Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái
Trần Chung Ngọc
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN99_1.php
06 tháng 7, 2010
Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy
Thoái Của Ki Tô Giáo
Sau đây chúng
ta thử tìm hiểu tại sao Ki Tô Giáo phải suy thoái và những yếu tố nào đã
khiến cho Ki Tô Giáo phải suy thoái mà không có cơ cứu vãn.
Các giáo
hội Ki Tô, đặc biệt là Ca-Tô Rô-MaGiáo, thường đổ tội cho các xã hội thế tục
và chủ nghĩa vật chất v..v.. đã làm cho Ki Tô Giáo suy thoái, trong khi thực
tế là các giáo hội Ki-Tô mới chính là thế tục và theo chủ nghĩa vật chất.
Nhìn vào những hoạt động chính trị của Ki tô giáo, vào tài sản của Vatican,
các chức sắc Ca-tô mặc quần áo và ăn uống như thế nào, các nhà truyền giáo
Tin Lành ở trên TV vơ vét tiền bạc ra sao, chúng ta thấy rõ đâu là thế tục,
đâu là vật chất. Nước Mỹ là nước bậc nhất thờ chủ nghĩa vật chất gồm có ba
cái nhất: tình dục, tàn bạo, và tiền [sex,
violence, and money], nhưng Mỹ là nước mà Ki Tô Giáo vẫn là chủ lực
tinh thần và tỷ lệ giáo dân trên dân số vẫn cao nhất, vào khoảng gần 80%,
trong đó có khoảng 23% theo Ca-tô Rô-MaGiáo..
Yếu tố chính
làm cho Ki Tô Giáo suy thoái là, Ki Tô Giáo với những cấu trúc quyền lực,
với những giáo lý dựa trên Thánh Kinh, đã không còn hợp với thế giới văn
minh tiến bộ ngày nay. Thật vậy, nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta thấy
thật ra sự suy thoái của Ki Tô Giáo không phải trong thời đại này mới xảy ra
mà đã bắt nguồn từ sự tiến bộ trí thức của con người ít ra là từ cuộc
Cách Mạng Khoa Học (The Scientific Revolution) vào đầu thế kỷ 17, từ
Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason) và Thời Đại Khai Sáng (The
Age of Enlightenment) trong thế kỷ 18, rồi qua các Thời Đại Của Các Hệ
Thống Tư Tưởng (The Age of Ideology) trong thế kỷ 19, đến Thời Đại
Phân Tích (The Age of Analysis) trong thế kỷ 20 của một số đông triết
gia và khoa học gia. Những thời đại này đã kéo con người Tây phương ra khỏi
Thời Đại Của Đức Tin (The Age of Faith), một thời đại mà sự thống trị
của Ca-Tô Rô-maGiáo đã đưa Âu Châu vào 1000 tăm tối được biết dưới tên
Thời Đại Trung Cổ (The Middle Ages) hay Thời Đại Hắc Ám (The Dark
Ages), hay Thời Đại Của Sự Man Rợ Và Đen Tối Trí Thức
(The age of
barbarism and intellectual darkness).
Điểm chung của
các thời đại này là, một số đông tư tưởng gia và khoa học gia tin tưởng rằng
lý trí và khoa học, chứ không phải là Ki Tô Giáo, sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của
nhân loại. Và ngày nay chúng ta thấy rõ như vậy. Từ thế kỷ 17, khoa học đã
tiến một bước dài, và ngày nay, trước những khám phá của khoa học về mọi bộ
môn để giải thích thiên nhiên như nó là như vậy, Thiên Chúa của những
khoảng trống (God of the gaps) càng ngày càng thu nhỏ lại, chỉ còn có
thể ẩn náu trong những khoảng trống rất nhỏ hẹp ở trong đầu óc của các tín
đồ. Sau đây chúng ta hãy duyệt qua những sự kiện chính trong những thời đại
trên.
Thế Kỷ 17:
Cuộc Cách Mạng Khoa Học.
[The Scientific Revolution]
Mở đầu là cuộc
cách mạng khoa-học phát khởi ở Tây phương từ thế kỷ thứ 16, phát triển mạnh
trong thế kỷ thứ 17, với những tư tưởng và công trình khảo cứu của Nicolaus
Copernicus (1473-1543), Giordano Bruno (1548-1600), Galileo Galilei
(1564-1642), Johannes Kepler (1571-1630) v...v...Người ta gọi đó là 1 cuộc
cách mạng khoa học, bởi vì nhờ đó mà Tây phương thoát ra khỏi cảnh tăm tối
đã kéo dài gần 1000 năm, từ năm 476 tới năm 1473. Chính trong thời đại này,
Tây phương đã nằm dưới quyền thống trị của Ca-tô Rô-MaGiáo. Những giáo
điều, tín lý của Ca-tô Rô-MaGiáo, tôn giáo của Tây phương, cộng với quyền
hành của các lãnh tụ tôn giáo ở địa vị nắm quyền, hay liên kết với những
chính quyền đương thời, đã ngăn chặn sự phát triển khoa học và tự do tư
tưởng của con người. Mọi khám phá khoa học, mọi tư tưởng trái ngược với
Thánh Kinh đều bị lên án là “lạc đạo" (heretics), phải diệt trừ. Do
đó, cũng chính trong khoảng thời gian này, Tây phương phải chịu đựng 8 cuộc
Thập Ác Chinh (Crusades) và hàng trăm ngàn các vụ xử án dị giáo
(Inquisitions), với kết quả là nhiều triệu người gồm già, trẻ, lớn, bé,
trai, gái đã bỏ mạng vì, hoặc bị tàn sát, có khi tập thể; hoặc bị tra tấn
bởi những dụng cụ tra tấn kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại (Hơn 40
dụng cụ tra tấn dã man này hiện được trưng bầy trong 1 bảo tàng viện nhỏ tên
là Medieval Dungeon trên đường Jefferson, khu Fisherman Warf, tại San
Francisco, và trong một bảo tàng viện ở Hà Lan); hoặc bị treo cổ, hoặc bị
đốt sống v...v..., tất cả chỉ vì họ không chấp nhận hay có những tư tưởng
ngược với Thánh Kinh. Đó là những vết
tỳ ố không sao tẩy xóa được trong lịch sử loài người, dù ngày nay Giáo hội
Ca-tô Rô-Ma đã làm hết sức để quảng cáo cái bộ mặt giả nhân giả nghĩa ngụy
trang dưới những chiêu bài như nhân quyền, từ thiện, bác ái v..v.. với hi
vọng làm cho thế giới quên đi cái lịch sử tàn bạo của Giáo hội, đẫm máu và
nước mắt của hàng triệu người vô tội.
Cuộc cách mạng khoa học đã gây nên
hai ảnh hưởng to lớn: Trong giới khoa học, đó là khởi điểm của các tiến bộ
khoa học hiện đại, vì từ đó các khoa học gia đã thoát ra khỏi sự thống trị
tư tưởng của tôn giáo; trong xã hội đại chúng, đó là khởi điểm của sự đạp đổ
nền độc tài tôn giáo và những giáo điều lỗi thời, vì những khám phá khoa học
mới đã có tác dụng mở mang dân trí, chấm dứt 1000 năm tăm tối, giải phóng
con người khỏi sự chuyên chế độc tài của giới giáo sĩ, điển hình là cuộc
cách mạng năm 1789 tại Pháp mà kết quả là tước bỏ quyền hành của giới lãnh
đạo Công giáo trong quần chúng, hay nói theo John E. Remsburg trong cuốn
False Claims: “tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Giáo hội Công Giáo
những thanh gươm để giết người, và những bó củi để thiêu sống người.”.
Để có một nhận định khách quan và trung thực về vấn đề trên, có lẽ chúng ta
nên duyệt sơ sự diễn tiến của cuộc cách mạng khoa học, một cuộc cách mạng vô
tiền khoáng hậu trong lịch sử Tây phương, được viết trong các sách giáo khoa
mà bất cứ sinh viên đại học nào học về khoa học cũng phải biết.
Trong thời Trung Cổ, tuy cũng có
những tiến bộ về khoa học và toán học, nhưng về nhân chủng học và vũ trụ
học, tất cả đều dựa trên Cựu Ước trong Thánh Kinh, một cuốn sách
viết bởi nhiều môn phái trong nhiều thế kỷ. Ngoài ra, Tân Ước cũng được
viết bởi nhiều người trong nhiều thế kỷ sau khi Giê-su bị đóng đinh trên cái
giá gỗ hình chữ thập. Tuy ngày nay, nhiều học giả nghiên cứu Thánh Kinh, và
ngay cả những tín đồ Ca-Tô tiến bộ, có đầu óc suy luận và kiến thức về khoa
học, đều công nhận là cuốn Thánh Kinh chứa đầy những huyền thoại cóp nhặt từ
các huyền thoại dân gian, đầy những sai lầm và mâu thuẫn, những tư tưởng dã
man của thời bán khai với những cảnh giết chóc, tàn sát tập thể, loạn luân
v...v... và hoàn toàn trái nghịch với những khám phá mới nhất đã được kiểm
chứng của khoa học. Nhưng vào thời Trung Cổ, cuốn Thánh Kinh đã được giới
lãnh đạo Ca-Tô coi như chính là những lời của Thần của họ, do đó không thể
sai lầm. Theo sự đoan quyết của các nhà thần học Ca-Tô, dựa trên Thánh
Kinh, thì thế giới mà chúng ta đang sống là thế giới duy nhất do một vị thần
mà họ gọi là Thượng Đế tạo ra, và trái đất là trung tâm của thế giới này, là
một mặt phẳng có bốn góc. Mặt trời và các hành tinh khác đều do các thiên
thần xoay vần xung quanh trái đất. Trên trái đất là 1 vòm trời cứng để giữ
nước ở phía trên, có những cánh cửa mở để nước rơi xuống thành mưa theo
hứng của Thượng Đế. Những sao trên trời là những ngọn đèn mà tối tối Thượng
Đế sai các thiên thần mang ra treo. Vì đó là những lời của Thượng Đế trong
Thánh Kinh nên bất cứ quan niệm nào không phù hợp với Thánh kinh đều bị coi
là "tà thuyết" và, theo Thánh Philastre, đương nhiên "sai lầm đối với tín
ngưỡng Ca-tô giáo" [Any
other view, St. Philastrius declared "false to the Catholic faith" ("Science
and Theology" by Andrew Dickson White)].
Nicolaus Copernicus
Nhưng
vào đầu thế kỷ 16, Nicolaus Copernicus, một nhà vũ trụ học người Ba Lan, đã
đưa ra một khám phá mới: đó là, không phải là mặt trời và các hành tinh
quay xung quanh trái đất, mà chính là trái đất và các hành tinh quay xung
quanh mặt trời.
Copernicus không dám phổ biến khám phá này như là một sự thực khoa học.
Nhưng cuối cùng ông cũng xuất bản một cuốn sách: "Chuyển động quay của
các thiên thể" (Revolutions of the Heavenly Bodies) trong đó có ghi
những khám phá của ông.
Để tránh cho Copernius những hậu
quả khó có thể lường trước được, trong phần đề Tựa cuốn sách, bạn của
Copernicus là Osiander đã khéo léo trình bày công trình khảo cứu của
Copernicus như là một giả thuyết (hypothesis) hay là một nghịch lý
(paradox). Nhưng, khi cuốn sách vừa được xuất bản thì Copernicus qua đời,
vào năm 1543. Do đó Tòa Thánh cũng làm ngơ và cho phép các nhà thần học
thỉnh thoảng được bàn tới "giả thuyết" của Copernicus. Sự chống đối trong
giới khoa học tuy có nhưng chỉ ngấm ngầm, không ai dám lên tiếng coi thuyết
của Copernicus là một chân lý, vì sợ bị kết án là lạc đạo, tra tấn và mang
ra xử tại tòa án xử dị giáo.
Giordano Bruno
Tuy nhiên, có một triết gia thuộc loại "uy vũ bất năng khuất", đó là
Giordano Bruno, một linh mục dòng Dominique người Ý. Bruno không những đồng
ý với Copernicus mà còn táo bạo hơn, đưa ra quan niệm là ngoài thế giới
chúng ta đang sống có thể còn có nhiều thế giới tương tự khác nữa. Điều này
trái với lời của Thượng Đế trong Thánh Kinh: Trái đất là trung tâm của thế
giới duy nhất mà chúng ta đang sống.
Ingersoll viết về Bruno:
“Do đó, Bruno bị bắt giam trong 6 năm.
Sau cùng, vì từ chối không chịu chấp nhận những điều trái với niềm tin bắt
nguồn từ những kết quả nghiên cứu khoa học vững chắc mà ông cho là đúng dù
rằng nếu chấp nhận là sai ông sẽ được tự do, ông bị đưa ra tòa án xử dị
giáo, kết án, dứt phép thông công và bị tuyên án tử hình bằng cách thiêu
sống. Ông bị các Linh Mục, những người có lòng thương yêu kẻ thù (theo
như lời dạy của Giê-su trong Thánh Kinh. TCN) , dẫn từ nhà tù ra nơi hành
hình. Ông bị cột vào một cọc xung quanh có chất củi. Rồi các Linh Mục, đệ
tử của Chúa Ki-Tô, châm lửa và thiêu sống vị Thánh tử đạo vĩ đại nhất, hoàn
hảo nhất này.” [4]
Galileo Galilei
Năm
1616, kính thiên văn đầu tiên của Galilei đã làm cho vòm trời trong Thánh
Kinh rớt ra từng mảng. Công cuộc khảo cứu của Galileo Galilei dựa trên sự
quan sát thiên văn qua hàng loạt những kính thiên văn ngày càng tân kỳ hơn,
đã thực chứng quan niệm của Bruno và đồng thời khẳng định thuyết của
Copernicus như là một chân lý khoa học. Chúng ta đã biết, năm 1633, dưới
triều Giáo Hoàng Urban VIII, tòa án xử dị giáo đã buộc Galilei phải sửa đổi
khám phá khoa học của ông cho phù hợp với Thánh Kinh, nghĩa là mặt trời quay
xung quanh trái đất, và dù vậy ông ta vẫn bị biệt giam tại nhà cho đến khi
chết vào năm 1642.
Galileo Galilei
|
Kính viễn vọng của Galileo Galilei |
Chuyện được kể như sau:
"Năm 1633, khi Galileo, dựa trên những dữ
kiện khoa học không thể phủ nhận, đoan quyết trong một cuốn sách khảo cứu
thiên văn của ông rằng: không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất mà
chính là trái đất quay xung quanh mặt trời, thì ông bị kéo ra trước tòa án
dị giáo của giáo hoàng Urban VIII, vốn là bạn của Galileo. Khi đó ông đã
già, gần chết. Giáo hoàng phán: "Trước khi chết, ngươì hãy sửa lại điều
trên vì nó ngược lại với thánh kinh. Bất cứ điều nào ngược với thánh kinh
đều đương nhiên sai lầm, vì thánh kinh là lời của Thượng Đế”.
Galileo là một khoa học gia vĩ đại, dù đã 80
tuổi, sắp chết, nhưng vẫn còn đầy đủ óc khôi hài tuyệt vời. Ông nói: "Không
thành vấn đề, tôi sẽ sửa lại lời tôi viết, tôi sẽ viết lại trong sách của
tôi đúng như lời Thượng Đế đã viết trong thánh kinh - nghĩa là mặt trời quay
xung quanh trái đất. Nhưng có một điều tôi cần trình ngài rõ: cả trái đất
lẫn mặt trời đều không đọc sách của tôi. Và sự thực thì, trái đất sẽ tiếp
tục quay xung quanh mặt trời. Nếu ngài nhất định muốn biết tại sao thì tôi
có đầy đủ bằng chứng. Tôi đã dùng cả đời tôi để nghiên cứu vấn đề này, và
những người có đầu óc khoa học đều tuyệt đối đồng ý với sự khám phá của
tôi. Trước sau gì rồi ngài cũng phải đồng ý vì không ai có thể chống lại sự
thực lâu dài”. [5]
Tuy
vậy Galileo vẫn bị buộc phải sửa đổi sự thực khoa học ông đã viết trong
sách, bị kết án là "lạc đạo" và bị biệt giam tại nhà cho đến khi ông chết,
năm 1642. Nhưng lời tiên đoán của ông đã thành sự thực, tuy hơi chậm.
Phải
mất
…
359 năm sau, ngày 29 tháng 10 năm 1992, khi mà bất cứ học sinh tiểu
học nào trên thế giới cũng đều đã biết trái đất
quay quanh mặt trời,
thì giáo hoàng John Paul II mới
tuyên bố vụ án Galileo là một “sai lầm” và phục hồi danh dự cho Galileo, sau
khi một ủy ban gồm những bộ óc thượng thặng của toà thánh nghiên cứu trong
13 năm về vấn đề Galileo. Trong dòng thời gian vô tận, 359 năm cũng chẳng
phải là lâu. Và, 13 năm dùng để nghiên cứu một vấn đề mà đối với toàn thế
giới đã rõ như ban ngày từ mấy trăm năm nay phải chăng phản ánh thực chất
của những bộ óc thượng thặng đang ngự trị trong Tòa Thánh Vatican? Thú
nhận sai lầm trong vụ án Galileo Tòa Thánh đã thú nhận là cuốn Kinh Thánh
không đáng tin cậy vì có nhiều sai lầm trong đó. Thật vậy, qua
nghiên cứu của nhiều học giả thì cuốn Kinh Thánh của Ki Tô Giáo, thực ra là
của Do Thái, chứa rất nhiều sai lầm về thần học và khoa học, và phần lớn là
những điều “không thể đọc được”, nhất là đối với trẻ dưới 18 tuổi.
Tín đồ
CaTô tỉnh ngộ: Tiến sĩ William Harwood
Trong
cuốn “Những vị Thần cuối cùng của Huyền Thoại: GiaVê và Giêsu”
(“Mythology’s Last Gods: Yahweh and Jesus”, p. 16), Tiến sĩ William
Harwood, một tín đồ CaTô đã tỉnh ngộ và bỏ được một niềm tin sai lầm sau khi
nghiên cứu lịch sử các tôn giáo trong đế quốc La Mã và khám phá ra rằng “bí
tích” ăn thịt uống máu Chúa (Eucharist) mà ông đã tin và thọ hưởng cái bí
tích rùng rợn này hàng tuần và trong nhiều năm, đã có từ 3000 năm trước khi
Giêsu ra đời, và rằng các Thần hay Thượng Đế (Gods) chỉ là những sản phẩm
tưởng tượng của con người (Dr. Harwood..discovered that the
“god-eating” ritual in which he participated weekly as a believing Christian
had existed three thousand years before Jesus’ birth. Not for three years,
however, could he fully abandon the disproved beliefs to which he had been
emotionally committed, and acknowledge that gods are as imaginary as
fairies),
đã viết:
“Người ta đã khám phá ra rằng, từng quyển một trong Thánh
Kinh đều chứa những sai lầm về sự kiện, những phỏng đoán không chính xác,
những kỹ thuật làm hợp lý hóa, những điều tiên tri về những sự việc đã xảy
ra, ghép với những điều tiên tri về tương lai đã được chứng tỏ là không
chính xác, và không còn sai lầm gì nữa là chứa những lời nói láo cố ý.
Nếu sự khám phá này được phổ biến tới đại chúng thì cái huyền thoại Do Thái
– KiTô đã bị quật nhào bởi một cơn gió lốc khó có hi vọng phục hồi.
[Quần chúng càng ngày càng biết nhiều hơn về sự kiện này. TCN]
Trước nguy cơ bị loại bỏ này, Giáo Hoàng đương thời (John
Paul II) bổ nhiệm một số sử gia của chính ông ta để khảo sát những kết luận
về Thánh Kinh của những sử gia thế tục và tìm ra trong những bằng chứng của
họ những sơ hở mà Giáo Hoàng tin rằng thể nào cũng phải có. Kết quả là
những sử gia của Giáo Hoàng cũng phải xác nhận là cuốn Thánh Kinh của Ki Tô
Giáo thực ra chỉ là một ảo tưởng sai sự thực. Họ phúc trình kết quả lên
Giáo Hoàng, và khi Ngài lập tức dẹp bỏ cái phúc trình này đi thì họ không
còn là tín đồ CaTô nữa. Rồi Giáo Hoàng ra lệnh cho bộ máy tuyên truyền của
Ngài phát minh ra một phương pháp luận khác để đánh đổ phương pháp của những
sử gia trên, một phương pháp luận được tạo ra với mục đích rõ rệt là phải đi
đến kết luận là cuốn Thánh Kinh của Do Thái – KiTô không phải là một tác
phẩm hoang đường, không cần để ý đến chuyện phải xuyên tạc những bằng chứng
đến cỡ nào để đi tới mục đích trên. Cái phương pháp luận đó là “Thần học”…
Đó là quyền lực của chính trị Thần quyền của thế giới
mà, mặc dù đã có hàng ngàn tác phẩm nghiên cứu và bài khảo cứu phủ bác toàn
bộ Thánh Kinh Do Thái – KiTô, cho tới ngày nay, 90% dân chúng trong những xã
hội mà tôn giáo chính là KiTô Giáo không hề biết đến sự hiện hữu của những
bằng chứng bất khả phủ bác là quyển Thánh Kinh chỉ là một tác phẩm giả
tưởng.”
[6]
Johannes Kepler
Ngoài ra, cùng thời với
Galilei còn có nhà thiên văn và toán học người Đức là Johannes Kepler.
Không những Kepler đồng ý với Copernicus và Galilei mà ông còn đưa ra 3 định
luật về cơ học các thiên thể (celestial mechanics) để mô tả một cách vô cùng
chính xác sự chuyển động của các hành tinh, trong đó có trái đất, xung quanh
mặt trời. Đó là:
1. Quỹ đạo của các
hành tinh quay xung quanh mặt trời là hình ellip (bầu dục) thay vì hình
tròn.
2. Các hành tinh quét những khoảng không
gian bằng nhau trong những khoảng thời gian bằng nhau.(Nghĩa là tùy theo vị
trí của hành tinh trên quỹ đạo ellip, vận tốc chuyển động của hành tinh khác
nhau)
3. Bình phương chu kỳ quay T (thời gian
quay được một vòng quỹ đạo) thì tỷ lệ thuận với lập phương khoảng cách trung
bình R giữa hành tinh và mặt trời. (T^2 tỷ lệ thuận với R^3).
Kepler cũng bị Tòa Thánh chỉ trích, hành
hung và bắt bớ giam cầm trong nhiều năm, nhưng các khoa học gia khác như
Descartes, Fermat, Newton v...v...đều ủng hộ ông cùng góp phần phát minh ra
những khám phá mới. Rút cục, giáo hội Ca-Tô chỉ còn biết đưa ra sắc lệnh lên
án các kết quả khảo cứu của Copernicus và Galilei là sai lầm, thí dụ như:
"Điểm thứ nhất, nói rằng mặt trời là trung
tâm và không quay xung quanh trái đất, là điên rồ, vô nghĩa, sai lầm về thần
học, và là tà thuyết vì trái ngược hẳn với Thánh Kinh; và điểm thứ hai, nói
rằng trái đất không phải là trung tâm mà lại quay xung quanh mặt trời , là
vô nghĩa, sai lầm về triết lý, và ít nhất từ quan điểm thần học, đối nghịch
với chân tín ngưỡng" [7]
và cấm các giáo sĩ và con chiên đọc sách của
Copernicus và Galilei.
Lệnh cấm này kéo dài suốt 278 năm cho tới
năm 1821 mới được Giáo Hoàng Pius VII thu hồi. Nhưng cấm thì cứ cấm, giới
trí thức cùng người dân đọc thì vẫn cứ đọc. Dần dần quyền hành tôn giáo ở Âu
Châu không còn địa vị độc tôn và giữ quyền sinh sát như trước nữa, vì cuộc
cách mạng khoa học và các phát triển khoa học về sau trong mọi ngành, nhất
là về nhân chủng học và di truyền học, và phương pháp định tuổi của vật chất
bằng phóng xạ đồng vị của Carbon và của vài nguyên tố khác đã làm sụp đổ
tận gốc rễ thuyết sáng tạo trong Thánh Kinh, căn bản tín ngưỡng của Công
giáo . Đó là ảnh hưởng trực tiếp to lớn của cuộc cách mạng khoa học trên xã
hội Tây phương. Ngày nay, những người còn tin ở thuyết sáng tạo là do lòng
tin lập thành trong tôn giáo chứ không phải lòng tin qua suy lý khoa học.
Thế Kỷ 18:
Thời Đại Của Lý Trí và Khai Sáng
(The Age of Reason & Enlightenment)
Thế kỷ 18 nổi tiếng
với những triết gia như David Hume, Thomas Paine và những nhà đại văn hào
của Pháp như Voltaire, Victor Hugo v..v…
Giữa thế kỷ 18, Voltaire đã nhận định: “vô thần là thói
xấu của một số ít những người thông minh” (Atheism
is the vice of a few intelligent people) để đối chiếu với số đông
những người “hữu thần” ngu dốt tin nhảm tin nhí vào một thần trong thời đó ở
Âu Châu, tuyệt đại đa số là tín đồ Ki-Tô Giáo, Ca-tô Giáo cũng như Tin Lành.
David Hume |
Thomas Paine |
Voltaire (François-Marie Arouet) |
Victor Hugo |
Victor Hugo cũng đưa ra hai nhận định rất nổi tiếng trong thời đó:
“Chỉ
có hai tội phạm: César và Phê-rô (Peter) César thì giết người (hủy diệt
thân xác)
, Phê-rô thì nói láo (hủy diệt tư duy của con người)
.
Người linh mục đã, hoặc có thể, bị thuyết phục và thành thật [tin vào
những điều mê tín hoang đường]
. Chúng ta có nên trách họ không? Không!
Chúng ta có nên chống họ không?
Nên!”
(Il
n'y a que deux coupables, César et Pierre; César qui tue, Pierre qui ment.
Le prêtre est, ou peut être, convaincu et sincère. Doit-on le blâmer? Non.
Doit-on le combattre? Oui.)
“Nền văn minh,
ánh sáng này, có thể bị tắt đi bởi hai cách nhận chìm nó, hai sự xâm lăng
nguy hiểm đối với nó: sự xâm lăng của các quân lính và sự xâm lăng của các
linh mục. Sự xâm lăng của các quân lính đe dọa mẹ chúng ta: tổ quốc; sự xâm
lăng của các linh mục đe dọa con chúng ta: tương lai.”
(La
civilisation, cette lumière, peut être éteinte par deux modes de submersion,
deux invasions lui sont dangereuses, l’invasion des soldats et l’invasion
des prêtres. L’une menace notre mère: la patrie; l’autre menace nos
enfants: l’avenir)
Thomas Paine
xuất bản cuốn Thời Đại Của Lý Trí làm ba phần, vào những năm 1794,
1785, và 1807. Nội dung phê bình chỉ trích định chế tôn giáo của Ki Tô Giáo
và chất vấn về tính chính đáng (legitimacy) của cuốn Kinh Thánh. Ông ta
vạch ra sự đồi bại của Giáo hội Ki Tô [corruption of the Christian Church]
và chỉ trích những nỗ lực của Giáo hội để có những quyền lực chính trị.
Paine cổ võ việc sử dụng lý trí thay vì tin vào mặc khải, bác bỏ mọi phép lạ
trong Ki Tô Giáo và coi cuốn Kinh Thánh như là một văn phẩm bình thường chứ
không phải là một cuốn sách linh khải bởi thần thánh. Ảnh hưởng của Thomas
Paine thấy rõ trong những nhà tư tưởng tự do (freethinkers) trong những thế
kỷ 19 và 20, điển hình là trong những tác phẩm của Christopher Hitchens.
Đến cuộc cách
mạng của người dân Pháp vào năm 1789, trong đó người dân Pháp đã nhìn Ca-tô
Rô-MaGiáo như là một hiểm họa cho quốc gia và đã có những biện pháp cực đoan
đối với Giáo hội Ca-tô ở Pháp. Theo Linh mục Dòng Tên Malachi Martin, Giáo
sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã phục vụ trong
Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII thì: Pháp, Trưởng Nữ của Giáo
Hội Ca-tô Rô-ma, trong cuộc Cách Mạng 1789, đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn
thờ Chúa, đã tàn sát trên 17000 Linh Mục, 30000 Nữ Tu và 47 Giám Mục, và đã
dẹp mọi Trường Dòng, Trường Học Ca-tô, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư
viện của Giáo hội v..v.. [Xin
đọc The Decline and Fall of The Roman Church trang 196:
“France,
“eldest daughter of the Church”, enthroned Reason officially as supreme
deity, massacred over 17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops,
abolished all seminaries, Catholic schools, religious orders, burned
churches and libraries...”]
Nước
Pháp vào thế cuối thế kỷ 18 có thể gọi là toàn tòng Ca-tô. Nền giáo dục
quốc gia nằm trong tay giới giáo sĩ. Nếu Ca-tô Giáo thực sự là một lực
lượng tinh thần của dân chúng, nếu Ca-tô Giáo là một “hội thánh” được chỉ
đạo về luân lý đạo đức bởi các giới giáo sĩ và nữ tu, nếu Ca-tô Giáo thực sự
mang phúc lợi đến cho quốc gia v..v.. , thì tại sao lại lại có thể xảy ra
những vụ tàn sát như trên trong cuộc cách mạng 1789? Câu trả lời thật là
đơn giản. Vì Ca-tô Giáo là một hiểm họa của quốc gia. Chúng ta có
thể nhận rõ hiểm họa này qua vài hành động của giới trí thức Pháp vào thời
đó.
Chúng ta khó có thể quên Léon Gambetta, một chính trị gia lỗi lạc của Pháp,
trong phong trào hô hào đoàn kết quốc gia, đã hét lên “một lời tuyên chiến”:
“Chế độ Giáo sĩ đặc quyền, đó là kẻ thù”
(Le cléricalisme, voilà l'ennemi).
Và Émile Combes, một nghị sĩ đã phát biểu giữa nghị viện Pháp:
Không phải là chúng ta tấn công tôn giáo mà là những giáo sĩ của nó, những
người muốn dùng tôn giáo làm một công cụ để thống trị.
(Ce n'est pas à la religion que nous attaquons, c'est à ses ministres, qui
veulent s'en faire un instrument de domination).
Và Jean Bossu khi tranh đấu cho nền dân chủ của Pháp đã tuyên bố:
Chống chế độ giáo sĩ đặc quyền là nền tảng căn bản của tinh thần dân chủ.
Đối với chúng ta, chế độ giao sĩ đặc quyền chính là Giáo hội, chính là Chủ
thuyết Ca-tô mà từ trước tới nay luôn luôn là kẻ thù của mọi sự tự do.
(L'anticléricalisme est la base fondamentale de l'esprit démocratique. Pour
nous, le cléricalisme, c'est l'Église, c'est le Catholicisme, qui a toujours
été l'adversaire de toute liberté).
Tại sao các nhà trí thức Pháp lại chống Ca-tô Rô-MaGiáo một cách quyết liệt
như vậy. Vì qua nhiều thế kỷ, giới trí thức Pháp đã biết rõ bản chất thực
sự của Ca-tô Rô-MaGiáo, không như đám quần chúng kém hiểu biết ở trong thế
giới thứ ba và trong những nước kém phát triền, đám quần chúng vẫn còn tin
vào một đấng siêu nhiên, phép lạ, những điều mê tín, và những gì không thể
có được
[who still believe in the supernatural, the miraculous, the superstitious,
and the impossible]
Các trí thức
Pháp đã nhận thức được sự quan trọng của một nền giáo dục khai phóng, tiến
bộ, yêu nước, cho nên họ đã cương quyết chống lại nền giáo dục của giáo hội
Ca-tô trên nhiều phương diện, và họ đã thành công, qua cuộc cách mạng 1789,
trong mục đích “Giật con em ra khỏi bàn tay giáo dục của những linh
mục, vạch trần những sự đạo đức giả của Giáo hội.” (Arracher l’enfant au moine, dévoiler
les hypocrisies de l’Église).
Họ lên án Ca-tô Giáo, như lời tuyên bố của Charles Dupuy, Bộ
Trưởng Giáo Dục Pháp: “Không thể nhân nhượng trong chiều hướng giáo
dục tự do, cho bất cứ ai lại có thể dạy dỗ những đứa trẻ để chống lại
tổ quốc của chúng và cản sự tiến bộ của chúng” (Il nous parait intolérable qu’à la
faveur de la liberté d’enseignement, qui que ce soit élever les enfants
contre leur pays et contre leur temps).
Chúng ta biết rằng, “dạy
dỗ những đứa trẻ để chống lại tổ quốc của chúng và cản sự tiến bộ của chúng”
chính là hai sắc thái đặc thù của Ca-tô Rô-MaGiáo trong các trường học Ca-tô
trên khắp thế giới, đặc biệt trong thời thịnh hành của chế độ Thực Dân như ở
Việt Nam và các nước trong thế giới thứ ba.
(xem tiếp: Thế Kỷ 19: Thời Đại Của Các Hệ Thống Tư Tưởng )
Chú thích:
1. In fact during the two centuries and more that the Catholic Missions
have been operating in China and the Indochinese peninsula they have
probably not converted more than ten scholars in all. The entire educated
and governing class of the population has evaded their proselytism. In
general Catholic missionaries only recruit from among the lowest classes,
and mainly among those who, for various reasons have been rejected by
Annamese society.
2. Pope John Paul II has put the teaching authority
of the Roman Catholic Church firmly behind the view that “the human body may
not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual
process of evolution.. The pope said that “fresh knowledge leads to
recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis”.
3. The problem is that people think they know what's in
the Bible, or at least what kind of material it contains. Most of them are
wrong: they are only familiar with a few church-approved extracts, and are
astonished not just how awful God is in the Old Testament, but also at how
much less than perfect his son seems in the New. The message of Jesus isn't
all good news; paradise is an uncertain prospect at best. Taken as a whole,
it could well be The Bad News Bible.
4. He believed in a plurality of worlds, in the
rotation of this, in the heliocentric theory. For these crimes, and for
these alone, he was imprisoned for six years. He was offered his liberty, if
he would recant. Bruno refused to stain his soul by denying what he
believed to be true. He was tried, condemned, excommunicated and sentenced
to be burned. He was taken from his cell by the priests, by those who loved
their enemies, led to the place of execution..He was chained to a stake and
about his body the wood was piled. Then priests, followers of Christ,
lighted the fagots and flames consumed the greatest, the most perfect
martyr, that ever suffered death. ("Ingersoll The Magnificient" By
Joseph Lewis)).
5. Galileo was a great scientist who, even at the age
of eighty, when he was dying, had such a beautiful sense of humor. He said:
There is no problem. I will change it; I will write in my book exactly what
God has written in the bible - that the sun goes around the earth. But one
thing I must make clear to you: neither the sun reads my book nor the earth
reads my book. As far as reality is concerned, the earth will continue
going around the sun. And why should you insist? Because I have every
proof; I have devoted my whole life to the search, and all those who have a
scientific mind are in absolute agreement with me. Sooner or later you will
have to agree because one cannot remain against truth for long. ["Priests
and Politicians", Second revised edition, Cologne, West Germany, p.27]
6. One by one the various books of the bible were discovered to contain
errors of fact; inaccurate guesses; rationalizations; prophecies
ex-post-facto, usually combined with prophecies of the future that
proved inaccurate; and unmistakable, deliberate lies. Had this discovery
been allowed to reach general public, Judeo-Christian mythology would have
suffered a blow from which it could not have hoped to recover.
Facing elimination, the current Pope appointed his own historians to
examine the secular historians’ conclusions and find the flaw in their
evidence that he believed must be there. The outcome was that the Papal
historians confirmed that their bible really was falsifiable fantasy. They
presented the Pope with their reports and, when he promptly suppressed them,
they all ceased to be Catholics. So the Pope ordered his propaganda machine
to invent an alternative methodology to combat that of the historians, a
methodology created for the specific purpose of reaching the conclusion that
the Judeo-Christian bible is nonfiction, no matter how severely the evidence
had to be distorted in order to achieve that objective. That methodology
was ‘theology’..
…Such was the power of the world’s theocracies that, despite the
publication of thousands of scholarly books and articles refuting every part
of the Judeo-Christian bible, to this day the existence of unchallengeable
proof that the bible is a work of fiction is unknown to ninety percent of
the population of Christian-dominated societies.
7. The first proposition, that the sun is the centre
and does not revolve about the earth, is foolish, absurd, false in theology,
and heretical, because expressely contrary to the Holy Scriptures; and the
second proposition, that the earth is not the centre but revolves about the
sun, is absurd, false in philosophy, and from a theological point of view at
least, opposed to the true faith. ("The Scientific Revolution" Edited by
Vern L. Bullough.)
■ Các bài cùng chủ đề:
- Mối ác cảm của thế giới đối với Ki tô giáo (Nguyễn Mạnh Quang)