|
October 30, 2011 |
► Hai nguyên nhân suy thoái trầm trọng của Ki Tô Giáo ► Ki Tô Giáo có phải là Tà Đạo không? -Ca-tô Rô-ma Giáo có phải là “đạo chích” không? ► Niềm Hãnh Diện Của Ki Tô Giáo : Sao Chép Và Mô Phỏng ► Ca-tô Rô-ma Giáo có phải là Đạo Bịp không?
Gần
đây, trên một số trang nhà Phật Giáo trong và ngoài nước, vấn đề Ki Tô
Giáo, Ca-tô cũng như Tin Lành, tăng gia nỗ lực cải đạo những người ngoại
đạo, đã làm một số tác giả, tăng sĩ cũng như cư sĩ, quan tâm, và một
số tỏ vẻ lo ngại. Đó là mối quan tâm và lo ngại chính đáng khi chúng
ta nhìn vào một số Phật-tử cải đạo sang Ki Tô Giáo. Nhưng đi sâu vào
vấn đề cải đạo, chúng ta thấy rõ là vấn đề này không có gì đáng để cho
chúng ta phải lo ngại.
Một
số người lo ngại có lẽ vì đánh giá sai lầm Ki Tô Giáo, không biết rõ
về bản chất và thực chất của Ki Tô Giáo nói chung, đặc biệt là Ca-tô
Rô-ma Giáo nói riêng, nhất là về lịch sử truyền đạo của Ki Tô Giáo ở
Á Châu. Bài viết này sẽ trình bày cùng độc giả những lý do và sự kiện
chính yếu khiến cho Ki Tô Giáo không thể thành công ở Á Châu, nhất là
ở Việt Nam. Nếu có chăng thì cũng chỉ là những trường hợp lẻ tẻ nhất
thời, không đáng kể, và trong tương lai, Ki Tô Giáo ở Á Châu cũng sẽ
chịu chung số phận như Ki Tô Giáo ở phương trời Âu Mỹ ngày nay.
Lý
do chính để Ki Tô Giáo không thể thành công là sách lược cải đạo của
Ki Tô Giáo đã đi ngược lại lịch sử, và nhất là, đã đi ngược lại đà tiến
hóa của nhân loại. Thời đại của đức tin đã qua lâu rồi, nay là thời đại
của sự hiểu biết chân chính. Hiện nay, tình trạng suy thoái trầm trọng
của Ki Tô Giáo ở phương trời Âu Mỹ là một sự kiện không ai có thể phủ
nhận. Vậy tại sao Ki Tô Giáo không tìm cách phục hồi những “giá trị”
của Ki Tô Giáo ở những miền đất này, trước là cái nôi của Ki Tô Giáo,
mà lại đi kiếm ăn ở nơi khác, và có thể kiếm ăn được hay không?.
Hai
nguyên nhân suy thoái trầm trọng của Ki Tô Giáo
Có
hai nguyên nhân chính. Thứ nhất, sự tiến bộ trí thức và đời sống vật
chất tương đối thoải mái đã khiến cho con người Tây phương thức tỉnh,
không còn mê đắm trong những ước vọng hão huyền vào những điều hoang
đường, mê tín của Ki Tô Giáo, nay đã không còn giá trị trước sự hiểu
biết chân chính của con người, và nhất là trước những thành quả bất khả
phủ bác của khoa học. Ảnh hưởng của Ki Tô Giáo trên con người Tây phương
đang dần dần suy thoái, Ki Tô Giáo không thể đi ngược lại lịch sử, trở
lại thời đại Trung Cổ hay thời đại man rợ và đen tối trí thức, cho nên
Ki Tô Giáo phải tìm kiếm những miền đất mầu mỡ khác, nơi đây xã hội chưa
được phát triển đúng mức vì hoàn cảnh lịch sử, và dân trí chưa được mở
mang đúng mức cho nên dễ rơi vào vòng mê tín. Ki Tô Giáo lợi dụng những
hoàn cảnh kinh tế và xã hội đặc biệt ở những nơi đây, dùng bả vật chất
để khuyến dụ con người vào Ki Tô Giáo, với những hứa hẹn hoang đường
mà người Tây phương ngày nay không còn muốn nghe.
Tượng Phật Thích Ca tại Sarnath, Ấn độ
Thứ
nhì, Tây phương càng ngày càng biết nhiều đến những giá trị nhân bản
của các tôn giáo Đông phương, nhất là Phật Giáo. Điều này đã khiến cho
Ki Tô Giáo lo sợ và do đó tìm cách đối phó với những tôn giáo này ở ngay
trong nội địa Á Châu qua những sách lược xuyên tạc, bịa đặt, bôi đen,
hạ thấp các tôn giáo Á Châu, nhất là Phật Giáo, đồng thời tô hồng quảng
cáo cho Ki Tô Giáo, dùng bả vật chất kiếm thêm tín đồ để duy trì quyền
lực tâm linh và vật chất trên đám tín đồ thấp kém, và để làm hậu thuẫn
cho những mưu đồ chính trị đen tối của Ki Tô Giáo.. Nhưng sách lược tà
đạo này làm sao có thể thành công ở Á Châu, nơi đây các nền văn hóa nhân
bản Thích, Nho, Lão cao hơn văn hóa mê tín quy thần của Ki Tô Giáo rất
nhiều.
Ngày
nay, trong thế giới Âu Mỹ, cái nôi của Ki Tô Giáo nói chung, cái mà Ki
Tô Giáo gọi là “Tin Mừng Phúc Âm” của Giê-su đã đang rơi vào những cặp
tai không còn muốn nghe, và các tôn giáo Á Châu, nhất là Phật Giáo, càng
ngày càng được các dân tộc Âu Mỹ biết đến vì đã nhận ra chân giá trị
của Phật Giáo, những giá trị nhân bản vượt xa giá trị thần học của Ki
Tô Giáo. Âu Châu đang phế thải dần dần những “giá trị tâm linh Ki Tô
Giáo”.
Vậy
Á Châu đâu có cần đến đồ phế thải của Âu Mỹ? Phế thải vì những lời
thú nhận của giáo hoàng John Paul II cũng như của Giáo hoàng Benedict
XVI gần đây về nguồn gốc vũ trụ (Big Bang), về thuyết tiến hóa, về thiên
đường và hỏa ngục v.v... đã đương nhiên bác bỏ thuyết sáng tạo, huyền
thoại con người sa ngã nên cần đến sự chuộc tội và cứu rỗi của Giê-su,
cuộc sống đời đời trên thiên đường v.v... Vậy thì Á Châu cần đến
Giê-su để làm gì, và Tin Mừng của Giê-su là tin mừng như thế nào? Tin
mừng đối với ai? Đó chẳng qua chỉ là, theo Mục sư Ernie Bringas, “một
cái bánh vẽ trên trời” (A-pie-in-the-sky) cho những kẻ không theo
kịp đà tiến hóa của nhân loại, còn đứng ở phía sau xa với đầu óc cũ kỹ
thuộc thế kỷ 17 (An astrolabe mind)..
Sau
đây chúng ta sẽ thử tìm hiểu về bản chất và thực chất của Ki Tô Giáo
nói chung, đặc biệt là Ca-tô Rô-ma Giáo, và thử xem sách lược cải đạo
Á Châu của Ki Tô Giáo sẽ có thể thành đạt tới mức nào.
Không
phải là vô căn cứ mà khi xưa ông cha chúng ta và các Vua quan triều Nguyễn
đã coi Ca-tô Giáo là một “tà đạo”. Nhà yêu nước Phan Bội Châu
đã gọi Ca-tô Rô-ma Giáo là “đạo chích” (Thiên Hồ, Đế Hồ), nghĩa
là đạo của những kẻ cắp, kẻ cướp. Và Charlie Nguyễn, alias Thẩm Phán
Bùi Văn Chấn, một tín đồ Ca-tô Giáo đạo gốc đã lên án đạo của mình chỉ
là “đạo bịp”. Đây không phải là những nhận định vô trách nhiệm
mà dựa trên bản chất cùng những sự kiện lịch sử của Ca-tô Rô-ma giáo,
xuyên qua hàng núi tài liệu đã thành văn, kết quả nghiên cứu của rất
nhiều học giả, giáo sư đại học chuyên ngành, cùng một số bậc lãnh
đạo trong Ki Tô Giáo. Những nhận định trên cũng đúng với Tin Lành.
Sau đây là phần chứng minh.
Ki
Tô Giáo có phải là Tà Đạo không?
Trước
hết, chúng ta chỉ cần đọc cuốn Kinh Thánh của Ki Tô Giáo, so sánh nội
dung trong đó với nội dung trong thiên kinh vạn quyển của Phật Giáo thì
chúng ta thấy rõ đâu là chánh và đâu là tà. Kinh Thánh và Kinh Phật là
căn bản tạo niềm tin trong Ki Tô Giáo và trong Phật Giáo. Tôi sẽ bàn
chi tiết hơn về Kinh Thánh trong một phần sau.
Thứ
đến, muốn phân biệt rõ ràng thế nào là “tà” và “chánh”, chúng ta hãy
đọc:http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN56a.php để
biết 100 danh nhân trí thức trên thế giới đã nhận định và phê phán về
Gót (God) của Ki Tô Giáo và bản chất hiếu chiến của Ki Tô Giáo như thế
nào, và đọc:http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN56b.php để
biết 100 danh nhân trí thức trên thế giới đã nhận định và ca tụng Đức
Phật và bản chất hòa bình của Phật Giáo như thế nào.
Chuyển
pháp luân
Từ
đây, chúng ta cần nhận thức là, dù chỉ có 1 người theo, hay không có
ai theo, thì “Chánh Pháp” vẫn là “Chánh Pháp”. Và dù có cả tỷ người theo,
“Tà đạo” vẫn chỉ là “Tà đạo”. “Tà” có thể lừa dối con người một thời
nhưng không thể lừa dối được con người mãi mãi. Nếu bản chất Ki Tô Giáo
chỉ là một “tà đạo” thì “tà’ làm sao có thể thắng được “chánh”. Có thể
một thời, “tà” đã ở vị thế thượng phong, làm mưa làm gió, nhưng cuối
cùng thì bao giờ “chánh” cũng thắng “tà”. Đó là chân lý ngàn đời của
nhân loại. Sự suy thoái không phương cứu vãn của Ki Tô Giáo ở phương
trời Âu Mỹ, khiến cho Ki Tô Giáo phải đi kiếm ăn ở các lục địa khác,
và sự nở rộ của Phật Giáo ở Tây phương đã thể nghiệm hơn gì hết chân
lý ngàn đời trên.
Và
thứ ba, một đạo giáo mà có một lịch sử ô nhục đẫm máu qua những cuộc
Thập Tự Chinh, những tòa án xử dị giáo, những cuộc săn lùng , tra tấn
và thiêu sống những người mà Giáo hội cho họ là phủ thủy, thiêu sống
cả khoa học gia chân chính, theo gót thực dân cưỡng bách cải đạo v.v…
giết hại tổng cộng lên đến cả trăm triệu người vô tội, gồm cả già, trẻ,
nam, nữ vô tội, thì có từ nào khác ngoài từ “tà đạo” để mô tả tôn giáo
đó. Ai bảo một tôn giáo như vậy là “thánh thiện” là “bác ái” v…v… xin
mời lên tiếng.
Ca-tô
Rô-ma Giáo có phải là “đạo chích” không ?
Tài
liệu của một Linh mục và tài liệu của chính Vatican đã chứng minh rõ
ràng hơn gì hết.
Trước
hết, chúng ta hãy đọc một tài liệu
của Linh Mục Kirati Boonchua, giáo sư triết tại đại học Chulalongkorn,
Thái Lan:
Niềm
Hãnh Diện Của Ki Tô Giáo : Sao
Chép Và Mô Phỏng
“Cho
đến nay, không ai thật sự biết đúng ngày sinh và ngày chết của Giê-su. Tất
cả chỉ là đoán mò. [Ngô Triệu Lịch đã gọi nền thần học Ki
Tô Giáo là nền thần học đoán mò]. Ngày sinh vào 25 tháng 12 là
lấy của người La Mã. Người La mã ăn mừng ngày sinh của Thần Mặt Trời
vào ngày 25 tháng 12. [Thật ra, dây không phải là ngày lễ riêng
của dân La Mã mà là ngày mà nhiều nơi trong dân gian cổ xưa ăn mừng
ngày bắt đầu lại dài ra sau một mùa Đông mà họ thấy ngày cứ ngắn dần
và lo sợ không còn ánh sáng mặt trời nữa]. Ki Tô Giáo
không có cái gì là của mình cả. Ki Tô Giáo chỉ có thể sao chép và mô
phỏng các tôn giáo khác. Điều này có đáng xấu hổ không? Tại sao
Ki Tô Giáo lại phải xấu hổ?...
Hơn
nữa, Giê-su cũng không có một hệ thống giáo lý của chính mình. Giê-su
mô phỏng những điều trong Cựu Ước. Giê-su không thiết lập một hệ
thống triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức cho Ki Tô Giáo. Do
đó, Ki Tô Giáo không hề có một hệ thống triết lý, nghệ thuật và ngôn
ngữ chính thức của Ki Tô Giáo để có thể phô trương trước các tôn giáo
khác. Chưa bao giờ có được một cái gì thực sự là của chính mình,
đó là điều duy nhất mà Ki Tô Giáo có thể phô trương. Chúng ta,
những tín đồ Ca Tô, hân hoan chấp nhận là triết lý, nghệ thuật và ngôn
ngữ chính thức của chúng ta ngày nay đều là sao chép và mô phỏng từ
ngôn ngữ và văn hóa của những miền đất mà Ki Tô Giáo nảy nở trong đó.
Chúng ta, những tín đồ Ca Tô, là những chuyên gia về kỹ thuật xảo
trá...”
Chùa
Phra Kaeo, Bangkok, Thailan
The
Proud of Christianity : Borrowing and Imitation
[...Up
to now, no one actually knows the exact date of birth and date of death
of Jesus Christ. Everything is merely the matter of guess. Christmas
on 25 December was borrowed from Roman. Roman celebrated the Birth of
Sun God on 25 December. Christianity possesses nothing of its own. Christianity
can only borrow and imitate others. Is it shameful? Why Christianity
have to shame?..
Moreover,
Jesus Christ also had no own syatem of teaching. Jesus imitated those
of the Old Testament... Jesus did not establish philosophical syatem,
school of art and official language for Christianity. Therefore, Christianity
possesses no Christian philosophy, art and official language in order
to show to others. Never having any authentic thing of its own is the
only thing Catholics can show off.. We, Catholics, delightfully accept
that our present philosophy, art and official language are borrowed and
imitated from the language and culture of the lands where Christianity
has grown. We, Catholics, are experts in manipulation..]
(Lecture
of Father Kirati Boonchua, Professor of philosophy at the Faculty of
Arts, Chulalongkorn University) in “Life Review” a Catholic program in
Bangkok, broadcasting on 8 December 1985)
Thứ
đến, Bản Tin mật số 10 (Bulletin No 10, p. 27)
của Vatican, huấn thị cho các giám mục địa phương ở Á Châu phải đi ăn
cắp những điều hay trong Phật Giáo với thủ đoạn sau đây:
“Trong
những xứ Phật Giáo, để khoác bộ áo văn hóa bản địa, giáo
hội có thể và phải lấy những điều hay trong truyền thống Phật giáo
và biến đổi chúng, cho chúng một ý nghĩa của Ki Tô Giáo để
có thể áp dụng chúng vào đời sống của những tín đồ của Ki-Tô.”
(In
the Buddhist countries, in order to make its own cultural garnment, the
Church can and must take on the good elements of the Buddhist tradition
and transform them giving them a Christian meaning so as to adapt them
to the life of the followers of Christ.)
Như
vậy có phải rõ ràng là Ca-tô Rô-ma Giáo chỉ là “đạo chích” hay không?
Ai nói không phải xin mời lên tiếng. Cuối cùng, Charlie Nguyễn lên án
đạo của mình chỉ là “đạo bịp”. Có đúng hay không và bịp như thế nào.
Ca-tô
Rô-ma Giáo có phải là Đạo Bịp không ?
Charlie
Nguyễn nhận định không sai. Thủ đoạn lừa bịp của Giáo hội Ca-tô Rô-ma
thật không có tổ chức nào trên thế gian có thể
sánh kịp. Bịp từ đầu đến cuối. Nhờ cái bịp đó mà Giáo hội cũng mê hoặc
được đông đảo số tín đồ mà tuyệt đại đa số ngu muội, còn một phần nhỏ
thuộc giới trí thức chăn chiên thì duy trì sự bịp cho những quyền lợi
vật chất cũng như tinh thần của mình. Cấu trúc của Ki Tô Giáo là cấu
trúc Kim Tự Tháp. Một số nhỏ bịp bợm ngồi trên đầu trên cổ đám đông ngu
muội ở dưới. Để hiểu rõ điều này, chúng ta hãy đọc một đoạn trong cuốn
“Tiếng Kêu Than Của Người Dân” (Cry of the People) của Penny
Lernoux: Link:http://en.wikipedia.org/wiki/Penny_Lernoux
“Từ
lúc đầu, xã hội Mỹ La Tinh (Latin America) được xây dựng giống như
một Kim Tự Tháp, với vài người Âu Châu da trắng đến truyền giáo và
định cư và hưởng mọi quyền lợi đế quốc, và quần chúng thổ dân, da đen,
giai cấp thấp, không có một quyền nào… Giống như những kẻ chiến thắng
Tây Ban Nha trong thế kỷ 16, hầu hết các nhà truyền giáo Âu Châu tới
châu Mỹ La Tinh tự coi là những kẻ mang những văn hóa cao hơn nền văn
hóa của dân bản xứ nhiều. Những nhà truyền giáo ít quan tâm đến việc
hòa nhập với các thổ dân hay dân Phi châu mà chỉ muốn chinh phục họ
vào cấu trúc của tôn giáo Âu Châu.”
[From
the beginning, Latin-American society was constructed like a pyramid,
with a few Europeans settlers enjoying all the privileges of empire and
a mas of Indians, blacks, and half-castes having no rights at all… Like
the conquistadors, most of the European missionaries who came to Latin-America
saw themselves as bearers of cultures vastly superior to those of the
natives. The missionaries were less interested in integrating the Indians
and Africans than on subjugating them to the European religious structures]
Kinh
nghiệm Việt Nam cho chúng ta thấy rõ tình trạng này cũng xảy ra ở Việt
Nam, nhưng may mắn thay, chỉ xảy ra trong những ốc đảo ngu dốt (từ của
LM Trần Tam Tĩnh), trong đó giáo dân Ca-tô và ngay cả các bề trên người
Việt của họ cũng phải khúm núm hầu hạ thiểu số thừa sai ngoại quốc như
thế nào.
Sau
đây chúng ta hãy đọc về thủ đoạn bịp bợm để mê hoặc đám dân Việt ngu
muội của Giáo hội qua tên thừa sai thực dân Alexandre de Rhodes. Rhodes
là sản phẩm của nền văn hóa cao của Âu Châu.
Trong
cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo, bản dịch cuốn “Les Divers
Voyages et Missions du Père Alexandre de Rhodes, năm 1653”, nguyên
bản bằng tiếng Pháp ở phần sau, của Hồng Nhuệ, do Tủ sách Đại Kết, Ủy
Ban Đoàn Kết Công Giáo, TP Hồ Chí Minh xuất bản năm 1994.
Trong Lời
Dịch Giả, Hồng Nhuệ viết: “Chúng tôi để cho độc giả thưởng
thức nguyên văn của giáo sĩ với những cảm tưởng và nhận xét khi đọc
bản này. Chúng tôi thiết nghĩ ngưởi Việt Nam không thể
dửng dưng trước những gì có hệ (??) tới đất nước (trg.
XII)” và “Chúng tôi không viết nhiều. Cũng như khi nói về Hành
trình, thì ở mục Truyền Giáo, chúng tôi để độc giả thưởng thức những
trang sử liên quan đến Giáo hội và đất nước Việt Nam” (trg. XIV)
Và
câu kết của Alexandre de Rhodes trong cuốn sách là: “Viết sách
này để vinh danh Thiên Chúa”. Chúng ta sẽ thấy rõ, thủ đoạn
bịp bợm của Alexandre de Rhodes đã vinh danh Thiên Chúa như thế nào.
Alexandre
de Rhodes |
Phép
giảng tám ngày |
Bây
giờ chúng ta hãy đọc một đoạn trong cuốn sách trên để xem Rhodes bịp
bợm láo lếu đến mức nào và những người mà ngày nay còn tiếp tục ca tụng
ông ta thực sự ngu xuẩn đến mức nào. Rhodes viết:
Trang
74: Với
thánh giá Chúa, với nước phép, giáo dân tốt lành đã thông thường đuổi
ma quỉ, chữa các thứ bệnh tật. Chỉ cho uống 4,5 giọt nước
thánh mà chữa được người mù và cho 2 người chết sống lại. Họ
ra đi, cắm thánh giá ở đầu, ở giữa và cuối xóm. Họ đến thăm bệnh nhân,
đọc kinh và cho bệnh nhân uống vài giọt nước phép. Không
đầy 5 ngày đã chữa khỏi 272 người.
Trang
77: Họ
rất quí trọng nước phép, cứ 5,6 ngày họ lại đến lấy.. Họ cho bệnh nhân
uống với những thành quả lạ lùng. Mỗi chủ nhật, tôi buộc
lòng phải làm phép với 5 vại lớn, để thỏa mãn lòng sốt
sắng của họ.
Nước
phép hay nước thánh là nước thường đã được ông linh mục bi bô đọc vài
câu tiếng La-Tinh để biến nó thành nước phép hay nước thánh. Rhodes đã
thông thạo môn thần học bịp bợm dân ngu, nhưng chính ông ta cũng lại
ngu không thể tả được mới viết lên được những đoạn trên. Chỉ với 4,5
giọt nước phép là có thể chữa được người mù, người chết sống lại, và
chữa khỏi mọi bệnh tật. Nhưng mỗi chủ nhật ông ta phải phù phép biến
5 vại nước lớn thành nước thánh hay nước phép để thỏa mãn nhu cầu của
giáo dân. Một vại lớn có bao nhiêu lít nước? Một lít nước
có bao nhiêu giọt nước. Nếu tính ra thì 5 vại nước phép
đó có thể chữa cho cả nước Pháp của ông ta khỏi mù, vì trong thế kỷ 17,
cả nước Pháp đang mù vì là toàn tòng Ca-Tô Giáo. Nhưng ngày nay, chẳng
cần đến nước phép hay nước thánh (holy water) gì đó mà Pháp cũng đã ra
khỏi cảnh mù rồi. Giáo dân Việt Nam dùng loại nước phép đó đã mù lại
càng mù thêm vì tin vào cái đạo lý Thiên-La Đắc-Lộ bịp bợm hoang đường
quá lố lăng chẳng có ai có thể tin được.. Tác giả Hồng Nhuệ chắc đã phải
thưởng thức đoạn trên và tin nên mới dịch cuốn sách này để cho chúng
ta thưởng thức. Xin mời ông lên tiếng nhận xét về mấy đoạn trên của Rhodes.
Tôi đề nghị, mỗi khi ông bị cảm, hay bị bệnh, hãy đến xin Linh mục Nguyễn
Văn Lý ở trong tù vài giọt nước thánh, chứ đừng có uống Aspirin hay Tylenol,
Advil… hay đi khám bác sĩ, vào nhà thương làm chi.
Độc
giả có thể đọc bài “Di Hại Của Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ”,
phê bình chi tiết cuốn “Hành Trình Và Truyền Giáo”, vạch trần
chi tiết nhiều hành động và tư tưởng xảo quyệt của Alexandre de Rhodes
trên sachhiem.net hoặc giaodiemonline:
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN50.php hay http://giaodiemonline.com/2008/07/dihai.htm
“Đạo
Lý Thiên-La Đắc-Lộ” là cụm từ Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang dùng để
chỉ những ảnh hưởng tai hại của Thiên Chúa Giáo La Mã (Thiên-La) mà
giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc-Lộ) đã mang đến đầu độc đầu óc lớp
người dân thấp kém nhất trong xã hội Việt Nam: "Sự tổng hợp
của sách lược truyền đạo tàn bạo, cường quyền thắng công lý, của giáo
hội Công giáo và sự cuồng tín, gian manh, xuyên tạc, cùng cách dùng
ngôn từ hạ cấp của giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes)." [Xin
đọc Chương 15 trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất
Cộng Hòa Toàn Thư (1954-1963) của Giáo sư Quang] Di lụy
của sách lược đầu độc này còn kéo dài cho tới ngày nay, trải dài từ
trong tòa thánh Vatican đến xóm đạo Bolsa, các xóm đạo ở Việt Nam,
Tòa Khâm Sứ ở Hà Nội, và trên những diễn đàn truyền thông điện tử như
Tiếng Nói Giáo Dân hay Vietcatholic, Nữ vương Công lý, Anhbasam v.v…
Trên
đây là nói về cá nhân Alexandre de Rhodes. Còn Giáo hội thì đã bịp như
thế nào?
Chúng
ta khá quen thuộc với những câu người Ki Tô Giáo nói về Thiên Chúa của
họ, những câu được Giáo hội nhồi vào đầu óc họ, trong khi họ thực sự
không biết Thiên Chúa là cái chi chi. Những câu ca tụng Thiên Chúa như:
“Thiên Chúa quá thương yêu thế gian”, “Thiên Chúa là tình
yêu”, hoặc “Giê-su yêu bạn”, "Giê-su đến để mang
một tin vui, tin vui tình thương, tin vui tự do...", “Tin
Mừng Phúc Âm” v..v… chẳng qua chỉ là những lời khoa trương bịp bợm
đã được nhồi vào đầu óc của đám tín đồ thấp kém ở dưới, và thảm thay,
thời buổi này mà người ta vẫn còn tiếp tục nhai đi nhai lại mấy câu vô
nghĩa, sai sự thực đó trên các diễn đàn truyền thông, trong khi những
câu đó chỉ nên nói trong khuôn viên các nhà thờ để các linh mục và con
chiên nghe và tự sướng với nhau mà thôi.
Trước
hết là về Gót trong cuốn Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh chúng ta thấy toàn
bộ Cựu Ước gồm những chuyện ác ôn, dâm loạn, giết người hàng loạt do
chính Gót ra tay hoặc sai đầy tớ làm. Trong cuốn “The God Delusion”,
ấn bản 2008, tác giả Richard Dawkins, mở đầu Chương 2, trang 51, về “Giả
Thuyết Về Thiên Chúa” [The God Hypothesis], đã đưa ra tới 16 nhận
định về Gót mà tôi đã chứng minh dùng ngay chính những điều viết trong
Cựu Ước:
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/3NGOI/TCN64_Cha.php
Không
cần phải bàn cãi gì nữa, Gót trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng
ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và
hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công,
có tính đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung;
một kẻ hay trả thù; một kẻ khát máu diệt dân tộc khác;
một kẻ ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị
chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy
cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm
thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích
thú trong sự đau đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic],
là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường.
[The
God of the Old Testament is arguably the most unpleasant character in
all fiction: jealous and proud of it; a petty, unjust, unforgiving control-freak;
a vindictive, bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic,
racist, infanticidal, genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal,
sadomasochistic, capriciously malevolent bully.]
Vậy
mà Giáo hội vẫn bịp con chiên là, “Thiên Chúa Quá Thương Yêu Thế
Gian…”, “Thiên Chúa là tình yêu” (God is love) v…v… và
các trí thức Ca-tô Việt Nam cũng thường nhắc đến câu này. Thật ra thì,
tình yêu của Chúa chỉ để cho đám con chiên, có đầu óc của con chiên,
hoàn toàn đầu phục Chúa và sợ Chúa, hãnh diện làm đầy tớ hầu hạ việc
Chúa, chứ đối với những người có đôi chút đầu óc thì Chúa ghét thậm tệ
và có thể hành hạ họ đến đâu thì hành hạ. Nhưng đây chỉ là những gì viết
trong Thánh Kinh. Trong thực tế, Chúa chẳng yêu ai và cũng chẳng có thể
phán xét, hành hạ ai, vì một lẽ rất giản dị: Chúa chỉ là một sản phẩm
tưởng tượng của dân Do Thái trong thời bán khai và nền thần học đoán
mò của Ki Tô Giáo đã dựng lên cho những mục đích thế tục vật chất cá
nhân. Điều này chứng tỏ các trí thức Ca-tô Việt Nam rất mù mờ, chỉ biết
nhắc lại như con vẹt những gì Giáo hội dạy, chứ tự mình không đọc nên
không biết đến tất cả những sự độc ác của Gót trong Cựu Ước.
Tân
Ước có khá gì hơn không? Làm sao mà khá hơn được? Người ta thường nói:
“Con hơn Cha là nhà có phúc”, nhưng ông con Giê-su trong Tân Ước còn
tệ hơn là Cha ông ta trong Cựu Ước. Thật vậy, Robert G. Ingersoll, nhà
tư tưởng tự do (freethinker) vĩ đại nhất của nước Mỹ đã nhận định:
Link: http://en.wikipedia.org/wiki/Robert_G._Ingersoll
Một
lý do chính để bác bỏ Cựu Ước là những việc độc ác được lệnh làm, hoặc
làm bởi Gót của Ki Tô Giáo. Tất cả những sự độc ác này chấm dứt với
cái chết. Sự trả thù của Thần Gia-vê ngưng ở nấm mồ. Ông ta không đe
dọa trừng phạt kẻ chết; và không có một lời nào trong Cựu Ước, từ cái
điều sai lầm đầu tiên trong chương Sáng Thế đến lời nguyền rủa cuối
cùng trong sách Malachi, nói lên điều ông ta sẽ tiếp tục trả thù con
người trong một đời sau. Điều này để dành cho Tân Ước với giáo lý
về sự đau đớn vĩnh viễn (eternal pain). So sánh với giáo lý này
trong Tân Ước, giáo lý về nô lệ, những chiến tranh diệt chủng, những
lời nguyền rủa, những sự trừng phạt của Gót trong Cựu Ước đều là nhân
từ và công bằng (were all merciful and just).
Cựu
Ước chất đầy thế giới này với bạo hành và bất công, Tân Ước cho chúng
ta một tương lai đầy những đau đớn cho hầu hết mọi người. Cựu
Ước mô tả hỏa ngục trong quá khứ, và Tân Ước, hỏa ngục trong tương
lai. Cựu Ước cho chúng ta biết những chuyện khủng khiếp Gót Cha đã
làm, và Tân Ước, những điều Gót Con (Giê-su) sẽ làm.
Hai
cuốn sách này cho chúng ta những sự đau khổ của quá khứ và trong tương
lai – sự bất công, sự đau khổ cực độ về tinh thần cũng như thể xác
(agony) và nước mắt của cả hai thế giới, quá khứ và vị lai.
Hãy
đọc Cựu Ước, rồi, với tất cả những chuyện giết người và tàn sát; với
tất cả những giáo lý ô nhục; với tất cả những câu chuyện hoang đường
độc ác và điên rồ; với tinh thần giai cấp, hận thù, và cho tôi biết,
phải chăng đó là tác phẩm của một Gót lành thiện?
Tuy
vậy, tôi phải nói rằng – tôi phải chấp nhận rằng – (I must say – I
must admit) Cựu Ước còn khá hơn là Tân Ước. Trong Cựu Ước, khi Gót
Cha làm cho một người chết, ông ta để yên cho hắn. Khi ông ta thấy
hắn nằm yên trong mồ, ông ta thấy thỏa mãn. Những thớ thịt trên mặt
được thư giãn, và cái bộ mặt cau có của ông ta nhường chỗ cho một nụ
cười thỏa mãn. Nhưng trong Tân Ước, bất hạnh bắt đầu từ lúc chết. Trong
Tân Ước, Gót Con [Giê-su] tiếp tục trả thù mãi mãi (wreak his revenge
forever and ever). Chính cái con người từng nói “Hãy yêu kẻ thù của
các ngươi” (Giê-su) dành quyền đầy ải con người trong ngọn lửa vĩnh
hằng của hỏa ngục. Tân Ước thật là tệ ác hơn Cựu Ước, vì hỏa
ngục thì ác hơn là giấc ngủ, một hình phạt độc ác vô tận thì ác hơn
là một cuộc an nghỉ; vậy mà, Tân Ước tự cho là Phúc Âm của tình thương
và hòa bình.
Nhưng
trong Tân Ước thì có gì đặc biệt? Thực ra là chẳng có gì ngoài cái
bánh vẽ “cứu rỗi” của Giáo hội đưa ra để lừa bịp con chiên. Trong
Tân Ước, chúng ta thấy trong nhiều chỗ, chính Giê-su đã nguyền rủa những
người không theo tin ông ta là đồ rắn rết, và đe dọa họ phải bị đầy đọa
xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng của ông ta thiêu đốt. Ngoài
ra ông ta còn coi những người không phải Do Thái là “Chó”. Vì ông
ta đã khẳng định nhiều lần là ông ta sinh ra chỉ để cứu dân Do Thái
mà thôi, và ra lệnh cho những người theo ông không được đi truyền
đạo ngoài 12 bộ lạc Do Thái.
Trước
hết, chúng ta hãy bỏ qua chuyện ông ta sinh ra đời bằng cách nào, qua
đường thụ thai sinh nở bình thường của một người mẹ, hay qua đường bất
thường của một con Ma Thánh (Holy Ghost) trong nền thần học Ki Tô Giáo.
Chúng ta hãy đọc vài lời do chính Giê-su nói ra về mục đích của ông ta
sinh ra đời.
a)
Trong Matthew 10: 34-36, Giê-su khẳng định:
Đừng
tưởng rằng Ta sinh ra để mang lại hòa bình trên trái đất. Ta không
sinh ra để mang lại hòa bình mà là gươm giáo. Vì Ta sinh ra để làm
cho con chống lại cha, con gái chống lại mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng,
và kẻ thù của con người ở ngay trong nhà hắn.
b) Và Luke
12: 51-53 cũng xác định lại khẳng định của Giê-su như
sau:
Đừng
tưởng Ta đến để đem hòa bình cho thế giới. Không, Ta đến để chia loài
người làm hai. Từ đây, một nhà có năm người sẽ chia rẽ chống đối nhau:
hai chống ba, và ba chống hai. Mâu thuẫn sẽ diễn ra giữa con trai với
cha, con gái với mẹ, con dâu với mẹ chồng.
Trong
những “Tin mừng Phúc âm” như trên của Giê-su trong Tân Ước thì chỉ có
những điều trên là được ứng nghiệm, vì đi đến đâu, đạo Giê-su cũng đưa
đến những cảnh chia rẽ, đối nghịch nhau, trong quốc gia, trong cộng đồng,
và trong gia đình. Bất hạnh thay, Việt Nam cũng nằm trong các quốc gia
này.
Nhưng
mục đích sinh ra đời của Giê-su không chỉ có vậy. Ông ta khẳng định trong Matthew
5: 17-18:
Các
ngươi đừng tưởng ta đến để phá luật [của
Cha ta = Gót] hoặc các lời tiên tri [trong Cựu Ước]; ta
đến không phải để phá, mà để hoàn thành. Vì ta nói thật cùng
các ngươi, cho đến khi trời đất không còn nữa, một chấm một nét
cũng không được ra ngoài luật cho đến khi tất cả đều hoàn thành.
[Do
not think that I came to destroy the Law or the Prophets. I did not come
to destroy but to fulfill. For assuredly, I say to you, till heaven and
earth pass away, one jot or one little will by no means pass from the
law till all is fulfilled.]
Câu
trên, Matthew 5: 17-18, có nghĩa là Giê-su tôn trọng và muốn hoàn thành
những luật của cha ông ta trong Cựu Ước. Những luật của Cha Giê-su trong
Cựu Ước là những luật như thế nào? Có bao nhiêu tín đồ Ki Tô Giáo biết
rằng trong Cựu Ước, Cha của Giê-su ta đã nhiều lần ra
lệnh hay đích thân giết người tập thể (mass killing) vô số người vô tội:
đàn ông, đàn bà, trẻ con, [con số lên đến hàng nhiều triệu] và hủy diệt
nhà cửa, thị trấn, và các tôn giáo khác.
Luật
đầu tiên của Cha Giê-su trong 10 điều răn trong Cựu Ước mà Giê-su nói
là phải hoàn thành, là “Ngươi không được thờ thần nào khác ngoài
ta”. Và để củng cố cái luật này, Cha của Giê-su còn ra lệnh trong Phục
truyền 13: 6-10: Nếu anh em ngươi, con trai hay con
gái ngươi, vợ ngươi hay bạn ngươi, khuyến dụ ngươi đi thờ các thần khác,
thần của các nước lân bang hay xa xôi.., thì ngươi phải giết nó đi, trước
hết là đích thân tay ngươi phải ném đá để cho nó chết, rồi sau mới đến
tay của dân chúng.
[Nếu
luật này cũng được áp dụng đối với các tôn giáo khác thì mọi nhà truyền
giáo Ki Tô, từ Alexandre de Rhodes cho tới Puginier v..v…, và các nhà
truyền đạo Tin Lành trên thế giới đều phải bị ném đá cho chết đi hay
là cho lên ghế điện thời nay. Nhưng chẳng có đạo nào ở Á Đông lại ác
ôn như đạo Thiên Chúa. Vì thế nên đạo Thiên Chúa mới có thể xâm nhập
vô sự vào các quốc gia khác, và các thừa sai mới có thể huyễn hoặc đầu
óc người dân ngu bằng những chuyện hoang đường phi lý. Điều này chứng
tỏ các tôn giáo ở Á Đông vượt xa Thiên Chúa Giáo về đạo đức tôn giáo.]
Sau
đây là vài luật ác ôn khác của cha Giê-su đối với các tôn giáo khác như
sau:
Phục
Truyền 12: 2-3:
Phàm
nơi nào những dân tộc, mà các người sẽ tước quyền, đã thờ các thần
của chúng nó, hoặc trên núi cao, hoặc trên đồi, hoặc dưới bóng cây
xanh, thì các ngươi phải phải hủy sạch đi. Và các ngươi phải phá hủy
bàn thờ của chúng, triệt hạ những cây trụ thiêng liêng của chúng, và
thiêu những pho tượng gỗ của chúng; các ngươi phải chặt những hình
tượng đã được khắc lên của các thần và xóa bỏ tên các thần ở nơi đó.
(You
shall utterly destroy all the places where the nations which you shall
dispossess served their gods, on the high mountains and on the hills
and under every green tree.
And
you shall destroy their altars, break their sacred pillars, and burn
their wooden images with fire; you shall cut down the carved images of
their gods and destroy their names from that place)
I
Samuel 15:3:
Bây
giờ hãy tấn công Amalek, và hủy sạch tất cả mọi thứ mà chúng có, và
giết sạch đừng chừa một ai. Hãy giết cả đàn ông, đàn bà, trẻ nít và
trẻ sơ sinh, trâu cừu, lạc đà và lừa.
(Now
go and attack Amalek, and utterly destroy all that they have, and do
not spare them. But kill both man and woman, infant and nursing child,
ox and sheep, camel and donkey.)
Và
trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thấy các tín đồ Ca-tô Giáo cũng đã phần
nào theo những luật ác ôn này. Thật vậy, trong
cuốn The Vietnam Response to French Intervention, 1862-1874 của
Mark W. McLeod, chúng ta có thể đọc được những đoạn sau đây:
Trang
45: Khi
nghe tin thành Saigon thất thủ, những tín đồ Ca-tô giáo Việt Nam ở
miền Nam đã lợi dụng tình thế để khủng bố người "lương" hay "tốt" (nghĩa
là, người phi- Ca-tô) và đi làm "tay sai và mật thám cho Tây
Dương "
Trang
114: Sự phân tích những hành động này cho thấy, trong những
cuộc tấn công vào những cứ điểm của chính quyền Việt Nam, quân đội
Pháp đã nhận được một mức độ hỗ trợ rất đáng kể từ những thừa sai và
những tín đồ Ca-tô Việt Nam. Hơn nữa, những phương pháp mà các sĩ quan
Pháp và những cộng tác viên Ca-tô giáo dùng tuyệt đối không thể coi
là có đạo đức cao theo những tiêu chuẩn đương thời của ngay chính họ,
vì những phái bộ truyền giáo Ca-tô đã dùng sức lao động (của tín
đồ Ca-tô bản xứ; TCN), tài nguyên, và tin tức tình báo,
đổi lấy hậu thuẫn của Pháp để thực hiện sự tàn sát liên miên người "lương",
mạo phạm những công trình xây dựng của Phật Giáo, thiêu hủy những làng
mạc phi- Ca-tô, và cướp bóc những thành phố của nhà Vua. Sự cộng
tác với chủ nghĩa đế quốc Pháp của những tín đồ Ca Tô thường không
được các sử gia nhận biết đầy đủ, nhưng đó chính là một yếu tố đáng
kể góp phần thắng lợi cho Pháp ở Bắc Kỳ."
Vậy
thì ngoài những nhiệm vụ như chia rẽ trong xã hội, gia đình, nguyền rủa
người không tin, đe dọa đầy đọa họ xuống hỏa ngục, và hoàn thành các
luật trên của Cha ông ta, Giê-su có những giáo lý nào đặc biệt. Lác đác
chúng ta chỉ thấy vài điều đã từng có trong dân gian. Đúng vậy, Giê-su
giảng dạy những gì? Nhận định sau đây của Joseph L. Daleiden, một học
giả Ca-tô, trong cuốn The Final Superstition, trg. 174, về cái
gọi là giáo pháp của Giê-su có thể giúp chúng ta nhìn rõ vấn đề một cách
tổng quát:
Có
rất ít, nếu có, điều sáng tác độc đáo trong giáo pháp mà người ta cho
là của Giêsu. Giống như chính huyền thoại về Giêsu,
những quan điểm mà Giêsu diễn đạt chỉ là một mớ hổ lốn những ngụ ngôn
và luân lý mà chúng ta có thể thấy trong những đạo cổ xưa của Ai Cập,
Babylon, Ba Tư, Hi Lạp, Phật, Khổng, Ấn Độ… Một điều rõ ràng: Ki Tô
Giáo, một tôn giáo sinh sau đẻ muộn trong lịch sử các tôn giáo, chỉ
cóp nhặt những quan điểm, ý kiến của Do Thái Giáo và các tôn giáo gọi
là dân gian. Trong cuốn “Nguồn
Gốc Luân Lý Trong các Phúc Âm”, Joseph McCabe (Một Linh Mục
Ca-tô. TCN) đã trích dẫn những quan điểm luân lý trong Phúc Âm
mà người ta cho là của Giêsu song song với những quan điểm luân lý
tương đương và y hệt của các tác giả Do Thái và dân gian.
[Daleiden,
Joseph L., The Final Superstition, p. 174: There is very little,
if anything, that is original in the teaching attributed to Jesus. Like
the myth of Jesus itself, the sentiments he expresses are a hodgepodge
of aphorisms and moral convictions that can be found in the ancient Egyptian,
Babylonian, Persian, Greek, Buddhist, Confucian, and Hindu religions…
But one thing is certain: Christianity, a late-comer in the history of
religion, merely plagiarized sentiments from Judaism and the so called
pagan religions. In his book Sources of Morality in the Gospels,
Joseph McCabe quoted the moral views attributed to Jesus in the gospels
and in parallel columns gave exact moral equivalents from Jewish and
pagan writers.]
Những
tài liệu trên cho thấy, tất cả những gì Giáo hội Ca-tô nói về Gót và
Giê-su đều là không thực, chỉ là những luận điệu thần học để lừa bịp
người dân.
Chuyện
lừa bịp lớn lao nhất của Ki Tô Giáo là về vai trò “cứu thế” và “cứu rỗi”
của Giê-su mà theo các học giả nghiên cứu trong vòng 200 năm nay, chỉ
là một người dân thường Do Thái sống với ảo tưởng mình là con của Gót
của người Do Thái. Giám Mục Tin Lành John Shelby Spong đã cho rằng vai
trò Chúa Cứu Thế của Chúa Giê-su cần phải dẹp bỏ, xin đọc bài “Giê-su
Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ”:
GM
John Shelby Spong, link: http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php
Giám
mục Spong viết một bài dài trong đó có một câu sau đây: “Không
có bất cứ một hình ảnh nào dùng để giải thích về nhân vật Giê-su đáng
được tồn tại. Hình ảnh hiển nhiên nhất để loại bỏ trong đầu óc tôi
có lẽ cũng là cái hình ảnh cổ xưa nhất về mọi diễn giải về Giê-su. Đó
là cái hình ảnh của Giê-su như là “đấng thần linh cứu thế” (the
divine rescuer).”. Và Linh mục Ca-tô James Kavanaugh cho rằng
“ơn cứu rỗi” chỉ là một huyền thoại của dân Do Thái trong
thời bán khai, xin đọc bài “Huyền Thoại Cứu Rỗi” : http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php
Chuyện
lừa bịp lớn lao thứ hai để đưa tín đồ vào vòng nô lệ Vatican là về “Giáo
hội Ca-tô do Giê-su thành lập”, điều mà tất cả các học giả ngày
nay, kể cả các nhà thần học trong Ca-tô Giáo đã bác bỏ, cho đó chỉ là
ngụy tạo.
Chuyện
lừa bịp lớn lao thứ ba để mê hoặc tín đồ, giữ tín đồ trong vòng tuân
phục Giáo hội là bịa ra 7 bí tích không hề có căn cứ trong cuốn Kinh
Thánh nhưng được Giáo hội Ca-tô bảo rằng là do chính Chúa Giê-su thành
lập. Nếu Giáo hội không phải là do Giê-su thành lập thì làm sao lại có
thể thành lập những “bí tích” để cho Giáo hội mê hoặc tín đồ. Mặt khác,
điều bịp này hoàn toàn mâu thuẫn với những gì viết trong Tân ước: Giê-su
tin rằng ngày tận thế đã gần kề, sẽ xẩy ra ngay khi một số người theo
ông ta còn sống.. Thông điệp của ông ta cho dân Do Thái là: “Hãy
thống hối, vì ngày tận thế đã gần kề.”
Chuyện
lừa bịp thứ tư là chuyện Chúa chết rồi lại nhỏm giậy để truyền cho các
tông đồ phải đi cải đạo trên toàn thể thế giới, trong khi Cha của
ông ta, khoan nói đến chính ông ta, và toàn thể Giáo hội Ca-tô, cho đến
thế kỷ 16, cũng không biết là quả đất có hình cầu. Ngoài ra Ca-tô
giáo còn có cả một trường phái chuyên ngụy tạo các văn kiện (school of
forgery) để tạo quyền lực cho Giáo hội v…v…)
Ngày
nay, các con chiên mù mờ, không đọc Thánh Kinh, đã theo sách lược ngụy
biện của Giáo hội, không dám nhắc đến nội dung man rợ trong Cựu Ước nên
đặt nhẹ, lờ đi Cựu Ước, và chỉ nhắc đến Tân Ước, đến bốn Phúc Âm, và
bịp bợm nói láo là Tân Ước mới chính là “Tin mừng Phúc âm” của Giê-su
mà con người cần. Tân Ước thì hoàn toàn đạo đức, không có một tì vết
nào trên những trang Tân Ước. Nhưng không có Cựu Ước thì làm gì có Tân
Ước. Không có Cựu Ước thì vai trò “cứu rỗi” của Giê-su là một điều bịp
vĩ đại để lừa dối những đầu óc yếu kém. Để quảng cáo cho Giê-su, các
tín đồ vẫn tiếp tục khoác cho Giê-su những thuộc tính không hề có như: "Giê-su
đến để mang một tin vui, tin vui tình thương, tin vui tự do...",
“Giê-su yêu bạn”, “Giê-su mang đến Tin Mừng Phúc Âm”, Giê-su là “Chúa
Trời”, là “Ông Hoàng Của Hòa Bình”, là “Ánh Sáng Của Nhân Loại” v..v…
Thế NHƯNG,
một chữ NHƯNG rất đậm nét, trước những lời ca tụng Giê-su như trên, chúng
ta lại đọc được những nhận định về Giê-su như sau:
Giám
mục John Shelby Spong, sau khi nghiên cứu Tân ước, đã đưa ra một nhận
định về Giê-su như sau:
Có
những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con
người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.
(John
Shelby Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 21:
There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded,
vindictive, and even hypocritical).
Và
Jim Walker cũng viết trên Internet trong bài Chúng Ta Có Nên Kính
Ngưỡng Giê-su Không? (Should We Admire Jesus?) : http://www.nobeliefs.com/jesus.htm
Nhiều
tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết đến là nhiều đoạn trong các Phúc
Âm trong Tân Ước, Giê-su được mô tả như là một con người đầy hận
thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả.
[Unbeknownst
to many Christians, many times the Gospels of the New Testament portray
Jesus as vengeful, demeaning, intolerant, and hypocritical.]
Và
Russell Shorto, một học giả Ki Tô Giáo, đã tổng hợp những tác phẩm nghiên
cứu về Giê-su trong vòng 200 năm nay, và kết luận như sau trong cuốn Sự
Thật Của Phúc Âm (Gospel Truth):
Các
học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su
chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng –
họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng
những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra
những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những
người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
[Scholars
have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a
vision – for decades; they have taught it to generations of priests and
ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear
a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.]
Nhưng
ảo tưởng của Giê-su là ảo tưởng như thế nào? Ngày nay giới học giả nghiên
cứu Thánh Kinh đã biết rõ: Đó chính là Tâm Lý Bệnh Hoạn về Những
Ảo Tưởng Hão Huyền về Quyền Lực hay Toàn Năng [Megalomania = A psycho-pathological
condition in which fantasies of wealth, power or omnipotence predominate] và
cái tâm lý bệnh hoạn này đã tạo thành tâm điểm mà mọi hành động của Giê-su
đều xoay quanh. Chính cái ảo tưởng này đã khiến cho Giê-su tưởng
mình là“con duy nhất của Thượng đế”, “có nhiệm vụ cứu người Do
Thái ra khỏi tội lỗi để làm hòa với ông cha tưởng tượng của Giê-su vì
ngày tận thế đã gần kề”. Đó là những gì Tân Ước đã viết rất
rõ cho những ai đọc kỹ Tân Ước. Nhưng về sau, để truyền bá,
Ki Tô Giáo đã kéo dãn (stretch) những điều hoang tưởng của Giê-su ra
thành “khả năng chuộc tội cho nhân loại”, “đấng cứu thế”, “sẽ trở
lại trần phán xét thiên hạ”” v…v…, mà ngày nay đã trở nên những
điều hoang đường nhảm nhí mà chính những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo,
Ca-tô cũng như Tin Lành, đều bác bỏ. [Xin đọc Giám mục John Shelby Spong,
Linh mục James Kavanaugh, Mục sư Ernie Bringas, Nhà thần học Ca-tô Uta
Ranke-Heinemann và nhiều học giả khác].
Thật
là khó hiểu đối với người ngoại đạo như tôi. Vì Giê-su là một nhân vật
được cả tỷ người trên thế giới tôn thờ. Vậy nếu những nhận định trên
về Giê-su là đúng thì chẳng lẽ cả tỷ người đó ngu hay sao mà lại đi tôn
thờ “một người thường, sống với một ảo tưởng, và bản chất là một
con người đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả.” Chẳng
biết họ có ngu hay không, nhưng chắc chắn là, với sự hiểu biết ngày
nay của đa số người dân trên thế giới thì Giê-su không phải là Chúa Trời,
không yêu ai, không phải là “ánh sáng của nhân loại”, và tuyệt đối không
phải là “ông hoàng của hòa bình”.
Lẽ
dĩ nhiên, không phải tất cả các tín đồ Ca-tô Giáo đều ngu muội mà có
nhiều trí thức trong đó. Bỏ ra ngoài những “bề trên” bất lương trí thức
tiếp tục dấu kín sự thật, tiếp tục nhốt tín đồ trong bóng tối, những
trí thức Ca-tô thường là sinh ra từ những gia đình Ca-tô cha truyền con
nối. Xã hội tiến bộ nên họ không còn thuộc lớp cha ông ngu dốt như xưa
mà có cơ hội học hành mở mang trí tuệ như mọi người. Nhưng về vấn đề
tôn giáo, do chính sách nhồi sọ của Giáo hội và của gia đình thiếu hiểu
biết, họ có một điểm mù tôn giáo, điểm mù này đã khiến cho họ loại bỏ
bất cứ sự kiện nào không phù hợp với niềm tin tôn giáo của họ mà không
bao giờ để tâm suy nghĩ về những sự kiện đó. Đây cũng là điểm mù của
Tin Lành, loại bỏ ngay bất cứ sự thật nào trái với Thánh Kinh.
Qua
nhiều thế kỷ, Giáo hội dạy rằng, theo Cựu Ước, Gót của Ki Tô Giáo đã
sáng tạo ra vũ trụ muôn loài trong 6 ngày có buổi sáng buổi tối và cách
đây khoảng 6000 năm. Nhưng khoa học đã có thể chứng minh là vũ trụ và
muôn loài sinh ra từ một Big Bang, nghĩa là từ sự nổ lớn của một dị điểm
vô cùng đặc và vô cùng nóng, và cách đây khoảng 13.7 tỷ năm. Ngày nay,
Giáo hội Ca-tô, trước hàng núi những dữ kiện chứng minh thuyết Big Bang
là đúng, nên không thể phủ nhận được nữa, nhưng vớt vát lại bằng những
câu vô nghĩa để tiếp tục lừa bịp đám tín đồ ở dưới. Tin từ Tổng Hành
Dinh Ca-tô Rô-ma Giáo, Vatican, Thứ Năm, Jan 6, 2011, cho biết:
Giáo
hoàng Benedict XVI nói: Gót (God) tạo ra Big Bang, không phải khoa
học.
Giáo
hoàng Benedict nói, đầu óc, ý nghĩ của Gót là ở đàng sau những lý thuyết
khoa học phức tạp như là Big Bang, và các con chiên Ki Tô nên bác bỏ
ý tưởng là vũ trụ hình thành một cách ngẫu nhiên.
Những
lý thuyết khoa học phức tạp như là Big Bang là sự sáng tạo của các khoa
học gia mà không có mấy người tin vào Gót. Đã không tin vào Gót thì làm
sao biết được đầu óc và ý nghĩ của Gót là như thế nào, khoan kể là theo
Ca-tô Giáo thì Gót là đấng vô hình, không ai biết được, và không ai hiểu
được. Giáo hoàng chỉ nói nhảm mà không đưa ra bất cứ bằng chứng nào để
làm hậu thuẫn cho lời nói mê sảng thuộc về niềm tin của mình. Ông ta
chỉ nói về niềm tin của ông ta như vậy, một niềm tin của nền “thần học
đoán mò”, nhưng đối với giới khoa học và những người hiểu biết thì câu
trên hoàn toàn vô nghĩa. Vô nghĩa vì giáo hoàng không hề có một chút
kiến thức nào về khoa học nên mới nói bừa như vậy. Vì Big Bang chẳng
qua chỉ là sự nổ bùng của một dị điểm (singularity) vô cùng nóng, vô
cùng đặc, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay, và cách đây đã khoảng 13.7 năm.
Nóng bao nhiêu, và đặc như thế nào? Các khoa học gia đã tính ra được
là sau khi nổ khoảng một phần ngàn giây đồng hồ (1/1000 s) thì nhiệt
độ của Big Bang vào khoảng “một ngàn tỷ độ” (1012 độ)
và tỉ trọng của khối cầu lửa khi đó vào khoảng 100000 tỷ gram (1014 g)
cho 1 phân khối.
Chúng
ta cũng nên biết, năm 1981, thuyết Big Bang chưa được hoàn chỉnh, mà
Giáo hoàng John Paul II cũng đã phải công nhận thuyết Big Bang là đúng,
ông ta chỉ vớt vát một câu là “Big Bang là thời điểm sáng tạo của Gót”
(Big Bang is the moment of creation of God) mà không hề đưa ra bất cứ
một bằng cớ nào để chứng minh và thuyết phục nhân loại.
Mấy
Giáo hoàng nói vớt vát như vậy là chỉ để lừa dối đám con chiên thấp kém
đầu óc vốn mù mịt, chứ còn người ngoài, ai nghe những câu trên cũng phải
bưng miệng cười. Mấy “Đức Thánh Cha” của người Ca-tô đều như vậy cả,
toàn đưa ra những luận điệu lừa bịp trái với sự thực để tiếp tục nhốt
tín đồ vào sự ngu muội, do đó tiếp tục tin vào những điều không thể tin
được.
Nhưng
không phải chỉ có vậy. Năm 1996, giáo hoàng đã đặt chắc
thẩm quyền giáo lý của Ca-Tô giáo sau quan điểm là “thân xác con
người có thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Gót, mà là kết
quả của một quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến
thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một
giả thuyết”. (Pope John Paul II has put the teaching authority of
the Roman Catholic Church firmly behind the view that “the human body
may not have been the immediate creation of God, but is the product of
a gradual process of evolution.. The pope said that “fresh knowledge
leads to recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis”).
Rồi tới tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín
nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày
nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố: "thiên
đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi
cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor
a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng
phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của
những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell
is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting
from attitudes and actions which people adopt in this life).
Vấn
đề ở đây là, khi công nhận thuyết Big Bang thì Giáo hội cũng đã công
nhận là thuyết Sáng Tạo trong Cựu Ước chỉ là một huyền thoại cổ xưa của
dân Do Thái, không có một giá trị nào đối với những dân tộc khác, lẽ
dĩ nhiên là chẳng có giá trị gì đối với dân Việt Nam.
Và
chấp nhận thuyết tiến hóa, chấp nhận con người không phải là do Gót tạo
ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần và
lâu dài, giáo hoàng đã phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông
loài người do Thượng đế tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm
gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông.
Do
đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những luận điệu
thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục
đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người,
huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực. Và như
vậy là Giáo Hoàng John Paul II đã bác bỏ phần giáo lý quan trọng nhất
của giáo hội Ca-Tô về “Tin Mừng Phúc Âm”: Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng
Cửa Hi Vọng, trang 76, Giáo hoàng đã trích dẫn một câu trong Tân
ước, John 3: 16, “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban
con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt,
nhưng được sống đời đời.”, làm luận điểm trả lời câu hỏi “Tại
sao nhân loại cần phải cứu rỗi?” Nay, Thánh Kinh đã viết rõ, Gót không
phải là đấng quá thương yêu thế gian, Gót không có sáng tạo ra vũ trụ
và muôn loài trong đó có loài người, không làm gì có thiên đường trên
các tầng mây, không làm gì có hỏa ngục nơi lòng đất, vậy ý nghĩa của
cuộc sống đời đời bên cạnh Chúa, và bị luận phạt, đầy đọa vĩnh viễn
nơi hỏa ngục, đã trở thành những điều thậm vô nghĩa, thuộc loại mê
tín hoang đường.
Tôi
tin rằng tuyệt đại đa số tín đồ Ca-Tô không hề biết đến những thú nhận
của Giáo hội như trên vì họ vẫn bị giam chặt trong sách lược “ngu dân
dễ trị” của giáo hội: duy trì và khai thác tối đa sự mê tín và giữ cho
tín đồ “càng biết ít càng tốt”. Như vậy có phải họ thật là tội nghiệp
và đáng thương không?
Big Bang
Điều
đáng buồn là, trong khi phần lớn thế giới đã biết đến những lời thú nhận
của Giáo hoàng John Paul II cũng như của Giáo hoàng Benedict XVI như
trên, những lời thú nhận hàm ý nền thần học Ca-Tô Giáo tạo thành căn
bản tín ngưỡng Ca-Tô đã không còn một giá trị thực sự nào trong thế giới
văn minh tiến bộ ngày nay, thì các tín đồ Ca-Tô ở một số nước chưa
phát triển và trong những ốc đảo ngu muội vẫn còn sống trong bóng tối
của sự ngu dốt tôn giáo, theo nghĩa không được biết đến những sự thật
ngay chính trong giáo hội của mình, khoan kể đến sự tiến bộ trí thức
của nhân loại về vấn đề tôn giáo.
Nhưng thế giới không phải chỉ có toàn những người ngu muội, và trước sự tiến
bộ trí thức của nhân loại, Tây phương đã thức tỉnh và đang dần dần loại
bỏ Ki Tô Giáo, đưa đến sự suy thoái của Ki Tô Giáo ở phương trời Âu Mỹ..
Đây là đều tất nhiên phải xảy ra, vì thực tế là ngày nay, Ki Tô Giáo
chỉ còn cái vỏ, ngoài mặt vẫn còn mạnh vì dựa vào khối đông tín đồ thấp
kém ở dưới, đúng như định nghĩa của Thống Đốc Jesse Ventura của Bang
Minnesota: “KiTô giáo là một sự giả dối trống rỗng và là một cặp
nạng cho những người có đầu óc yếu kém cần đến sức mạnh trong số đông” (Christianity
is a sham and a crutch for weak-minded people who need strength in numbers).
Giá trị đạo đức và tâm linh của Ki Tô Giáo đã phá sản (Xin đọc Eliezer
Berkovits), bởi vì lịch sử đã chứng tỏ vấn đề đạo đức của Ki Tô Giáo
là như vậy, và thời buổi này, giá trị tâm linh đặt vào những điều mê
tín hoang đường của Ki Tô Giáo không còn hấp dẫn, ngay cả đối với những
người có trình độ hiểu biết thông thường, như đối với đám dân thất học
trong thời Trung Cổ.
(đọc tiếp phần 2 ->)
Các bài tôn giáo cùng tác giả
▪
“Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần -
Trần Chung Ngọc dịch
▪
Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới -
Trần Chung Ngọc
▪
Huyền Thoại Cứu Rỗi -
Trần Chung Ngọc
▪
Lịch Sử các Giáo Hoàng -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 -
Trần Chung Ngọc
▪
TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 6 ▪
>>>