nữ tu làm sao thóat khỏi
bị biến thành những ổ điếm dành cho các ngài tu sĩ áo đen (linh
mục), áo tím (giám mục và tổng giám mục) và áo đỏ (hồng y) đến đó để
hành lạc và đóng thuế cho Nhà Thờ Vatican? Mấy bản văn sử ghi
trong Vicars of Christ dưới đây cho chúng ta thấy rõ thực trạng
này:
"Tình trạng nam nữ chung chạ bừa bãi lan
tràn trong khắp các nam và nữ tu viện. (Thánh) Ivo Chartre
(1040-1115) cho biết toàn thể các nữ tu viện chỉ là những nữ tù nhân
mang danh là "các dì phước" mà thôi. Họ thường là những đứa trẻ bị
gia đình bỏ rơi và thực sự đã trở thành những cô gái điếm."
["Promiscuity was rife in monasteries and convents.
The great Ivo of Chartres (1040-1115) tells of whole convents with
inmmates who were nuns only in name. They had often abandoned by
their families and were really prostitutes."
[17]
Trong bài viết điểm sách “AMEN!” (Là Như Thế
Đó!) của tác giả Jesme Raphael, Giáo-sư Trần Chung Ngọc bàn rộng,
trong đó có mấy đọan trong cuốn “The Awful Disclosures” (Những Tiết
lộ Khủng Khiếp) của tác giả Maria Monk nói về tệ nạn “các bà nữ tu
bị cưỡng bách phục vu sinh lý cho các ngài và tệ nạn con hoang do
thực trạng dâm loan này gây nên”. Dưới đây là nguyên văn của mấy
đoạn này:
“Cuốn “The Awful Disclosures” của Maria
Monk, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1836, đã gây nên một làn sóng
công phẫn về những chuyện động trời trong nữ tu viện Công giáo Hotel
Dieu, thí dụ như: “Các linh mục ở gần đó có lối riêng và kín đáo
để vào tu viện bất cứ lúc nào và tự do làm tình với các nữ tu. Những
đứa bé sinh ra liền được mang đi rửa tội để bảo đảm chúng sẽ được
lên thiên đường rồi bóp mũi cho chết [All babies born of these
illicit encounters, Monk claimed, were baptized before being killed
and dumped in the basement].
Maria Monk cũng kể rằng, Sơ được các Sơ
bề trên dạy là một trong những nhiệm vụ lớn lao của các nữ tu là
phải tuân phục các linh mục trong mọi vấn đề, kể cả vấn đề phục vụ
tình dục cho các linh mục [I must be informed that one of my
great duties was to obey the priests in all things; and this I soon
learnt, to my utter astonishment and horror, was to live in practice
of criminal intercourse with them]. Tại sao? Maria Monk được bề trên
giải thích: “Vì không có các linh mục làm phép, chúng ta không
thể được tha tội và phải xuống hỏa ngục.” [They, the priests,
might be considered our saviors, as without their service we could
not obtain pardon of sin, and must go to hell] Chúng ta thấy, chính
sách tẩy não nhồi sọ của Công giáo thật là đáng sợ.” ….
“Một số nhà nghiên cứu tôn giáo hiện nay đã
xét lại những kết quả điều tra tu viện Hotel Dieu của Công giáo và
cho rằng những điều Maria Monk viết trong cuốn The Awful Disclosures
không phải là không có cơ sở. Tại sao lại có chuyện xét lại. Vì
những phanh phui gần đây về những chuyện động trời trong Công giáo
như Linh mục loạn dâm với trẻ em, cưỡng dâm nữ tu, nữ tu đồng giống
luyến ái (lesbian), và những chuyện gian lận, hành hạ trẻ mồ côi
trong một số viện mồ côi quản trị bởi các nữ tu “hiền như ma sơ”.
Sau đây là một số trường hợp điển hình.
Trong những năm gần đây, nhiều bản tường
trình cho thấy chi tiết về các vụ linh mục cưỡng dâm nữ tu trên khắp
thế giới, đặc biệt là ở Phi Châu, nhưng Vatican vẫn nằng nặc phủ
nhận [Undeniably, the best reason to reconsider Maria Monk’s claims
is based on modern revelations of victims and survivors of clergy
sexual abuse. Reports
https://www.priestsofdarkness.com/nuns.html) in recent years have
detailed extensive and global abuse of nuns by priests, which the
Vatican has vigorously denied. Nuns, especially in Africa, have been
even more vulnerable than before as they are deemed to be safe from
AIDS.]
Thật vậy, trong bài Hồ Sơ Về Sự Lạm Dụng
Tình Dục Của Các Linh Mục Đối Với Các Nữ Tu [Documents Allege Abuse
of Nuns by Priests], trên tờ New York Times ngày 21 tháng 3, 2001,
viết bởi Chris Hedges, chúng ta có thể đọc những đoạn như sau:
Những bản phúc trình mật của Giáo hội Công
giáo La mã trong thời gian 7 năm qua đã cho biết có nhiều trường hợp
nữ tu (hôn thê của Chúa) bị các linh mục (Chúa thứ hai)
cưỡng bách tình dục và các bề trên trong giáo hội đã bao che, không
đáp ứng và không đưa ra biện pháp để kỷ luật những linh mục
phạm tội. [Confidential Roman Catholic Church reports written
over a period of 7 years allege numerous cases of sexual abuse of
nuns by priests and a failure by church leaders to discipline the
clerics who were involved]
5 bản phúc trình viết bởi những viên chức
cao cấp trong các dòng nữ tu và một linh mục Mỹ, cho thấy sự lạm
dụng tình dục của các linh mục đã xảy ra trong nhiều quốc gia, kể cả
Mỹ.
Các bản phúc trình viết rằng một số linh mục
đã đòi hỏi các nữ tu ở dưới quyền phải phục vụ tình dục cho họ để
đổi lấy một số ưu đãi đặc biệt. Trong một số trường hợp, các linh
mục làm cho nữ tu có mang rồi bắt họ đi phá thai.
[The reports say some priests have demanded sex from nuns under
their charge in return for favors. In some instances priests are
said to have impregnated nuns and the forced them to have
abortions.]”[19]
Với tình trạng như vậy, thử hỏi:
1.- Làm sao giới tu sĩ áo đen từ hồng y, tổng
giám mục, giám mục cho tới các linh mục và sư huynh, từ những người
nắm giữ chức vụ quạn trọng như các ông bộ trưởng trong giáo triều
Vatican cho đến các vị chức sắc trong các hội đồng giám mục tại các
quốc gia địa phương ở khắp mọi nơi trên thế giới lại không noi gương
các giáo hòang để trở thành nhưng thư “trùm đĩ lớn”, “trùm đĩ nhỏ”
trong phạm vi quản nhiệm của họ?
2.- Làm sao các tu sĩ cấp dưới thuộc các dòng
tu cũng như ở trong các giáo khu và các xóm đao lại không bòn rút
của cải, bóc lột tín đồ và nhấn dân dưới quyền lấy tiền đóng thuế
cho Tòa Thánh Vatican để được “công khai sống với tình nhân” và
sống đời loạn luân, loạn dâm, làm tình vô tội vạ với nữ tín đồ bất
kể là trẻ em vị thành niên, gái còn trinh hay đã có chồng?
Vấn đề này, thiết tưởng người Việt hải ngoại ở
Bắc Mỹ, nhất là giáo dân ở các thành phố dưới đây đều biết rõ:
Portland (Oregon) với Linh-mục Ngài Cao Đăng M., Chicago (Illinois)
với Linh-mục Trịnh Thế H., Cali fornia với Linh Mục Trần Công Ngh.,
New Orleans (Louissiania) với Linh-mục Việt Ch., Houston (Texas) với
các Linh-mục Đào Quang Ch. Và Linh-mục Nguyễn Hữu Dụ, v.v... Có ở
trong chăn mới biết chăn có rận. Cho nên, chúng ta có thể nói người
biết rõ cái bản chất và thành tích sống đời phóng đãng lọan luân,
dâm loàn của các ngài tu sĩ áo đen là chính những người trong giới
người này và những giáo dân nạn nhân của họ. Cũng vì thế mà tất cả
tài liệu và hay ấn phẩm nói ra những việc làm của đủ mọi thứ tội ác
của Giáo Hội La Mã và của các ngài trong giới tu sĩ áo đen được lưu
trữ trong các thư viện hay được phổ biến trước công luận từ ngàn xưa
cho đến ngày nay đều do những người trong hàng ngũ tu sĩ này và giáo
dân biên sọan cả. Bằng chứng là hầu hết những tài liệu mà chúng tôi
dùng để tham khảo để viết tập sách này cũng như nhiều tác phẩm khác
đều là tác phẩm của họ, trong đó một vài tài liệu do Linh-mục Nguyễn
Thanh Sơn (ngụ tại Fountain Valley, California) nói cho thiên hạ
biết giới tu sĩ áo đen người Việt ở Bắc Mỹ đã và đang sống đời
hoang đàng, loạn dâm và loạn xì ngầu như thế nào!
Vào mùa hè năm 2002, đúng vào lúc những vụ loạn
dân của các ông tu sĩ áo đen ở Hoa Kỳ được phơi bày ra trước công
luận và công lý, thì Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn cũng cho phát hành và
phổ biến tờ "Tận Thế", Số Ra Mắt (phát hành vào ngày
15/6/2002) và tờ Tận Thế Số 2 (phát hành vào
ngày 15/7/2002) trong đó ông ghi rõ do nhà xuất Bản Thánh
Linh phát hành, địa chỉ liên lạc với tòa soạn của tờ báo này là P.O.
Box 8394, Fountain Valley, CA 92728 USA. Báo in khổ nhỏ, tương đương
với khổ của cuốn sách A Poèm For My Children (Hou ston, TX: Văn
Hóa, 1999), nhưng chi có 36 trang. Trong số Tận Thế Ra Mắt (15/6/2002),
nơi trang 27, Linh-mục Sơn viết:
"Những ai đã biết, đọc và nghe về những ác
quỉ dưới đây mà còn cố tình bênh vực, bao che, ủng hộ, ca tụng và đi
xem lễ do chúng làm, sẽ bị Đức Mẹ nghiêm khắc trừng phạt:...
A.- Nhóm ác quỉ thuộc Phụ tỉnh DCCT/VN (Dòng
Chúa Cứu Thế Việt Nam hải ngoại): Nguyễn Đức Mầu, Châu Xuân Báu, Vũ
Minh Nghiễm, Đinh Ngọc Quế, Nguyễn Văn Phan, Phạm Quốc Hưng, Nguyễn
Tất Hải, Đinh Minh Hải, Phan Phát Huồn, Nguyễn Trường Luân, Trần
Ngọc Bích, Nguyễn Đức Thành, Bùi Quang Tuấn, và thầy bẩn mọi và qụit
Nguyễn Văn Mới.
B.- Nhóm ác quỉ thuộc giáo phận Los Angeles:
Trần Công Nghị, Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Quang Hòa, Lê Sơn Hà, Chu
Quang Minh, Vũ Thế Toàn, v.v...
C.- Nhóm ác quỉ thuộc giáo phận Orange
County: Nguyễn Đức Tiến, Mai Khải Hoàn, Nguyễn Văn Tuyên, Phạm Ngọc
Tuấn, Chu Vinh Quang, Nguyễn Văn Luân, Đỗ Thanh Hà, Vũ Tuấn Tú, Ngô
Văn Trọng, Mai Thành Hân, Xuân Nguyên Hồ, Trần Văn Kiểm, Đinh Viết
Thục, Bùi Công Minh, Nguyễn Trọng Tước, tức Nguyễn Tầm Thường, v.v...
D.- Những ác quỉ ở nhiều nơi: Đinh Đức Đạo
(Đức Ông giám đốc văn phòng thờ quỷ Rôma), Phan Tấn Thành (giáo sư
thờ quỉ Rôma), Cao Minh Dung (Đức Ông, nhân viên Bộ Ngọai Giao
tòa... quỷ!), Nguyễn Văn Phương (Chủ Tịch Liên Đoàn thờ Qủy,
Riverale, Georgia) Lê Xuân Thượng (Đức Ông thờ quỷ cái Trần Thị
Liễu, (Houston, Texas), Đào Quang Chính (Houston, Texas), Nguyễn
Ngọc Tư (Houston, Texas), Nguyễn An Ninh (Eastpointe, MI), Hoàng
Xuân Nghiêm (Tổng Thủ Quỹ Liên Đoàn Thờ Quỷ, (Wyoming, MI), Phạm Văn
Tuệ, Trần Cao Tường, Vũ Hân (Marrero, LA), Việt Châu (Chủ Nhiệm
Nguyệt San Thờ Quỷ, Gretna, LA), Nguyễn Đức Huyên (Giám Đốc đền thơ
Quỷ), Nguyễn Văn Dậu (giáo sư thờ Quỷ, Metairie, LA) Phạm Quốc Hùng
(Wichita, KS), Phan Đình Cho (Gíao-sư đại học thờ quỷ, Washington
DC), Nguyễn Thanh Long (Silver Sprin, MD), Trần Quí Thiện
(Arlington, VA), Nguyễn Huy Quyền (Glen Ellyn, IL), Trịnh Thế Hùng
(Chicago, IL), Đỗ Quang Biên (hưu trí thờ quỉ cái: Mầu, San Diego,
CA)... (Còn tiếp với vô vàn vố số ác quỉ nằm trong Chi Dòng Đồng
Công ở Carthage, MO, đã lợi dụng Đức Mẹ để làm tiền trắng trợn từ 24
Đại Hội Thờ Quỷ Mammon, đã qua, và Đại Hội thứ 25 sắp tới. Chính Đức
Mẹ sẽ đánh tan đại hội bịp này.)"
[20]
Trong tờ Tận Thế Số 2 ra ngày 15/7/2002,, nơi
trang 31, ông viết:
"Thật không ngờ một linh mục bệnh hoạn có
thể trở thành một con người viết những điều mạnh mẽ như vậy, đó là
chửi thẳng vào mặt ác quỷ Nguyễn Đức Mầu, kẻ dơ bẩn đã ăn nằm với
không dưới 100 đàn bà mất nết từ Việt Nam sang tới Hoa Kỳ (đọc Thư
LM Nguyễn Thanh Sơn gửi Cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Chúa Cứu Thế ở
Roma, trong "Quyền Năng Đức Mẹ Diệt Trừ Satan III") và ác quỷ
Trần Công Nghị, kẻ dâm thú cũng đã "ăn nằm" với hàng trăm đàn bà hư
đốn trên 35 năm qua, từ Việt Nam sang Roma, tới Hoa Kỳ, trong số đó
có hai (2) ma nữ lõa lồ: CAO THỊ MỸ LỆ (từ năm 1975 tại Portland,
Oregon), con gái Cao Đăng Tường, cháu "yêu dấu" của Cao Đăng Minh,
Dòng Chúa Cứu Thế (tên này cũng đã có con trai khôn lớn),
và hiện nay đang ăn nằm với "con điếm nhớp nhúa nhất thủ đô tỵ nạn)"
là DIAMOND BÍCH NGỌC. Đôi song ca đã và đang hát rất mùi với nhau,
trong chương trình lứa đôi Thiên Chúa và Đức Mẹ mang nhãn hiệu rỗng
tuếch: "Sống Tin Giữa Dòng Đời", trên đài Little Sàigon."[21]
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ bộ
mặt thật về đời sống phóng đãng, loạn dâm và phi luân cúa các ông
giáo hoàng và giơi tu sĩ trong Giáo Hội La Mã từ những ngày đầu
trong thời Trung Cổ cho đến ngày nay. Tình trạng này được sách
Babylon Mystery Religion dành hẳn Chương 12 với
tựa đề là Papal Immorality trong đó tác giả kể ra những màn
kịch của hơn 20 giáo hoàng ("Đức Thánh Cha") đại diện
Chúa Kitô "ăn no rửng mỡ", rồi "ấm cật dậm dật phao câu",
rồi thanh toán lẫn nhau bằng những thủ đoạn vô cùng kinh khủng mà
tác giả cuốn sách này cho là "kinh khủng độc nhất vô nhị trong
lịch sử loài người" (sheer horror has never been
duplicated in the annals of human history). Xin mời quý vị theo
dõi những sự kiện này qua các tài liệu và sách sử với những đoạn văn
nguyên bản như sau:
"Thêm vào những bằng chứng hiển nhiên
cho chúng ta thấy rằng nhân cách và đức độ của rất nhiều ông giáo
hoàng không xứng đáng đựợc gọi là giáo hoàng. Một số các ông giáo
hoàng có những hành động hủ hóa, sa đọa, đê tiện và bỉ ổi đến nỗi
ngay cả những người ngoại đạo cũng cảm thấy xấu hổ cho các Ngài. Các
ông giáo hoàng thường hay phạm những tội ác như ngoại tình, làm tình
một cách bất bình thường với đàn ông, bán thánh, hiếp dâm, giết
người và say sưa tuý lúy. Những người thường cao rao là "Đức Thánh
Cha", là "Đại Diện của Chúa Kitô", là "Giám Mục của các ông
giám-mục" mà lại mang đầy những tội ác như vậy, nghe ra thật là
rùng mình! Những ai đã thấu hiểu lịch sử của chế độ giáo hoàng và
Giáo Hội La Mã đều biết rõ hơn ai hết, rằng không phải tất cả các
ông giáo hoàng đều thánh thiện cả." ["In
addition to the conclusive evidence that has been given, the very
character and morals of many of the popes would tend to identify
them as successors of pegan priests, rather than representatives of
Christ or Peter. Some of the popes were so depraved and base in
their actions, even people who professed no religion at all were
ashamed of them. Such sins as adultuery, sodomy, simony, rape,
murder. and drunkeness are among the sins that have committed by
popes. To link such sins with men who have claimed to be the "Holy
Father", "The Vicars of Christ", and “Bishop of bishops", may sound
shocking, but those acquainted with the history of the papacy well
know that not all popes were holy men."[22]
.
"Năm 1064, một giáo sĩ xứ Orange ở
Pháp đã thông dâm với người vợ thứ hai của thân phụ ông ta.
Giáo Hoàng Alexander (1061-1073), không những đã không bãi chức của
ông giáo sĩ này, mà vẫn còn để cho ông ta tiếp tục rước lễ. Ngài cho
rằng ông giáo sĩ này đã không phạm tội có gia đình chính thức. Hai
năm sau, một giáo sĩ ở Padua thú nhận là đã loạn luân với người mẹ
ruột. Giáo Hoàng (Alexander) đã đối xử rất tử tế với ông giáo
sĩ này và để mặc cho ông giám mục quản nhiệm địa phương tùy ý quyết
định nên hay không nên để cho ông ta tiếp tục phụng vụ. Đối với Giáo
Hoàng Alexander II (1061-1073), thông dâm hay loạn luân vẫn còn
thích hơn là có một giáo sĩ chính thức có gia đình."
["A priest of Orange in France committed
aldultery with his father's second wife in the year 1064, Pope
Alexander (1061-1073), instead of dismissing him, refused even to
deprive him of holy communion. Liniency was called for because he
had not committed matrimony. Two years later, a priest from Padua
confessed to incest with his mother. The pope deal very kindly
to him and left it to his bishop to decide whether he should
continue in the ministry or not. For Pope Alexander II
(1061-1073)], adultery even incest was preferable to a priest
marrying.")
[23].
Có một điều hết sức ngạc nhiên là cho đến ngày
nay (2009, với sự tiến bộ về các chế độ chính trị, các nước dân chủ
triệt để đem lại công bằng cho xã hội. Nhờ vậy mà tất cả mọi người
đều được đối xử công bằng trước pháp luật và không còn một cá nhân
hay tập thể hoặc thế lực nào được đứng trên pháp luật. Ấy thế mà
Giáo Hội La Mã cũng như giới tu sĩ và giáo dân vẫn tiếp tục đòi giáo
luật của Vatican phải đứng trên pháp luật, phát động những chiến
dịch xúi giục giáo dân tập trung bất hớp pháp trường biểu ngữ nêu
khẩu hiệu đòi “công lý và công bằng” theo quan niệm trịch thượng
“Nhất Chúa Nhì Cha, thừ ba quyền lực của Nhà Thờ” như họ đã làm và
đang làm ở Khu Phố Thái Hà, Hà Nôi trong mấy ngày qua (tháng 2 và
tháng 3 năm 2009). Độc đáo hơn nữa là Giáo Hội vẫn còn có chủ
trương coi các nữ tu viện là nơi cho các ngài "mang chức thánh"
đến giải quyết sinh lý, để họ có thể phục vục Chúa đắc lực hơn cho
Nhà Thờ Vatican, và vẫn còn áp dụng chính sách phá thai và sát hại "những
đứa con hoang" do những cuộc làm tình của các Ngài tu sĩ với các
dì phước trong các nữ tu viện của Giáo Hội. Sự kiện này được Giáo-sư
Trần Chung Ngọc ghi lại như sau:
"Có lẽ ta cũng không nên quên rằng, mới
tháng 3 năm ngoái, báo chí thế giới đã phanh phui ra những vụ "Cha
cũng như Chúa" cưỡng hiếp một số "sơ" trong 27 quốc gia kể cả ở Mỹ,
Ý, Ái Nhĩ Lan, Ấn Độ, Phi Luật Tân, Ba Tây, v.v... và cưỡng bách họ
phải vào các nhà thương Công Giáo để phá thai khi họ mang thai. Tòa
Thánh đã phải lên tiếng thú nhận có vấn đề ô nhục này nhưng vẫn lừa
dối dư luận quần chúng với luận điệu: "Chuyện chỉ xẩy ra trong một
vùng địa dư mà thôi". Tờ Orange County Register ra ngày 31 tháng 3
năm 2001 có bài của Chris Hedoes thuộc New York Times trong đó có
vài chi tiết như sau: Ở Malawi, trong một giáo xứ có tới 29 "sơ" bị
các ông linh-mục làm cho mang thai. Khi bà sơ bề trên than phiền với
ông Tổng Giám Mục thì bà ta và các "sơ" mang bầu bị đổi đi nơi
khác. (... In Malawi. where 29 sisters in a single
congregation "became pregnant by priests in the diocese". When the
sisters' superieur general complained to the archbishop, she and the
sisters were replaced.); "... linh mục khuyên các "sơ' nên uống
thuốc ngừa thai, nói dối họ là để đề phòng sự truyền nhiễm bệnh
AIDS." (priest "recommending that sisters take a contraceptive,
misleading them that the pill will prevent transmission of HIV).
Chúng ta cũng nên nhớ rằng, Giáo Hoàng Gioan PhaoLô II cấm tín đồ
tuyệt đối không được dùng thuốc ngừa thai. Nhưng chúng ta cũng lại
biết rằng Vatican có nhiều cổ phần trong công ty chế tạo thuốc ngừa
thai, phải chăng chỉ để dành riêng cho các "sơ" dùng theo sự khuyên
bảo của linh mục bề trên..."
[25]
.
Cũng vì thế mà tình các ông giáo sĩ Ca-tô vẫn
tiếp tục sống đời loạn dâm, vẫn tiếp tục làm tình bừa bãi với các
trẻ em rước lễ và nữ tín đồ. Vì thế mà mới đây, đầu tháng 3 năm
2009, Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ lại phải trả 775,000 USD trong vụ
kiện Linh mục lạm dụng tại tiểu bang Texas (Foxnews.com
4/3/2009. Giaodiemonline.com đăng ngày 8/3/2009.)
Chuyện này được đưa lên Giaodiemonline.com vào
ngày 8/3/2009 với bản văn như sau:
“Fort Worth, Texas -
Hôm thứ Tư (4/3/09), giáo khu Công giáo Fort Worth đã đồng ý giàn
xếp trả 750,000 Mỹ kim liên hệ đến những tố cáo lạm dụng tình dục
của ba vị Linh mục dù các vị nầy đã qua đời.
Năm người dính líu đến những tố cáo nầy nói
rằng họ đã bị lạm dụng tình dục bởi Đức cha James Reilley là người
vốn làm việc mục vụ tại nhà thờ Công giáo St. Maria Goretti ở thành
phố Arlington từ năm 1969 suốt đến năm 1987 khi ông về hưu. Cha
Reilly sau đó qua đời vào năm 1999.
Ông Pat Svacina, phát ngôn viên của Giáo
khu, nói rằng ông không thể tiết lộ bất kỳ chi tiết nào, kể cả giới
tính của nạn nhân hay ngày tháng nạn nhân bị lạm dụng. Một trong
những vụ kiện liên quan đến hai vị Linh mục khác là Đức cha James
Hanlon và Đức cha Gerard Scholl, cả hai đều làm việc hoặc giảng dạy
tại bang Texas và bang New Mexico trong khoảng từ thập niên
70’ đến thập niên 90’. Theo hồ sơ vụ án, cha Hanlon qua đời
năm 1990 và cha Scholl qua đời năm 2002.
Đức cha Kevin Vann, Giám mục của giáo khu
Fort Worth, nói rằng ông buồn tiếc sâu sắc cho bất kỳ vụ lạm dụng
tình dục nào mà vì đó nạn nhận đã phải khổ đau do ba vị Linh mục gây
ra, và ông cầu nguyện cho các nạn nhân được bình phục và hòa giải.
Giám mục Vann xác nhận qua một bản tuyên bố
rằng ông “cam kết sẽ bảo đảm thực thi quy định của Giáo khu
để có thể ngăn ngừa thảm trạng tương lai như đã xảy ra cho các nạn
nhân của sự lạm dụng”
Trong số những giàn xếp gần đây của Giáo
khu, có một giàn xếp từ một vụ án do 11 người đàn ông đứng ra buộc
tội cha Reilly đã lạm dụng tình dục khi họ còn là các cậu bé hầu lễ
tại nhà thờ. Những người nầy đã được đền bù ít nhất là 1 triệu USD
mỗi người, và được trả phí tổn về tâm lý trị liệu trong một năm.
Cha Reilly và cha Hanlon là 2 trong 6 linh
mục của Giáo khu Fort Worth bị buộc tội lạm dụng tình dục trẻ vị
thành niên được nêu tên trong hồ sơ phát tán năm 2006. Những hồ sơ
nầy vốn được niêm phong như là một điều kiện giàn xếp năm 2005 của
một vụ kiện lạm dụng tình dục.”[26]
Mới hơn nữa, tờ Việt Báo số ra ngày Thứ Bảy,
3/14/2009 đăng một bản tin như sau:
“ 803 Vụ Kiện Tu Sĩ Thiên Chúa Giáo Lạm Dụng
Sex Năm 2008: “NEW YORK - Các giáo phận và các viên chức giáo hội
Công Giáo chứng kiến số kiện cáo tu sĩ về lạm dụng thân thể gia tăng
trong năm 2008, theo 1 phúc trình của HĐ giám mục. Gần hết trong số
803 vụ kể ra các lạm dụng mấy thập niên trước, khi đương đơn là vị
thành niên. Các viên chức giáo hội trả ít tiền hơn thời gian trước
trong các dàn xếp bồi thường, luật sư phí và các chi tiêu liên quan,
nhưng phải chi ra tổng cộng 436 triệu MK. Tổng số tiền giải quyết
các kiện cáo về lạm dụng tình dục từ năm 1950 là 2.6 tỉ. Phúc trình
kể trên là 1 phần trong công cuộc duyệt xét về an toàn của trẻ em
tại các giáo phận và các dòng tu.
“Theo thẩm định của các kiểm toán viên, chỉ
mới 1 giáo phận thực hành đầy đủ các chính sách bảo vệ trẻ em. 2
giáo phận và 5 giáo xứ không cho kiểm toán viên phân tích. Trong
năm 2008, chi phí của các chương trình an toàn là 23 triệu.. Số hồ
sơ kiện năm 2007 là 691.”[27]
Tóm lại:
Những bản văn sử và các tin lực
được các cơ quan truyền thông phổ biến như đã trình bày trên đây cho
chúng ta thấy rằng gần như tất cả các ngài mang chức thánh trong
Giáo Hội La Mã từ ông linh mục quản nhiệm một xóm đạo hay thuộc một
dòng tu được chỉ định phụ trách một công việc nào đó cho đến các ông
giám mục, tổng giám mục, hồng y và nhất là các ông nắm giữ những
chức vụ cao cấp nhất trong Giáo Hội được gọi là "Đức Thánh Cha" (giáo hoàng) đều là những quân "đạo đức giả"
(hypocrites). Tất cả đều can tội chống lại nhân loại qua những hành
động vi phạm nhân quyền, cố ý hủy diệt nền văn hóa và văn minh của
nhân loại, hủy diệt mọi thứ tình yêu thiêng liêng cao quý của con
người như: tình yêu lứa đôi trai gái, tình yêu vợ chồng, tình yêu
giữa cha mẹ đối với con cái, giữa con cái đối với cha mẹ và anh em
đối với nhau, hủy diệt luôn cả tình yêu đối với bà con láng
giềng, đối với quốc gia dân tộc để thay thế vào đó bằng tình yêu đối
với Giáo Hội hay Tòa Thánh Vatican được ngụy tạo là tình yêu Chúa.
Tất cả đều can tội trực tiếp hay gian tiếp liên hệ hay tiếy tay cho
Nhà Thờ Vatican lao vào những hành độc tội ác sát hại trên 250 triệu
dân lành trong gần hai ngàn năm qua. Con số nạn nhân này đều được
sách sử đã ghi lại rõ ràng:
"Chúng ta đã biết được những gì trong 7
trăm năm này? Ba triệu người thiệt mạng trong vụ cố gắng
chiếm lại một ngôi mồ nằm trong vùng kiểm soát của người Hồi giáo.
Mười triệu người bị giết hại do bàn tay của các Tòa Án Dị
Giáo Gia-tô Mười bốn triệu người chết trong các cuộc chiến
Gia-tô trong thế kỷ thứ 19. Ba mươi triệu người thiệt mạng
trong các cuộc chiến giữa các quốc gia theo đạo Kitô với nhau trong
hai thập niên đầu của thế kỷ thứ 20. Từ thời Constantine đến nay,
chiến tranh và chính sách áp bức của các chế độ đạo phiệt Gia-tô đã
gây cho hơn 200 triệu nạn nhân bị thiệt mạng. Và chúng ta
phải kể thêm 23 triệu quân nhân của 53 quốc gia và các thuộc
địa đã hy sinh trong các cuộc chiến (do Giáo Hội phát động – NMQ )
và ít nhất 28 triệu nạn nhân chết vì bom, đạn, đói và bệnh
tật hay ở trong các trại tập trung.” [What
have we learned in those seven hundred years? “Three million lost
their lives in a futile attempt to rescue a tomb from
Mussulmans. Ten million were slain during the Inquisition.
Fourteen million were slain in Christian wars of the Nineteenth
Century. Thirty million lost there lives in wars between
Christian nations during the first two decades of the Twentieth
Century. Wars, tyranny and oppression of Christian nations since the
days of Constantine have caused the death of more than
200,000,000 people” And now we must add to this “Some
23,000,000 men in uniform from 53 nations, countries and
dominions were killed or died; at least 28,000,000 died from
bombs or guns, hunger or disease or in the concentration camps.)
[28]
Những bản văn sử trên đây cho chúng ta
thấy rõ những tác phong và việc làm thương luân bại lý, bất nhân,
phi luân, bạo ngược, dã man và đại nghịch bất đạo của các ông mang
chức thánh trong Giáo Hội La Mã đã phát xuất ngay từ nhân vật lãnh
đạo cao cấp nhất trong từ khi cái đạo quái đản này ra đời vào giữa
thập niên 310 cho đến ngày nay. Kể từ đó, những hành động kinh tởm
"trời không dung đất không tha" đều do chính những người lãnh
đạo cao cấp nhất trong Giáo Hội chủ trương rồi dung dưỡng và bao che
cho các ông tu sĩ các cấp thừa hành. Ghê tởm hơn nữa là Giáo Hội
còn chủ trương phong thánh và vinh danh những tên tội đồ khốn kiếp
đã có những thành tích chống lại nhân dân dưới quyền hay chống lại
tổ quốc gốc của chúng với mục đích là để khích lệ giới tu sĩ và giáo
dân noi gương những tên “trùm đĩ trong ổ điếm Vatican” mà sống theo
cái lối sống lừa bịp, lọan luân, loạn dâm, man rợ mà họ gọi "sống
đạo theo đức tin Kitô" và “sống theo lương tâm công giáo”
của họ. Vấn đề này sẽ được trình bày đầy đủ trong Chương 12 ở sau.
Rõ ràng là con hơn cha nhà có phúc. Càng
về sau, Giáo Hội La Mã, Nhà Thờ Vatican và giai cấp giáo sĩ càng tỏ
ra có nhiều tài nghệ lừa bịp cũng như hành xử lọan luân dâm loàn,
ngược ngạo và dã man hơn cả Thiên Chúa rất nhiều. Tình trạng này
tất nhiên là giáo dân không thể nào lại không theo gương các ngài để
hành xử sống đời lọan luân và phi luân giống như các ngài. Sự thực
như thế nào, lịch sử và thực tế đã cho chúng ta biết rõ. Còn nữa và
còn nhiều lắm. Vì giới hạn của tập sách này, chúng tôi xin dừng lại
đây để nói về nhiều tiết mục khác.
Theo sự hiểu biết của người viết, bất kỳ một tổ
chức nào trong xã hội loài người, những người lãnh đạo vẫn là những
nhân vật gương mẫu tiêu biểu cho cán bộ và mọi người trong tổ chức
theo đó mà hành xử. Đây là quy luật lịch sử mà cũng là quy luật xã
hội. Giáo Hôi La Mã cũng không đi ra ngoài quy luật này. Cũng vì
thế, khi mà các ông giáo hoàng sống đời lưu manh, phóng đấng, loạn
dâm, lọan luân, dâm loàn và bạo ngược như đã trình bày ở trên, thì
tất nhiên các các bộ các cấp là các ông hồng y, tổng giám mục, giám
mục, linh mục, sư huynh, các bà nữ tu và giáo dân không thể nào lại
không theo gường các ông giáo hoàng để hưởng thụ để:
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mản đời.
Và cho đến ngày nay (năm 2009), tình trạng các
em sơ sinh sinh ra bời những vụ làm tình giữa các ngài tu sĩ Da-tô
với các bà nữ tu (cũng có thể là với các nữ tín đồ) bị chính các
ngài giết chết vẫn còn đang xẩy ra.
Người dân Đông Phương thường nói: “cọp dữ
không ăn thịt con” và “dã thú không sát hại đồng loại”, ấy thế
mà (qua các bản văn sử và tin tức trên đây), các ông tu sĩ Ca-tô này
lại đành lòng giết hại ngay cả những đứa con của mình để che giấu
cái tội làm tình bất chính với các bà nữ tu hay với nữ tín đồ vào
những “khi ăn no rửng mỡ” hay con heo lòng nổi lên hành hạ. Rõ ràng
là họ còn độc ác và dã man hơn cả các loài dã thú. Vấn đề này sẽ
được nói rõ trong Chương 8 kế tiếp.
IV.- CÁC CHÍNH SÁCH CAI TRỊ CỦA GIÁO LA MÃ
Vì những thủ đọan phỉnh gạt, lừa đào, bịp
bợm, hù dọa và khủng bố tinh thần người đời trong thánh kinh, vì
những lời dạy lưu manh và mất dạy của Nhà Thờ Vatican, vì những cuộc
sông lọan luân, dâm lòan, phản nhân luân và cực kỳ bạo ngược của các
giáo hoàng và giới tu sĩ, vì những rặng núi của đủ mọi thứ tội ác
chống lại nhân loại của Giáo Hội La Mã từ khi cái tôn giáo ác ôn
xuất hiện vào thế kỷ 4, cho nên Nhà Thờ Vatican có quyết định phải
(1) sử dụng bạo lực bằng cách thiết lập hẳn một bộ máy cảnh sát trị
khủng bố tính thần những người nào dám ho he nói lên những khu rừng
tội ác như đã nói trên và (2) dùng cả một bộ máy tuyên truyền để
khỏa lấp che hoặc đánh lạc hương khiến cho người đời lầm tường rằng
Giáo Hội La Mã thật sự là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo
và tông truyền”. Hai bộ máy cực kỳ quan trọng trong chủ thuyết
thần quyền chỉ đạo thế quyền để thâu tóm hết tất cả mọi quyền lực
vào trong tay rồi thiết lập chế độ đạo phiệt Ki-tô, dùng quyền lực
Nhà Nước để thi hành các chính sách:
1.- Khủng bố và sát hại những người không chịu
khuất phục và những người biết rõ bộ mặt thật của hệ thống tín lý
cũng như bộ mặt thật của những người sáng lập và những người lãnh
đạo tôn giáo này. Đây là nguyên nhân TẠI SAO các nhà lãnh đạo các
tôn giáo này đều chủ trương cướp đọat chính quyền, rồi thiết lập chế
độ độc tài chuyên chính để dùng quyền lực của Nhà Nước cưỡng bách
nhân dân dưới quyền phải khuất phục (nghĩa là phải theo đạo) và tuân
thủ tất cả những tín lý, giáo luật và lệnh truyền của họ đưa ra. Kẻ
nào không chịu khuất phục sẽ bị khủng bố và bị sát hại bằng nhiều
hình thức khác nhau. Các nhà sử học gọi những chế độ chính trị này
là các chế độ đạo phiệt hay chế độ giáo hòang (papacy).
2.- Thi hành chính sách ngu dân và giáo dục
nhồi sọ với mục đích làm cho tín đồ và người dân dưới quyền không
còn khả năng sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật và kìm hãm họ mãi mãi
ở trong tình trạng ngu dốt. Tín đồ và người dân dưới quyền có ngu
dốt thì họ mới không biết sử dụng lý trí để phân tách hầu nhìn sự
thật về những tín lý hoang đường láo khoét cũng như giáo luật chuyên
chính và lời dạy lưu manh của Giáo Hội. Do đó, họ cứ mãi mãi không
biết gì về những thủ đọan gian manh, gian ác, thâm độc, lừa dối và
bịp bợm của Giáo Hội. Vì thế mà họ vẫn tiếp tục ngoan ngoãn cúi đầu
tuân phục và triệt đối trung thành với Giáo Hội. Chính vì lẽ này mà
ở đâu có quyền lực của cái tôn giáo này vươn tới, thì ở đó chính
sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ được triệt để thi hành. Bằng chứng
rõ ràng nhất là ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975,
thuyết tiến hóa của nhà bác học Charles Robert Darwin (1809-1885) bị
cấm, không cho dạy, các môn sử thế giới và quốc sử bị hạn chế và
kiểm soát gắt gao. Cho tới ngày nay, tại Hoa Kỳ, thuyết tiến hóa vẫn
còn bị các nhà lãnh đạo của các hệ phái Thiên Chúa Giáo chống đối
mãnh liệt. Xin xem Phần VI của tập sách Họ và Chúng Ta của tác giả
Nguyễn Mạnh Quang. Tập sách này đã được đưa lên sachhiem.net từ ngày
29/12/2008.
3.- Kiểm soát tất cả những phạm vi sinh
họat trong xã hội để tự do túng tác phóng tay cướp đọat tài nguyên,
bóc lột nhân dân, thu vơ và tích lũy của cải cho đầy túi tham để
chi phí cho bộ máy đàn áp nhân dân và bộ máy tuyên truyền của chế
độ và để chi phí cho cuộc sống huy hoàng đàng điếm lọan luân, lọan
dâm, phi luân, bất nhân, bất nghĩa của các ngài “mang chức Thánh”.
4.- Sử dụng bộ máy tuyên truyền gồm những binh
đoàn văn nô có nhiệm vụ biên soạn và phổ biến những bản văn có chủ
đích làm cho tín đồ và nhân dân dưới quyền chỉ biết nghe theo những
lời dạy dỗ và tuân thủ những lệnh truyền của các đấng bề trên của Họ
trong Giáo Hội. Thường thường những bản vằn này được phổ biến rộng
rãi bằng tất cả các phương tiện truyền thông do Nhà Thờ hay giáo
dân làm chủ, và đặc biệt là được phổ biết theo sách lược “Tăng Sâm
giết người” (nhắc đi nhắc lại nhiều lần) và sách lược “cả vú lấp
miệng em” (ồ ạt và hàng loạt để lấn át những bản văn tin tức và các
sách sử nói lên những sự kiện lịch sử có liên hệ đến những hành động
bất chính, đại gian và đại ác của Giáo Hội trong gần hai ngàn năm
qua. Vì thế mà giáo dân cuồng tín không hay biệt gì những rặng núi
của đủ mọi thứ tội ác của Giáo Hội từ xưa cho đến. Bằng chứng rõ rệt
ch sự kiện này là hầu như tất cả các giáo dân ngoan đạo người Việt
không hề hay biết gì về sự kiện trong những năm cuối cuộc đời, Giáo
Hoàng John Paul II, đi đến quốc gia nào, ông cũng xin lỗi lia lịa,
tính ra có đến hơn 100 lần. Họ cũng không hề biết rằng, Giáo Hoàng
John Paul II đã cho tổ chức một buổi đại lễ vào sáng ngày Chủ Nhật
12/3/2000 để chính ông cùng với các vị chức sắc cao cấp trong giáo
triều Vatican đứng ra cáo thú với Chúa về 7 núi tội ác của Giáo Hội
trong hai ngàn năm qua. Sự kiện này cho chúng ta thấy bộ máy truyên
truyền của Nhà Thờ Vatican quả thật là vô cùng siêu việt. Tính cách
siêu việt của bộ máy tuyên truyền của Nhà Thờ Vatican được trình bày
trong Chương 4 ở trên. Chúng tôi xin ghi lai một lần nữa để độc giả
có ý niệm liên tục về vấn đề này và cũng là để mọi người biết rằng
tài nghệ siêu việt của bộ máy tuyên truyền của Giáo Hội La Mã được
kể lại dưới đây là do chính hai nhà trí thức của Giáo Hội là Bác-sĩ
Nguyễn Văn Thọ và học giả Phan Đình Diệm, Hội Trưởng Học Hội Đức
Giê-su Ki-tô Phục Sinh nói rõ cho chúng ta biết, chứ không phài là
những người ngoại đạo. Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ viết:
“Giáo Hội nhờ ở sự “tin lưỡng” và “nói
lưỡng” nên có thể giải thích mọi vấn đề, có thể biện minh được mọi
thái độ mình. Chúa vừa ở thiên đường, vừa ở khắp nơi; vừa ở khắp nơi
vừa không ở trong tâm hồn mọi người. Chúa vừa nhân từ vừa công
thẳng. Chúa Giê-su vừa là Thượng Đế toàn năng, vừa là Tạo Hóa, vừa
là “Trưởng Từ giữa mọi thụ sinh.” Con người vừa cao siêu vì là ảnh
tượng Chúa, vừa là hết sức xấu xa vì đã sa đọa. Chúa vừa cai trị thế
gian, nhưng Satan lại là vua của trần thế này. Chúa Giê-su vừa là
Chúa, vừa là Người.. Tận Thế sắp sửa xẩy ra, tận thế còn lâu mới xẩy
ra. Nước Trời không đến một cách lộ liễu, nước Trời sẽ đến trong rầm
rộ huy hoàng. Nước Trời ở trong tâm, nước Trời ở ngoài xã hội. Ngũ
Kinh là do Maisen viết, Ngũ Kinh không phải là của Maisen viết.,
v.v…. Từ Thế Kỷ XVIII đến thế kỷ XX nghiêm cấm, không cho tôn thờ tổ
tiên, ngày nay được tôn thờ tổ tiên (nhang đèn, cúng kỵ, v.v..). Có
lúc nghiêm cấm, không cho ăn thịt vào ngày Thứ Sáu, có lúc cho ăn
thịt thả giàn. Tất cả đều tùy giáo hoàng.
Thánh Kinh vừa đúng từng chữ, vừa là Chân Lý
tuyệt vời, vừa không có ý dạy về khoa học, nên có nhiều điều không
chính xác.; (Giáo Hôi) vừa chắc chắn rằng mọi người ngoài Giáo Hội
đều xuống hỏa ngục, vừa tuyên bố mọi người sống ngoàii Giáo Hội có
thể lên thiền đàng. Khi cần dịu ngọt, thì Giáo Hội đề cao sự nhân từ
bác ái của Phúc Âm; khi cần tàn nhẫn thì (Giáo Hội) khoe đang thi
triển sấm sét của hai thánh Peter và Paul. (Giáo Hội) vừa chủ trương
Chúa luôn luôn nổi cơn thịnh nộ oán phạt loài người, vừa tuyên bố đó
chỉ là những kiểu “nhân cách hóa” Thiên Chúa. Tất cả các văn kiện
viết ra phải được đắn đo, viết lách làm sao để có thể có thể giải
thích xuôi cũng đuợc và ngược cũng được. Thật là biến hóa tuyệt vời.
Chảng những thế, lại còn có cả một đạo binh văn học chỉ có nghiệm vụ
bào chữa cho Công Giáo, bảo vệ Thánh Kinh mà ta gọi là những nhà
thần học, những nhà bảo vệ tín lý (apologetists)…. Chuyện đời quả
tình hết sức phưc tạp.”
[29]
Cũng nói về thủ đọan tuyên truyền và tác dụng
của chính sách truyên truyền của Nhà Thờ Vatican, ông Phan Đình
Diệm ghi nhận:
“Hàng ngàn năm, để bưng bít và che dấu 7
chương tội đối ngọai và 1 chương tội đối nội là tám, nghệ thuật
tuyên truyền của Giáo Hội Roma phải đạt đến chő cực kỳ ảo diệu,
thiên biến vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ
thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo Hội là Thánh, Giáo Hội là
Mầu Nhiệm, Giáo Hội là Bí Tích, Giáo Hội là Hiền Thê của Đức Giê-su,
Giáo Hội là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền, Giáo
Hội là Vương Quốc của Thiên Chúa... Giáo Hội tự nhận cho mình hết
tất cả những khái niệm cao cả thánh thiện, vừa linh thiêng siêu
hình, vừa hữu hình thế tục, chẳng bỏ sót một phạm trù nào! Ngòai
nghệ thuật tuyên truyền, Giáo Hội vẫn phải xây "vạn lý trường thành
đức tin" và buông bức "màn sắt thần học" lên đầu đòan chiên. Mỗi tòa
giảng là một cái loa tuyên truyền, dựa vào khoa thần học phù phép,
ảo thuật "núi tội thành con chuột", "kẻ cướp mặc áo thày tu" và "quỷ
Satan có diện mạo ông thánh.”
[30]
CHÚ THÍCH
[14] Peter de
Rosa, Ibid., p. 101.
[15] Chu Văn
Trinh, Gia Tô Thực Dân Sử Liệu [The Documented
History of Catholic Colonialism] T?p 1 (Mt. Dora, Florida:
Ban Tu Thư Tự Lực, 1990), tr 103-113 và 139-174.
[16] Chu Văn
Trinh, Sđd., tr 108-110..
[17] Peter de
Rosa, Sđd., tr. 408.
[18] Peter de
Rosa, Sđd., tr.404.
[19] Trần Chung
Ngọc. “Amen.” Sachhiem.net Ngày 11/4/2009.
[20] Nguyễn Thanh
Sơn, Tận Thế Số Ra Mắt (Fountain Valley, CA: Thánh
Linh, 2002), tr. 27.
[21] Nguyễn Thanh
Sơn, Tận Thế Số 2 (Fountain Valley, CA: Thánh Linh,
2002), tr. 31.
[22] Ralph
Woodrow, Ibid., p 91
[23] Peter de
Rosa, Sđd., tr.406.
[24] Peter de
Rosa, Sđd., tr 416
[25] Trần Chung
Ngọc. "Ông Đỗ Mạnh Trí Ca Tụng Vai Trò "Mẹ và Thầy" của Giáo
Hội." tháng 8 nam 2002. https://www.giaodiem.com. Ngày 20
tháng 8 nam 2002.
[26]
Giaodiemonline.com. Ngày 8/3/2009 và
Foxnews.com 4/3/2009.
[27] Việt Báo Thứ
Bảy, 3/14/2009.
[28]
Lloyd Graham, Deceptions and Myths of the Bible
(Secaucus, N.J: Carol Publishing Group, 1999), p. 463.
[29] Nguyễn Văn
Thọ, Công Giáo: Nhận Định Về Tín Lý & Giáo Lý (Garden
Grove, CA: Giao Điêm, 2007), tr. 49-50.
[30] Phan Đình
Diệm “Mea Culpa” Bài 3 - Giáo Hội Công Giáo Roma La-tinh
Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn Năm - Lời Bảy.”
https://www.kitohoc.com/Bai/Net066.html