|
24-Dec-2011 |
Gần đây tôi có đọc bài “Tôn Giáo Và Khoa Học” của Ngài
Bhikkhu P. A. Payutto, do Mỹ Thanh dịch từ Chương “Religion and Science”
trong cuốn “Toward Sustainable Science. A Buddhist Look at Trends
in Scientific Development”. Tôi đã đọc hầu như toàn bộ cuốn sách
trên của Bhikkhu Payutto và tôi nghĩ nếu thêm vào đàng sau chữ “Look”
một chữ “s” [Looks] thì có lẽ thích hợp hơn, bởi vì “A Buddhist Look
at…” có nghĩa là “Một Cái Nhìn của Phật Giáo vào…”,
còn “A Buddhist Looks at..” có nghĩa “Một
Phật Tử nhìn vào…”.
Tại sao tôi nghĩ như trên? Vì rõ ràng là
những ý kiến của Ngài Bhikkhu Payutto chỉ là những ý kiến cá nhân, không
thể nói là của Phật Giáo. Có một số nhận định mà tôi cho là không
đúng sự thật, nhất là về khoa học, và đượm nhiều màu sắc thiên kiến,
có lẽ vì tác giả bị ảnh hưởng bởi những gì tác giả thu thập được trong
thời gian Ngài làm nghiên cứu sinh tại Trường Thần Học ở Đại học Harvard.
[In 1981, he was invited to be a visiting scholar and subsequently appointed
as a research fellow at the Harvard Divinity School, Harvard University.]
Trong bài này tôi sẽ không phê bình bài “Tôn Giáo Và Khoa Học”
của Ngài Bhikkhu P. A. Payutto. Tuy nhiên tôi xin trích sau đây vài
nhận định của Ngài để đọc giả suy nghĩ và đối chiếu với những thực tế
trong lịch sử các tôn giáo và khoa học của nhân loại, và xem những nhận
định đó có thể áp dụng cho mọi tôn giáo và mọi bộ môn khoa học được không.
- Thông thường Tôn giáo xuất hiện từ những lo sợ, nhất là nỗi lo sợ về
thiên tai như: sấm sét, lụt lội, động đất, núi lửa, và bão tố. Những
hiểm nguy này luôn đe dọa đời sống con người từ bao thế kỷ.
- Sự nhận thức về hiểm nguy và sự muốn được an toàn là nguyên nhân chánh
cho Tôn giáo và Khoa học [(??) ra đời.
- Tôn giáo được hiểu (ai hiểu ?) như là nơi có những giải đáp
cho một sự thật duy nhất. [Bao nhiêu tôn giáo, bao nhiêu sự
thật ??]
- Tôn giáo tìm ra giải đáp cho những vấn đề liên quan đến đời sống con
người, từ thấp đến cao, đủ mọi trình độ. Mặt khác, Khoa học quán sát
sự thật từ những biểu thị riêng rẻ. Khoa học tìm tòi và thu nhặt những
mảnh vụn (??) để ráp chúng lại với nhau và hy vọng tìm được câu trả
lời thích đáng. Dù rằng Khoa học cần có những nguyên tắc chung, nhưng
những nguyên tắc này cũng bị điều kiện hóa; vì vậy, sự thật tìm thấy
được cũng không hẳn hoàn toàn. Chúng ta có thể nói Tôn giáo cho câu
trả lời đầy đủ (??), còn Khoa học thì chỉ một phần.
- Tôn giáo là một hệ thống tín ngưỡng không
đổi thay với những giáo
điều phải được tuân theo mà không được đặt câu hỏi. [Có
Phật Giáo trong này không ?]
- Tôn giáo vẫn tồn tại vì đáp ứng được tức thời sự thật, câu trả lời
cho số đông, nhưng không được kiểm nhận bằng năm giác quan, tất cả
chỉ được dựa vào lòng tin. Và vì những giải đáp này không được
kiểm chứng nên chúng luôn bị thay đổi.
- Tôn giáo tìm kiếm sự thật để giải quyết những vấn đề của con người,
trong khi đó thì Khoa học tìm sự thật chỉ để thỏa mãn khối óc tò mò.
(??)
- Khoa học tự nó không có khả năng giải quyết những vấn đề của con người.
Theo từ ngữ Phật giáo, Khoa học và kỹ thuật không khuyến khích con người
có những hạnh kiểm tốt (sìla), không khuyến khích con người thanh lọc
tư tưởng (samàdhi). Khoa học tìm kiếm gom góp những tài liệu nhưng không
chỉ cho chúng ta cách sống thế nào để hạnh phúc (panna). [Cần
phải hiểu định nghĩa, mục đích của khoa học, và những phúc lợi khoa học
mang lại cho con người.]
- Tuy nhiên, theo ý kiến chung, đặc biệt ở những nước mà ảnh hưởng Khoa
học luôn hiện diện, Khoa học không ích lợi mấy cho cuộc sống (??)
cũng như không đem lại an lạc cho tinh thần. Khá nhiều người không thích
mấy Khoa học (Nhưng vẫn hưởng những thành quả của khoa học, Benedict
XVI khoe rằng đã biết dùng IPad). Khi mà họ nhìn Khoa học với vẻ
tán thành, niềm tin của họ cũng không khác người xưa là bao, khi người
xưa nhìn vào bùa chú, pháp thuật. (Thật vậy sao ?). Thật là
ngây thơ, khi cơ bản không dựa trên sự hiểu biết. Đây mới là tinh thần
Khoa học. Khi mà số đông nghĩ về Khoa học, họ thường nhìn thẳng đến những
phát minh kỹ thuật; những kỹ thuật được dùng như một phương tiện để thỏa
mãn những ham muốn của họ. Vì vậy, sự phát triển của Khoa học chỉ
có ảnh hưởng rất nhỏ trên phương diện kiến thức, hiểu biết, và quan niệm
xã hội. (???)
- Nơi những nước văn minh, hiện đại, ta thấy có sự phát triển mạnh
về Tôn giáo (Số người vô thần ở Mỹ nay là khoảng 16%, trước
đây là 4%. Số người vô thần ở Pháp tăng gia nhanh chóng. Số người
bỏ đạo là một cuộc di dân vĩ đại. Trên thực tế, Âu Châu là một lục
địa hậu Ki-tô. Chỉ có số người theo Phật Giáo và Hồi Giáo là gia tăng),
mà nơi đó sự dị đoan và dễ tin vẫn hiện diện mặc dầu họ đang sống trong
một xã hội rất văn minh và tân tiến về mặt kỹ thuật.
- Mặt khác, có thể là Khoa học đang tìm cách chứng minh những gì mà Tôn
giáo đã nói đến. (Không phải là mục đích của khoa học) Khi
mà nhân loại không thể chờ đợi câu trả lời, thì chính Tôn giáo là câu
trả lời cho chúng ta. Khi mà điều này chưa được minh chứng thì chúng
ta chỉ có cách chấp nhận, chờ Khoa học từ từ chứng minh. Trong bối cảnh
này, Khoa học là một cố gắng của con người để chứng minh những sự thật
(hoặc là không thật) của Tôn giáo.
- Nhìn vào phương diện này, Tôn giáo và Khoa học hòa hợp với nhau; vì
đều bắt nguồn từ một điểm tương đồng (lo sợ trước các thiên tai ??),
và một lần nữa Tôn giáo và Khoa học hợp nhất (như thế nào??).
- Theo thời gian, những giới hạn về cách thức của Khoa học sẽ một lần
nữa được nhận diện. Khoa học sẽ không thể nào chứng minh được những sự
thật mà Tôn giáo nói đến. [Nếu đúng là sự thật thì không cần phải
chứng minh] Hiện nay một số Khoa học gia bắt đầu công nhận rằng chân
lý tột cùng mà Tôn giáo đưa ra (??) sẽ luôn nằm xa tầm tay của Khoa
học.
- Tôn giáo dành cho số đông, trong khi Khoa học chỉ có thể thích hợp
cho một số ít người.
Lấy cảm hứng từ bài “Tôn Giáo Và Khoa Học”, nay tôi muốn thực
hiện một ý định của tôi đã có từ lâu: viết một bài về “Khoa Học và
Tôn Giáo” nhưng vẫn còn ngần ngại, vì đây là một chủ đề quá rộng lớn.
Thật vậy, Khoa Học là một chủ đề rộng lớn, quá rộng lớn, và tôi tin rằng
không một người nào dám nói là mình đã biết hết về Khoa Học. Tôn giáo cũng
là một chủ đề rộng lớn, quá rộng lớn, tôi cũng tin rằng không một người
nào dám nói là mình biết hết về mọi tôn giáo. Cho nên theo nguyên tắc,
khi nói đến khoa học, chúng ta phải xác định là chúng ta muốn nói về những
khía cạnh nào của khoa học, và ảnh hưởng của nó trên xã hội, nhân loại
ra sao. Đối với tôn giáo cũng vậy, không ai có thể dùng từ tôn giáo để
nói về mọi tôn giáo. Chúng ta phải xác định đó là tôn giáo nào, và tôn
giáo đó đã giúp ích gì cho nhân loại, và sự thật mà tôn giáo đó nói đến,
nếu có, là sự thật như thế nào. Chúng ta nên nhớ, lợi ích của khoa
học, nếu đúng là lợi ích, là cho mọi người trên thế giới, không phân biệt
tín ngưỡng, giàu nghèo, sang hèn. Còn lợi ích của tôn giáo, nếu có, thì
chỉ cho số tín đồ của tôn giáo đó mà thôi.
Trong phương trời Âu Mỹ, khi các học giả, khoa học gia, hay nhà tôn giáo
bàn về ‘khoa học và tôn giáo”, thường thì họ muốn nói về những
bộ môn khoa học, đặc biệt là về vũ trụ học, sinh hóa học, Vật Lý, Cổ sinh
vật học, Nhân chủng học, di truyền học, về nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc
nhân loại v…v… mà những kết quả nghiên cứu không phù hợp với những giáo
lý của các tôn giáo thờ thần như Ki Tô Giáo nói chung, Do Thái Giáo và
Hồi Giáo. Bởi vì qua nhiều thế kỷ đã có sự xung đột giữa khoa học và các
tôn giáo thờ thần, mà thực ra chỉ có tôn giáo chống khoa học chứ không
có vấn đề ngược lại. Do đó, trong bài này tôi xin tự hạn viết về “Science
= Khoa học” và “Religion = tôn giáo” theo định nghĩa và quan niệm của Tây
phương. Tôi xin để Phật Giáo ra ngoài vì Phật Giáo là một hệ thống
triết lý, một hướng dẫn để con người đi trên con đường thăng tiến tâm linh
dựa trên trí tuệ, không phân biệt tôn giáo, sắc dân, chứ không phải là
một “tôn giáo thờ thần”, đặt nặng vào “đức tin”.
Trong thế giới Tây phương, định nghĩa trong tự điển của “Tôn giáo” là “Niềm
tin vào và lòng kính ngưỡng một quyền năng siêu nhiên hoặc những quyền
năng được nhận biết là đấng sáng tạo và chủ thể cai quản vũ trụ. Một tập
hợp những niềm tin, giá trị, và thực hành dựa trên những lời giảng dạy
của một vị lãnh đạo tinh thần” [Belief in and reverence for a supernatural
power or powers recognized as the creator and governor of the universe.
The spiritual or emotional attitude of one who recognizes the existence
of a supernatural power or powers. A set of beliefs, values, and practices
based on the teachings of a spiritual leader.] Quyền năng siêu nhiên hay
đấng sáng tạo này những tôn giáo thờ thần Tây phương gọi là Thần hay “Gót”
(God)
Còn định nghĩa của “khoa học” trong tự điển là “Sự quan sát, nhận biết,
mô tả, khảo sát thực nghiệm, và giải thích lý thuyết những hiện tượng thiên
nhiên. Kiến thức, đặc biệt là kiến thức thu thập được qua thực nghiệm.”
[Science: The observation, identification, description, experimental
investigation, and theoretical explanation of natural phenomena. Knowledge,
especially knowledge gained through experience.]
Từ những định nghĩa trên, chúng ta thấy
rằng con đường của khoa học là con đường đi tới sự hiểu biết, và con đường
đức tin của các tôn giáo thờ thần là con đường đi tới sự mê tín. Thật
vậy, theo định nghĩa trong http://en.wikipedia.org/wiki/Superstition thì:
Mê
tín là một niềm tin vào thuyết nhân quả siêu nhiên: nghĩa là một biến
cố đưa tới một biến cố khác mà không qua một quá trình nào nối kết hai
biến cố trong thế giới vật lý.
Đối với mê tín là sự quan hoài chính của những trí thức trong thời đại
khai sáng, trong thế kỷ 18. Những triết gia trong thời đại đó nhạo báng
mọi niềm tin vào phép lạ, mạc khải, trò quỷ thuật, hay siêu nhiên là
“mê tín”, và điển hình là gồm hầu hết giáo lý Ki Tô Giáo
[Superstition
is a belief in supernatural causality:
that one event leads to the cause of another without any process in the
physical world linking the two events.
Opposition to superstition was a central concern of the intellectuals during
the 18th century Age
of Enlightenment. The philosophers at
that time ridiculed any belief in miracles, revelation, magic, or the supernatural,
as "superstition," and typically included as well much of Christian
doctrine.]
Còn theo định nghĩa trong http://www.answers.com/topic/superstition thì
mê tín là:
Một
niềm tin, sự thực hành, hay lễ tiết được duy trì một cách phi lý bởi
sự dốt nát về những định luật thiên nhiên hoặc bởi đức tin vào ma thuật [thí
dụ biến 1 mẩu bánh thành thân thể của Chúa. TCN] hay ngẫu nhiên.
Một trạng thái tâm linh sợ hãi hay thấp hèn bắt nguồn từ sự dốt nát hay
phi lý trí như vậy.
[A belief, practice, or rite irrationally maintained by ignorance of the
laws of nature or by faith in magic or chance. A fearful or abject state
of mind resulting from such ignorance or rrationality.]
Trong cuốn “Science & Religion:
Opposing Viewpoints, Greenhaven Press, CA, 1988”, chúng ta có thể
đọc trong phần Dẫn Nhập (Introduction), trang 14, về sự khác biệt đi
tới sự thật của khoa học và tôn giáo như sau: “Khoa học leo từng
bậc thang một của lý trí để tìm kiếm sự thật trong khi tôn giáo quỳ trước
bàn thờ của đức tin. Phương pháp luận của khoa học gồm có sự quan sát
và thí nghiệm trong khi tôn giáo ôm lấy sự mạc khải của thần linh. Do
đó khi mà nhà nhân chủng học tìm cách giải thích nguồn gốc của con người
theo thuyết Tiến Hóa thì học giả tôn giáo có thể nhìn vào hành động sáng
tạo mô tả trong sách Sáng Thế 1” (Science climbs the ladder of
reason in its search for truth while religion kneels before the altar
of faith. The methodology of science includes observation and experimentation
while religion embraces divene revelation. Thus as the physical anthropologist
attempts to explain human origins in terms of progressive evolution,
the religious scholar may look to the creative act described in Genesis
1). Trong cuốn “The Final Superstition: A Critical Evaluation of
the Judeo-Christian Legacy”, Promotheus Books, New York, 1994, học
giả Ca-tô Joseph L. Daleiden đã để ra nguyên Chương 10 để viết về đề
tài: “Lý Trí Đối Với Đức Tin: Một Con Đường Đi Tới Hiểu Biết, Một
Con Đường Đi Tới Mê Tín” (Reason versus Faith: A Path to Knowledge,
a Path to Superstition). Tại sao tác giả lại nhận định như vậy? Vì
theo định nghĩa của H. L. Mencken thì Faith hay Đức Tin là "một
kiểu tin phi-lôgic vào sự xảy ra của những gì không chắc có thực" (an
illogical belief in the occurrence of the improbable). Theo định nghĩa
trong tự điển thì Faith hay Đức Tin là "sự tin chắc vào một
cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực" (Firm belief
in something for which there is no proof.) Mặt khác. định nghĩa của
Reason hay Lý Trí trong tự điển là "khả năng có những tư tưởng
hợp lý, suy lý, hoặc phân biệt" (The capacity of rational thought,
inference, or discrimination) hay "suy xét đúng, phán đoán hợp
lý" (good judgment, sound sense). Theo những định nghĩa trên
thì hiển nhiên là Đức Tin trong tôn giáo và Lý Trí trong khoa học là
hai từ có nghĩa loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), có cái này thì
không có cái kia. Thật vậy, khi chúng ta dùng lý trí để xác định và
chấp nhận một điều gì thì chúng ta không cần đến đức tin, và khi chúng
ta tin vào điều gì mà không cần biết, không cần hiểu, không cần đến bằng
chứng v…v…thì lý trí trở nên thừa thãi.
Khoa học nhìn vũ trụ qua khung cửa của
tìm hiểu, suy tư, thí nghiệm, của những bằng chứng xác tín, còn tôn giáo
nhìn vũ trụ qua khung cửa của mạc khải, của đức tin. Mà mạc khải chỉ là
điều không thể tin được, vì Gót, nếu có, mạc khải cho ai thì chỉ có người
đó biết, cho nên chúng ta không thể biết những gì mà cá nhân đó nói là
Gót đã mạc khải cho họ là thật hay giả. Thomas Paine đã nhận định như vậy
trong cuốn Thời Đại Lý Trí. Ki Tô Giáo dạy rằng Gót đã mạc khải
cho Moses viết lên 5 sách đầu trong cuốn Cựu Ước. Nhưng ngày nay tất cả
các học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-tô, qua các công cuộc
nghiên cứu nghiêm chỉnh về Cựu Ước, đều phủ nhận điều này. Họ đã chứng
minh là không phải Moses viết theo lời mạc khải của God mà là 5 sách trên
do bốn môn phái Jehovah (J), Elohim
(E), Deuteronomy (D), và Priest (P) viết trong 400 năm, cách đây
khoảng từ 2500 đến 2900 năm. Mặt khác, Gót mạc khải cho Moses viết về Gót
sáng tạo ra vũ trụ.
Ngày nay, thuyết sáng tạo trong Cựu Ước đã trở thành một chuyện hoang
đường không thể nào tin nổi. Ở Tàu khi xưa thì có Hồng Tú Toàn được Gót
mạc khải. Ngày nay ở Mỹ thì có cả một đoàn “lang băm tôn giáo” (religious
charlatans) như Pat Robertson, Billy Graham, Benny Hill, Rick Warren,
Jim Jones, David Koresh v…v…, tự nhận là đã được Gót mạc khải để lừa
bịp đám tín đồ ngu dốt. Khoa học nhìn chiều dài vũ trụ trong 13.7 tỷ
năm, trong khi tôn giáo nhìn vũ trụ trong 6000 năm. Do đó khoa học và
tôn giáo nhìn vào hai vũ trụ khác nhau.
Hồng Tú Toàn - Pat Robertson - Billy Granham - James Jones - Rick Warren
Trong khoa học cũng có những xác tín. Khoa học tin vào những cuốn sách
khoa học, không phải vì chúng là những thánh thư, mà vì trong đó có những
bằng chứng bất khả phủ bác mà mọi người, mọi nơi đều có thể kiểm chứng,
nếu có đủ phương tiện và khả năng. Trong khoa học không phải là không
có sai lầm. Nhưng trước sau gì rồi cũng có người thấy sự sai lầm đó với
những bằng chứng thuyết phục hơn, đúng hơn, hoặc những dữ kiện mới, và
hoàn chỉnh lại hay bỏ đi những sai lầm trước. Thí dụ, các phương trình
toán học trong thuyết Tương Đối suy rộng (General Theory of Relativity)
của Einstein thực ra đã tiên đoán sự nở rộng của vũ trụ mà nay đã là một
sự kiện. Nhưng vào thời điểm đầu thế kỷ 20, quan niệm Tây Phương về một
vũ trụ tĩnh (static universe), luôn luôn như vậy không thay đổi, nguyên
thủy là quan niệm của Arsitotle, một triết gia Hi Lạp trong thế kỷ 4 (384-322)
trước khi Giê-su sinh ra đời và về sau Ki Tô Giáo chấp chặt vào quan niệm
này, đã ăn sâu vào đầu óc của mọi người, triết gia cũng như khoa học gia,
kể cả Einstein. Cho nên, trong những phương trình toán học của thuyết
Tương Đối, thay vì trình bày sự tiên đoán trên, Einstein đã cho vào các
phương trình toán học của ông một hằng số vũ trụ (cosmic constant) để triệt
tiêu sự nở rộng của vũ trụ. Về sau, Einstein công nhận đó là một sai lầm
lớn nhất (biggest blunder) trong suốt cuộc đời phục vụ cho khoa học của
ông. Tuy vậy, căn bản thuyết Tương Đối của Einstein vẫn có giá trị, và
Einstein vẫn được cả thế giới tôn vinh là một khoa học gia vĩ đại nhất
của thế kỷ 20. Trái lại, tôn giáo, Ki Tô Giáo, chỉ tin vào một cuốn sách
mà họ gọi là thánh kinh, tuy trong đó không có bất cứ một bằng chứng nào,
và chúng ta đều biết, tin tất cả vào một cuốn sách thì thà đừng đọc sách,
vì trong cuốn thánh kinh có vô số những sai lầm về khoa học cũng như thần
học..
Khoa học và tôn giáo: đặc tính
Sau khi biết định nghĩa của tôn giáo và khoa học, chúng ta cần biết đến
những đặc tính của khoa học và tôn giáo. Đặc tính của khoa học là tính
tương đối, tất cả những kết quả, lý thuyết của khoa học đều không thể coi
là tuyệt đối, dù chúng đã được kiểm nghiệm và có đầy đủ những bằng chứng
chứng minh. Tuy vậy, chúng chỉ được chấp nhận cho tới khi có những bằng
chứng khoa học khác chứng tỏ là chúng không đầy đủ hay không đúng, và các
khoa học gia sẵn sàng hoan nghênh và chấp nhận những bằng chứng mới này
để thay đổi hay hoàn chỉnh những kết quả, lý thuyết của họ. Một đặc tính
khác của khoa học là tính phổ quát, nghĩa là một kết quả khoa học có thể
áp dụng ở khắp nơi, và những thí nghiệm để đưa đến kết quả có thể lập lại
ở bất cứ đâu để kiểm chứng. Trái lại, đặc tính của tôn giáo, hay nói đúng
hơn là của những bậc lãnh đạo tôn giáo là cho rằng mình đã nắm chân lý
tuyệt đối trong tay tuy rằng không có bất cứ một bằng chứng nào để chứng
minh, hoặc đối với tôn giáo thờ thần như Công Giáo thì như Bhikkhu P. A.
Payutto đã nhận định ở trên: Tôn giáo là một hệ thống tín ngưỡng không
đổi thay với những giáo điều phải
được tuân theo mà không được đặt câu hỏi.
Hơn nữa, bản chất và tinh thần của khoa học và tôn giáo cũng hoàn toàn
khác nhau. Đông phương chúng ta có những câu như “Quân tử hòa nhi
bất đồng” và “Tiểu nhân đồng nhi bất hòa” nghĩa là, thái
độ của người quân tử là luôn luôn hòa thuận tuy bất đồng ý kiến, còn thái
độ của kẻ tiểu nhân là tuy đồng ý với nhau nhưng vẫn bất hòa với nhau.
Tinh thần khoa học là tinh thần quân tử. Trong khoa học có rất nhiều bộ
môn nhưng chúng ta không thấy có sự chống đối nào giữa các bộ môn với nhau
mà thường còn bổ túc cho nhau. Thí dụ, các bộ môn như thiên văn, vật lý,
sinh hóa, vật lý, cổ sinh vật học, nhân chủng học, di truyền học v…v… đều
góp phần đưa thuyết Tiến Hóa lên thành sự kiện (fact) với những bằng chứng
bất khả phủ bác trong mọi bộ môn. Trong khoa học chúng ta cũng không thấy
bất cứ một tổ chức nào được thành lập để cưỡng bắt con người phải tin vào
những khám phá của khoa học. Trái lại, các tôn giáo độc thần Tây phương
như Do Thái, Hồi Giáo, Công giáo, Tin Lành giáo lại thường chém giết lẫn
nhau vì tôn giáo nào cũng cho là mình nắm chân lý trong tay, và từ đó muốn
mọi người đều phải chấp nhận cái chân lý, nhiều khi chẳng phải là chân
lý hay sự thật, vì không có tính phổ quát mà chỉ là hoang tưởng, mê tín,
của mình. Như Giáo sư Vật Lý ở đại học Maryland, Robert
L. Park, nhận định trong cuốn “Mê tín trong thời đại khoa học”
(Superstition in the age of science), Princeton University Press, New jersey,
2008, trg. 4:
Một khi con người tin chắc rằng mình được đặt trên trái đất như là
những dụng cụ của một kế hoạch thần thánh nào đó, thì hình như không
có một giới hạn nào cho những sự khủng khiếp mà họ sẵn sàng để thực
thi kế hoạch đó.
[Once people convince themselves that they have put on earth as instruments
in some divine plan, there seems to be no limit to the horrors they are
willing to commit to carry out that plan.]
Giáo sư Park nhận định không sai, chúng ta hãy đọc Mục
sư Rick Warren trong cuốn “Sống theo đúng mục đích” (The Purpose
driven life). Theo Mục sư Rick Warren thì mục đích sống của con người
là:
Rick
Warren: Nếu các người muốn biết tại sao các người được đặt
trên hành tinh này, các người phải bắt đầu với “Gót” (God). Các người
được sinh ra bởi mục đích của “Gót” và cho mục đích của “Gót”. [Hẳn
Rick Warren đã biết mục đích của “Gót”, một đấng vô hình, không thể mô
tả được, không ai hiểu được, là gì hay đó chỉ là “mục đích” của Warren]..
Các người phải bắt đầu với “Gót”, đấng tạo ra các người.
Các người hiện hữu chỉ vì “Gót” muốn các người hiện hữu. Các người
được làm ra bởi “Gót” và cho “Gót” – và cho đến khi các người hiểu
được như vậy, đời sống của các người không bao giờ có nghĩa.
[If you want to know why you were placed on this planet, you must begin
with God.
You were born by his purpose and for his purpose.
You must begin with God, your Creator. You exist only because God wills
that you exist. You were made by God and for God—and
until you understand that, life will never make sense.]
Với niềm tin chắc chắn như trên, chúng ta đã hiểu tại sao trong hơn 1000
năm Công giáo đã phạm đủ mọi tội ác kinh khủng nhất thế gian để kéo người
ngoại đạo phải chấp nhận cái chân lý hoang tưởng của mình, nhưng đã thất
bại, vì tiến hóa là một quy luật thế gian, con người không thể để cho mình
đắm mình trong sự ngu dốt mãi. Copernicus, rồi Bruno, Galileo, Marx ,
Darwin v…v… đã đưa con người ra khỏi thời đại man rợ và đen tối trí thức
của Công giáo ở Âu Châu, và những bó củi để thiêu sống người và những thanh
gươm để chém giết người đã được tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Giáo
hội Công Giáo. [John Remsburg in False Claims: The fagots and
the swords have been wrested from the bloody hands of the Church). Chúng
ta cũng hiểu tại sao Công giáo và Tin Lành ngày nay vẫn dùng mọi thủ đoạn,
kể cả cưỡng ép khi có thể, như ở Nam Việt Nam dưới thời Ngô Đình Diệm,
ở Croatia dưới thời Pavelich, và ở Mexico gần đây, để cải đạo người khác,
kéo họ vào sự mê tín của mình.
Ki Tô Giáo đã xuất hiện ở Tây phương từ 2000 năm nay, trong thời gian
này thì Công giáo thống trị ở Tây phương từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 16. Tuy
Hi Lạp và La Mã cổ xưa đã có những nhà khoa học, nhưng khoa học hiện đại
mới chỉ bắt đầu ló dạng từ thế kỷ 16. Tại sao vậy? Chúng ta hãy đọc vài
tài liệu về lý do tại sao khoa học cũng như mọi ngành văn học khác lại
không thể phát triển trong một thời gian dài hơn 1000 năm.
Trong cuốn “Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo” (The Dark
Side of Christian History), tác giả Helen Ellerbe viết, trang 50:
“Giáo hội Công giáo đã có những tác động tàn phá trên xã hội. Khi Giáo
hội nắm được vai trò lãnh đạo, hoạt động trong những ngành y khoa, kỹ
thuật, khoa học, giáo dục, lịch sử, nghệ thuật và thương mại đều sụp
đổ. Âu Châu đi vào những Thời Đại Đen Tối. Tuy Giáo hội vơ vét được
một tài sản to lớn trong những thế kỷ đó, hầu hết những gì định nghĩa
cho văn minh đã biến mất.”
(The [Catholic] Church had devastating impact upon society. As the Church
assumed leadership, activity in the fields of medicine, technology, science,
education, history, art and commerce all but collapsed. Europe entered
the Dark Ages. Although the Church amassed immense wealth during these
centuries, most of what defines civilization disappeared.)
Và trong cuốn “The Final Superstition”, tác giả Joseph L. Daleiden,
một tín đồ Công giáo, viết, trg. 60:
Dân
La Mã cổ xưa (không phải là dân La Mã dưới quyền thống trị của Giáo
hội Công Giáo. TCN) đã có những thư viện chứa 500000 cuốn sách, trong
thời kỳ từ năm 500 tới năm 1000 ở Âu Châu dưới sự thống trị của Công
Giáo, không có một thư viện nào có được hơn 600 cuốn sách. Sự tiến bộ
khoa học, đặc biệt là về y học, hoàn toàn ngưng trệ. Văn hóa con
người thoái hóa đến mức tàn bạo.
(The ancient Romans had libraries of 500,000 volumes, there was not a library
of over 600 volumes in Christian Europe the period 500 to 1000. Scientific
advance, especially in medicine, came to a screeching halt. Human culture
regressed to a more brutal level.)
Với sự thống trị của Giáo hội Công giáo trên mọi ngành văn hóa như trên,
làm sao mà khoa học hiện đại có thể bắt đầu phát triển từ thế kỷ 16? Trong
cuốn “Khoa Học & Tôn Giáo” (Science & Religion, Prometheus
Books, N.Y., 2003, Giáo sư Paul
Kurtz, giải thích, trg. 11:
“Bình minh của khoa học hiện đại ló dạng trong thế kỷ 16 và 17, khi
các khoa học gia và triết gia phát triển một phương pháp điều nghiên mới.
Những người đi đầu đã bỏ truyền thống, thuyết thần bí, thiên khải, và đức
tin, và đi thẳng vào cuốn sách của thiên nhiên. Họ tránh những giải thích
huyền bí che dấu những nguyên nhân thiên nhiên. Họ bác bỏ những luận điệu
siêu hình chỉ là suy đoán và tìm kiếm những giả thuyết và lý thuyết có
thể kiểm chứng được bằng sự quan sát thực nghiệm, tiên đoán từ thí nghiệm,
khả năng và sự chính xác của toán học. Những nguyên tắc khoa học chỉ được
coi như là thử đề nghị, được để ngỏ cho sự xét lại trong ánh sáng của những
dữ kiện mới hoặc những lý thuyết hiểu rõ hơn.
Sự
tiến bộ khoa học chỉ có thể xẩy ra khi mà những người có quyền thế về
thần học và triết học trong quá khứ đã bị dẹp sang một bên, và một phương
pháp táo bạo mới mẻ tìm hiểu về thiên nhiên đã được chấp nhận. Điều
này đưa đến những phát minh quan trọng từ lãnh vực nghiên cứu này đến
lãnh vực nghiên cứu khác. Mở đầu với Vật Lý học và Thiên Văn học, và
những khoa học thiên nhiên, những phương pháp điều nghiên khoa học đã
phát triển trong thế kỷ 19 sang Hóa Học, Sinh Học, và khoa học về sự
sống. Và rồi sang đến khoa học xã hội và khoa học về hành vi đối xử
(behaviorial science). Vì sự khảo cứu khoa học đã mở rộng biên giới
của kiến thức, những khám phá căn bản đã được áp dụng cho kỹ thuật với
những kết quả ngoạn mục, ảnh hưởng to lớn đến nền văn minh và chuyển
đổi những giá trị đạo đức, và những định chế chính trị, kinh tế và xã
hội.
[The dawn of modern science began in the 16th and 17th centuries,
when scientists and philosophers developed a new method of inquiry. The
pioneers abandoned tradition, mysticism, revelation, and faith, and proceed
directly to the Book of Nature. They eschewed hidden occult explanations
for natural causes. They rejected purely speculative metaphysics and sought
hypotheses and theories that are verified by empirical observation, experimental
prediction, and the precision and power of mathematics. Scientific principles
were considered tentative, open to revision in the light of new data or
more comprehensive theories.
Scientific progress could only occur when the theological and philosophical
authorities of the past were discarded, and a fresh bold approach to nature
was adopted. This led to unparalleled breakthroughs in fiel after field
of research. Beginning with physics, astronomy, and the natural sciences,
scientific mehtods of inquiry were later extended in the 19th century
to chemistry, biology, and the life sciences. And eventually in the 19th and
20th centruries to the social and behavioral sciences. As
scientific research advanced the frontiers of knowledge, the findings of
basic research were applied to technology with extraordinary results, impacting
civilization enormously and transforming moral values and political, economic,
and social institutions.]
Vì khoa học cũng như tôn giáo là những chủ đề rộng lớn, quá rộng lớn, cho
nên không ai có thể nói hết về mọi khía cạnh của tôn giáo và khoa học.
Tôn giáo cũng như khoa học đều cho là để phục vụ con người. Tuy nhiên,
không ai có thể phủ nhận là khoa học và tôn giáo Tây phương đều có mặt
xấu và mặt tốt. Sau đây tôi xin nói vài lời về hai mặt đối nghịch này
của Tôn giáo và khoa học.
Mặt xấu trong khoa học là lãnh vực khoa học để tạo quyền lực thống trị.
Đó là kỹ nghệ chiến tranh, chế tạo vũ khí đủ loại, bom nguyên tử, bom
khinh khí, bom áp nhiệt, bom chùm, bom napalm, vũ khí hóa học, sinh học
v…v… Giáo sư Noam Chomsky đã nói về viễn tượng thế giới bị thống trị như
sau: “từng bước một, cả nhân loại sẽ bị hăm dọa diệt chủng chồng lên
sự hăm dọa về vũ khí nguyên tử”. Hiện nay, vũ khí nguyên
tử nằm trong tay mấy cường quốc, và để giữ quyền thống trị thế giới, những
nước này giữ độc quyền, cấm mọi nước khác không được chế tạo vũ khí nguyên
tử. Và những nước này dành quyền can thiệp vào mọi nước khác, nếu cần,
cho lợi ích của mình. Chính sách thực dân của các nước Anh, Pháp, Hòa
Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha trước đây, và chủ trương đế quốc của Mỹ trong
thời cận đại là những bằng chứng điển hình nhất về quyền lực thống trị
của những nước có vũ khí mạnh trong tay.
Sau Thế Chiến II thì quyền lực của các nước Âu Châu giảm, rồi chủ nghĩa
thực dân cáo chung, một phần nhờ cuộc chiến thắng vĩ đại của Việt Nam đối
với thực dân Pháp. Còn lại là hai thế lực cường quốc đối đầu nhau trong
chiến tranh lạnh: Nga và Mỹ. Từ giữa thế kỷ 19, Friedrich Engels đã nhận
định: “Không quốc gia nào có thể được tự do nếu quốc gia đó đi đàn
áp các quốc gia khác.” (No nation can be free if it oppresses other
nations). Và năm 1903, Lenin ủng hộ “quyền đầy đủ về tự quyết của mọi
quốc gia” (complete right of self-determination of all nations).
Điều này cũng là chủ trương của Tổng Thống Mỹ Woodrow Wilson và nhiều
chính khách Mỹ. Nhưng vì có vũ khí mạnh trong tay, nên cả Nga và Mỹ đã
bất chấp công pháp quốc tế. Liên Bang Xô Viết đã cưỡng bách sáp nhập Latvia,
Lithuania, Estonia, và một phần của Phần Lan, Ba Lan và Romania; chiếm
đóng và đặt Ba Lan, Romania, Hung Gia Lợi, Mongolia, Bulgaria, Czechoslovakia,
Đông Đức và Afghanistan dưới quyền kiểm soát của Cộng sản; dẹp cuộc nổi
giậy của công nhân Đông Đức năm 1953, cuộc cách mạng Hung gia lợi năm 1956.
Trong khi đó thì Mỹ đã xâm lăng và can thiệp quân sự vào hơn 130 trường
hợp ở các nơi như Trung Quốc, Mexico, Nicaragua, Panama, Honduras, Colombia,
Turkey, Dominican Republic, Korea, Nhật, Argentina, Cuba, Haiti, Uruguay,
Guatamela, Lebanon, Suma tra, Grenada, Puerto Rico, Brazil, Chile, Morocco,
Egypt, Ivory Coast, Syria, Iraq, Peru, Formosa, The Philippines, Cambodia,
Laos, và Việt Nam [Xin đọc Carl Sagan, Billions & Billions,
Random House, New York, 1997. pp.153-154; Carl Sagan là một khoa học gia
nổi tiếng trên thế giới. Tài liệu về sự can thiệp của Mỹ trong các nước
trên là Sagan dựa vào tài liệu của House Arm Services Committee của Mỹ]
Về Việt Nam Sagan viết, trang 154:
Sự
xâm lăng của Mỹ ở Đông Nam Á – vào những quốc gia chưa bao giờ gây hại
hay đe dọa Mỹ - đã tổn thất 58000 quân nhân Mỹ và làm chết hơn triệu
người Á đông; Mỹ thả những trái bom 7.5 megatons và tạo nên sự hỗn loạn
về môi sinh và kinh tế vào một vùng mà ngày nay vẫn chưa được bình phục.
[The American invasion of Southeast Asia – of nations that never had harmed
or threatened the US – killed 58000 Americans and more than a million Asians;
the US dropped 7.5 megatons high ecplosives and produced an ecological
and economic chaos from which the region still has not recovered.]
Sau 9 năm xâm lăng Iraq, Mỹ đã phải trả một giá là 4500 binh sĩ Mỹ
chết, 32000 bị thương, và tốn 800 tỷ đô-la, chưa kể ít ra là trên 100000
người dân Iraq chết. Bộ Trưởng Quốc Phòng Leon Panetta nói cái giá
về máu và tiền phải trả cho cuộc xung đột rất đáng vì nó đặt Iraq trên
con đường đi tới dân chủ.
[After nearly nine years, 4,500 American dead, 32,000 wounded and more
than $800 billion, U.S. officials formally shut down the war in Iraq —
a conflict that U.S. Defense Secretary Leon Panetta said was worth the
price in blood and money, as it set Iraq on a path to democracy.]
Cho tôi xin nhé, xin để cho Việt Nam yên, Việt Nam là một nước đang trên
đà phát triển sau những tổn thất quá lớn lao về nhân mạng và tài vật trong
cuộc chiến phi lý vì sự can thiệp vô lý của Mỹ, nay Việt Nam chỉ muốn hòa
bình để xây dựng đất nước. Việt Nam không có vũ khí nguyên tử, không có
những vũ khí giết người hàng loạt, không muốn làm tổn hại đến bất cứ quốc
gia nào khác. Chuyện dân chủ của Việt Nam rồi đâu sẽ có đó, chứ Việt Nam
không bao giờ muốn có con đường đi tới dân chủ như con đường mà Mỹ nhập
cảng vào Iraq. Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã dạy rằng một nền
dân chủ thì không thực tế trừ phi dân chúng đã được giáo dục [về dân
chủ]. (Thomas Jefferson taught that a democracy was impractical unless
the people were educated) Một công dân của Việt Nam, một nữ nhân, một
con cháu của Hai Bà, Bà Tôn Nữ Thị Ninh, đã khẳng định với dân biểu Loretta
Sanchez, người thường trơ trẽn xía vào chuyện nội bộ của Việt Nam:
Chúng
tôi chỉ tin tưởng vào một nền dân chủ do chính mình tạo dựng, và đã
qua lâu rồi thời kỳ những nước đang phát triển cần các nước phát triển
đến khai sáng và cứu rỗi.”
Về mặt xấu của tôn giáo thì chúng ta đã biết, nhân danh một ông Gót tưởng
tượng của người Do Thái, Công Giáo đã giết hại cả trăm triệu người trong
những cuộc thánh chiến, những tòa án xử dị giáo, những cuộc săn lùng phù
thủy mang về cho các linh mục dùng những hình cụ khủng khiếp nhất của nhân
loại, do khoa học của các con Chúa phát minh, tra tấn, bắt thú tội, rồi
mang đi thiêu sống. Tin Lành cũng như Công giáo đã thi hành chính sách
diệt chủng dân da đỏ ở Mỹ, và phạm không biết bao nhiêu là tội ác đối với
nhân loại trong quá trình truyền đạo, theo gót thực dân, trên khắp thế
giới.
Về mặt tốt thì lợi ích của khoa học không ai có thể tưởng tượng nổi và
lẽ dĩ nhiên không ai có thể biết hết. Chỉ xin đơn cử một số nhỏ lợi ích
của khoa học. Kỹ nghệ hàng không và hàng hải đã thu hẹp thế giới. Chỉ
trong vòng một ngày, con người có thể đi đến bất cứ nơi nào trên thế giới
mà mình muốn. Kỹ nghệ truyền thông và thông tin cho phép con người thấy
việc đang xẩy ra ở những nơi xa xôi cách nhiều ngàn cây số, liên lạc với
nhau bằng điện thoại và có thể thấy nhau khi nói chuyện. Sự phóng xạ phân
rã (radioactive decay) giúp chúng ta biết được tuổi của trái đất vào khoảng
4.5 tỷ năm, và nguồn gốc của sự sống trên hành tinh này đã có cách đây
4 tỷ năm. Thuyết Big Bang cho chúng ta biết về nguồn gốc vũ trụ. Thuyết
Tiến Hóa cho chúng ta biết nguồn gốc con người, dù rằng thỉnh thoảng vẫn
còn vài tiếng nói chống đối cất lên từ đêm tối của sự man rợ và đen tối
trí thức trong thời Trung Cổ ở Âu Châu.
James Watson và Francis Crick
với mô hình DNA trong phòng thí nghiệm
Cavendish Laboratories
vào năm 1953.
Bản quyền của A. Barrington Brown.
www.photoresearchers.com.
Khám phá khoa học ngoạn mục nhất
vào giữa thế kỷ 20, khám phá ra DNA của Francis Crick và James Watson,
với giải Nobel về khám phá quan trọng này trong khoa học. Với khám phá
này, phối hợp với vật lý và hóa học, người ta đã có thể hiểu rõ được
những quá trình căn bản của sự sống (Sagan, Ibid., p. 210: The most significant
aspect of the DNA story is that the fundamental processes of life now
seem fully understandable in terms of physics and chemistry). DNA là một
phân tử chủ yếu trong quá trình di truyền chung của con người và hầu hết
súc vật, cây cỏ. Từ đó chúng ta biết được người và vượn có chung tới 99.6%
những “gen” và không còn nghi ngờ gì nữa là thuyết Tiến Hóa đã trở thành
một sự kiện: người và vượn đều tiến hóa từ một tổ tiên chung xa xưa [Không
phải là con người tiến hóa từ khỉ như những người Ki Tô thường hiểu nhầm
và dựa vào đó để đả kích thuyết Tiến Hóa. TCN].
Những lợi ích của y học thì không thể nói hết được. Tuổi thọ trung bình
của một đứa trẻ sinh ra ở Mỹ năm 1900 chỉ là 47 năm. Một thế kỷ sau, một
đứa trẻ sinh ra ở Mỹ năm 2000 sẽ có tuổi thọ trung bình là ngoài 70, có
thể đến 80. Đó là do sự tiến bộ của khoa học, không phải do cầu nguyện
(David Mills, Atheist Universe, p. 244: In the year 1900, a child born
in the US had a life expectancy of only 47 years. After a century of science
progress, a child born in the year 2000 has a life expectancy of almost
80 years – an incredible achievement accomplished not through prayer, but
through science.) Người Ki-tô từ trên xuống dưới đều hưởng những thành
quả của khoa học, từ y khoa cho đến các tiện nghi hàng ngày, các phương
tiện thông tin, di chuyển v…v… Ngày nay, người Ca-tô khi bị bệnh, không
đến xin Linh mục nước thánh [của Alexandre de Rhodes] để chữa bệnh, mà
đến nhà thương để cho bác sĩ, có thể là một bác sĩ vô thần, chữa bệnh.
Họ cũng không ngồi nhà cầu nguyện mong phép lạ của Chúa chữa khỏi. Giáo
Hoàng John Paul II, trước đây khi bị bắn, cũng phải nhờ một toán bác sĩ
giải phẫu trong 6 tiếng đồng hồ mới thoát khỏi tử thần, nhưng rồi ông ta
đi đến Fatima để cám ơn Đức Mẹ. Và khi ông ta bị bệnh Parkingson thì mọi
cầu nguyện đều vô ích, ông ta phải tiếp tục chịu đựng bệnh càng ngày càng
nặng cho đến khi chết. Nhờ có khoa học kỹ thuật mà Giáo hoàng John Paul
II cũng như Benedict XVI có thể ngồi an toàn trên chiếc popemobile, đi
khắp nơi khuyên các con chiên “đừng sợ”. Giáo hoàng Benedict XVI mới đây
hãnh diện khoe rằng đã biết dùng I-Pad, gửi E-mail ra ngoài, một điều mà
một em nhỏ học sinh 13 tuổi đã thành thạo từ lâu. Ki Tô Giáo cũng không
phản đối kỹ nghệ sản xuất vũ khí mà Mỹ, có thể nói là một nước Ki-tô giáo,
đã kiếm lời rất nhiều qua dịch vụ bán vũ khí.
Tôn giáo, Ki Tô Giáo, cũng có mặt tốt. Lợi ích về cái tốt của Ki Tô Giáo
là một cái bánh vẽ cứu rỗi trên trời, một viễn tượng về một cuộc sống đời
đời sau khi chết. Cái bánh vẽ này cũng giúp cho tín đồ rất nhiều khi đối
diện với những bất toàn xẩy ra cho họ. Họ cảm thấy an tâm vì tin rằng
“Gót phải có một mục đích tốt nào đó cho họ trong đó”, và họ cầu
nguyện hi vọng Gót sẽ nghĩ lại và đền bù cho họ như Gót đã làm với Job
khi xưa. Họ được dạy như vậy. Họ tin theo lời Chúa, cứ xin thì sẽ được,
cứ cầu nguyện thì Chúa sẽ đáp ứng. Chẳng vậy mà ông Tổng Ngô Quang Kiệt
đã huy động giáo dân, kể cả đàn bà va con nít, mang búa kìm và xà beng
đến thắp nến cầu nguyện ở Tòa Khâm Sứ, ngày này sang ngày khác cả tháng
trời. Họ rất kiên trì cầu nguyện, “cầu ngày không đủ, tranh thủ cầu
đêm, cầu thêm ngày “Chúa nhật””. Cầu cho đến khi lệnh của Bertone
từ Vatican ban xuống mới chịu cuốn cờ, vác thánh giá rút lui về ổ. Điều
này cho thấy tin vào lời Chúa thì cũng như đổ thóc giống ra mà ăn. Màn
hiệp thông cầu nguyện cũng hiện đang tiếp diễn ở Thái Hà.
Đạo đức Ki Tô Giáo?
Tôn giáo, Ki Tô Giáo, thường tự nhận dạy đạo đức cho con người. Nhưng đạo
đức thực sự của con người thì ở đâu cũng có, có trong mọi tôn giáo,
trong dân gian, trong cả tập thể những người vô thần. Mặt khác cái thứ
đạo đức mà tôn giáo, Ki Tô Giáo, dạy cho tín đồ thì chúng ta đã biết cái
đạo đức đó như thế nào qua lịch sử ô nhục và đẫm máu của Ki Tô Giáo. Tại
sao vậy? Đọc Thánh Kinh thì biết, tất cả đều bắt nguồn từ đó. Tại sao
Công giáo và Tin Lành đều đi thiêu sống người? Tại vì Chúa Giê-su đã dạy
phải gom những kẻ không tin ông ta như gom củi rồi mang đi đốt. Tại sao
Ki Tô Giáo lại đi giết những người ngoại đạo? Vì Cha Giê-su dạy không
ai được thờ thần khác. Tại sao Công giáo lại đi săn lùng phù thủy, mang
về tra tấn rồi mang đi thiêu sống? Vì Gót dạy không được để cho phù thủy
sống sót tuy rằng chẳng làm gì có phù thủy ở trên cõi đời này.
Khi xưa, những hiện tượng thiên nhiên như sấm, sét, bão tố, động đất, sóng
thần, bệnh truyền nhiễm v…v… mà cho tới gần đây vẫn còn có người cho đó
là những hành động của Gót (Acts of God), thì đã được khoa học giải thích
nguyên nhân rõ ràng và nhiều khi có thể tiên đoán, phòng ngừa. Nhưng với
những nhà truyền giáo bảo thủ Ki Tô thì khác. Sau thiên tai Tsunami xẩy
ra ở miền Phuket ngày “chúa nhật” 26 tháng 12, 2004, làm chết mấy trăm
ngàn người nam, nữ, trẻ con vô tội, thì một số người trong trường phái
khoa học dỏm “Thiết Kế Thông Minh (hay ngu đần?)” nói “Gót có một mục
đích trong mọi thứ” (God has a purpose in all things). Ann Graham
Lotz, con của “lang băm tôn giáo” Billy Graham nói: “Gót không có giết
thừa người nào với Tsunami này. Trước sau gì rồi họ cũng chết mà”
(God didn’t kill any extra people with this tsunami. Sooner or later,
they all would have died anyway) và lập luận theo trường phát “Thiết Kế
Ngu Đần”: “Gót có một mục đích trong mọi thứ”. [Xin đọc David
Mills, Ibid., trang 243]. Chúng ta thấy sự cuồng tín của một số người Ki
Tô Giáo thật là khủng khiếp.
Tại sao Ki-tô-giáo lại chống khoa học?
Vì sự khác biệt giữa tôn giáo và khoa học đã quá rõ ràng, người ta thường
cho rằng khoa học và tôn giáo là hai phạm trù bất khả tương hợp (incompatible).
Nhưng tại sao tôn giáo lại chống khoa học trong khi khoa học chỉ muốn tìm
hiểu cặn kẽ những gì xẩy ra trước mắt trong thế giới vật chất, không hề
có ý cạnh tranh với tôn giáo để kiếm tín đồ.. Mà hiện tượng này hiện nay
chỉ còn xẩy ra trên nước Mỹ. Vì khoa học là sự thật được kiểm chứng bằng
những bằng chứng vững chắc. Mà như Samuel Butler đã từng nhận định: Ki-tô
Giáo nói chung, đặc biệt là Công Giáo, không sợ bất cứ gì khác mà chỉ sợ
có sự thật. Tại sao? Vì sự thật đi đến đâu thì những sự mê tín hoang
đường lui tới đó, giống như ánh sáng tới đâu thì bóng tối phải lui tới
đó. Bản chất của tôn giáo thờ thần là buôn thần bán thánh để kiếm lời.
Mà chúng ta đã biết, Ki Tô Giáo, đặc biệt là Công Giáo, sống dựa trên
sự mê tín của đám tín đồ thấp kém. Dù rằng không phải mục đích của khoa
học, nhưng những thành quả của khoa học đã phần nào làm cho những sự thật
mà tôn giáo rao giảng không còn là sự thật, và một khi tín đồ biết đến
sự thật và có can đảm để bước ra khỏi vòng mê tín thì tôn giáo mất đi quyền
lực tâm linh và lợi ích vật chất của giới chăn chiên. Cho nên không lạ
gì, bất cứ khi nào có thể, những bậc chăn chiên trong Ki Tô Giáo chống
khoa học để duy trì những quyền lực trên, và các con chiên chống khoa học
vì thiếu hiểu biết và không đủ can đảm để bỏ đi sự mê tín của mình.. Như
trên đã nói, người Ki Tô hưởng tất cả mọi thành quả của khoa học nhưng
họ lại sợ khoa học làm mất đi sự mê tín mà họ muốn nuôi dưỡng trong đám
tín đồ thấp kém. Đó là tại sao họ tập trung sự chống đối của họ vào thuyết
Tiến Hóa cũng như thuyết Big Bang.
Sách lược chống đối của Ki Tô Giáo đối với vài bộ môn đặc biệt của khoa
học thường có ba giai đoạn, tùy theo quyền lực của giáo hội và sự phát
triển của khoa học:
☞
Thứ nhất, trong thời đại mà Giáo hội nắm quyền thế gian như trong thời
Trung Cổ thì Giáo hội kiểm duyệt, đàn áp, bạo hành mọi quan niệm mà giáo
hội cho là lạc đạo. Ở đây chúng ta cần phải hiểu là khi tôi nói Giáo hội
hay Ki Tô Giáo là tôi muốn nói đến tập đoàn thống trị ngồi ở trên, quyết
định đường lối cho toàn thể con chiên chứ không phải là Giáo hội theo nghĩa
rộng, gồm tất cả mọi người ở trong đạo. Giáo hội cấm tín đồ đọc những
sách nào mà giáo hội cho rằng có thể làm cho đức tin của tín đồ chao đảo.
Các tòa án xử dị giáo của Giáo hội dành quyền xét xử và kết án cả những
khoa học gia như Copernicus, Bruno, Galileo v…v… và trường hợp điển hình
là thiêu sống linh mục dòng Đa Minh Giordano Bruno bởi vì ông này cho rằng
ngoài thế giới của chúng ta còn có nhiều thế giới khác, và trái đất không
phải là trung tâm của vũ trụ. Những điều này trái với những lời mạc khải
không thể sai lầm của Gót trong Thánh Kinh mà Giáo hội tuyệt đối tin.
☞
Thứ nhì, khi mà những quan điểm khoa học đã được kiểm chứng vững chắc không
thể phủ bác được thì Giáo hội xoay sang xảo biện, một ngành nghiên cứu
để tìm cách biện giải cho những hành động của Giáo hội, phần lớn là xuyên
tạc lịch sử, và những việc tàn bạo của Giáo hội là vì ý tốt muốn cứu vớt
linh hồn con người v…v… Trong giai đoạn này, Giáo hội không dám chống
đối khoa học nữa mà đưa ra quan điểm là khoa học và Giáo hội là hai bậc
thầy trong hai lãnh vực khác nhau, có giá trị như nhau, và không xen vào
chuyện của nhau. Quan điểm này, gọi tắt là NOMA (Non Overlapping Magisteria).
Đây là sự xảo biện của những người muốn vớt vát niềm tin vào một Gót của
họ và với mục đích ngăn chận những nghiên cứu về thực chất cái mà họ gọi
là bậc thầy tôn giáo của Giáo hội. Nói khác đi, quan điểm này bắt nguồn
từ sự thiếu tự tin tôn giáo: “Tôi tin cái gì thì mặc tôi, đừng có xía
vào tín ngưỡng của tôi”. Nhưng nếu chỉ tin không thì không nói làm
gì mà vì những hoạt động bắt nguồn từ niềm tin đó có ảnh hưởng trên mọi
khía cạnh xã hội thì ai cũng có quyền lên tiếng để làm sáng tỏ sự thật.
Cũng vì vậy mà ngày nay chúng ta có hàng trăm cuốn sách nghiên cứu về mọi
khía cạnh của Ki Tô Giáo và nhiều người như Sam Harris, Richard Dawkins,
Christopher Hitchens v..v… đã khảng khái công khai tự nhận mình là “vô
thần” và lên tiếng phê bình Ki Tô Giáo mà không có vấn đề.
☞ Cuối cùng, khi khoa học tiến tới mức mà các lý thuyết trở thành các sự
kiện, thí dụ như thuyết Big Bang và thuyết Tiến Hóa, thì Giáo hội thỏa
hiệp và nhận vơ tất cả những lý thuyết khoa học này đều có bàn tay của
Gót ở đàng sau để lừa dối đám tín đồ thấp kém, đánh bóng vai trò và khả
năng của Gót, bất kể những lý thuyết khoa học này đã phá tan thuyết sáng
tạo trong Thánh Kinh. Cho nên chúng ta không lấy gì làm lạ khi thấy Giáo
hoàng John Paul II và gần đây, Giáo hoàng Benedict đều phải công nhận
thuyết Big Bang là nguồn gốc vũ trụ, và thuyết Tiến Hóa là nguồn gốc con
người. Các Ngài chỉ thêm vào một điều rất ngớ ngẩn là tất cả đều do ý
của Gót của các Ngài. Giáo hoàng John Paul II cũng đã phải thú nhận là
chẳng làm gì có thiên đường trên các tầng mây, và cũng chẳng làm gì có
hỏa ngục ở dưới lòng đất. Do đó thuyết Sáng Tạo của Ki Tô Giáo đã tan
thành mây khói, không làm gì có hai cha mẹ đầu tiên là Adam và Eva, không
làm gì có sự sa ngã của Adam và Eva để tạo thành “tội tổ tông”. Vai trò
“cứu rỗi” của Giê-su chỉ là một huyền thoại, theo Linh Mục James Kavanaugh,
và vai trò “thần linh cứu thế” của Giê-su thì cần phải dẹp bỏ, theo Giám
mục John Shelby Spong. Và riêng với các tín đồ Ki Tô Giáo Việt Nam thì
tôi xin nhắc lại một sự kiện viết rõ nhiều lần trong trong Tân ước: “Giê-su
chỉ cứu người Do Thái mà thôi, và người Do Thái đã từ chối sự cứu rỗi của
ông ta, vì không thể tin được những gì Giê-su nói.”
“ELI
ELI lama sabachthani”
translation:
“MY
GOD, MY GOD, why has Thou forsaken me?
[Gót
của tôi ơi, Gót của tôi ơi, sao ngài lại bỏ tôi]
-Jesus
Trần
Chung Ngọc
Grayslake,
Illinois
Ngày
Đông Chí, 2011
Các bài tôn giáo cùng tác giả
▪
“Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần -
Trần Chung Ngọc dịch
▪
Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới -
Trần Chung Ngọc
▪
Huyền Thoại Cứu Rỗi -
Trần Chung Ngọc
▪
Lịch Sử các Giáo Hoàng -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 -
Trần Chung Ngọc
▪
TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 6 ▪
>>>