|
16 tháng 9, 2010 |
LTS (NLD): Sau khi Báo NLĐ Chủ nhật ngày 7-1-2007 đăng bài “Đi tìm nguồn gốc
chữ quốc ngữ” của GS-TS Phạm Văn Hường, tòa soạn đã nhận được nhiều ý kiến
trao đổi rất khác nhau. Tòa soạn chân thành cảm ơn những ý kiến của các nhà
nghiên cứu, bạn đọc khắp nơi gửi về. Nhận thấy đây là một đề tài nghiên cứu
vẫn đang còn nhiều tranh luận, chưa thể có kết luận cuối cùng, chúng tôi
chọn đăng hai bài viết của tác giả Phan Quang về đề tài này để bạn đọc tham
khảo.
Quá trình hình thành chữ quốc ngữ kéo dài hơn
ba trăm năm, tính từ ngày những giáo sĩ phương Tây đầu tiên đặt chân lên đất
Việt tiếp xúc với người bản địa cho đến khi tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra
đời với bộ chữ in có dấu thanh được thửa ở châu Âu riêng cho nó. Theo các
nhà sử học (1), đội thương thuyền đầu tiên của Bồ Đào Nha cập vịnh Đà Nẵng
năm 1516, chỉ năm năm sau khi họ đổ quân lên chiếm Malacca (eo biển Mã Lai).
Còn ở Đàng Ngoài thì hình như muộn hơn nhiều, và đến từ Macau (Trung Quốc)
mà trước đó họ cũng đã chiếm làm thuộc địa. Dĩ nhiên, như chúng ta biết, đến
năm 1651 mới có Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latinh xuất bản tại Roma, song
để có cuốn từ điển này (ai là tác giả đích thực vẫn còn là điểm tồn nghi), hẳn phải có nhiều giáo sĩ khi đặt chân
lên đất Việt từng thử dùng mẫu tự Latinh để ghi cách phát âm mà học tiếng
bản địa. Tuy vậy, ngay sau khi đã được định hình một cách tương đối có hệ
thống, chữ quốc ngữ vẫn chỉ quanh quẩn trong phạm vi nhà thờ Thiên Chúa
giáo. Phải đợi đến ngày Gia Định báo, tờ báo đầu tiên in bằng chữ quốc ngữ
ra mắt bạn đọc (năm 1865) thì nó mới đi vào công chúng tương đối rộng; và
thời gian sau đó, các trường dạy chữ quốc ngữ lần lượt mở cửa, chữ quốc ngữ
thật sự vào cuộc sống của xã hội Việt Nam.
Chữ Quốc ngữ: Công trình sáng tạo tập thể
Ai là những người đi tiên phong và có công đầu trong việc định hình chữ
quốc ngữ? Vấn đề này đã tốn khá nhiều giấy mực. Có người cho rằng công lớn
thuộc về hai giáo sĩ người Bồ Đào Nha là Gaspar do Amiral và Antonio
Barbosa. Lại có ý kiến cho rằng các tác giả đầu tiên là ba giáo sĩ người Ý
Francesco Buzumi và hai đồng sự trẻ hơn của ông là Francesco de Pina và
Cristoforo Borri (2). Giáo sĩ Francesco Buzumi cùng một giáo sĩ người Bồ tên
là Diego Carvalho đến miền Nam nước Việt năm 1615. Thời gian này các nhà
truyền giáo phương Tây bị các tướng quân (shogun) đang nắm chính quyền tại
Nhật Bản xua đuổi nghiêm ngặt. Giáo đoàn dòng Tên Jesus (Jésuites) hướng về
Đàng Trong của Việt Nam, nơi đây các thương nhân Nhật đã hình thành một cơ
sở giao thương thịnh vượng ở Hội An. Chín năm sau, 1624, Alexandre de Rhodes
mới được phái đến cùng năm giáo sĩ khác cập bến Hội An.
Tuyệt đại bộ phận các nhà nghiên cứu phương Tây cũng như Việt Nam từ
trước tới nay không ai quy công đầu cho một tác giả đơn nhất mà đều khẳng
định chữ quốc ngữ là sáng tạo tập thể, mỗi người góp phần một ít; những vị
đi trước mở đường, những người kế tiếp hoàn thiện, nâng cao. Hình thành chữ
quốc ngữ là một quá trình. Hoàn thiện nó cũng là một quá trình chỉ có thể
tạm ngừng chứ không kết thúc, vì nó là một cơ thể sống đang phát triển. Công
lao đặt nền móng chắc chắn thuộc về các giáo sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo
người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha, người Ý, người Pháp, người Hà Lan... và
có cả người Việt Nam - tại sao không? Bởi, theo thiển nghĩ của chúng tôi,
người Việt chứ còn ai khác đã dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ nước ngoài, và
một khi đã có một số tín đồ bản địa, cho dù hiếm hoi, tiếp cận tiếng La
tinh, thì nhất định họ có góp phần vào việc ghi âm chữ quốc ngữ bằng thứ mẫu
tự ấy. Người phương Tây ra nước ngoài, nhất là vào thời bành trướng của chủ
nghĩa thực dân, ít người tránh được thiên hướng kỳ thị người bản địa. Nếu
chúng ta tin lời của chính giáo sĩ Alexandre de Rhodes, thì các nhà truyền
giáo người Bồ, người Ý, người Tây Ban Nha không muốn nâng một số giáo đồ
Việt Nam lên hàng chức sắc. Có nhà sử học đã đặt vào miệng ông câu nói:
“Người bản xứ có thể tử vì đạo, tại sao họ không thể làm giáo sĩ?”. Dù sao,
tín đồ Việt Nam đầu tiên là Philippo Bỉnh mãi tới năm 1820 mới được tấn
phong linh mục tại Lisbonne, thủ đô Bồ.
Từ điển Việt – Bồ – La tinh
Sao chỉ là Alexandre de Rhodes?
Tại sao trong số tập thể tác giả kia, một tên tuổi được nhắc đến, được
vinh danh nhiều nhất lại là giáo sĩ Alexandre de Rhodes, người Pháp? Theo
các nhà nghiên cứu có uy tín như Léopold Cadière, Paul Mus hoặc muộn hơn,
Jean Lacouture, trước hết không chỉ bởi ông có công cho xuất bản cuốn Từ
điển Việt - Bồ - Latinh và viết cuốn Ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên, mà chủ
yếu vì “Alexandre de Rhodes nếu không phải là người sáng tạo thì là người
đầu tiên sử dụng và quảng bá mạnh mẽ chữ quốc ngữ” (Jean Lacouture). Còn
Paul Mus thì đánh giá Alexandre de Rhodes, vốn là người có tư chất nhà ngôn
ngữ học thạo mười hai thứ tiếng, đã “tiếp cận chữ quốc ngữ trên bình diện
khoa học. Ông đã có công hoàn chỉnh cách viết chữ quốc ngữ”(3). Ở đây có một
điểm dù sao cũng đòi hỏi chúng ta phải ít nhiều thận trọng. Ba vị nói trên,
những nhà nghiên cứu uyên thâm, đều là người Pháp. Mà, nói mạn phép, người
Pháp cho dù làm khoa học, dường như vẫn mang “máu đại Pháp” trong người, bao
giờ cũng tìm cách tôn vinh đồng bào của mình trước hết; đặc biệt từ thế kỷ
gọi là “ánh sáng”, thế kỷ của các nhà tư tưởng, văn hóa, khoa học lỗi lạc,
thế kỷ mà ánh sáng của Cách mạng Pháp 1789 thật sự tỏa sáng địa cầu, trở về
sau. Đấy là chưa nói những trường hợp mang ý nghĩa chính trị rõ rệt. Vào
những năm 40 thế kỷ 20, khi chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam thật sự lung
lay trước phong trào cách mạng đang lên và sự bành trướng của Nhật Bản
giương cao ngọn cờ Đại Đông Á đầy tính mị dân của họ, nhiều vị cao niên
thuộc thế hệ nay gọi là 2X, 3X ít nhiều đều có đọc các tác phẩm được xuất
bản với ngân sách hào phóng do nhà cầm quyền thực dân bỏ ra để xây dựng “Tủ
sách Alexandre de Rhodes”. Trong bối cảnh ấy, rất dễ hiểu tại sao hai giáo
sĩ được tôn vinh nhất ở Đông Dương là Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Đắc
Lộ) và giám mục D’Adran, tên thật là Pigneau de Béhaine (Bỉ Như Bá Đa Lộc),
người có công phò tá Hoàng tử Cảnh sang Paris cầu viện, giúp Nguyễn Ánh đánh
nhà Nguyễn Tây Sơn, “nhất thống sơn hà” để hơn một trăm năm mươi năm sau
toàn bộ sơn hà sẽ chịu sự đô hộ của người Pháp.
Alexandre de Rhodes thực chất là người như thế nào?
Vấn đề này cũng đã tốn khá nhiều giấy mực. Có người bảo người Việt Nam
nên dựng tượng đồng bia đá cho ông. Có người quy kết - phần nào chắc chẳng
oan - Alexandre de Rhodes là kẻ có tội với dân tộc Việt Nam, vì giáo sĩ này
là người đầu tiên vận động quyết liệt với triều đình vua Louis 14 để dọn
đường cho thực dân Pháp sang xâm chiếm Đông Dương xa xôi. Hơn thế, về tư
cách, Alexandre de Rhodes là kẻ “đạo văn”, bởi đã mang bản thảo cuốn Từ điển
Việt - Bồ - Latinh do hai nhà truyền giáo Bồ khi rời Macau để lại nhà thờ
San Pauli về Vatican cho xuất bản và đứng tên mình. Đã thế, ông còn ngang
nhiên đứng tên tác giả một cuốn hồi ký của người khác, v.v... Do tư cách
không đàng hoàng, khi các giáo sĩ Pháp được nhà vua với sự chấp thuận của
Giáo hội La Mã phái sang Viễn Đông, không có tên Alexandre de Rhodes trong
đoàn ấy. Ngược lại, ông gần như bị lưu đày sang Ba Tư để rồi qua đời tại đó.
Những sự đánh giá ấy chắc hẳn ít nhiều có căn cứ lịch sử. Coi các bản
Trần thuật của Alexandre de Rhodes về những chuyến đi Viễn Đông của ông,
người đọc ngày nay ai cũng nhận thấy tác giả khoa trương thái quá về công
đức của mình, đến nỗi chính các nhà sử học đồng bào của ông cũng khó nén
được nụ cười nửa miệng.
Alexandre de Rhodes sinh năm 1591 ở thành phố Avignon, miền Nam nước
Pháp, từ một gia đình gốc Do Thái chuyên buôn tơ lụa sang Viễn Đông. Mẹ
người lai Ý. Từ nhỏ ông đã mơ đến miền đất hứa phương Đông giàu tài nguyên
quý hiếm như Ấn Độ, Trung Hoa... Trở thành giáo sĩ, ông đến Macau trên một
chiếc tàu buôn Bồ Đào Nha. Thời ấy, đội thương thuyền của Bồ mạnh nhất thế
giới. Người Bồ vẫn huênh hoang: “Không có tàu buôn Bồ, không có hàng tạp hóa
Bồ, làm gì có các giáo sĩ dòng Tên!”(4). Ông đến Đàng Trong lần đầu năm 33
tuổi và sống tại đây trước sau bảy năm, trước khi vĩnh viễn rời Viễn Đông.
Ông có tư chất và kiến thức một nhà ngôn ngữ học. Khi đã là một giáo sĩ,
ngoài tiếng Ý họ ngoại, trước lúc lên tàu sang Viễn Đông, ông còn dành thời
gian học tiếng Bồ. Cuối đời, bị “nửa lưu đày” sang Ba Tư, ông còn học để sử
dụng thành thục ngôn ngữ thứ 13 là tiếng Ba Tư. Điều đó cho phép chúng ta lý
giải một phần tại sao Alexandre de Rhodes thường hay được viện dẫn - ngoài
những nguyên nhân vừa nói ở trên - khi các học giả bàn về ai là những người
sáng tạo chữ quốc ngữ.
Sự cạnh tranh của chủ nghĩa thực dân Bồ - Pháp
Về nguyên nhân tại sao Alexandre de Rhodes không được trở lại Viễn Đông
cùng với đoàn giáo sĩ Pháp mà ông có công vận động thành lập, một số nhà sử
học giải thích tại sự cạnh tranh giữa chủ nghĩa thực dân Bồ và chủ nghĩa
thực dân Pháp.
Thời kỳ đầu, với việc nhà hàng hải người Bồ Đào Nha Magellan phát hiện
quần đảo Philippines ở Viễn Đông (1521), nhà hàng hải người Bồ Christophe
Colomb (Colombus) phát hiện châu Mỹ (1492), có thể coi như người Bồ Đào Nha
tạm làm bá chủ các đại dương. Tuy nhiên, thời gian này không kéo dài. Sự
cạnh tranh giữa các quốc gia châu Âu ngày càng quyết liệt. Quần đảo
Indonesia thoạt tiên do người Bồ khám phá, rơi vào tay người Hà Lan. Chủ
nghĩa thực dân Tây Ban Nha và Pháp cũng trỗi dậy, cùng ganh đua với nhau và
giành giật với Bồ, hạ uy thế của Bồ. Trong bối cảnh ấy, “Alexandre de Rhodes
không quên mình là người Pháp” (lời nhà sử học Jean Lacouture). Ông vận động
ráo riết để người Pháp có mặt sớm ở Viễn Đông. Dù chịu ơn người Bồ, ông dám
vượt mặt các bậc bề trên trong giáo đoàn và tìm cách liên hệ trực tiếp với
Tòa thánh Vatican, v.v... Vì những lý do đó, “ông bị triều đình Bồ Đào Nha
coi như một kẻ thù của nước này” (Jean Lacouture).
Thôi thì hãy để các nhà sử học, nhà ngôn ngữ học... tiếp tục tranh luận
và lý giải. Đối với người Việt Nam chúng ta, bất kỳ ai có đóng góp cho sự
phát triển của dân tộc Việt, chúng ta đều hàm ơn và hậu thế tôn vinh những
người nước ngoài có cống hiến trên mặt ấy tùy công lao đóng góp của họ, cho
dù họ là người thế nào. Việc một số nơi ở Bắc Bộ có đền thờ thái thú Sĩ
Nhiếp (thế kỷ 2 trước Công nguyên), người truyền bá Nho giáo vào đất Giao
Châu (5), là thí dụ sớm nhất. Tôi nghĩ không phải ngẫu nhiên mà thành phố
mang tên Hồ Chí Minh hiện nay vẫn còn nguyên hai con đường song song, một
mang tên nhà nho Hàn Thuyên và một mang tên giáo sĩ Alexandre de Rhodes.
Cũng không phải không hàm chứa ý nghĩa cao cả mang tính tượng trưng, khi
chính giữa hai con đường song hành ấy có đại lộ mang tên Lê Duẩn dài hơn,
rộng hơn; ba con đường song hành vượt qua đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa để đàng
hoàng đi vào cổng chính hoành tráng của Hội trường Thống Nhất - Dinh Độc lập
trước năm 1975.
Francesco do Pina
Sinh năm 1585 tại Guarda, Bồ Đào Nha
Nhập giáo đoàn Jesus, Christo giáo năm 1605 tại Coimbra. Đến Macau từ
1613.
Đến truyền giáo ở Đàng Trong năm 1617, thông thạo nhiều thứ tiếng
Đông Nam Á, nhất là tiếng Nhật và tiếng Việt.
Dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ Âu châu mới qua Á Đông, trong số có
Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa và Alexandro Rhodes.
Phiên âm tiếng Việt theo mẫu tự Bồ Đào Nha và La tinh. Đắm thuyền
chết tại cửa biển Đà Nẵng ngày 15-12-1625.
Gaspar do Amaral
Sinh năm 1594 tại Curveceira, Viseu, Bồ Đào Nha ngày nay. Nhập giáo
đoàn Jesus, Christo-giáo, năm 1617 tại Coimbra, Bồ Đào Nha. Đi Á Đông
năm 1624 ở Macau; Viện trưởng Viện Truyền đạo ở Macau. Đến Đàng Ngoài
năm 1629.
Trở về Macau năm 1638 sau khi hoàn thành phiên âm chữ quốc ngữ Việt
Nam. Đắm thuyền, chết ngoài biển Macau tháng 2-1646 trên đường đi Việt
Nam.
Antonio Barbosa
Sinh năm 1594 tại Amifana do Souza nay là Penafiel gần Porto, Bồ Đào
Nha. Nhập giáo đoàn Jesus, Christo giáo tại Lisboa năm 1624. Đi Á Đông
đầu năm 1624.
Đến Đàng Trong 1629, rồi Đàng Ngoài năm 1636 cho đến 1642 đi Macau.
Hợp tác với Gaspar do Amaral trong việc hoàn tất phiên âm chữ quốc ngữ.
Léopold Cadière
Giáo sĩ người Pháp, từng sống ở Việt Nam 63 năm, một trong những nhà Việt
Nam học tên tuổi đầu tiên của thế giới. Chủ trương tờ tập san ra hằng tháng
có tên Kỷ yếu những người bạn của cố đô Huế (BAVH - trước đây quen gọi là Đô
thành hiếu cổ) xuất bản từ năm 1914 đến 1944, gồm 121 tập khổ lớn. Léopold
Cadière đã công bố khoảng 250 công trình biên khảo về lịch sử, địa lý, văn
hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng các dân tộc ở Việt Nam. Những công
trình của ông về chữ quốc ngữ rất công phu. Riêng một việc tìm hiểu đâu là
bức chân dung đích thực của Alexandre de Rhodes, ông đã trở về du khảo tại
Pháp và Bỉ trong hơn một năm (1928-1929) và tìm ra 9 bức chân dung khác nhau
để so sánh.
Paul Mus
Nhà Á châu học rất nổi tiếng, thành viên Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp từ
1927 đến 1944. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, giảng dạy tại Đại học
Collège de France, Paris và Đại học Yale, Hoa Kỳ. Các công trình của ông
thường được các nhà Việt Nam học nước ngoài viện dẫn, trong đó có các cuốn
Việt Nam, nghiên cứu xã hội học về một cuộc chiến tranh, 1952; Số phận của
Liên hiệp Pháp, 1954; Chiến tranh không có gương mặt, 1961; Hồ Chí Minh,
Việt Nam, châu Á, 1972... Sau khi ông qua đời, các bài giảng của ông tại Đại
học Yale được một môn đệ, tiến sĩ John McAlister, tập hợp và xuất bản: Người
Việt Nam và cuộc cách mạng của họ, 1972.
Jean Lacouture
Nhà báo, nhà văn, nhà sử học Pháp, tác giả nước ngoài đầu tiên viết tiểu
sử Chủ tịch Hồ Chí Minh, 1967, tái bản 1976. Ông được coi như nhà viết tiểu
sử danh nhân lớn nhất của Pháp ngày nay. Tác giả nhiều bộ tiểu sử về Léon
Blum, De Gaulle, Pierre Mendès France, Francois Mitterrand, Francois
Mauriac, Nasser... Bộ sách Những giáo sĩ Dòng Tên, mà ông gọi là “cuốn tiểu
sử về nhiều người”, 1991-1992, hai tập, dày tổng cộng 1.100 trang khổ lớn.
Năm 1946, từng làm tùy viên báo chí của tướng Leclerc ở Đông Dương, được
nhiều lần gặp và phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp..., Jean Lacouture được coi là một trong những
người thành thạo nhất của Pháp về thời cuộc Việt Nam. |
Phan Quang
nguồn http://nld.com.vn/181894P0C1020/qua-trinh-hinh-thanh-chu-quoc-ngu.htm
Chủ nhật, 04/03/2007 | 03:53GMT+7
Các bài cùng đề tài
Alexandre de Rhodes - Vấn Đề Tượng Trưng! (Minh Mẫn)
Alexandre de Rhodes không phải là người sáng tạo ra chữ Việt! (An Chi/ANTG)
ALEXANDRE DE RHODES: Công Và Tội (Bùi Kha)
Biện Chính Với Ông Nguyễn Đình Đầu - Linh Mục Đắc Lộ (Bùi Kha)
Chữ "Plusieurs Soldats" Thời A.D. Rhodes (Lý Đương Nhiên)
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” (Trần Chung Ngọc)
Gửi Người Tạc Tượng Alexandre De Rhodes (Vân Hạc)
Quá trình hình thành chữ quốc ngữ (Phan Quang)
Thư ngỏ gửi HĐND, UBND TP. Hà Nội và Hội KHLS VN về việc dựng tượng Alexandre Rhodes (Thích Thanh Thắng)
Tượng Đài Alexandre De Rhodes - Ý kiến phản đối (phattuvietnam.net)
Tượng Đài Alexandre De Rhodes: Ai Là Người Hô Biến ? (Trần Điều)
“Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ” (GS-TS Phạm Văn Hường)