|
28 tháng 5, 2008
|
toàn tập:
1
2
3
4
5
6
PHẦN II
Mary Ngoài Cuốn Kinh Của Ki Tô Giáo
[The Unbiblical Mary]
(tiếp theo)
2. Giáo Lý Thụ Thai Vô Nhiễm:
Quan niệm về sự “Thụ Thai Vô Nhiễm” đã có từ lâu, từ
thời Trung Cổ, trong lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-ma, bởi những nhà thần học nổi tiếng
như John Duns Scotus (1266-1308), khẳng định rằng sự thụ thai của Mary qua bố mẹ
phải vô nhiễm “tội tổ tông” [nghĩa là không qua đường tình dục] để có thể trở
thành Mẹ Của Thiên Chúa (Theotokos), nghĩa là Mary không phải là sự kết tinh do
sự giao cấu của bố Joachim và mẹ Anna của Mary. Nhưng Thánh Thomas Aquinas
(1225 to 1274) lại không đồng ý với luận cứ: “Sự thụ thai Mary phải là trong tội
tổ tông, nghĩa là trong quan hệ tình dục, mà tội của nguyên tổ của chúng ta
[Adam] không thể sinh ra mà không có sự khoái lạc tội lỗi, đã truyền tội tổ tông
xuống hàng con” (Mary must have been conceived in original sin, for her
conception was the work of sexual union which after the sin of our first
ancestor cannot take place without sinful pleasure, introduced original sin into
the child). Chúng ta nên để ý là, Mary có còn trinh hay không, có mang tội
tổ tông hay không, có là mẹ Thiên Chúa hay không, có đồng công cứu chuộc hay
không, có là nữ vương hòa bình hay không v..v… tất cả đều do những Giáo hoàng
quyết định, và bắt tín đồ phải tin, chứ không hề có một căn bản nào trong cuốn
Kinh của Ki Tô Giáo, Cựu Ước cũng như Tân Ước.
“Thụ Thai Vô Nhiễm”, để khỏi hiểu lầm là “thụ thai
Giê-su”, đúng hơn phải gọi là “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội”, được Giáo hoàng
Pius IX đưa ra, quyết định đó là một tín lý (dogma) năm 1854, nghĩa là một điều
mà các tín đồ chỉ có quyền tin, không có quyền thắc mắc. Giáo hội dạy tín đồ
tín lý là một “chân lý mạc khải” (a revealed truth), nghĩa là Chúa đã mạc khải
cho giáo hoàng, cho nên tín đồ phải tin, không tin là mang tội với Chúa. Và cho
tới ngày nay, những tín đồ Ca-tô ở những ốc đảo ngu dốt, không có hoàn cảnh dự
phần vào quá trình tiến hóa của nhân loại, vẫn còn tiếp tục tin như vậy. Nhưng
không phải tất cả các tín đồ Ca-Tô đều là như vậy. John Thavis viết trong Thông
Tấn Xã Ca-Tô (Catholic News Service), không phải là Thông Tấn Xã Ca-Tô của LM
Trần Công Nghị, như sau, ngày 3 tháng 12, 2004:
Giáo hoàng John Paul II làm Chủ lễ ăn mừng 150 năm
thành lập tín điều Thụ Thai Vô Nhiễm, một tín điều mà nhiều tín đồ Ca-tô hiện
đại không thấu hiểu. [Pope John Paul II is leading celebrations of the 150th
anniversary of the Immaculate Conception, a dogma that many modern Catholics do
not fully understand.]
Đức Ông Arthur Calkins, một viên chức ở Vatican và
là một thành viên của Học Viện Quốc tế của Giáo Hoàng về Mary nói rằng: “Trong
một hai thế hệ gần đây có một sự yên lặng lạ thường của các tín đồ Ca-tô (về
tín điều Thụ Thai Vô Nhiễm), cho nên có thể có một sự hoang mang đáng kể về
vấn đề này. Một số người sai lầm cho rằng Thụ Thai Vô Nhiễm là nói về sự thụ
thai đức Ki Tô. Thật ra, đó là niềm tin Mary, bởi sự ân sủng đặc biệt của
Thượng đế, không bị nhiễm bởi “tội tổ tông” ngay khi mới là bào thai.”
Nhưng điều chướng ngại chính đối với nhiều tín đồ
Ca-tô là “tội tổ tông” [But the main stumbling block for many
Catholics is original sin.] Một viên chức ở Vatican nói: “Con người ngày
nay càng ngày càng ít tin vào “tội tổ tông”. Và nếu không tin là có tội tổ tông
thì tín điều Thụ Thai Vô Nhiễm thật là vô nghĩa.”
[People today simply
are less and less aware of original sin. And without that awareness, the
Immaculate Conception makes no sense," said one Vatican official.]
Nhưng khi Giáo hoàng Pius IX đưa ra tín lý về “Thụ Thai
Vô hiễm Nguyên Tội” vào ngày 8 tháng 12, 1854, thì sắc lệnh Ineffabilis Deus
của Giáo hoàng (papal bull) có câu sau đây:
Nếu người nào dám – điều mà Thiên Chúa
[con ngoáo ộp của giáo hoàng] cấm! – nghĩ khác với điều định nghĩa bởi chúng
tôi, thì hãy cho người đó biết và hiểu rằng hắn ta sẽ bị kết tội bởi chính sự
xét đoán của hắn; rằng hắn đã sụp đổ trong đức tin; rằng hắn đã tách rời ra khỏi
sự đồng nhất của Giáo hội; và hơn nữa, bằng hành động của chính hắn, hắn sẽ chịu
những hình phạt thiết lập bởi luật nếu hắn dám nói lên hoặc viết ra hoặc hoặc
bằng cách công khai nào khác, những sự sai lầm mà hắn nghĩ trong tâm.
[If anyone shall dare -- which God forbid! -- to think
otherwise than as has been defined by us, let him know and understand that he is
condemned by his own judgment; that he has suffered shipwreck in the faith; that
he has separated from the unity of the Church; and that, furthermore, by his own
action he incurs the penalties established by law if he should dare to express
in words or writing or by any other outward means the errors he think in his
heart.] |
Chúng ta nên để ý là tín đồ không có quyền nghĩ khác
với Giáo hội, nghĩ khác với Giáo hội là coi như đức tin sụp đổ và sẽ chịu
nhiều hình phạt, không phải đức tin vào Thiên Chúa mà là đức tin vào những điều
“Giáo hội dạy rằng…”. Chẳng vậy mà đã có một trí thức Ca-Tô Việt Nam viết lên
câu về Giáo hội Ca-Tô Việt Nam như sau: “Vatican có đánh rắm cũng phải khen
thơm”. Nhưng Giáo hoàng Pius IX đã dựa vào cái gì để đưa ra tín lý về Mary “Thụ
Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội”? Giáo Hoàng đã dựa vào cái điều hoang đường mê tín
của thời bán khai ở Do Thái trong Cựu ước về cái gọi là “Nguyên Tội” hay “Tội Tổ
Tông”. Nhưng ngày nay, “Tội Tổ Tông” là một huyền thoại đã lỗi thời, và
người nào còn nhắc đến nó, tin nó, chỉ tự chứng tỏ mình là người có đầu mà không
có óc. Chứng minh?
Malachi Martin, giáo sư tại viện nghiên cứu Thánh Kinh
của giáo hoàng tại Rô-ma dưới triều đại giáo hoàng John XXIII (Professor at the
Pontifical Biblical Institute of Rome, served in the Vatican under Pope John
XXIII), đã viết trong cuốn “Sự Suy Thoái Và Sụp Đổ của Giáo Hội Rô-Ma”
(The Decline and Fall of the Roman Church) như sau, trang 230:
Giáo Hoàng John XXIII nói trong buổi khai mạc Công
Đồng Vatican II ngày 11 tháng 10, 1962, rằng “những giáo lý và quan niệm sai
lầm vẫn còn tồn tại nhiều, nhưng ngày nay con người đã tự ý loại bỏ chúng… Nhưng
nếu Roncalli (John XXIII) không thấy là điều giảng dạy mới của mình dẫn tới
đâu, thì hàng trăm nhà thần học và giám mục đã thấy. Trong những thập niên
1960-70, sau khi Roncalli chết, họ đã từ bỏ niềm tin về tội tổ tông, về quỷ
Satan, và về nhiều giáo lý căn bản khác.
(Martin, Malachi, The Decline and Fall of the Roman
Church, p. 230: Pope John XXIII told the opening session of his council on
October 11, 1962, that “false doctrines and opinions still abound,” but that “today men spntaneously reject”
them… But if Roncalli did not see where his new teaching was leading, hundreds
of theologians and bishops did. In the sixties and the seventies after
Roncalli’s death, they drew these conclusions and abandoned belief in original
sin, in the Devil, and in many other fundamental doctrines.)
|
Sự từ bỏ những niềm tin về tội tổ tông, về quỷ Satan, và
về nhiều giáo lý căn bản khác không đâu rõ hơn trong những thú nhận của Vatican
trong vài thập niên qua. Thật vậy, từ năm 1981, tòa thánh Vatican đã mời một số
chuyên gia đến để cố vấn cho tòa thánh về vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo, các
chuyên gia được giáo hoàng John Paul II tiếp kiến. Ông ta nói với các khoa học
gia là “cứ tự nhiên nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ bùng (big
bang), nhưng không nên tìm hiểu về chính lúc nổ vì đó là lúc sáng tạo, do đó
là tác phẩm của Thượng đế.” (Stephen Hawking, A Brief History of Time, p.
116: He told us that it was all right to study the evolution of the universe
after the big bang, but we should not inquire into the big bang itself because
that was the moment of Creation and therefore the work of God). Chúng ta nên để
ý, Big Bang là hiện tượng nổ bùng của một dị điểm (singularity) vô cùng đặc, vô
cùng nóng, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay, và đã xảy ra cách đây khoảng 13.7 tỷ
năm chứ không phải là chỉ có từ 6000-10000 năm do sự “sáng tạo” (sic) trong 6
ngày của Thượng đế Ki-tô giáo như được viết trong Cựu Ước, được coi như những
lời không thể sai lầm của Thượng đế. Và giáo hoàng nói câu trên chẳng qua chỉ
để vớt vát phần nào mặt mũi của Thượng đế, Thượng đế của những khoảng trống (God
of the Gaps), một mặt mũi đã không còn chỗ đứng trong thế giới tiến bộ trí thức
và khoa học của nhân loại.
Rồi, trước những khám phá khoa học liên hệ đến thuyết
Tiến Hóa bất khả phủ bác trong nhiều bộ môn của khoa học, năm 1996, Giáo
hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới là “thân xác con người có
thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một
quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất
dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết”.
(Pope John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church
firmly behind the view that “the human body may not have been the immediate
creation of God, but is the product of a gradual process of evolution.. The pope
said that “fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as
more than just a hypothesis”).
Còn nữa, tháng 7 năm 1999, trước những khám phá
xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày
nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố: “thiên
đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở
trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a physical
place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ
bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động
mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a punishment imposed
externally by God, but the condition resulting from attitudes and actions which
people adopt in this life).
Chấp nhận thuyết Big Bang, thuyết tiến hóa, chấp nhận
con người không phải là do Thượng đế tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một
quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài, thú nhận không làm gì có thiên đường (một
cái bánh vẽ trên trời để dụ những người đầu óc mê mẩn, yếu kém), và hỏa ngục
(một nơi để hù dọa những người không tin Chúa), Giáo hoàng đã chính thức bác
bỏ thuyết “sáng tạo” của Ki Tô Giáo, phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ
tông loài người do Thượng đế tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có
chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông.
Nhưng, John Paul II là một con người đạo đức giả và
thiếu lương thiện trí thức vào bậc nhất. Tại sao? Chúng ta hãy đọc những tin
tức sau đây:
Ngày 8 tháng 12 là ngày kỷ niệm 150 sắc lệnh
Ineffabilis Deus trong đó giáo hoàng Pius IX định nghĩa tín lý Thụ Thai Vô Nhiễm
Nguyên Tội. Giáo hoàng John Paul II long trọng tuyên bố rằng “giáo lý khẳng
định rằng bà Mary Còn Trinh, từ lúc đầu là cái thai, bằng ân sủng và đặc ân của
Thiên Chúa Toàn Năng, và xét theo những công trạng của Giê-su Ki-Tô, Đấng cứu
chuộc của nhân loại, được gìn giữ khỏi bị mọi tì vết của Tội Tổ Tông,
trong một giáo lý mạc khải bởi Thiên Chúa và, vì lý do này,
phải thường xuyên tin chắc bởi mọi tín đồ.”
[December 8, 2004 was the one hundred and fiftieth
anniversary of the bull Ineffabilis Deus, in which Blessed Pius IX defined the
dogma of the Immaculate Conception. Pope John Paul II solemnly declared that
“the doctrine which asserts that the most Blessed Virgin Mary, from the first
moment of her conception, by a singular grace and privilege of Almighty God, and
in view of the merits of Jesus Christ, Saviour of the human race, was preserved
free from every stain of original sin, is a doctrine revealed by God and, for
this reason, must be firmly and constantly believed by all the faithful.”] |
Sự vô đạo đức tôn giáo và thiếu lương thiện trí thức
của John Paul II ở chỗ là ông ta đã chính thức bác bỏ thuyết “sáng tạo” của Ki
Tô Giáo, phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Thượng đế
tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo
thành tội tổ tông, qua những lời tuyên bố của chính ông ở phần trên về Big Bang,
về Thuyết Tiến Hóa, về Thiên Đường và Hỏa Ngục, nhưng ông ta vẫn tiếp tục dạy
tín đồ phải tin vào cái tín lý hoang đường “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” của
Pius IX.
Nhưng không phải chỉ có John Paul II mới không có đạo
đức và thiếu lương thiện trí thức mà ngay cả giáo hoàng đương nhiệm Benedict
XVI cũng vậy. Một tài liệu trên Internet về một văn kiện khác của Vatican sẽ
chứng tỏ điều này.
Giáo hội đã phải chấp nhận những ý kiến của các khoa
học gia về những vấn đề như tuổi của trái đất và sự xác thực của những khám phá
về các sinh vật hóa thạch. Những lời tuyên bố của giáo hoàng cùng với những lời
bình luận của các hồng y, đã chấp nhận những khám phá của các khoa học gia về sự
xuất hiện dần dần của sự sống. Thật vậy, Ủy Ban Thần Học Quốc tế, trong một bản
tuyên bố vào tháng 7, 2004 được chấp thuận bởi Hồng y Ratzinger, Chủ tịch Ủy Ban
và Bộ Trưởng Bộ Truyền Giáo, nay là Giáo hoàng Benedict XVI, có đoạn như sau:
“Theo như những kết quả khoa học đã được chấp nhận
khắp nơi, vũ trụ đột nhiên nổ ra 15 tỷ năm trước trong một sự nổ bùng gọi là
“Big Bang” và từ đó nở rộng ra và nguội dần. Sau đó dần dần xuất hiện những
điều kiện cần thiết để cho sự tạo thành các nguyên tử, và sau nữa các nguyên tử
cô đọng lại thành các thiên hà và ngôi sao, và khoảng 10 tỷ năm trước sự tạo
thành những hành tinh. Trong Thái Dương Hệ của chúng ta và trên trái đất (được
tạo thành khoảng 4.5 tỷ năm trước), những điều kiện đã thuận lợi để cho sinh ra
sự sống. Tuy rằng ít có sự đồng thuận giữa các khoa học gia phải giải thích
nguồn gốc của sự sống vi mô này, nhưng họ đều đồng ý với nhau là sinh thể đầu
tiên đã có trên hành tinh này khoảng 3.5 – 4 tỷ năm trước. Vì người ta đã chứng
minh được rằng mọi cơ thể trên trái đất đều liên hệ với nhau bởi các “gen”, hầu
như chắc chắn là mọi cơ thể đều có nguồn gốc từ sinh thể ban khai này. Những
bằng chứng phù hợp với nhau từ nhiều công cuộc khảo cứu trong khoa vật lý và
sinh học càng ngày càng xác minh một thuyết Tiến Hóa về sự phát triển và sự đa
dạng của sự sống trên trái đất, trong khi vẫn còn tranh cãi về quá trình và cơ
chế của tiến hóa.”
[The Church has deferred to scientists on matters such
as theage of the earth and the authenticity of the fossil record. Papal
pronouncements, along with commentaries by cardinals, have accepted the findings
of scientists on the gradual appearance of life. In fact, the International
Theological Commission in a July 2004 statement endorsed by Cardinal Ratzinger,
then president of the Commission and now head of the Congregation for the
Doctrine of the Faith, , includes this paragraph: “According to the widely accepted scientific account,
the universe erupted 15 billion years ago in an explosion called the '"Big
Bang" and has been expanding and cooling ever since. Later there gradually
emerged the conditions necessary for the formation of "Atoms" , still later the
condensation of galaxies and stars, and about 10 billion years later the
formation of "Planets"
In our own “solar system” and on "Earth" (formed about
4.5 billion years ago), the conditions have been favorable to the emergence of
"Life" . While there is little consensus among scientists about how the origin
of this first microscopic life is to be explained, there is general agreement
among them that the first organism dwelt on this planet about 3.5 - 4 billion
years ago. Since it has been demonstrated that all living organisms on earth are
genetically related, it is virtually certain that all living organisms have
descended from this first organism. Converging evidence from many studies in the
physical and biological sciences furnishes mounting support for some theory of
evolution to account for the development and diversification of life on earth,
while controversy continues over the pace and mechanisms of evolution."
(paragraph 63, from "Communion and Stewardship: Human Persons Created in the
Image of God," plenary sessions held in Rome 2000-2002, published July 2004)]
|
Thật là rõ ràng, giáo hội Ca-tô đã chấp nhận những sự
kiện khoa học về nguồn gốc vũ trụ: thuyết Big Bang, về nguồn gốc con người:
thuyết Tiến Hóa, nhưng một mặt giáo hội vẫn tiếp tục bắt tín đồ phải tin vào
thuyết sáng thế mới xảy ra cách đây khoảng 6000 năm như được viết trong Cựu ước,
và về cái “tội tổ tông” hoang đường trong đó. Như vậy có phải là bất lương trí
thức hay không. Biết rằng sai mà vẫn cứ đầu độc, nhồi nhét vào đầu óc tín đồ
những sự sai lầm, như vậy có phải là làm hại tín đồ thay vì dạy cho họ thăng
tiến để cập nhật những kiến thức thời đại.
Ngô Triệu Lịch đã đưa ra một nhận định vô cùng chính
xác: “Tất cả nền thần học Ca-Tô Giáo chỉ là “Thần học đoán mò””, vì chỉ toàn là
phịa ra những điều đoán mò về những điều mà Giáo hội không biết. Giáo hội dạy
rằng Thiên Chúa không thể thấy được (invisible), không thể biết được (unknown)
và không thể hiểu được (incomprehensible), nhưng giáo hội đã tự mâu thuẫn khi
đưa ra những điều đoán mò của Giáo hội về cái Giáo hội không thấy được, không
biết được và không hiểu được, và gọi những điều giáo hội phịa ra là những “chân
lý mạc khải” hay tín lý (dogma). Về tín lý Mary “thụ thai vô nhiễm nguyên tội”
thì đó đúng là chuyện đoán mò nếu không muốn nói là phịa, vì chuyện bố mẹ Mary
thụ thai Mary không hề có ở bất cứ đâu trong thánh kinh.
Nếu giáo hội Ca-tô Rô-ma muốn nhốt các tín đồ trong vòng
ngu tối, và các tín đồ hoan hỉ sống trong cái vòng ngu tối đó thì đó là quyền
của họ. Nhưng điều tệ hại nhất của Ca-tô giáo Rô-ma đối với nhân loại là lại cứ
muốn mang những điều ngu tối của mình ra để bắt thiên hạ cũng phải ngu tối như
họ. Thật vậy, qua sự phân tích tín lý “Thụ thai vô nhiễm nguyên tội” ở trên,
chúng ta đã biết rằng, Giáo hội Ca-tô đã thú nhận là chẳng làm gì có cái gọi là
“nguyên tội” hay “tội tổ tông”. Nhưng chúng ta hãy đọc vài sự kiện trong Ca-tô
giáo để thấy họ đã mang cái ngu của họ ra áp đặt lên đầu nhân loại như thế nào.
Nếu không ngu xuẩn và trịch thượng thì làm sao mà Giáo
hoàng John Paul II, ngày 24 tháng 3, 1984, ở công trường Phê-rô, đã quỳ xuống
trước hình Mary và dâng hiến cả hành tinh này cho Trái Tim Vô Nhiễm
Nguyên Tội (sic) của Mary [Michael Jordan, Mary, p.302: On 24 March,
1984, John Paul II took advantage of the medium of television when he knelt
before the figure of Our Lady of Fatima in St Peter’s Square and dedicated the
entire planet to the Immaculate Heart of Mary]. Ông ta làm như còn là
một giáo hoàng trong thời Trung Cổ ở Âu Châu, nắm quyền sinh sát thế gian, và
hành tinh này là của riêng ông ta, muốn hiến dâng cho ai thì hiến, bất kể là
trên 4 tỷ người trên trái đất này không cần biết Mary là ai, và nếu có biết thì
cũng chỉ biết Mary là một người con gái sinh ra một đứa con hoang là Giê-su như
được viết trong Tân ước. Đây không phải là quyền tự do tín ngưỡng vì hành
động này xúc phạm đến tín ngưỡng của nhiều tỷ người trên thế giới không sống
trong cái vòng ngu tối của Ca-tô Giáo Rô-ma. Giáo hoàng mà còn ngu xuẩn và
trịch thượng như vậy huống chi là các con chiên ở Việt Nam. Không cuồng tín ngu
xuẩn và trịch thượng thì làm sao ngày 8 tháng 8, 1961, Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam họp tại Đà Lạt quyết định: “Lập một bàn thờ dâng hiến Giáo hội và Tổ
Quốc Việt Nam cho trái tim vô nhiễm ‘Đức mẹ”” [Nguyễn Đắc Xuân, Tìm Hiểu
Lịch Sử Nhà Thờ La Vang trong cuốn La Vang Giáo Sử, trang 52], bất kể
là “Tổ Quốc Việt Nam” có hơn 90% người dân không cần biết và quan tâm đến “Đức
Mẹ” là ai. Hội đồng Giám Mục, trong thời Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam, làm như
Tổ Quốc là của riêng họ, muốn dâng hiến cả Tổ Quốc cho một người đàn bà Do Thái
mà lịch sử đã ghi rõ, cả hai mẹ con đã cùng nhau chạy trốn Cộng sản chối chết từ
Bắc vào Nam năm 1954, chạy trước cả những con chiên. Và từ đó đến nay, bà
ta cũng chẳng làm được gì có ích cho thế giới văn minh ngoài việc thỉnh thoảng
các con chiên trên thế giới bắt khi nào khóc hay chảy máu mắt thì khi đó phải
khóc hay chảy máu mắt, và bắt khóc ở đâu thì phải khóc ở đó, dù bà ta là Mẹ
Thiên Chúa toàn năng, quyền phép vô cùng, muốn làm gì cũng được. Chẳng có ai đặt
vấn đề: mấy giọt nước mắt ngụy tạo, hay mấy giọt máu [của đàn ông khi được đem
đi phân tích DNA] trên khóe mắt thì giúp ích được gì cho nhân loại để giải quyết
những vấn nạn về chiến tranh, về thiên tai, về bệnh tật xảy ra hàng ngày và khắp
nơi trên trái đất. Nếu chỉ giải quyết được chút nào những vấn nạn này thì chẳng
nói làm gì, nhưng tuyệt đối bà ta chẳng làm được cái tích sự gì qua những vụ
hiện thân, hay khóc, hay chảy máu mắt, mà chỉ để cho bàn dân thiên hạ thấy các
tín đồ Ca-Tô, vốn đã mê muội tin nhảm tin nhí lại càng mê muội tin nhảm tin nhí
hơn.
Về tín lý “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” thì có một
màn dàn dựng của Giáo hội cho Mary hiện ra ở Lourdes [Lộ-Đức]. Ngụy Tích Lộ-Đức
như sau:
Trước hết, chỉ bằng một lý luận rất ngắn ngủi, không đi
vào chi tiết và tài liệu, tôi xin chứng minh rằng vụ hiện ra của Mary ở Lourdes
là bịa đặt, không thực, và hoàn toàn vô nghĩa, từ đó kéo theo sự không thực và
vô nghĩa của tất cả những vụ hiện ra khác trên thế giới, kể cả ở La Vang.
Thật vậy, “ngụy tích hiện ra” của Mary ở Lourdes có thể
tóm tắt trong hai sự kiện, và quý độc giả có thể thấy ngay mánh mưu của giáo hội
trong vụ này. Năm 1854, Giáo Hoàng Pius IX đặt ra tín điều “Thụ Thai Vô
Nhiễm Nguyên Tội” (The dogma of Immaculate Conception), nghĩa là không mang tội
tổ tông mà theo nền thần học Ca Tô thì tội của Adam và Eve được truyền lại đời
đời kiếp kiếp qua đường tình dục. Theo luận điệu thần học về nguyên tội
(original sin) thì mọi người trên thế gian đều sinh ra trong nguyên tội, không
ai có thể thoát khỏi, và do đó mới có những luận điệu thần học về rửa tội, Chúa
chuộc tội cho nhân loại v..v... mà ngày nay chỉ còn một số người có đầu óc đặc
biệt mới còn tin. Theo tín lý “Immaculate Conception” thì Bà Mary là người duy
nhất, không kể Giê-su là con của Thánh Ma (Holy Ghost), được miễn trừ nguyên
tội.
Có lẽ bà Mary, vì rất thích thú và hồ hởi với tín lý mới
này của Pius IX, cho nên 4 năm sau, năm 1858 [năm mà chiến thuyền của
những người Ca-Tô Pháp và Tây Ban Nha, với sự đón tiếp nồng hậu của Nguyễn
Trường Tộ đi theo hầu giáo sĩ quan thầy Gauthier (Ngô Gia Hậu) cùng các linh
mục Pellerin, Huc, Caspar v..v.. và một số đông giáo dân, bắt đầu bắn phá Đà
Nẵng mở màn xâm chiếm Việt Nam], bà Mary bèn hiện ra ở Lộ-Đức (Lourdes) ở miền
Nam nước Pháp và khẳng định với cô bé mù chữ 14 tuổi, Bernadette Soubirous, bà
ta chính là người đã “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” (I am the Immaculate
Conception), nghĩa là, bà Mary hiện ra với mục đích duy nhất là để chứng thực
tín điều mà Pius IX đưa ra trước đó 4 năm về bà ta. Theo Giáo Hội Ca-Tô thì
bà Mary đã hiện ra ở Lourdes 18 lần, từ 11 tháng 2 đến 16 tháng 7, 1858, và
nhiều lần xác định đi, xác định lại, xác định tái, xác định hồi, với Bernadette
Soubirous bà ta chính là người “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” [tuy rằng
Bernadette không hiểu thế nào là Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội và cũng không đủ
khả năng để nhắc lại câu “Ta là người đã Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” như
trong tài liệu “Lourdes” của André Lorulot. Bây giờ, chúng ta hãy đọc một đoạn
trong cuốn “Mary” của Michael Jordan:
“Trong lần thứ hai hiện ra Bernadette hỏi tên người
bạn kỳ bí của cô ta, và bà Mary tự giới thiệu là “Thụ Thai Vô Nhiễm”, xác định
căn cước của mình trong nhiều lần hiện ra về sau. Điều này được chấp nhận là
xác thực, không những bởi ông giám mục của Bernadette mà toàn thể Tòa Thánh cũng
chấp nhận như vậy. Cái mà có vẻ như cực kỳ bịp bợm đó có nghĩa hơn nếu chúng
ta quan niệm toàn thể những hiện tượng hiện ra ẩu tả đó, xảy ra không ngơi nghỉ
trong đầu thế kỷ 19, là do sự dàn dựng bày đặt của Giáo hội Ca-Tô. Trong
trường hợp Bernadette Soubirous, Giáo hội cần đến một sự chứng thực từ trên
trời cho tín lý “Thụ Thai Vô Nhiễm” của giáo hội, đang còn bị nghi ngờ không thể
tin được. Một cô bé đang ở tuổi giậy thì, dễ bị tác động và đôi khi cuồng
loạn, mù chữ và từ một gia đình nghèo khó, tự dưng ló ra một cách thuận tiện
không biết từ đâu, được mớm cho một câu hỏi thích hợp [và tất nhiên sẽ được một
câu trả lời thích hợp. TCN] và do đó có thể chứng thực những lời nói của Giáo
hoàng là không thể sai lầm.”
(Michael Jordan, Mary, Weidenfeld and
Nicolson, London, 2000, p. 293: During a second visitation Bernadette asked the
name of her mysterious friend, upon which the lady introduced herself as “The
Immaculate Conception”, confirming her identity on several subsequent
occasions. This was accepted as credible, not only by Bernadette’s bishop but
by the entire Roman Catholic office. What might appear to be extreme
gullibility makes better sense if one takes the view that the whole rash of
phenomena, which saw no respite in the early part of the 19th century, was
orchestrated by the Catholic Church. In the case of Bernadette Soubirous, the
Church was in need of heavenly endorsement for its dogma of Immaculate
Conception, still the subject of scepticism. A young girl at the impressionable
and sometimes hysterical age of puberty, illiterate and from an impoverished
home, emerged conveniently from nowhere, was primed with an appropriate question
and thus was able to confirm the infallibility of the Pope’s words.) |
Đến đây chắc quý vị độc giả đã hiểu Giáo hội cho bà
Mary hiện ra ở Lourdes với mục đích gì. Điều làm cho chúng ta phải phì cười
về cái màn bịp bợm này là khi Bernadette hỏi tên thì bà Mary không trả lời là
“Mary”, tên của bà trong Tân Ước, mà lại trả lời là “Ta là người thụ thai Vô
Nhiễm Nguyên Tội” để chứng thực danh hiệu “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” của
Pius IX bày đặt ra. Nhưng tại sao giáo hội phải bịp như vậy? Vì thời đó,
khi Pius IX tung ra tín điều “Vô nhiễm nguyên tội” thì đã có nhiều tiếng xì
xào nghi ngờ về tín điều mới của Pius IX. Không những thế, năm 1870 Pius IX
còn tung ra một tín lý khác: Giáo Hoàng không thể sai lầm khi đưa ra một tín lý
về đức tin hay một vấn đề đạo đức (Papal Infallibility in the matters of Faith
or Morals), do đó tín điều Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội thuộc về đức tín, và
mọi tín đồ bắt buộc phải tin, không tin thì không được lên thiên đường, một cái
bánh vẽ trên trời mà các tín đồ thường mơ tưởng không cần phải dùng đến đầu óc
để suy nghĩ. Tín đồ Công giáo từ xưa tới nay đã nổi tiếng là dễ bảo, dễ tin và
cuồng tín, và sự thờ hình tượng Mary (Mariolatry) đã được phổ biến và đẩy mạnh
trong giáo hội, cho nên một màn dàn dựng hoạt cảnh về Mary hiện ra ở Lourdes có
thể đẩy mạnh lòng sùng tín Mary trong đám tín đồ, cùng lúc xác định một tín điều
Pius IX mới đưa ra, và biến Lourdes thành một nơi mang nhiều lợi nhuận đến cho
Giáo hội. Và theo cùng một sách lược của giáo hội mẹ, các giáo hội con cũng cho
bà Mary hiện ra khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở những nơi mà giáo dân là
những kẻ ít học nhất và mê tín nhất.
(xem tiếp)
toàn tập:
1
2
3
4
5
6
Những bài về Đức Mẹ:
- Mary & Tước Hiệu "Đồng Công Cứu Chuộc" (Trần Chung Ngọc)
- Màn Kịch Lộ Đức (Charlie Nguyễn)
- Giêsu là con hoang của một anh lính La Mã (Hoàng Bách /VietBao)
- Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 (Trần Chung Ngọc)
- Đức Mẹ Mà Biết Nói Năng (Lý Thái)
- Đức Mẹ Sầu Bi (Gã Học Trò)
- "Đức Mẹ Đồng Trinh" đã ra đi (Tân Pháp sưu tầm)
- Phép lạ chẩy dầu ... vẫn tiếp tục ấm ức tại Úc Châu (giáo dân Vũ Viết
Khuynh)
Các bài tôn giáo cùng tác giả
▪
“Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần -
Trần Chung Ngọc dịch
▪
Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới -
Trần Chung Ngọc
▪
Huyền Thoại Cứu Rỗi -
Trần Chung Ngọc
▪
Lịch Sử các Giáo Hoàng -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 -
Trần Chung Ngọc
▪
TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 6 ▪
>>>