Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam Nguyễn Mạnh Quang http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_07.php PHẦN II ◎◎◎ CHƯƠNG 7 NHỮNG NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG ĐẠO THIÊN CHÚA LA MÃ
Trong đạo Thiên Chúa, có khá nhiều nét độc đáo làm cho những người bình thường thuộc các nền văn hóa khác phải chửng hửng ngạc nhiên nếu không rùng mình kinh tởm. Phải nói là có cả hàng rừng nét độc đáo như vậy. Thiết nghĩ, một người với thời gian giới hạn không thể nói cho hết. Dưới đây, chúng tôi chỉ trình bày một vài nét độc đáo này để độc giả có thể cùng được biết. I.- NHỮNG MÂU THUẪN TRONG THÁNH KINH VÀ TRONG NHỮNG LỜI DẠY CỦA NHÀ THỜ VATICAN Phần lớn trong mục này đã được trình bày trong Chương 3 Mục III (Phần II) trong bộ sách "Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác. Đạo Thiên Chúa La Mã thường rao giảng là Công Bình Bác Ái, tự xưng là Công Giáo, nhưng trong thực tế, các bậc trí giả đều cho rằng những việc lừa bịp, và bạo lực là nền tảng của tôn giáo này. Chính cái nền tảng nói láo đã đưa đến nhiều mâu thuẫn, tiền hậu bất nhất, lý trước trái với lẽ sau. Đó là những sản phẩm tất yếu của sự giảo luận, hay bịa đặt. Cũng nên biết là Thiên Chúa Giáo là danh xưng nói chung của các hệ phái tôn giáo độc thần bắt nguồn từ cuốn thánh kinh của người Do Thái và cũng là của đạo Do Thái (Judaism). Tất cả các hệ phái này đều tôn ông thần mà người Do Thái gọi là Jehovah và Hồi Giáo gọi là Allah lên làm đối tượng thờ phượng với tất cả những niềm tin cho rằng ông thần này có những đức tính và khả năng đầy những mâu thuẫn hay trái ngược nhau. Theo lời rao truyền của Giáo Hội La Mã và theo Cựu Ước Kinh thì ông thần Jehovah có những đặc tính mâu thuẫn như sau: Mẫu thuẫn về liên hệ gia đình.- Thuyết Chúa Ba Ngôi của Giáo Hội đã làm cho ông thần Jehovah này vừa là Chúa Bố, vừa là ông Chúa Con Jesus và cũng là ông Thánh Ma (Holy Ghost). Tín đồ Ki-tô người Việt gọi chung là Ba Ngôi: Cha, Con, và Thánh Thần. Sự mâu thuẫn này trở nên quá rõ rệt trong liên hệ với Bà Maria. Họ nói rằng bà Maria được Chúa Thánh Thần hiện xuống (tông cửa vào hay lén vào) phòng Maria cưỡng hiếp Bà (chắc chắn là không qua giai đoạn tán tỉnh) đến mang bầu và sinh ra ông Jesus. Như vậy, nếu bảo rằng ông Jésus cũng là Chúa Thánh Thần, thì rõ ràng ông ta vừa là kẻ cưỡng hiếp Bà Maria (loạn luân), vừa là đứa con do chính ông cưỡng hiếp Bà Maria mà sinh ra. Đây là một tình trạng vô cùng kỳ phi lý, chỉ có những kẻ ngu xuẩn mới chấp nhận được cái luận điệu quái đản này. Đó là lý do Nhà Thờ Vatican luôn chủ trương ngu dân để làm cho tin đồ trở thành những hạng người cực kỳ ngu xuẩn để lấy những điều phi lý đó làm "tín ngưỡng" bất khả xâm phạm (!). Chẳng những "ngu dân", Nhà Thờ Vatican còn chủ trương dùng bạo lực của nhà nước để khủng bố và tàn sát những người nào nằm dưới quyền thống trị của Giáo Hội mà dám thắc mắc nêu lên cái điểm cực kỳ phi lý này. Ngày nay, trên các diễn đàn điện tử, người viết thấy có một số người ở ngoài đạo Ki-tô giáo nêu lên cái chuyện láo khoét này, những cứ mỗi lần nêu lên, thì liền bị các ông tín đồ Ki-tô thuộc loại siêu cuồng tín phóng ra những lời mạt sát thậm tệ và bảo rằng ví ngu dốt nên không hiều được cái tín lý cao siêu Chúa Ba Ngôi tức là tín lý “ông Chúa Thánh Thần (cũng là Chúa Cha, và cũng là Chúa Con Jesus) cưỡng hiếp người mẹ ruột là bà Maria đến mang bầu và đẻ ra chính mình.” Mẫu thuẫn về bản tính lành hay ác.- Thiên Chúa Giáo nói chung rao giảng hàng ngày trên cửa miệng rằng Chúa (nói chung cả Chúa Bố Jehovah, Chúa Con Jesus và Chúa Thánh Thần) là đấng “toàn năng, toàn thiện, có mặt ở khắp mọi nơi” và “lòng lành vô cùng”. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với những lời ghi trong các sách trong Cựu Ước và Tân Ước. Cứ theo những lời viết rõ ràng trong các sách Cựu Ước, thì Chúa là một tên bạo chúa cực kỳ độc ác và hết sức dã man. Một vài bằng chứng trước mắt có thể tóm tắt lại như: - Chúa đã ban cho loài người cái tội tổ tông ba vạ chỉ vì hai vợ chồng Adam và Eva đã lỡ ăn trái cây hiểu biết trái với ý Chúa. - Chúa Bố Jehovah xúi giáo dân cướp của bắt người: “Deuteronomy (20:12-18) 12:: Khi tấn công một thành nào, nếu Thiên Chúa cho các ngươi hạ được thành đó, 13: phải giết hết đàn ông trong thành, 14: nhưng bắt giữ đàn bà, trẻ con, súc vật và chiếm giứ các chiến lợi phẩm… bên trong lãnh thổ của Chúa ban. 17: Phải diệt hết mọi sinh vật, phải diệt hết dân Hê-tít, A-mo, Ca-na-an, Phê-rít, Hê-vít và Giê-bu như Chúa đã truyền dạy. 18: Như vậy họ sẽ không còn sống để dụ dỗ đồng bào họ làm tội ác, thờ cúng thần của họ mà mang tội ác.” [Deuteronomy (20:12-18): 12: Now if the city will not make peace with you, but make war against you, then you shall besiege it. 13: “And when the Lord your God delivers it into your hands, you shall strike every man in it with the edge of the sword. 14: “But the women, the little ones, the livestock, and all they in the city, all its spoil, you shall plunder for yourself; and you shall eat the enemies plunder which the Lord your God gives you. 15: “Thus you shall do to all the cities which are very far from you, which are not the cities of these nations. 16: But of the cities of these peoples which the Lord your God gives you as an inheritance, you shall let nothing that breathes remain alive, 17: “but you shall utterly destroy them: The Hettite and the Amorite and the Canaanite and the Perizzite and the Hivite and the Jebusite, just as the Lord your God has commanded you, 18: “Lest they teach you to do according to all their abominations which they have done for their gods, and you sin against the Lord your God.] - Chúa Con Jesus cũng độc ác không kém gì Chúa Bố Jehovah, cho nên phán rằng: “Hãy mang những kẻ thù của ta ra đây, những người không muốn ta ngự trị và giết chúng ngay trước mặt ta.” [But bring here those enemies of mine, who did not want me to reign over them, and slay them before me.] Luke 19:27 Cũng nên biết các ác tính dã man này của Chúa Bố Jehovah hầu như ngự trị ở bất cứ phạm vi hay lãnh vự nào. Ngoài ác tính dã man này, Chúa còn có cả hàng rừng ác tính khác. Đó là những ác tính như nhỏ mọn, ganh ghét. độ kị, tị hiềm, hèn hạ và đê tiện. Độc giả có thể kiểm chứng những điều này trong các sách Phục Truyền (5:9, 6:15, 7: 6, 13: 6, 15, 17:1, 20: 13-14, 21: 11-13 -15, 22: 13-14, 14-21, 23: 1-2, 13-14, 25: 11-12, 28: 15-68, 29: 20, 32: 16, 35, 39, 42- 43), Xuất Hành (4: 23, 12: 29,13: 15, 20: 5, 28 :23-25), Dân Số (11: 33, 21: 6, 31: 15-18) Leviticus (4: 17, 18: 22, 19: 19, 20: 9, 13, 21: 9, 26: 1-29), v.v… Mẫu thuẫn về tính toàn thiện: Cả Thánh kinh và Giáo Hội La Mã đều nói rằng, Chúa sinh ra loài người, yêu thương loài người. Thế nhưng Nhà Thờ Vatican là rao truyền rằng, chỉ những người nào tin ông Jesus là Chúa thì mới được cứu vớt ra khỏi hỏa ngục. Như vậy là toàn thiện và lòng lành vô cùng ở chỗ nào? - Giáo Hội La Mã nói rằng, “Ngòai Giáo Hội không thể có cứu rỗi” (Hors de l’Église point de salut). Trong bản Tuyên Ngôn do Thánh Bộ Đức Tin công bố ngày 5 tháng 9 năm 2000, Giáo Hội cũng tái xác nhận rằng “Không có ơn cứu độ ở bên ngoài Giáo Hội”. Nói như vậy là tất cả các dân tộc thuộc các tôn gíao hay nền văn hóa khác (không thờ ông Jesus) và ngay cả những tín đồ của các hệ phái Thiên Chúa Giáo khác như Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Chính Thống Giáo, Anh Giáo và tất cả các hệ phái Tin Lành sẽ “không được cứu độ” dù rằng họ đều là những người tin và thờ phượng Chúa (Chúa Bố Jehovah). Như thế thì làm sao có thể gọi Chúa toàn thiện và lòng lành vô cùng được? - Ngoài ra, bản chất độc ác kể trên cũng là chứng minh cho sự mâu thuẫn trong tín lý này. Như vậy thì Chúa toàn thiện ở chỗ nào? Mâu thuẫn về tính toàn năng: Nhà Thờ Vatican dạy rằng Chúa toàn năng và toàn thiện. Thế, nhưng, cũng chính những lời dạy của Nhà Thờ Vatican để lộ cho chúng ta thấy rằng Chúa không có đủ khả năng áp chế được quỷ Satan, và trong Matthew (21:18-19) viết rõ ràng rằng Chúa không thể làm cho cây vả (sung) có trái cho Chúa ăn khi đói lòng rồi Chúa tức giận nguyền rủa làm cho cây vả chết khô. Nhà thờ cũng dạy rằng Chúa Cha thương loài người đến đỗi phải cho Con Chúa (cũng chính là Chúa Cha) sinh ra đời chuộc tội loài người, là loài chính mình làm ra ! Khi ta nói đến "chuộc lỗi" tức là phải có ít nhất hai hay ba chủ thể: người thứ nhất làm lỗi, người đó (hay người thứ hai thay thế) chuộc lỗi, và người thứ ba là người bị thiệt hại do tội lỗi của người thứ nhất kia. Vậy trong sự Chúa chịu chết để chuộc lỗi này, ai là người thứ ba? Chẳng lẽ Chúa sinh ra người, rồi Chúa xin lỗi người vì người làm tầm bậy ? Nếu cho rằng Chúa Con xuống thế để chuộc lỗi con người làm ở dưới thế để xin Chúa Cha tha tội, thì thật là mâu thuẫn! Vừa mới bảo Chúa Cha thương loài người đến đỗi, nhưng lại sao ngớ ngẩn đến độ phải sai con mình chịu khổ hình để xin lỗi với chính mình về cái chuyện loài người, mà mình tạo ra, đã làm tội ở thế gian, cũng là nơi do chính mình chế ra ? Ngòai những chuyện mâu thuẫn đã nêu lên trên đây, còn hàng rừng những chuyện mâu thuẫn khác mà chúng ta có thể tìm thấy ở trong Cựu Ước, trong Tân Ước, trong những lời rao truyền và trong những lời của Nhà Thờ Vatican dạy dỗ tín đồ. Vấn đề đặt ra là TẠI SAO tất cả những tác giả viết thánh kinh và các nhà thần học được Thượng Đế hay Chúa mặc khải cho biết để viết thánh kinh và các tín lý khác (tức là do Giáo Hội bịa đặt ra từ năm 325 trở về sau) mà lại có quá nhiều mâu thuẫn như vậy? Có thể nói ngòai đạo Thiên Chúa ra, không có một tôn giáo nào trong xã hội loài người lại có quá nhiều tín lý và lời dạy đầy mâu thuãn như đã nói ở trên. Thiết nghĩ rằng, không làm gì có Thượng Đế hay Chúa. Do đó, không có chuyện mặc khải gì hết. Nói cho rõ hơn, các tác giả viết Thánh Kinh và Giáo Hội La Mã đã nói láo! Nói láo 100%. Cho rằng có Thượng Đế hay có Chúa đi nữa, thì cũng không có chuyện mặc khải như vây. Nếu bảo rằng Thượng Đế mặc khải cho các nhà thần học trong đạo Thiên Chúa viết thánh kinh và các tín lý khác của Giáo Hội La Mã, thì TẠI SAO Thượng Đế LẠI KHÔNG mặc khải cho những người dân ở các nền văn hóa khác viết thánh kinh. Rõ ràng nói như vậy là nói láo, Nói láo 100%. Nói láo là gian dối, là lừa bịp : Thói đời gian dối sinh ra gian dối và rơi vào tình trạng giấu đầu hở đuôi, và mâu thuẫn. Đây là tình trạng của những người viết thánh kinh và của Giáo Hội La Mã hay Nhà Thờ Vatican. Như vậy Giáo Hội La Mã hay Nhà Thờ Vatican là một tổ chức đại bịp.
II.- NHỮNG ÁC TÍNH CỦA THIÊN CHÚA GIÁO LA MÃ Một trong những nét độc đáo trong đạo Thiên Chúa Giáo La Mã là những ác tính ganh ghét, đố kị, tị hiềm, lấn lướt, vơ vào, đòi chiếm phần hơn. Cũng vì những ác tính này mà trong giới người có quyền lực trong Giáo Hội La Mã thường đi đến chỗ tìm cách hãm hại nhau hoặc là lọai nhau ra khỏi cuộc chơi bằng đủ mọi thủ đoạn đê tiện nhất, lưu manh nhất, bỉ ổi nhất, dã man nhất, và nếu cần họ còn thanh toán và tàn sát lẫn nhau để chiếm phần thắng. A.- Những ác tính ganh ghét, lấn lướt, bốc hốt, vơ vào, đòi chiếm phần hơn… Từ ngàn xưa, trong xã hội loài người, bất kỳ trong phạm vi họat động nào, hễ có quyền lực là có tranh chấp, thanh toán và tàn sát lẫn nhau để độc chiếm quyền lực, và quyền lực càng lớn, thì tình trạng tranh chấp, thanh toán và tàn sát lẫn nhau càng quyết liệt và càng đẫm máu. Người Trung Hoa có kinh nghiệm này sớm nhất và nhiều nhất cho nên họ đã ghi nhận tình trạng này bằng một bài thơ dưới đây: Nhất đăng cửu ngũ, Lục thân tình tuyệt Phụ tử phản mục Thủ túc tương tàn, Thiên lương bất tại. Tạm dịch: Một lần lên (ngôi vua) nắm quyền trị dân, tình cảm đối với những người thân thương (cha, mẹ, anh, em, vợ, con) không còn nữa, cha con bất hòa, anh em tàn sát lẫn nhau, và những lương tính trời ban cho cũng mất hết.. Giáo Hội La Mã là một trung tâm quyền lực nắm trọn cả thế quyền lẫn thần quyền, quyền hành bao trùm gần trọn Tây và Nam Âu, bao trùm luôn cả các thuộc địa của các đế quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp Bỉ ở các Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Á, thì tất nhiên là vấn đề thanh toán và tàn sát lẫn nhau để chiếm giữ quyền lực lại càng quyết liệt ghê gớm hơn. Tình trạng này đã xẩy ra ngay từ thế kỷ 4, cho đến ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Sách sử không những chỉ ghi lại những chuyện tranh chấp thanh toán lẫn nhau đề giành giật quyền lực rồi tàn sát phe chiến bại để trả thù, mà còn ghi lại đầy đủ cả những chuyện các ông giáo hoàng và các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican sống đời phóng đãng, lọan luân, dâm loàn hết sức là kinh khủng, tất cả đều tinh vi, đều thâm độc, đều dã man đến cùng mức của dã man, càng về sau mức độ dã man càng tinh vi và càng siêu việt. Ngoài những sự thật trên đây, các nhà lãnh đạo Giáo Hội La Mã còn có những ác tính cực kỳ ghê tởm giống như những ác tính được mô tả rõ ràng về ông Chúa của họ ở trong Thánh Kinh. Có thể vỉ ảnh hưởng sâu nặng bởi ông Chúa của họ mà họ trở thành những người mang nặng những ác tính như đố kị, tị hiềm, ganh ghét, rồi chia bè lập đảng đánh phá tàn sát lẫn nhau để tranh giành quyền lực. Theo sách sử, chúng ta thấy rằng từ giáo hoàng cho đến các hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, sư huynh và giáo dân đều có những ác tính như ganh ghét, đó kị, tị hiềm, huênh hoang, khoác lác, khoe khoang, thiển cận, ích kỷ, tham lam, háo danh, thèm khát quyền lực, lấn lướt, vơ vào, bốc hốt, luôn luôn đòi chiếm lấy phần hơn trong bất cứ lãnh vực nào. Từ những chuyện nhỏ mọn như có men hay không có men trong bánh thánh, chuyện tín lý Chúa Ba Ngôi được phịa ra tại Hôi Nghi Nicaea khai nhóm vào ngày 20/5/325, chuyện có nên thờ Bà Maria hay không, cho đến nghi thức trong đạo và đặc biệt là quyền lực của ngôi vị giáo chủ đều có tranh giành hơn thua, cãi lộn, không ai nhường ai, rồi đí đến đấm đá, thanh toán, tàn sát lẫn nhau giống như các anh chi giang hồ trong các môn phái võ lâm Trung Hoa mà chúng ta thường thấy trong các phim Tầu. Một thí dụ điển hình cho những ác tính này là chuyện bất đồng chính kiến với nhau về một chi tiết nhỏ trong việc bịa đặt ra tín lý Chúa Ba Ngôi tại Hội Nghị Nicaea, họ cũng chụp mũ cho nhau là tà giáo và trục xuất ra khỏi hội nghị rồi “diệt tận gốc, trốc tận rễ” phe chiến bại. Sách sử ghi lại chuyên này như sau: “Vì ông Jesus không để lại bản văn viết nào về tín lý cho nên mới có những tranh luận giữa các tín đồ về niềm tin Ki-tô. Để giải quyết vấn đề này, năm 325, Hoàng Đế Constantine cho triệu tập một hội nghị nhóm họp ở Nicaea. Hội Nghị này sọan thảo một tín điều cho rằng Thượng Đế và ông Jesus Ki-tô có cùng một linh thể. Tất cả mọi người tham dự hội nghị đều đồng ý tín điều này, ngọai trừ một tu sĩ có tên là Arius và một số đồ đệ của ông ta. Những người này cho rằng Thượng Đế và ông Jesus Ki-tô có những linh thể khác nhau. Họ bị gán cho là tà giáo và bị trục xuất ra khỏi hội nghị. Những năm sau đó, phe theo ông Arius và phe theo quyết định tín điều Nicene tranh nhau giành quyền lãnh đạo Giáo Hội, nhưng cuối cùng thì phe Nicene chiến thắng. Thêm vào tín điều Nicene, hội nghị còn khai triển những bản văn trong Thánh Kinh. Thánh Kinh của người Do Thái mà lúc đầu Giáo Hội Kitô Do Thái chọn làm Thánh Kinh được gọi là Cựu Ước Kinh và được thêm vào những cuốn sách biên sọan sau khi ông Jesus đã bị hành hình. Có rất nhìều cuốn đuợc biên sọan sau khi ông Jesus qua đời, nhưng chỉ có 27 cuốn được chọn, gom lại được gọi là Tân Ước Kinh.” ["Because Jesus left no written messages, disputes about Christian beliefs arose among his followers. To resolve this conflict, the emperor Constantine convened the Council of Nicaea in 325. This body formulated a creed supporting the doctrine that God and Christ were the same substance. All members present agreed to the doctrine except a priest named Arius and his few followers, who maintained that God and Christ were of different substances. He and his followers were therefore banished from the Church as heretics (persons who hold a belief different the accepted view). As the years passed, the Nicenes and the Arians vied for leadership in the Church, but finally, the Nicenes were victorious. In additiion to the Nicene Creed, there had developed an official book of sacred writings. To the holy writings of the Jews, which the early Christians adopted and called the Old Testament, were added religious writings compiled after the death of Jesus. Twenty-seven of these compilations, or books, were selected to make the New Testament..") [1] Màn chụp mũ và trục xuất Giám-mục Arius và những nguời đồng quan điểm với ông vừa trình diễn xong thì đến màn sử dụng bạo lực để tiêu diệt họ. Sự kiện này được ông Charlie Nguyễn ghi như sau: "Năm 340, Đế Quốc La Mã tiêu diệt hết các giáo phái Kitô đi ngược lại các giáo điều của Hội Nghị Nicaea do Hoàng Đế Constantine triệu tập vào năm 325 và chính thức đặt tên cho Giáo Hội Kitô mới của toàn đế quốc là Công Giáo (tiếng La-tinh là Catholica, tiếng Hy Lạp là Katholicos, có nghĩa là tôn giáo của hoàn câu). Saint Cyril of Jerusalem đã viết như sau: "Tất cả mọi người thờ Chúa đều phải qui tụ trong một hệ thống thiêng liêng đặt dưới quyền cai trị của Giáo Hoàng La Mã. Bất cứ ai không phải là thành viên của Giáo Hội đều bị vứt bỏ ra khỏi cuộc đời này và điều quan trọng hơn là bị vứt bỏ ra đời sau". (All who worshiped God were united in one sacramental system under the government of the Roman Pontiff. Anyone not a member of the Church must be cast out of this life and more important, out of next). Đây là một lệnh cưỡng bức toàn dân thuộc đế quốc phải theo đạo Công Giáo. Mọi người chống đối đều bị giết. Riêng những người Kitô thuộc giáo phái Arius (Arian Christians) bị giết trên 3.000 người."[2] Vì thấm nhuần cái đạo lý dựa trên gian dối, lừa bịp, phi luân, loạn luân và bạo lực của Thánh Kinh và của Nhà Thờ Vatican, cho nên chính những người có quyền lực trong Nhà Thờ Vatican luôn luôn tìm cách loại trừ những tu sĩ đối thủ mà họ nghi là có thể tranh đoạt mất chức vụ hay địa vị có quyền lực của họ. Cũng vì thế mà hầu như tất cả giáo sĩ trong cùng một Nhà Thờ, trong cùng một giáo khu, trong cùng một giáo phận lúc nào cũng ghìm nhau và tìm mưu tính kế để chuẩn bị giáng cho đối phương những đòn ác độc nhất. Sự kiện này đều được sách sử ghi lại rõ ràng. Sách Vicars of Christ viết: "Sự thù nghịch bộc phát thành những cuộc chiến tiêu diệt lẫn nhau thường xẩy ra vào khi có giáo hoàng qua đời. Thi dụ, khi (Giáo Hoàng) Liberius (352-366) chết vào năm 366, giáo triều chia làm hai phe, mỗi phe chọn một người của phe mình lên kế vị. Ursinus là giáo hoàng của một phe và Damasus là giáo hoàng của phe khác. Sau khi đánh nhau ở ngoài đường phố, phe Ursinus yếu thế, chạy vào trong nhà thờ St Mary Major (thường gọi là Thánh Đường Đức Bà Bạch Tuyết) rồi đóng cửa lại tử thủ. Phe Damasus tiến tới, trèo lên nóc nhà thờ đục lỗ, rồi dùng ngói và đá liệng xuống tấn công phe Ursinus. Đồng thời, một toán khác của phe Damasus tấn công vào trong qua cửa chính. Khi lọt được vào trong, hai bên ra sức chém giết lẫn nhau liên tiếp trong ba ngày. Cuối cùng, có tới 137 xác chết khiêng ra ngoài. Tất cả xác chết này đều là người của phe Ursinus. Ursinus bị bắt cho đi sống lưu vong, nhưng tội ác ở trong thánh đường Mary Major là vết nhơ trong thời Giáo Hoàng Damasus mãi mãi vẫn còn ghi trong sách sử." [Bitter rivalries often showed themselves on the death of a pope. For example, when Liberius (352-366) died in 366, two factions elected a successor. Ursinus was one pope. Damasus was the other. After a lot of street fighting, Ursinus ‘ followers locked themselves in the recently completed basilica of St Mary Major, known as “Our Lady of Snow”. Damasus’ supporters climed on the roof, made a hole in it and bombarded the occupants with tiles and stones. Others meanwhile were attacking the main door. When this caved in, a bloody fight ensued for three days. At the end of it, 137 bodies were carried out, all of them followers of Ursinus. Ursinus was sent into exile by the emperor’s representative, but the crime in Mary Major was a permanent blot on Damasus’ copybook.” [3]. Càng về sau, Giáo Hội càng lấn lướt các thế quyền các nước Âu Châu, cho nên Giáo Hội lại càng có nhiều quyền lực hơn và nhiều tài sản hơn. Quyền lực và tài sản càng nhiều, thì sự xung đột tranh chấp và thanh toán lẫn nhau càng xẩy ra nhiều hơn và càng khốc liệt hơn trước. Muốn biết rõ tình trạng này như thế nào, chúng ta chỉ cần nhìn vào danh sách các giáo hoàng trong cuốn Vicars of Christ của Giáo-sĩ Peter de Rosa (Dublin, Ireland, Poolberg Ltd, 2000), rồi đếm xem có bao nhiêu ông ngụy giáo hoàng (antipopes) để suy nghiệm ra là có bấy nhiêu lần các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican chia bè lập đảng tàn sát thanh toán lẫn nhau để giành chiếm ngôi vị giáo hoàng. Theo tài liệu này, người viết tính ra có tới 37 ông ngụy giáo hoàng, tức là có tới 37 lần các ông mang chức thánh cao cấp nhất trong Giáo Hội chia thành hai hay ba phe đảng, mỗi phe, chiếm cứ một vùng xưng hùng xưng bá, thành lập giáo triều riêng, tự xưng là chính thống, gọi đối phương là ngụy, rồi phát động những chiến dịch tấn công các phe thù địch và những thành phần đối kháng, y hệt như tình trạng nước Việt Nam ta vào thời Thập Nhị Sứ Quân trong thế kỷ X, thời Nam Triều - Bắc Triều (1533-1592), thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh (1627-1775), và trong những năm 1954-1975. Ngoài 37 lần chia phe chia phái rồi tàn sát tiêu diệt lẫn nhau như vậy, lại còn có rất nhiều vụ các vị chức sắc cao cấp trong giới lãnh đạo của Giáo Hội ngấm ngầm thanh toán và tàn sát lẫn nhau hết sức dã man để tranh thắng và chiếm giữ ngôi vị giáo hoàng. Theo sách sử, sau khi Giáo Hoàng Anastasius II (496-498) qua đời, ngày 22 tháng 11 năm 498, Symmachus được chọn đưa lên kế vị. Vừa mới lên ngôi được mấy ngày thì một số những nhân vật có thế lực trong Giáo Hội lại ủng hộ ông Tổng Giám Mục Lawrence và đưa ông lên làm Giáo Hoàng. Việc này làm cho các ông chức sắc trong Tòa Thánh La Mã chia làm hai phe chống đối nhau. Nguyên nhân chính làm cho hai bên chống đối nhau là vì quan điểm khác biệt về vấn đề “Acacian Schism”. Phe ông Lawrence thì muốn Giáo Hội phải tiếp tục theo đuổi chính sách ôn hòa đối với Giáo Hội Đông Phương giống như Giáo Hoàng Anastasius II đã làm trước kia. Trong khi đó, phe Giáo Hoàng Symmachus chủ trương là phải giữ vững lập trường cố hữu và phải tỏ thái độ cứng rắn đối với Giáo Hội Đông Phương. Cả hai bên cùng giữ vững lập trường và chẳng bên nào chịu nhượng bộ bên nào. Cuối cùng, Vua Theodoric của xứ Ostrogoths là một nhà cầm quyền có thế lực nhẩy vào can thiệp và ủng hộ phe Giáo Hoàng Symmachus. Cán cân nghiêng hẳn về phía Giáo Hoàng Symmachus, nhưng phe Lawrence vẫn còn tiếp tục chống đối, đem quân tấn công, chiếm Dinh Lateran. Nhiều tu sĩ bị giết hại, Giáo Hoàng Symmachus phải trốn khỏi Dinh Lateran chạy ra ẩn núp ở sau những bức tường của Thánh Đường St Peter. Thấy vậy, Vua Theodoric bèn ra lệnh cho quân đội của Lawrence giải tán và chính Lawrence phải rút lui ra khỏi kinh thành La Mã. Biết rằng không thể chống cự được với quân đội của Vua Theodoric, phe Lawrence đành phải rút lui. Nhờ vậy mà cuộc tranh chấp này mới chấm dứt và Giáo Hoàng Symmachus mới trở về Dinh Lateran yên vị. Đến năm 514 thì ông qua đời Cho đến thời kỳ này, Đế Quốc La Mã Phương Tây đã phân hóa thành nhiều tiểu quốc, nhưng Đế Quốc Phương Đông có thủ đô là kinh thành Constantinople vẫn còn khống chế cả Giáo Hội Phương Đông (sau này là Giáo Hội Chính Thống) và Giáo Hội Phương Tây (tức Giáo Hội La Mã). Vì bị Đế Quốc Đông Phương (Byzantine) khống chế, cho nên việc tấn phong Giáo Hoàng John III (561-574) cần phải có sự chấp thuận của Hoàng Đế Justinan. Bản văn sử dưới đây cho chúng ta thấy rõ sự kiện này: “Giáo Hoàng John III (561-574) được tuyển chọn đưa lên kế vị Giáo Hoàng Pelagius I (556-560) và được tôn phong vào ngày 17 tháng 7 năm 561, nhưng bị bắt buộc phải chờ đợi tới khoảng 4 tháng sau mới nhận được sự chấp thuận chính thức của Hoàng Đế Justinan.” [John III.-.. Elected to succeed Pope Pelagius, he was consecrated on July 17, 561, forced to wait some four months until formal approval of his election came from Emperor Justinian.”[4]. Tình trang lệ thuộc này kéo dài đến giữa thế kỷ thứ 8 vào thời Giáo Hoàng Gregory III (731-741) mới chấm dứt vì lúc đó Đế Quốc Byzantine đã suy yếu, phần vì nội bộ lủng củng, phần vì các thế lực chính trị tại Pháp, Đức và Ý cũng nhẩy lên tranh thắng trên sân khấu chính trị Âu Châu. “Ngày 18 tháng 3 (năm 731), ông (Giáo Hòang Gregory III) được tôn phong lên làm Giáo Hoàng và lập tức ông tìm cách để cầu xin Byzantine chuẩn nhận. Đây là lần chót khi Giáo Hoàng lên ngôi phải cần có sự chuẩn nhận như vậy.” [On March 18 he (Gregory III) was consecrated, seeking immediately the approval of the Byzantine exarch (or governor) of Ravena, the last time that a pope would ask for such approbation.” [5] . Sau đó không bao lâu, Đế Quốc Byzantine thật sự suy yếu. Nhờ thế mà Vatican mới thoát được tình trạng làm chư hầu cho Đế Quốc Byzantine. Thế nhưng, khi quyền lực càng được tăng lên bao nhiêu thì tình trạng tranh giành quyền lực trong nội bộ Giáo Hội La Mã lại càng trở nên khốc liệt hơn trước. Chuyện này được sách Vicars of Christ ghi lại như sau: “Sau khi Giáo Hoàng Benedict VI (973-974) bị ngụy Giáo Hoàng Boniface sát hại, giám mục địa phận Sutri, ở gần Viterbo, được bầu lên ngôi tức là Giáo Hoàng Benedict VII (974-983) với sự ủng hộ của Hoàng Đế Otto II của nước Đức, của phe đảng ủng hộ đế quốc Đức và của các gia đình quý tộc tại Ý Đại Lợi. Benedict VII, lúc đó là Giám mục địa phận Sutri được tôn phong lên ngôi Giám-mục tại kinh thành Rome (tức là Giáo Hoàng) vào tháng 10 năm 974. Tân Giáo Hoàng liền triệu tập hội nghị để rút phép thông công ngụy Giáo Hoàng Boniface VII (974 và 985). Nhưng rồi, vào mùa hè năm 980, Boniface VII khởi loạn chống lại Benedict VII, buộc Giáo Hoàng Benedict VII phải chạy khỏi kinh thành Rome và cầu cứu Hoàng Đế Otto, nhưng mãi đến tháng Ba năm sau mới ổn định.” [After Benedict VI (973-974) was murdered by the antipope Boniface VII, Benedict VII, then bishop of Sutri, near Viterbo, was elected pope with the support of the emperor Otto II and the pro-imperial party and aristocratic families of Rome. He was consecrated as bishop of Rome sometime in October 974. The new pope immediately convened a synod at which the antipope Boniface VII was excommunicated. However, Boniface mounted a revolt against Benedict VII in the summer of 980, forcing the pope to leave the city. The pope appealed to the emperor, but it took until the following March to be restored.” [6] . Song song với những thủ đoạn và hành động chia phe, lập đảng chống đối và thanh tóan lẫn nhau một cách cực kỳ dã man để độc chiếm ngôi vị giáo hoàng, các ông chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican từ giáo hoang đến giới tu sĩ các cấp đều sống đời hoang đàng bê bối thối tha, loạn dâm, loạn luân, dâm loàn, và quyền lực càng cao, tiền bạc càng nhiều thì họ càng sống đời hoang đàng bê bối thối, càng loạn dâm, loạn luân, dâm loàn hơn trước. Tình trạng này được sách Vicars of Christ ghi lại như sau: “Do việc luôn luôn vận dụng chính trị và ám ảnh với những vấn đề thế tục, do việc lạm dụng quyền lực và do sự độc ác kinh hồn, các ông giáo hoàng đáng lý ra là tụ điểm của tinh thần đoàn kết, nhưng lại làm cho toàn thể vương quốc Kitô hư hỏng, thối nát và đồi bại. Không phải tà giáo, mà chính là cái chức vị giáo hoàng đã làm cho Giáo Hội tan nát... Hãy lấy danh sách các ông giáo hoàng từ năm 880 trở đi ra cứu xét. Trong 150 năm tiếp theo đó, có tới 35 người lên làm giáo hoàng, tính trung bình mỗi ông ngồi ở ngai vàng được 4 năm. Trong thời kỳ đầu, việc chuyển quyền đều giống nhau. Những người được chọn đưa lên làm giáo hoàng chỉ vì họ quá già yếu và nhu nhược. Nhưng tới thế kỷ thứ IX và thế kỷ thứ X, nhiều người được đưa lên ngôi mới ngoài hai mươi tuổi, nhiều người mới mười mấy tuổi. Có mấy người chỉ ở ngôi được có 20 ngày, hay một tháng, hay 3 tháng. Sáu người bị truất phế, một số bị giết khi còn tại vị. Trong thời gian này, không thể nào biết được có bao nhiêu ông giáo hoàng thứ thiệt và bao nhiêu giáo hoàng giả (ngụy giáo hoàng) vì rằng lúc đó chưa có phương pháp nhất định để tuyển chọn trong số những người ngấp nghé mong được đưa lên làm giáo hoàng. Khi có một giáo hoàng bỗng dưng biến mất, người ta nghi ngờ có thể ông ta đã bị cắt cổ rồi ném xuống sông Tiber? Có thể ông ta bị bóp cổ cho chết ở trong tù? Có thể ông ta đã trốn đi ngủ với gái ở một nhà chứa? Có thể ông ta đa bỉ cắt tai, xẻo mũi như Giáo Hoàng Stephen VIII (928-931) vào năm 930, rồi chẳng bao giờ dám xuất hiện ở các nơi công cộng nữa? Hay là ông ta đã trốn đi biệt tăm như trường hợp Giáo Hoàng Benedict V (964) vào năm 964, sau khi đã làm nhục một thiếu nữ trẻ rồi cuỗm toàn thể kho tàng của Giáo Hội trốn đi Constantinople ngay sau đó, và chỉ trở về sau khi đã sài hết sạch tiền bạc để rồi lại gây ra những thảm họa khác cho kinh thành La Mã? Sử gia ngoan đạo Gerbert gọi Bebedict là “con quỷ độc ác nhất trong các con quỷ”, nhưng cũng còn chưa nói lên đúng mức với tội ác của ông ta. Đức Thánh Cha này cuối cùng bị một người chồng của một bà đánh ghen giết chết. Xác của Ngài có tới hàng trăm nhát dao đâm và bị lôi đi qua các đường phố, rồi bị liệng vào một cái hầm cầu tiêu. Không cần phải thắc mắc, các ông giáo hòang (đức thánh cha) này đã tạo ra tập đoàn lãnh đạo đê tiện nhất trong lịch sử cả ở trong Giáo Hội cũng như ở ngoài đời. Rõ ràng, họ chỉ là những quân dã man mọi rợ. La Mã cổ thời không có gì có thể sánh với những sự thối tha của các đức thánh cha này. Một đức thánh cha khác, Giáo Hoàng Stephen VII (896-897) khùng điên đến cùng độ của khùng điên. Ông ta cho đào xác vị tiền nhiệm là Giáo Hoàng Formosus (891-896) đã chết hơn 9 tháng rồi. Trong cái gọi là Phiên Tòa Xử Xác Chết, Đức Thánh Cha Stephen VII cho mặc lễ phục giáo hoàng vào cái xác chết của Đức Thánh Cha Formosus đã thối rữa, rồi cho ngồi vào ngai vàng của giáo hoàng ở trong Điện Lateran rồi chính ông ta đứng ra thẳm vấn. Đức Thánh Cha Formosus bị cáo buộc là ngụy giáo hoàng; lý do: ông ta là giám mục ở một chỗ khác, vì thế nên không đủ tiêu chuẩn ở Rome để được làm giáo hoàng. Theo Giáo Hoàng Stephen, phiên xử này làm vô hiệu hóa tất cả những việc làm của Giáo Hoàng Formosus. Một cậu bé phụ tế trả lời thế cho cái xác chết của Đức Thánh Cha Formosus. Sau khi bị tuyên bố là có tội, cái xác chết của Đức Thánh Cha Formosus bị kết án là “ngụy giáo hoàng”, quần áo bị lột, ba ngón tay (phải) bị xé bỏ, chỉ để lại cho một chiếc áo lông bó sát vào cái xác đã thối rữa này giống như một bịch thịt, rồi đem liệng xuống sông Tiber. Sau đó, cái xác này đuợc những người thương mến Formosus vớt lên và âm thầm đem chôn ở một nơi. Sau này, cái xác này được đem đến chôn ở bên ngôi mộ của Thánh Peter. Chẳng bao lâu, chính Giáo Hòang Stephen VII cũng bị bóp cổ chết. Các đức thánh cha chém giết lẫn nhau rồi chính bản thân cũng bị giết. Đời sống của các ngài chẳng giống như phúc âm chút nào cả. Họ giống như lũ thiếu niên con cái các gia đình giầu có biến thành bọn nghiện ngập, du côn, du đãng ở trong các hộp đêm trong thời đại ngày nay hơn là các ông giáo hoàng La Mã như là cái nhìn của nhân dân thế giới bây giờ. Một số được đưa lên ngai vàng là do nơi cha mẹ có tham vọng, một số nhờ vào thanh kiếm (bạo lực), một số nhờ vào ảnh hưởng của các bà nhân tình trẻ đẹp ở trong giới thượng lưu mà người đời gọi là “Triều Đại Của Bọn Gái Điếm”. Nổi bật nhất trong những cô gái điếm hạng sang này là Marozia của gia đình Theophylact. Theo Giám Mục Liutpand ở địa phận Cremona, một người đương thời với bà, thì thân mẫu của Marozia là Theodora đã chỉ bảo cho nàng cái mánh mung “vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề”. Chính bà Theodora đã ăn ở với Đức Thánh Cha John X (914-928) và sinh ra đứa con gái thứ hai của bà cũng có tên là Theodora. Người nào nói rằng đàn bà chẳng bao giờ có ảnh hưởng đến công việc quản lý Giáo Hội thì sẽ không thể hiểu được hai người đàn bà quả quyết và cương nghị ngoài sức tưởng tượng này. Trong vòng chưa đầy 10 năm, các bà gái điếm hạng sang này đưa lên ngai vàng và truất phế không dưới tám đức thánh cha. Trong tác phẩm “Sự Suy Vong Và Sụp Đổ”, sử gia Gibbon đề nghị gọi các đức thánh cha này là các nữ giáo hoàng, vi rằng họ là hình ảnh “chính trị làm tình” (nhờ kỹ thuật làm tình) và cũng là những người tạo nên sự xuất hiện nữ Giáo Hoàng Joan. Vị nữ giáo hoàng này đã được mọi người tin tưởng trong nhiều thế kỷ cho tới thời Cải Cách (1309-1648). Đây cũng là nguồn an ủi đối với người Anh khi họ biết rằng chỉ có một nữ giáo hoàng độc nhất vốn là một cô gái gốc Anglo-Saxon. Bà giáo hoàng này đang lúc có bầu gần kề ngày sinh thì lại mặc lễ phục giáo hoàng đi diễn hành từ Đại Hí Trường đến nhà thờ San Clemente, và chết ở dọc đường.” [7]. Sách Babylon Mystery Religion viết: - Giáo Hoàng Sergius III (904-911) đã sát hại vị tiền nhiệm để nhẩy lên ngôi vị giáo hoàng. Sách sử Giáo Hội La Mã cho biết cuộc đời mang đầy tội ác của ông về chuỵện ông sống công khai với bà Marozia và có nhiều con ngoại hôn với người đàn bà này. Sử gia Baronius gọi ông là “con qủy râu xanh” và sử gia Gregorovius thì gọi ông là “tên tội đồ khủng bố”... Những năm Giáo Hoàng Sergius III tại vì là những năm khởi đầu cho thời kỳ “bọn gái điếm lộng hành và tháo túng Tòa Thánh Vatican” (904-963)." [Pope Sergius III (904-911) obtained the papal the papal office by murder. The annals of the church of Rome tell about his life of open sin with Marozia who bore him several illegitimate children. He was described by Baronius as a "monster" and by Gregorovius as a "terrorizing criminal." ....The reign of Pope Sergius III began the period knơwn as "the rule of the harlots" (904-963).”[8] "Giáo Hoàng John X (914-928) nguyên thủy được đưa tới nhận chức Tổng Giám Mục ở Ravanna, nhưng bà Theodora ra lệnh đưa ông trở về kinh thành Rome để rồi đưa lên làm giáo hoàng. Theo Giám-mục Liutprand địa phận Cremona, người viết lịch sử về thời 50 năm sau đó thì “Bà Theodora ủng hộ việc đưa John lên làm giáo Hoàng là để dễ dàng sống công khai với ông.” Sau đó, ông bị bà Marozia ám sát chết để đưa Leo VI (928-929) thay thế. Leo VI cũng chỉ ở ngôi mấy tháng (From May to December 928) rồi cũng bị bà Marozia ám sát chết sau khi bà ta khám phá ra ông giáo hoàng này yêu một người đàn bà khác." [John X (914-928) originally had been sent to Ravanna as an archbishop. Theodora had him returned to Rome and appointed to the papal office. According to Bishop Liutprand of Cremona who wrote a history about fifty years after this time, "Theodora supported John's election in order to cover more easily her illicit relations with him." His reign came to a sudden end when Marozia smothered him to death! She wanted him out of the way so Leo VI (928-929) could become pope. His reign was a short one, however, for he was assassinated by Marozia when she learned he had "given his heart to a more degraded woman than herself!") [9] "Mấy năm sau, bà Marozia đưa con trai của bà mới hơn mười tuổi lên ngôi tức là Giáo Hoàng John XI (931-935)). Nhiều sử gia trong đó có sử gia Liutprand quả quyết rằng John XI là con ruột của bà và Giáo Hoàng Sergius III (904-911). Nhờ những âm mưu của mẹ (tức bà Marozia) lúc đó đang cầm quyền ở Rome mà cậu nhỏ này được đưa lên làm Giáo Hoàng. Nhưng rồi trong các cuộc thanh toán lẫn nhau giữa bà Marozia và các phe địch, Giáo Hoàng John XI bị hạ bệ và bị tống giam vào trong ngục thất, rồi bị đầu độc chết ở trong tù." [Not long after this, the teenage son of Marozia - under the name of John XI - became pope. . The Catholic Encyclopedia says, "Some, taking Liutprand and the Liber Pontificalis" as their authority, assert that he was the natural son of Sergius II (a former pope). Through the intrigues of his mother, who ruled at that time in Rome, he was raised to the Chair of Peter. But in a quarreling with some of his mother's enemies, he was beaten and put into jail where he dies from poisoning."[10] Trong bức tâm thư của Học Hội Đức Giêsu Kitô Phục Sinh gửi các linh mục Việt Nam vào tháng 5/1999, trong đó có một đoạn vừa nói rõ những sự chém giết thanh toán lẫn nhau để giành chiếm ngôi vị giáo hoàng, vừa nêu đích danh từng ông giáo hoàng với những tội ác trời không dung đất không tha, vừa nói rõ những khối tài sản khổng lồ mà Giáo Hội đã cướp đoạt được tại một số quốc gia Âu Châu. Nguyên văn đoạn này như sau: “Kính thưa các linh mục Việt Nam và ngoài nước, sau đây, Học Hội chúng tôi xin chia xẻ với quý vị về một tụ điểm rất tế nhị, tụ điểm “quyền lực của triểu đình giáo hội trung ương Roma”. Từ vạn cổ, ở đâu có quyền lực thì ở đấy có người nhòm ngó và mong chiếm đoạt – xác chết ở đâu diều hâu tụ lại đó - Giáo Hội Công Giáo Roma thời Trung Cổ suy đồi tồi tệ, là vì các đại quý tộc nước Ý tranh cướp “Ngôi Giáo Hoàng” với bất cứ giá nào, năm ba đạo quân kéo vào Roma bày trận thế, lấn nhau từng bước chí tử, máu đổ trên từng viên đá lát công trường thánh Phêrô. Đến giữa thế kỷ 15 thì đã có tổng cộng 39 giáo hoàng giả so với 209 giáo hoàng thật. Từ hậu bán thế kỷ 9 đến tiền bán thế kỷ 14, trong khoảng 421 năm có 15 giáo hoàng bị ám sát trên ngôi báu. Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) đã ra lệnh xây pháo đài phòng thủ kiên cố tháp vào đền thờ thánh Phêrô để bảo vệ sinh mạng Giáo Hoàng. Về sau, pháo đài này ngụy trang thành “nhà nguyện Sixtine”. Lịch sử cho biết có 3 (ba) giáo dân (không chức thánh dù nhỏ nhất) kế tiếp nhau lên Ngôi Giáo Hoàng là (#143) Benedict VIII (1012-1024), (#144) John XIX (1024-1032), và (#145) Benedict IX (1032-1048). Ấu chúa Banedict IX làm 3 (ba) nhiệm kỳ giáo hoàng ngắt quãng: Năm 12 tuổi lên ngôi được 12 năm bị truất 1 năm. Năm 25 tuổi làm thêm một năm, rồi năm 27 tuổi làm giáo hoàng thêm 2 (hai) năm nữa. Một bé trai thứ hai lên ngôi năm 18 tuổi là (#130) John XII (955-964). Cũng vì quyền lực của ngôi giáo hoàng mà giáo hoàng thứ 113 là Stephen VI (896-897) hạ lệnh khai quật một giáo hoàng thứ 111 là Formosus (891-896) lên xử “tùng xẻo” rồi ném xác xuống sông, sử gia gọi là “the so-called Cadaver Synod”. Thế còn ông giáo hoàng thứ 112 là Boniface VI đứng giữa hai bên “được làm vua thua làm giặc này” không biết làm giáo hoàng được mấy ngày. Các sử gia đoán chừng dài bằng với Urban VI là 12 ngày giáo hoàng. Và sau đây là vài niên biểu đáng ghi nhớ về quyền lực giáo hoàng (1) Giáo hoàng thứ nhất thiên đô từ Roma về Constantinopla là John I (523-526). (3) Giáo hoàng thứ nhất bị rút phép thông công là Vigilius (537-555). (4) Giáo hoàng thứ nhất cai tri Giáo Hoàng Cương Thổ là Stephen II (752-757). (5) Giáo hoàng thứ nhất thiên đô về Avignon ở Pháp là Clement (1305-1314). (6) Từ năm 1523 đến năm 1978, có tất cả 45 giáo hoàng người nước Ý liên tục kế tiếp nhau lên ngôi giáo hoàng. (7) Rừng nào cọp ấy, 7 giáo hoàng đóng đô tại thuộc nước Pháp đều là giáo hoàng người Pháp.”[11] Tình trạng này cũng được các giáo sĩ Việt Nam theo gương và hành xử giống như vậy. Bản văn dưới đây của nhà giáo Ca-tô Nguyễn Văn Trung cho chúng ta thấy rõ thực trạng này: “Điểm lại tình hình của Giáo Hội Việt Nam, có “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Thực vậy, chuyện giáo dân bị coi như cỏ rác là chuyện thường ngày ở huyện. Chuyện đau lòng hơn cả là chuyện các chủ chiên chơi nhau thay vì chơi với nhau ngày càng phơi trần ra. Sự sa đọa trong Giáo Hội ngày càng tăng thêm. Trong Giáo Hội, người giáo dân ở địa vị thấp nhất, nữ giáo dân luôn luôn nằm dưới. Thật là nghịch lý trong khi Đức Mẹ lại được các cha, nhất là các cha dòng Chúa Cứu Thế “ga lăng” hết cỡ! Người giáo dân chỉ có quyền vâng lời, đóng góp và hầu hạ các Đấng, các bậc trong Hội Thánh. Ai vâng lời dưới 100% có thể bị coi là rối đạo và bị loại trừ dưới mọi hình thức, nhất là không vâng lời về chính trị và tiền bạc thì xem như lúa đời, phạm tội cực trọng, đáng sa hỏa ngục đời đời chẳng cùng Amen… Thượng Bất Chính, Hạ Tắc Lọan.- Ai có dịp gần gũi các giám mục Việt Nam đều có nhận xét rằng về mặt cá nhân, các Ngài có vẻ đạo mạo, cởi mở, dễ mến, trừ một ít vị tỏ ra cao ngạo, khép kín, quan liêu. Nhưng trong lề lối làm việc của các giám mục thường rất độc tài, độc đoán. Trong đối xử thường tỏ ra kỳ thị, ban phát ân huệ, coi thường bề dưới, ganh tị và kèn cựa với đồng liêu để lập công với Tòa Thánh. Những đỉểm nổi bật nhất là việc làm không đi đôi với lời rao giảng, trọng ngoại khinh nội, tham phú phụ bần, vô cùng sợ hãi Tòa Thánh, đến nỗi có những linh mục nói rằng “Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm.” Mâu thuẫn (giữa) giám mục chánh và giám mục phó: Ngày nay, chuyện các giám mục chơi nhau, không cần phải vạch áo cho người xem lưng, bàn dân thiên hạu đều biết rõ, nhất là giữa các giám mục chánh và phó. Đức Tổng Giám Mục Phillippê Nguyễn Kim Điền chơi Đức Tổng Giám Mục Phó Stêphanô Nguyễn Như Thể ra sao hồ sơ còn đó, buộc Đức Cha Thể phải từ chức vì sự hiệp nhất trong Giáo Hội (hiệp nhất hay là hèn nhát?). Nhiều người biết Đức Cha Phaolồ Bùi Chu Tạo chơi Đức Cha Giuse Nguyễn Văn Yến, thậm chí có đơn phụ nữ tố cáo Đức Cha Yến gửi sang Tòa Thánh, và việc Đức Cha Tạo bàn tính với Đức Hồng Y buộc Đức Cha Yến từ chức. Bà con giáo dân Vinh ở miền Nam biết rõ Đức Cha Phêrô Trần Xuân Hạp đã chơi Đức Cha Phaolồ Cao Đình Thuyên phải ngậm đắng nuốt cay như thế nào. Đức Cha André Nguyễn Văn Nam và Đức Cha Phó G.B. Pham Minh Mẫn mâu thuẫn với nhau ra sao đã có nhiều giai thoại. Chuyện Đức Alexis Phan Văn Lộc và Đức Cha Phó Phêrô Trần Thanh Chung choảng nhau đã nổi tiếng sang đến tận Tòa Thánh. Đức Cha Phaolô Nguyễn Minh Nhật đối xử với Đức Cha phụ tá Tôma Nguyễn Văn Trâm thua cả giáo dân tay chân thân tín của Đức Cha Nhật làm nhiều linh mục Xuân Lộc phải ngao ngán. Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ trường kỳ khống chế Đức Cha G.B. Bùi Tuần ra sao, xin miễn bàn. Dầu sao Đức Cha Tuần cũng sắp sửa mừng 25 năm Giám Mục Phó dưới sự canh chừng cẩn mật của Đức Cha Ngữ, kẻo Đức Cha Tuần lầm đường lạc lối, sa chước cám dỗ làm Tổng Biên Tập cho báo Công Giáo và Dân Tộc. Chuyện các giám mục chơi nhau có lẽ kể nghìn lẻ một đêm không dứt, nên nhiều linh mục chính, phó cũng đã noi gương chơi nhau sát ván ra sao, bà con các xứ đạo đều biết, nhất là chị em Con Đức Mẹ, không dám nêu thêm ở đây nữa, kẻo ô danh sự đạo. Giêsu, Maria, lạy Chúa tôi, bọn phá đạo nói xấu các Đức Cha! Không đâu! Nói thật đấy. Lời Chúa phán sự thật sẽ giải thoát chúng ta. Các giám mục, linh mục hãy thành thật thương nhau cho giáo dân được nhờ. Hãy làm gương sống theo lời răn dạy của Chúa. Không thương yêu nhau thì yêu thương kẻ thù thế quái nào được? Cứ rao giảng như thế là láo toét và bịp bợm.” [12] . B.- Phân hóa thành nhiều hệ phái: Trong những cuộc tranh chấp, thanh toán và tàn sát lẫn nhau như vậy, theo quy luật “thắng thì là vua, thua thì làm giặc”. Phe chiến thắng thì xưng hùng xưng bá, tự cho mình là “chính giáo”, và phe chiến bại thì bị phe chiến thắng gọi là “tà giáo” và lãnh tụ của phe chiến bại bị gọi là “ngụy giáo hoàng” (anti-popes). Như đã nói ở trên, lịch sử Giáo Hội La Mã có tới ít nhất là 37 ông “ngụy giáo hòang”, tức là 37 lần chia phe chia phái lập băng đảng tàn sát lẫn nhau để giành chiếm ngôi giáo chủ. “Hội Thánh duy nhất, thánh thiện công giáo và tông truyền” là như thế đó. Trong những cuộc đánh lộn thanh toán và tàn sát lẫn nhau, gây nên những cuộc chiến kéo dài trong nhiều năm mà không phe nào diệt được phe nào và phe nào cũng còn hùng cứ một phương. Ở vào trường hợp này, lại có một hệ phái thiên Chúa Giáo với một danh xưng mới được thành hình. Cái nguyên nhân có nhiều hệ phái đạo Thiên Chúa là như vậy. Dưới đây là những hệ phái Thiến Chúa hiện nay ở trên thế giới: 1.- Do Thái Giáo (Judaism). Đạo này ra đời vào khỏang năm 1250 trước Tây Lịch. (Tương đương với thời đại suy vong của Nhà Thương ở Trung Quốc.) 2.- Ki-tô Giáo (Christianity). Đạo này rả đời vào khoảng cuối thế kỷ 1 Tây lịch. (Tương đương với đời nhà Hán ở Trung Quốc, trễ hơn thời Hai Bà Trưng ở nước ta.) 3.- Hồi Giáo (Islam). Đạo này ra đời và dầu thế kỷ 7 Tây lịch. (Tương đương với thời nhà Đường ở Trung Quốc.) Tất cả ba hệ phái này đều tôn vinh ông thần của người Do Thái có tên là Jehovah là Thượng Đế hay Chúa và lấy việc thờ phượng ông thần độc ác này làm lẽ sống, rồi phát triển thành những nếp sống văn hóa của họ. Theo thời gian, mỗi hệ phái này lại phân hóa ra làm nhiều hệ phái khác. Riêng hệ phái Ki-tô Giáo lại phân hóa ra làm: a.- Chính Thống Giáo: Âm ỷ từ năm 325 tại Hội Nghị Nicaea, dứt khóat: năm 1054. b.- Anh Giáo: Thành hình và tách rời ra khỏi Vatican vào đầu thập niên 1530. Sẽ được nói rõ trong Chương 15 (Phần III) ở sau. c.- Tin Lành: Thành hình do việc chống đối Vatican vào tháng 10/1517. Kể từ đó cho đến nay, có cả mấy chục hệ phái Tin Lành khác ra đời.
CHÚ THÍCH [1] Arnold Schrier & Walter Wallbank. Living World History (Glenview, Ill: Scott, Foresman and Co, 1974), page 118-119. [2] Charlie Nguyên, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), trang 18-19. [3] Peter de Rosa, Vicars of Christ (Dublin, Ireland: Poolbeg, 2000) tr 38. [4] Mathew Bunson, The Pope Encyclopedia (New York, Crowns Trade Paperpacks, 1995), p. 190. [5] Mathew Bunson , Sđd., tr 155. [6] Richard P. Mcbrien. Lives of the Popes (New York: Harper San Francisco, 1997), p 162. [7] Peter de Rosa, Ibid., tr 47-49. [By incessant political manoeuvres and an obsession with temporal matters, by an abuse of power and astounding wickedness, popes, supposedly the centre of unity, corrupted the whole Christendom. It was not heresy but papacy that finally broke up the church.... To begin with, it helps to examine any list of popes from about the year 880. In the next century and a half there were thirty five pontiffs, reigning on average four years apiece. In the earlier period, there was the same sort of turnover; that is explained by the fact that popes were chosen because they were elderly and infirm. But in the ninth and tenth centuries, many popes were in their early tewenties, several were teenagers. Some lasted twenty days, or a month, or three months. Six of them were dethroned, a number were murdered, It is actually impossible to be certain how many popes and antipopes (fakes) there were in this period, because there was still no fixed method of election and any number of pretenders. When a pope suddenly disappeared, had he had his throat cut and been tossed into the Tiber? Had he been throttled in prison? Was he sleeping it off in a brothel? Had he had his ears and nose cut off like Stephen VIII (928-931) in 930, who understandably, never again showed his face in public? Or had he fled, like Benedict V in 964, who after dishonouring a young girl, immediately took off for Constantinople with the entire treasury of St Peter’s, only to reappear when funds ran out and cause more havoc in Rome? The church historian Gerbert called Benedict “the most iniquitous of all the monsters on ungodliness”, but his judgement was premature. This pontiff was eventually slain by a jealous husband. His corpse, with a hundred dagger wounds in it, was dragged through the streets before being tossed into a cesspool. Without question, these pontiffs constitute the most despicable body of leaders, clerical or lay, in history. They were, frankly, barbarians. Ancient Rome had nothing to rival them in rottenness. One pope Stepen VII (896-897), was completely mad. He dug up a Corsican predecessor, Pope Formosus (891-896) when he had been dead for over nine months. In what came to be known as the Cadaveric Synod, he dressed the stinking corpse in full pontificals, placed him on the throne in the Lateran and proceeded to interrogate him personally. Formosus was charged with becoming pope under false pretences; he was bishop of another place, hence ineligible for Rome. According to Pope Stephen, it made all his acts invalid, specially his ordinations. A chattering teenaged deacon replied on Formosus’ behalf. After being found guilty, the corpse was condemned as an antipope, stripped of all but a hair shirt clinging to the withered flesh and, minus the two fingers with which he had given his fake apostolic blessing, was thrown onto the Tiber. The body, held together by the hair-shirt like a carcass of meat, was recovered by some of Formosus’ admirers and given a quiet burial. Later, it was returned to its tomb in St Peter’s. Stephen himself was strangled. Popes maimed and were maimed, killed and were killed. Their lives bore no resemblanes to gospel. They had more in common with modern rich kids turned hooligans and junkies who haunt beach cafes and nightclubs than with Roman pontiffs as the world now see them. Some owed their preferment to ambitious parents, some to the sword, some to influence of high-born and beautiful mistresses in what became known “The Reign of the Harlots”. Outstanding among the courtesans was Marozia of the Theophylact family. According to her comtemporary, Bishop Liutprand of Cremona, she had been well coached by her mother, Theodora, who had a second daughter, also named Theodora, by Pope John X (914-929). Whoever says women have never had any influence on how the church is run have never come across these two incredibly determined ladies. In less than one decade, they created – and, when it suited them, destroyed – no less than eight popes. In his Decline and Fall, Gibbon suggests that it was the “she popes” who epitomized the politics of sex who gave rise to the legend, or satire, of Pope Joan. This female pontiff was believed in for several centuries, right up to the Reformation. It is some consolation to the English to know that the only female pope was a beautiful Anglo-Saxon girl. In full ponttificals, so runs the story, she brought forth a son while travelling from the Colosseum to the Church of San Clemente and, alas, dies on the spot...” [8] Ralph Woodrow, Babylon Mystery Religion (Riverside, California: Ralph Woodrow Evangelistic Association, Inc., 1981), pp. 91-92. [9] Ralph Woodrow., Ibid., p 92. [10] Ralph Woodrow., Ibid., p 92. [11] Phan Đình Diệm. “Tâm Thư Chia Sẻ Cảm Nghiệm với Các Linh Mục Trong và Ngòai Nước Việt Nam.” tanvien@kitohoc.com ngày 19/9/2000.
|
Trang Nguyễn Mạnh Quang |