|
28 tháng 5, 2008
|
toàn tập:
1
2
3
4
5
6
II. Mary Ngoài Cuốn Kinh Của Ki Tô Giáo
Trong Phần I chúng ta đã thấy, trong cuốn Kinh của Ki Tô
Giáo (Bible), nhân vật Mary được nói đến rất ít, ngoài huyền thoại được thánh ma
(Holy Ghost) làm cho mang thai và sinh ra Giê-su, một huyền thoại mà ngày nay
chẳng mấy ai còn có thể tin được trước những khám phá của khoa học về con người
và vũ trụ, và trước những công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh của các bậc thức giả
ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô Giáo, Tin Lành cũng như Ca-Tô Giáo
Rô-ma.
Tuy nhiên, những điều về Mary không hề có trong cuốn
Kinh của Ki Tô Giáo mà Giáo hội Ca-Tô Rô-ma bắt các tín đồ phải tin thì rất
nhiều và không ngoài mục đích là tạo sự sùng bái [cult] Mary trong đám giáo dân
thấp kém bất kể sự thật. Thực chất tất cả chỉ là những sơn phết, vẽ vời, tô
điểm gượng gạo, phi lý trí, phản khoa học để mê hoặc tín đồ, nhất là không hề có
căn bản trong Tân ước.. Ngoài ra Giáo hội Ca-Tô khắp nơi cũng còn dàn dựng ra
những vụ hiện thân của Mary để đẩy mạnh sự sùng bái của tín đồ và đưa đến những
lợi nhuận vật chất to lớn cho Giáo hội. Điều này đã được chứng minh trong bài
“Những Vụ Hiện Thân Của Mary”, đã có trên giaodiemonline.com
Điều hiển nhiên ngày nay là những danh hiệu ngoài Kinh
điển Giáo hội Ca-tô Rô-ma gán cho Mary đã trở thành vô nghĩa và hoang đường
trước những tiến bộ trí thức của con người về vũ trụ, về Tiến hóa sinh học, về
sinh lý học v..v… vì tất cả những danh hiệu này đều dựa trên những huyền thoại
mà ngày nay đã không còn chỗ đứng trong các xã hội tân tiến, thí dụ như “tội
tổ tông” mà ngay cả những nhà thần học cũng như những bậc lãnh đạo trong
Ca-Tô Giáo đã từ bỏ từ lâu.. Sau đây, chúng ta hãy duyệt qua vài danh hiệu
của Mary mà Giáo hội Ca-Tô Rô-Ma dựng lên như là các tín lý (dogma) và bắt các
tín đồ phải tin, không tin thì không được lên thiên đường “mù” của Chúa Giê-su.
1. Giáo lý về “Sự trinh nguyên vĩnh viễn” của Mary [Perpetual Virginity].
Giáo lý này bắt nguồn từ sự tin nhảm tin nhí của thời
bán khai là con “Thánh Ma’ [Holy Ghost] mà người Ca-Tô Việt Nam thường gọi là
“Chúa Thánh Thần”, có thể làm cho cô bé Mary mang thai mà không cần đưa vào tử
cung của cô hai loại “nhiễm sắc tố định giống” (sex chromosomes) X và Y của đàn
ông để Mary có thể sinh ra một đứa con trai là Giê-su.
Đó là thời mà không có ai
biết gì về những sự khác nhau về nhiễm sắc tố (chromosomes) X, Y của đàn ông và
X,X của đàn bà, và nhất là chưa biết gì về bưồng trứng [ovum] của phụ nữ. Giáo
lý về “Sự trinh nguyên vĩnh viễn” của Mary dạy rằng: “sau khi sinh ra
Giê-su Mary không hề có liên hệ tình dục với chồng là Joseph, và không sinh thêm
một đứa con nào khác” [In Catholic tradition, Mary is referred to as the
Virgin Mary because of the doctrine of her perpetual virginity: even after
giving birth to Jesus she never had sexual relations with her husband, Josephus,
and never gave birth to more children.] Nhưng Tân ước đã viết rõ, như chúng ta
đã biết, là Joseph chỉ không giao hợp cùng Mary, hay nói cho lịch sự hơn,
không “xâm phạm trinh tiết” của Mary, nếu Mary còn trinh tiết, cho đến sau
khi Mary đã sinh ra đứa con trai đầu lòng và đặt tên là Giê-su
[Bible, King
James Version: Matthew 1: 25: and Joseph did not know her till she had brought
forth her “firstborn” son. And He called his name Jesus], và Tân Ước cũng viết
rõ, Giê-su thực sự có 4 người em trai và ít nhất là 2 người em gái, Mark
6: 3: “Đây có phải là anh thợ mộc (Giê-su), con bà Mary, anh của James, Joses,
Judas, và Simon? Các em gái của hắn chẳng phải đang có mặt tại đây sao?” (Is
this not the carpenter, the son of Mary, and brother of James, Joses, Judas, and
Simon? And are not his sisters here with us?), và trong nhiều đoạn khác trong
Tân ước có ghi rõ họ đều là em của Giê-su, và còn ghi rõ James là em ruột
Giê-su.. [Xin đọc: (John 2:12); Matthew 12:46-50; Matthew 27: 56; Mark 3:31-35;
Luke 8:19-21; Acts 1:13-14; 1 Corinthians 9:5; Acts 12:17; 15:13; Galatians
1:18-19]
Vì những điều viết rõ ràng trong Tân ước như trên nên
trong “Bức Tâm Thư 2, Kính gởi : Quí Vị Tín Hữu Công Giáo” chính Linh mục
Bùi Đức Hạnh cũng phải xác nhận là bà Mary không còn trinh như sau:
Bà Maria chỉ đồng trinh khi sanh Chúa Jê-sus mà
thôi, vì Kinh Thánh đã xác nhận Bà Maria và Ông Giu-se là vợ chồng nhưng không
ăn ở với nhau cho đến khi Chúa Jê-sus được sinh ra.
‘Thiên sứ hiện đến cùng Giu-se, nói cùng người
rằng: Ngươi chớ ngại lấy Maria làm vợ, vì Con mà người chịu thai đó là bởi Đức
Thánh Linh’ (Ma-thi-ơ 1:20) ‘Giu-se đã theo lời thiên sứ mà đem vợ về ở
với mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi người sinh con trai đặt tên là
Jê-sus’. (Ma-thi-ơ 1:25)
Giả như nếu Giu-se không nghĩ đến chuyện vợ chồng
thì việc gì ông phải bối rối và lẽ gì Thiên sứ lại bảo Giu-se lấy Maria làm vợ?
Giả như Maria trọn đời đồng trinh thì tại sao
lại bằng lòng làm vợ của Giu-se và phải nhắc đến việc ‘ăn ở với nhau’? Vâng,
họ chỉ đã không ăn ở với nhau cho đến khi sanh chúa Cứu Thế Jê-sus…’
Kinh thánh lại còn xác nhận :’Người sanh con trai
đầu lòng’ (Lu-ca 2:7) (Thánh Lu-ca ghi chép điều này khoảng 60 năm sau chúa
Giáng sinh, lúc ấy nhiều người quen biết với gia đình Ông Giu-se + Maria còn
sống (tr 12). Nếu quả thật bà Maria trọn đời đồng trinh, chắc chắn Lu-Ca phải
viết là ‘người sanh con trai duy nhất’). Đã có con đầu lòng thì phải là còn
có con khác, bà Maria đã không khấn hứa trọn đời đồng trinh vì bà đã hứa hôn
với ông Giuse trước khi thiên sứ truyền tin.
‘Thiên sứ Gáp-ri-en tới cùng một người nữ đồng
trinh tên là Ma ria đã hứa hôn với một người nam tên là Giu-se và dòng vua
Đa-vít’ (Lu-ca 1:27)
Những câu Kinh Thánh trên đây chắc đã không làm
cho một ai lúc sinh thời của hai ông bà thắc mắc hai người có phải là vợ chồng
nhau hay không ? Kinh Thánh nói về bổn phận của vợ chồng: (I Cô-rinh-tô 7:
45)
Kinh Thánh xác định việc vợ chồng trao trả phần
xác thịt cho nhau là cần thiết. Ông Giu-se và bà Maria sau khi sinh Chúa
Jê-sus thì có thêm con trai và con gái với nhau là hiệp lẽ. Dân chúng cũng
lầm tưởng Đức Chúa Jê-sus như những đứa con khác của ông bà, vì họ không biết bà
Maria chịu thai bởi Thánh Linh. ‘Có phải Ngài là con người thợ mộc chăng? Mẹ
Ngài có phải là Maria và anh em Ngài là Gia-cơ, Giô-sép, Simôn và Giu-đa, chị em
Ngài đều ở giũa chúng ta chăng?’ (Ma-thi-ơ 13:54-56; Mác 6:3)
Dân chúng biết rõ như vậy, nên khi nói bà Maria và
các con đi tìm gặp Chúa thì đã nói tự nhiên :
‘Mẹ Thầy và các em Thầy tìm gặp Thầy’ (Ma-thi-ơ
12:47; Mác 3:32)
Kinh Thánh còn nói : Maria mẹ Chúa Jêsus cùng là mẹ
của Gia-cơ và Giô-sép.
Những chi tiết này chứng tỏ Mary không thể nào còn
trinh, hoặc giả giáo hội bắt chước Thúy Kiều nói: “Chữ Trinh còn một chút này”
nhưng “chữ Trinh’ không phải là “màng Trinh”, mà giáo hội lại chỉ quan tâm đến
cái màng trinh của bà Mary mà thôi.. Chúng ta cũng biết, Joseph và Mary ở cùng
nhau như vợ chồng, ít ra là đến khi Giê-su khôn lớn, vậy quý vị có tin rằng
trong từng ấy năm ở với nhau như vợ chồng mà Mary vẫn còn trinh nguyên, màng
trinh chưa hề rách, kể cả sau khi sinh ra Giê-su? Điều này tôi có thể tạm giải
thích được như sau, là Joseph đã già và bất lực. Nhưng sau đó Mary lại sinh
thêm 4 đứa con trai và ít nhất là hai đứa con gái, vậy thì chúng là con của
những ai? Do đó, tín lý về Sự Trinh Nguyên Vĩnh Viễn của Mary, và nhiều tín
lý khác của Giáo hội Ca-Tô Rô-ma hoàn toàn phi lý. Nhưng ngày xưa, Giáo hội
giữ độc quyền diễn giải cuốn Kinh của Ki Tô Giáo (Bible) và tín đồ thì chẳng bao
giờ đọc Cựu Ước cũng như Tân ước, cho nên Giáo hội dạy sao thì tín đồ cứ việc mà
tin theo. Đây chính là truyền thống của Giáo hội, và trong truyền thống này,
hầu hết các giáo dân trong những ốc đảo ngu dốt [từ của Linh mục Trần Tam Tĩnh]
đều quên mình trong vâng phục, do đó bắt buộc phải tin những điều Giáo hội muốn
họ tin. Chỉ tội nghiệp cho số tín đồ cứ tiếp tục tin bướng tin càn vào những
điều “không thể tin được”. Chúng ta cũng nên biết là Giáo hội đã đưa ra một
số luận điệu ngụy biện rằng đó là “anh em họ” của Giê-su, hoặc là “con người vợ
trước” của Joseph, nhưng các học giả nghiên cứu Tân ước đã hoàn toàn dứt khoát
bác bỏ những luận điệu ngụy biện vô căn cứ này, vì chúng hoàn toàn mâu thuẫn với
những bằng chứng trong Tân Ước..
Từ sự tin nhảm tin tin nhí vào cái thuyết sáng tạo
với “tội tổ tông” mà ngày nay không còn mấy người tin, trừ đám tín đồ thấp
kém đã bị các “cha nhà thờ” nhồi sọ trong nhà thờ và bị các bố mẹ thuộc loại
“những bà lão Công giáo nhà quê” [từ của Linh Mục Thiện Cẩm] truyền sự mê tín
của mình xuống hàng con cháu trong gia đình từ nhỏ, Giáo hội Ca-Tô đã đưa ra tín
lý về “Sự trinh nguyên vĩnh viễn” của Mary để dạy tín đồ rằng Mary là người duy
nhất vừa là một người mẹ [đã sinh con, không phải chỉ có mình Giê-su mà còn sinh
nhiều con khác] vừa là một trinh nữ [Mary's perpetual virginity means that she
is the one human to be both a mother and a virgin]. Giáo hội dạy tín đồ rằng
“tội tổ tông” của loài người là do đường tình dục truyền đời này sang đời khác
từ Adam và Eve, và Eve là nguyên nhân của tội lỗi vì đã quyến rũ Adam và xúi dục
Adam ăn trái cấm để tạo thành tội tổ tông cho nhân loại. Cựu Ước viết:
“Tội lỗi bắt đầu từ một người đàn bà và vì người đàn bà này mà tất cả chúng ta
đều phải chết” [Sin began with a woman and thanks to her we all must
die" Ecclesiasticus, 25:18, 19 & 33.] Giáo hội coi vấn đề tình dục là xấu xa,
tội lỗi và nhiệm vụ của phụ nữ chỉ là cầu nguyện, sinh con, và đóng tiền cho nhà
thờ (The three P’s: Pray, Procreate, and Pay). Trong 7 núi tội ác của Giáo hội
Ca-Tô Rô-ma mà Giáo hoàng John Paul II xưng thú cùng thế giới có khoản “kỳ thị
phụ nữ”. Giáo hội đã kỳ thị phụ nữ như thế nào? Đọc những lời kỳ thị phái
nữ của các Thánh Ca-Tô chúng ta thấy họ ngu không thể tưởng tượng được, và tôi
có cảm tưởng là trong Ca-Tô Giáo Rô-ma, không ngu thì không thể thành Thánh
được. Ngay cả những Thánh Thượng Phụ nổi tiếng trong Ca-Tô Giáo Rô-ma như
Augustine hay Aquinas, trước bộ kiến thức của nhân loại ngày nay, thì cũng đều
là ngu cả. Thật vậy chúng ta ta hãy đọc vài lời “Thánh phán” về phái nữ, do
sự tin vào những điều nhảm nhí viết trong Cựu ước:
Thánh Tertullian phán:
“Các người không biết sao là mỗi người trong các
người (phụ nữ) là một Eve. Hình phạt của Thiên Chúa đối với giống nữ của
các người vẫn còn tồn tại trong thời đại này: tội lỗi của các người cũng vẫn
còn. Các người là cửa ngõ của quỷ: các người đã xâm phạm cái cây bị cấm; các
người là người đầu tiên trốn khỏi luật của Thiên Chúa: Các người là người đàn bà
đã thuyết phục được người đàn ông (Adam) mà con quỷ cũng không đủ dũng
cảm để tấn công. Các người đã phá hủy quá dễ dàng hình ảnh của Thiên Chúa,
người đàn ông. Vì các người mà ngay cả Con của Thiên Chúa cũng phải chết”
[St. Tertullian (about 155 to 225 CE): Do you not know
that you are each an Eve? The sentence of God on this sex of yours lives in this
age: the guilt must of necessity live too. You are the Devil's gateway: You are
the unsealer of the forbidden tree: You are the first deserter of the divine
law: You are she who persuaded him whom the devil was not valiant enough to
attack. You destroyed so easily God's image, man. On account of your desert even
the Son of God had to die.]
|
Thánh Augustine (354-430) (cha đẻ của nền
“Thần học đoán mò” (từ của Ngô triệu Lịch) Ca Tô và được Ca Tô Giáo tôn sùng,
coi như là có trí tuệ "siêu việt", tác giả cuốn Đô Thị Của Thiên Chúa
(City of God)):
"Người đàn bà, khi xét cùng với chồng, là hình ảnh
của Thiên Chúa.., nhưng khi xét riêng là đàn bà...thì không phải là hình ảnh của
Thiên Chúa, nhưng đối với người đàn ông xét riêng, thì đó là hình ảnh của Thiên
Chúa."
(The woman, together with her own husband, is the image
of God..., but when she is referred to separately..the woman alone, then she is
not the image of God, but as regards the man alone, he is the image of God.)
“Có gì khác nhau giữa một người vợ và một người mẹ,
cả hai đều là Eve, kẻ quyến rũ mà chúng ta phải coi chừng trong bất cứ người đàn
bà nào.. Tôi không thể thấy là người đàn bà có thể có ứng dụng gì cho người
đàn ông, nếu chúng ta bỏ đi nhiệm vụ sinh con.”
["What is the difference whether it is in a wife or a
mother, it is still Eve the temptress that we must beware of in any woman......I
fail to see what use woman can be to man, if one excludes the function of
bearing children.] |
Thánh John Chrysostom (347-407):
"Trong những thú dữ, không có con nào gây hại như
một người đàn bà"
(Among savage beasts none is found so harmful as a
woman)
Thánh Anthony (1195-1231):
"Khi các ngươi thấy một người đàn bà, hãy coi như là
các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính là một con quỷ.
Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con rắn."
(When you see a woman, consider that you face not a
human being, but the devil himself. The woman's voice is the hiss of the
snake.)
Thánh Thomas Aquinas (1225 to 1274 CE):
“Về bản chất của con người, người đàn bà thì khiếm
khuyết và được sinh ra một cách nhầm lẫn, vì hiệu lực của hạt giống của đàn ông
là để tạo ra một giới nam toàn hảo; trong khi sự tạo ra một phụ nữ là do sự
khiếm khuyết của cái hiệu lực trên.”
[As regards the individual nature, woman is defective
and misbegotten, for the active power of the male seed tends to the production
of a perfect likeness in the masculine sex; while the production of a woman
comes from defect in the active power.... Thomas Aquinas, Summa Theologica, Q92,
art. 1, Reply Obj. 1] |
Ở trên cõi đời này, chúng ta có thấy ai ngu như
những Thánh Ca-Tô như trên không? [Tôi thường dùng từ “ngu” trong một số
bài và có người cho đó là thiếu văn hóa. Nhưng đã nhiều lần tôi giải thích là
tôi dùng từ “ngu” trong thuật ngữ Phật Giáo, nghĩa là không biết rõ sự thật về
một vấn đề nào đó chứ không phải là “đầu óc ngu muội”. Do đó người “ngu” rất có
thể là chính tôi, nếu tôi không biết rõ sự thật về một vấn đề nào đó mà viết lên
những điều tôi không biết rõ mà lại viết bậy] Và đây là những Thánh rất nổi
tiếng trong Ca-Tô Giáo Rô-ma mà các giáo dân tôn sùng coi như là “thánh sống”.
Các Thánh đã ngu như vậy thì con chiên, nhất là con chiên Mít còn ngu tới đâu.
Chẳng ngu mà cho tới ngày nay mà trên diễn đàn tiengnoigiaodan.net, trong bài
“Cơ chế tổ chức, quyền bính và trách nhiệm của hàng giáo phẩm (Hierachy)
trong Giáo Hội Công Giáo”, Lm. Ngô Tôn Huấn còn dám viết như sau:
Theo giáo luật, thì hệ thống cai trị, quyền bính
và trách nhiệm trong Giáo Hội được tổ chức và phân chia như sau :
Ở thượng tầng cơ chế này thì Đức Giáo Hoàng là thủ
lãnh tối cao với quyền bính và trách nhiệm mà Chúa Ki tô đã trao trước hết cho
Thánh Phê rô, Tông Đồ trưởng, và các vị nối ngôi kế tục. (x. Mi 16:19;Ga
20:15-16). Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận và tuân phục Đức Giáo Hoàng La Mã là vị
Đại Diện (Vicar) duy nhất của Chúa Ki tô trên trần thế và là người kế vị Thánh
Phê rô trong nhiệm vụ chăn dắt toàn thể Giáo Hội.
trong khi các học giả ở trong cũng như ở ngoài Giáo hội
Ca-tô đã dứt khoát bác bỏ cái giáo điều ngụy tạo về các giáo hoàng đều là người
kế vị Phê-rô và là đại diện của Chúa Ki Tô. Vấn đề này tôi cũng đã phân
tích đầy đủ trong phần đầu của cuốn sách “Người Việt Nam và Đạo Giê-su”,
đã có đăng trên trang nhà sachhiem.net. Tuy nhiên, tưởng cũng
không phải là vô ích khi nhắc lại một nhận định rất chính xác của Linh mục
Joseph McCabe trong cuốn Sự Thật Về Giáo Hội Ca Tô Rô-ma (The Truth About
The Catholic Church, Girard, KS; Haldeman Julius, 1942):
“Trong tất cả những chuyện giả tưởng vẫn còn được ẩn
núp dưới cái dù dột nát “Chân lý Ca Tô Giáo”, truyền thuyết về chế độ giáo hoàng
được thành lập bởi Chúa và hệ thống giáo hoàng thật đúng là lì lợm và có tính
cách lãng mạn nhất. Chẳng có quyền lực thần thánh nào, mà chỉ là một chuỗi
những ngụy tạo và cưỡng bách, những lừa đảo tôn giáo và tham vọng ngỗ ngược,
phạm phải trong một thời đại cực kỳ ngu si, đã dựng lên quyền lực của giáo
hoàng, hệ thống giáo sĩ và tín ngưỡng. Từ “Giáo hội” chẳng có nghĩa gì trong
thời của Giê-su và Phê-rô. Không có từ đó trong tiếng Aramic. Giê-su đã phải
nói là “Giáo đường” [nơi tụ tập cầu nguyện của người Do Thái], và ông ta ghét
những Giáo đường.”
(Of all the fictions which still shelter from the storm
of modern criticism under the leaky umbrella of “Catholic Truth”, the legend of
the divine foundation of the Papacy and the Papal system is quite the boldest
and most romantic. No divine force, but a pitifully human series of forgeries
and coercions, of pious frauds and truculent ambitions, perpetrated in an age of
deep ignorance, built up the Papal power, hierarchy and creed…The word “church”
had no meaning at all in the days of Christ and Peter.There was no such word in
Aramaic.Christ would have had to say “synagogue”; and he hated synagogues.) |
Từ những bằng chứng nghiên cứu Thánh Kinh của các học
giả trong thế giới Tây Phương và của cả những nhà Thần học nổi danh trong Ca-Tô
Giáo Rô-ma, chúng ta thấy rõ sự ngụy tạo ra tín điều “Chúa chọn Phê-rô là người
thừa kế” chẳng qua chỉ là mánh mưu của Giáo hội Ca-Tô để tạo quyền lực trên đám
tín đồ đầu óc yếu kém, cả tin, và không bao giờ đọc hay không đủ khả năng đọc
Thánh Kinh . Lịch sử đã chứng tỏ Giáo hội Ca-Tô triệt để khai thác sự ngu dốt
của quần chúng và cho đến ngày nay, vẫn duy trì sách lược giam giữ tín đồ trong
sự ngu dốt, trong một ngục tù tâm linh, không dám cho tín đồ biết về những sự
thực về Kinh Thánh cũng như về Ca-Tô Giáo, tuy rằng những sự thật này đã được
phổ biến rộng rãi trên thế giới. Và thật là thê thảm cho giáo hội Ca-Tô
Rô-ma ở Việt Nam với những đầu óc như của LM Ngô Tôn Huấn, cho tới ngày nay mà
vẫn tiếp tục dạy con chiên phải tuân phục một cơ chế quyền lực ngụy tạo của một
tôn giáo ngoại lai đã gây nhiều tội ác đối với nhân loại.
Đọc những lời “Thánh phán” kỳ thị phụ nữ ở trên và
xét đến lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-ma chúng ta thấy rõ một sự đạo đức giả và mâu
thuẫn cùng cực. Giáo hội coi vấn đề tình dục là tội lỗi, và nguyên nhân của
mọi tội lỗi qua đường tình dục là từ giới phụ nữ đã truyền “tội tổ tông” xuống
loài người từ đời này đến đời khác. Nhưng thật là kỳ lạ, lịch sử các Giáo hoàng
Ca-Tô cho thấy không thiếu gì các giáo hoàng đắm mình trong nhục dục như trong
vài tài liệu điển hình sau đây:
Trong thời đại này, không phải là Thánh Linh tuyển
chọn giáo hoàng mà là, theo Hồng y Baronius, những cô gái điếm
(scortas). Đó là “luật lệ của những cô gái điếm hạng sang”
(rule of the courtesans), đôi khi còn được gọi là “chế độ điếm trị”
(Pornocracy), hay là triều đại của các cô gái điếm (reign of the
whores). Trong số điếm này có một người mà Baronius gọi là “con điếm vô liêm
sỉ”, Theodora, và đứa con gái vô liêm sỉ không kém là Marozia. Cả hai mẹ con
đều có con với giáo hoàng Sergius III, và cả hai đều đưa những đứa con hoang của
mình lên ngai giáo hoàng - John XI và John XII. John XI bị cầm tù và John XII
đã “biến dinh Lateran (nơi giáo hoàng ở, trong Vatican. TCN) thành một ổ
điếm”. Không có một tội ác nào mà John XII không làm - giết người, khai gian,
thông dâm, loạn luân với hai em, đâm chém và thiến kẻ thù v..v.. Hắn ta chết
trong tay của một người chồng bị xúc phạm (vì bị bắt quả tang đang thông dâm
với vợ người này.)
Sự đồi bại của Giáo hoàng John XXIII lên đến độ mà
Sigmund ở Hung Gia Lợi phải triệu tập một hội đồng điều tra hắn ta. Kết quả
của cuộc điều ta là đưa ra năm mươi bốn (54) khoản mô tả John XXIII là “độc ác,
không tôn trọng những điều thiêng liêng, không trong trắng, nói láo, không tuân
theo luật lệ và đầy những thói xấu.” Khi còn là hồng y, John XXIII đã là
người “vô nhân đạo, bất công và tàn bạo.” Khi lên làm giáo hoàng, ông
ta là “kẻ đàn áp người nghèo, khủng bố công lý; là cột trụ của tội ác, hình
tượng của những kẻ buôn bán chức tước và thánh tích; ham mê trò quỷ thuật, cặn
bã của thói xấu, đắm mình trong nhục dục; là tấm gương của sự ô nhục, một kẻ
phát minh ra những tội ác.” Hắn giữ chắc ngôi vị giáo hoàng bằng “bạo
lực và gian lận và bán chứng thư xá tội, chức vụ, bí tích và những đồ ăn cướp
được.” Hắn “xúc phạm thánh thần, thông dâm, giết ngưòi, hiếp dâm và ăn
cắp.”.. Một vài những giáo hoàng như vậy vô đạo đức, tục tĩu đến độ phải đi
đày. Ít nhất là có hai giáo hoàng bị móc mắt và cắt lưỡi, rồi buộc vào đuôi
lừa kéo lê ngoài đường phố. Một số khác bị khinh ghét đến độ người ta quật
xác chúng lên và ném xuống sông Tiber. Sau một ngàn bốn trăm năm dưới quyền lực
của Ki Tô Giáo, đạo đức xuống thấp đến độ giáo hoàng Pius II than rằng “hiếm mà
có một ông hoàng ở Ý không phải là đứa con hoang.” Lời tuyên bố này cũng áp
dụng cho những ông hoàng của giáo hội (the princes of the church: nghĩa là những
giáo hoàng, hồng y, giám mục v..v..) như là của chính quyền dân sự.
Tệ hại như vậy nhưng sự tệ hại hơn còn chưa tới - với
giòng họ Borgias, đặc biệt là Rodrigo. Trong những giáo hoàng xấu xa độc ác thì
hắn xứng đáng đứng đầu. Bằng cách hối lộ 15 hồng y với số tiền tương đương với
3 triệu đô-la, hắn chiếm được sự tuyển lựa một con người tệ hại nhất trong lịch
sử - chính hắn, lên làm giáo hoàng với tên Alexander VI. Sử gia Guicciardini mô
tả hắn như sau: “..có những thói quen cực kỳ tục tĩu, vô liêm sỉ và không có một
ý thức nào về sự thật, nuốt lời, không có tình cảm tôn giáo, tham lam vô
độ, nhiệt tình tham vọng, độc ác quá sự độc ác của những giống người man rợ,
tham muốn đưa con lên địa vị cao bằng mọi thủ đoạn: hắn có nhiều con, và một
trong những đứa này - cũng đáng ghê tởm như cha của nó.” Đó là con người nổi
tiếng, Cesare Borgia, người đã giết người anh rể là John, và hai hồng y khác để
chiếm được cái áo hồng y..
Khi còn là Hồng y, cái kẻ chơi bời phóng đãng và
sát nhân này đã biến chỗ ở của mình trong Vatican thành một ổ điếm. Theo sử
gia đương thời là Burchard, hắn đắm mình trong những cuộc hoan lạc trong những
phòng của hắn, ngay trên phòng của giáo hoàng, và những cô gái điếm hạng sang
“nhảy múa trần truồng trước những tôi tớ của Chúa [các hồng y, giám mục,
linh mục] và vị đại diện của Chúa (giáo hoàng. TCN).”.. Đó là sự hoan
lạc được giải thích như là “lòng yêu thích sự vui vẻ lành mạnh.”
[Lloyd M. Graham, Deceptions and Myths of the Bible, pp. 463-468: At
this time it was not the Holy Ghost that selected the popes but what
cardinal Baronius called scortas, whores. This was the “rule of the
courtesans,” sometimes called Pornocracy, or reign of the whores. Among them
was one Baronius called the “shameless whore,” Theodora, and her equally
shameless daughter Marozia. Both had sons by Sergius III, and both put their
illegitimates on the papal throne - John XI and John XII. The first was
imprisoned, the second “turned the Lateran Palace into a brothel.” There was no
crime he didn’t commit - murder, perjury, adultery, incest with his two sisters,
bleeding and castrating his enemies, etc. He died, we are told, at the hand of
an outraged husband. So corrupt was Pope John XXIII, Sigmund of Hungary
called a council to investigate him. The result was fifty-four articles
described him as “wicked, irreverend, unchaste, a liar, disobedient and infected
with many vices.” As a cardinal he had been “inhuman, unjust and cruel.” As
pope he was “an oppressor of the poor, persecutor of justice, pillar of the
wicked, statue of the simoniacs, addicted to magic, the dregs of vice..wholly
given to sleep and carnal desires, a mirror of infamy, a profound inventor of
wickedness.” He secured the Papacy by “violence and fraud and sold indulgences,
benefices, sacraments and bulls.” He practiced “sacrilege, adultery, murder,
rape and theft.”.. Some of these popes so outraged decency they were exiled. At
least two of them had their eyes and tongue cut out, then were dragged through
the streets tied to the tail of an ass. Still others were so despised their
corpses were exhumed and thrown into the Tiber. After fourteen hundred years of
Christianity morals had sunk so low that Pius II tells us: “scarcely a prince in
Italy had been born in wedlock.” A statement as applicable to the princes of
the church as of the states.
Bad as all this was, the worst was yet to come - the
Borgias, particularly Rodrigo. Of all the wicked popes he deserves the crown.
By bribing fifteen cardinals with the equivalent of three million dollars he
secured the election of one of the worst men in history - himself, Alexander
VI. Guicciardini, the historian, describes him thus: “..private habits of the
utmost obscenity, no shame or sense of truth, no fidelity to his engagements, no
religious sentiments, insatiable avarice, unbridled ambition, cruelty beyond the
cruelty of barbarous races, burning desire to elevate his sons by any means: of
whom there were many, and among them one - not any less detestable than his
father.” This was the notorious Cesare Borgia who to gain a cardinalate
murdered his brother John, his sister’s husband, and two cardinals..
While still a cardinal this rake and murderer turned his
quarters in the Vatican into a brothel. According to Burchard, the papal
historian at the time, he indulged in nightly revels in his rooms above the
pope’s, and courtesans “danced naked before the servants of the Lord and the
Vicar of Christ.” And his sister, Lucrezia, distributed prized to those who
“had a carnal intercourse with courtesans the largest number of times.” This is
the gaiety explained as “love of good cheer.”]
|
Từ những tài liệu dựa trên các sự kiện trên, chúng ta
thấy rõ các bậc chăn chiên trong Giáo hội, từ cao xuống đến thấp, đâu có coi
trọng chữ trinh của phụ nữ, mà lại còn ưa phá trinh của phụ nữ như vụ các
linh mục cưỡng hiếp các nữ tu (sơ), chắc chắn là còn trinh, trong 23 quốc gia
trên thế giới.. Nhưng tại sao Giáo hội lại đưa ra tín lý về “Sự trinh
nguyên vĩnh viễn” của Mary, để bắt tín đồ phải tin? Đối với nữ giới, Giáo hội
đưa ra cái gọi là “sự phân đôi giữa gái trinh và gái điếm” [The “virgin – whore”
dichotomy], nghĩa là những người nào đã có quan hệ tình dục với đàn ông đều coi
như là gái điếm và tội lỗi như Eve. Mary còn trinh vĩnh viễn nên không mắc vào
cái gọi là lời nguyền của Eve (the curse of Eve), nghĩa là không bị Thiên Chúa
trừng phạt và đầy đọa vì cái tội quyến rũ Adam ăn trái cấm để hắn được mở mắt
ra, cái tội này truyền xuống cho tất cả các nữ nhân trong các đời sau qua tình
dục. Với cái giáo lý hoang đường này, Giáo hội khuyến khích các nữ tín đồ đi
tu, theo gương của Mary, nhưng thực ra chỉ để cung ứng nhu cầu truyền giáo bằng
cách nhồi sọ trẻ con, và cung ứng các dịch vụ hầu hạ vật chất, kể cả nhiều
khi chỉ là đối tượng phục vụ tình dục cho các bề trên. Thật vậy, chuyện
các Linh Mục cưỡng hiếp nữ tu Ca-Tô trong 23 quốc gia trên thế giới, còn bắt họ
đi phá thai, đã được phổ biến rộng rãi trên các diễn đàn truyền thông. Và ngày
nay, chúng ta đã biết nguyên trên nước Mỹ đã có tới khoảng 5000 Linh mục bị
truy tố ra tòa về tội loạn dâm: cưỡng hiếp nữ tu, và cưỡng bách tình dục hàng
ngàn trẻ em phụ tế, Giáo hội đã phải bỏ ra hơn 2 tỷ đô-la để bồi thường cho
những nạn dân tình dục của Giáo hội, nạn nhân của những người mang chức “thánh”
trong giáo hội. Vậy mà cho tới giờ này, các Linh mục Mít nhà ta, thí dụ như
LM Vũ Đức ở Detroit, vẫn dạy tín đồ Linh Mục là Chúa Ki Tô thứ hai, gián tiếp
nhục mạ Chúa Ki Tô thứ nhất. Thật là vô cùng nhảm nhí mà không biết ngượng.
Tài liệu trên Internet cho biết tình trạng linh mục
loạn dâm đã xẩy ra trên 17 quốc gia:
"http://en.wikipedia.org/wiki/Roman_Catholic_sex_abuse_cases_by_country"
và tình trạng này ở Úc cũng nghiêm trọng không kém gì ở
Mỹ.
Trong tháng 4 vừa qua, Giáo hoàng Benedict XVI đã đến Mỹ
để kêu gọi giáo dân hãy “cầu nguyện và hi vọng” (Pray and hope). Không biết
Giáo hoàng có khuyên các con chiên thắp nến cầu nguyện trước các Tòa để xin Chúa
tha tội cho các Linh mục, cũng là những Chúa thứ hai, về những tội loạn dâm mà
dù Chúa thứ nhất có tha tội đi chăng nữa thì các Tòa thế tục của dân gian vẫn
không chịu tha tội cho các Chúa thứ hai đã vi phạm luật pháp xã hội. Giáo Hội
luôn luôn mở cái màn cầu nguyện để mê hoặc tín đồ, tuy rằng từ xưa tới nay tuyệt
nhiên không có một loại cầu nguyện nào của Giáo hội được đáp ứng. Thật vậy,
chúng ta có thể đọc kết quả cầu nguyện của Ca-Tô Giáo Rô-ma trong cuốn “The
Documents of Vatican II..” như sau:
“Trong nhiều thập niên, mỗi năm vào tháng Giêng, Ca
Tô Giáo Rô-ma để ra 8 ngày để cầu nguyện cho sự thống nhất các Giáo hội [Ki
Tô]. Cho đến năm 1959, ý tưởng chính trong những ngày đó, từ 18 đến 25 tháng
Giêng, là hi vọng giáo dân Tin Lành sẽ “trở lại” giáo hội chân thật duy nhất
(nghĩa là Ca-tô Giáo Rô-ma) và Chính Thống Giáo sẽ dẹp tiệm.”
(Each year in January, for many decades, Roman
Catholics have offered eight days of prayer for Church Unity. Until 1959, the
general idea behind those days of prayer, January 18-25, was the hope that the
Protestants would “return” to the one true Church, and the Orthodox schism would
end.)
|
Kết quả cầu nguyện của Giáo hội Ca-Tô Rô-ma trong nhiều
thập niên ra sao, chúng ta đã rõ. Tin Lành vẫn là Tin Lành. Chính Thống vẫn là
Chính Thống. Và càng ngày càng có nhiều tín đồ bỏ “giáo hội chân thật duy
nhất”. Ở Nam Mỹ mỗi ngày có tới 8000 tín đồ Ca-tô bỏ “giáo hội chân thật duy
nhất” để theo Tin Lành, khiến cho “Đức Thánh Cha” John Paul II phải tố khổ các
nhà truyền giáo Tin Lành là những “con chó sói đói mồi” đến cướp đi tín đồ của
Ngài. Tình trạng bỏ đạo ở Âu Châu rất trầm trọng, và Giáo hoàng thiết giáp
Ratzinger alias Benedict XVI đến Mỹ chẳng qua chỉ là muốn vớt vát lại số tín đồ
ở Mỹ qua chiêu bài “Cầu Nguyện và Hi Vọng”. Có thành công hay không chúng ta sẽ
chờ coi.
Trở lại chuyện “Còn Trinh” của Mary, trong cuốn
“Mary” (Weidenfeld and Nicolson, London, 2001), tác giả Michael Jordan
viết, trang 178:
Trong tiểu sử của Mary, rằng bà ta không mang tì vết
của tình dục, thì rõ ràng là đầy những mâu thuẫn. Nó đưa ra một hình ảnh về sự
trinh bạch đến độ đó là một sự phát minh ra một chuyện thần kỳ hoàn toàn không
thể chứng minh được. Tuy vậy, sự khăng khăng cố chấp rằng bà ta không hề có
quan hệ tình dục và sinh ra Giê-su mà màng trinh vẫn còn y nguyên đã trở thành
một cương lĩnh trên đó chủ thuyết về Mary và nhiều tín lý của Ca-Tô Rô-ma đã
được phát triển.
(In Mary’s authorized biography, that she carries no stain of
sexuality, is clearly riddled with inconsistencies. It presents a picture of
chastity that amounts to a wholly unsubstantiated, fairy-tale invention. Yet
hidebound insistence that she never experienced sexual relations and that she
delivered Jesus via intact hymen was to become the central plank on which
Marianism and much of the Roman Catholic dogma developed.) |
Giáo hội Ca-Tô Rô-ma phát minh ra nhiều tín lý rất
phi lý để bắt tín đồ tin, không tin thì không được lên cái thiên đường (mù) của
Giáo hội, mà tín đồ thì cũng vì ham cái thiên đường (mù) này mà cứ nhắm mắt tin
bướng tin càn. Giáo hội đã phát minh ra hầm bà lằng đủ thứ truyện thần kỳ
(fairy-tale). Bởi vậy cho nên Giáo sư Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ duy
nhất trên thế giới chiếm được ngôi vị giáo sư thần học Ca-Tô của giáo gội Ca-Tô
[the first woman in the world to hold a chair of Catholic theology], trong cuốn
“Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con” (Putting Away Childish Things,
HarperCollins, 1995), đã coi tất cả những chuyện sau đây trong cuốn Kinh của
Ki-Tô Giáo, lập thành những tín lý căn bản của Ca-Tô Giáo: “Tư cách thần thánh
của Chúa Ki Tô”; “Sinh ra từ một nữ trinh”; “ngôi mộ trống”; “Ngày Thứ Sáu tốt
đẹp”; “Phục sinh”; “Thăng Thiên”; “Bị hành quyết để chuộc tội”; “Hỏa ngục” [The
divinity of Christ, The Virgin mother, Good Friday, Easter, Resurrection,
Ascension, Redemption by execution, Hell] đều là những truyện thần kỳ
(fairy-tales) để kể cho trẻ con, cần phải dẹp bỏ..
Riêng về nhân vật Mary, chúng ta hãy xét thêm hai tín lý
thuộc loại thần kỳ mà Giáo hội Ca-tô đưa ra để bắt tín đồ nhắm mắt mà tin: Tín
lý về “Thụ Thai Vô Nhiễm” (Immaculate Conception) và tín lý về “Hồn Và
Xác Bay Lên Trời” (Assumption of Body and Soul) để làm Nữ Vương Cai Quản
Trời Đất.
(xem tiếp)
toàn tập:
1
2
3
4
5
6
Những bài về Đức Mẹ:
- Mary & Tước Hiệu "Đồng Công Cứu Chuộc" (Trần Chung Ngọc)
- Màn Kịch Lộ Đức (Charlie Nguyễn)
- Giêsu là con hoang của một anh lính La Mã (Hoàng Bách /VietBao)
- Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 (Trần Chung Ngọc)
- Đức Mẹ Mà Biết Nói Năng (Lý Thái)
- Đức Mẹ Sầu Bi (Gã Học Trò)
- "Đức Mẹ Đồng Trinh" đã ra đi (Tân Pháp sưu tầm)
- Phép lạ chẩy dầu ... vẫn tiếp tục ấm ức tại Úc Châu (giáo dân Vũ Viết
Khuynh)
Các bài tôn giáo cùng tác giả
▪
“Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần -
Trần Chung Ngọc dịch
▪
Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới -
Trần Chung Ngọc
▪
Huyền Thoại Cứu Rỗi -
Trần Chung Ngọc
▪
Lịch Sử các Giáo Hoàng -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 -
Trần Chung Ngọc
▪
TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 6 ▪
>>>