●   Bản rời    

Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Lời Kết (TCN&NMQ)

NGƯỜI VIỆT NAM & “ĐẠO GIÊ-SU”

Trần Chung Ngọc và Nguyễn Mạnh Quang
hợp soạn

http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/DAOGIESU/TCN_NMQket.php

01 tháng 12, 2007


Lời Tòa Soạn
Những mục của tác giả Trần Chung Ngọc: 1 2 3 4
Những mục của tác giả Nguyễn Mạnh Quang: 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
Lời Kết Chung

VÀI LỜI KẾT CHUNG

[Trần Chung Ngọc & Nguyễn Mạnh Quang]

Qua những tài liệu nghiên cứu trình bày ở hai phần trên, chúng tôi đã dựa vào Tân Ước và các công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh của các học giả ở trong cũng như ở ngoài đạo Giê-su, và lịch sử truyền đạo vào Việt Nam để chứng minh rằng:

1. Giáo hội Ca-Tô Rô-ma tuyệt đối không phải do Giê-su thành lập, và mọi quyền lực của Giáo hoàng cũng như của giới chăn chiên chỉ là tự phong, không có căn bản trong Tân Ước.

2. Tân Ước viết rất rõ, Giê-su sinh ra chỉ là để thi hành luật của một vị Thần của Do Thái trong Cựu Ước vì Giê-su tự cho mình là con của vị Thần đó, có nhiệm vụ cứu dân Do Thái, và chỉ dân Do Thái mà thôi.

3. Giê-su không bao giờ mơ tưởng là đạo của ông sẽ được truyền ra cả thế giới, sự truyền đạo Giê-su trên thế giới là sản phẩm của những tổ chức thế tục buôn thần bán thánh để xây dựng quyền lực tinh thần cũng như vật chất trên đám tín đồ thấp kém như lịch sử đã ghi rõ.

4. Những người không phải là dân Do Thái không thể được Giê-su cứu chuộc vì Giê-su đã khẳng định như vậy trong Tân Ước.

5. “Trí tuệ và đạo đức của Giê-su không có gì đáng để chúng ta kính ngưỡng, khoan nói đến chuyện đáng để cho chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa”. Đây là kết quả nghiên cứu của nhiều chuyên gia học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô, dựa trên chính những điều viết về Giê-su trong Tân ước.

6. Cuốn Thánh Kinh chỉ là một cuốn sách về lịch sử của dân Do Thái cách đây vài ngàn năm, viết bởi những người Do Thái theo cái hiểu của họ về vũ trụ nhân sinh trong thời đó, và những quan niệm về đạo lý qui Thần của họ, và chứa những điều phi luân vô đạo đức không ai có thể chấp nhận được trong thời đại ngày nay, cho nên không thể thích hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam.

7. Giáo hội Ca-Tô Rô-ma thực chất là một đế quốc, thủ phủ đặt tại Vatican, Rô-ma, Ý Đại Lợi, là một kẻ thù lâu dài nhất, bám chặt nhất, nguy hiểm nhất và thâm độc nhất đối với dân tộc Việt Nam. Và Vatican đã tạo dựng nên một Giáo hội Ca-Tô Rô-ma tại Việt Nam, nổi tiếng là phi dân tộc và phản dân tộc, xét đến những sự kiện lịch sử ở Việt Nam mà không ai có thể chối cãi.

8. Lịch sử Giáo hội Ca-Tô Rô-ma là một lịch sử ô nhục và đẫm máu nhất trong nhân loại, và một số không nhỏ các vị chủ chăn, từ các giáo hoàng cho tới các linh mục, là những con người cực kỳ tội lỗi, độc ác, tàn bạo, vô đạo đức v..v.. chưa từng thấy trong bất cứ tôn giáo nào khác.

Vậy thì, từ những kết quả nghiên cứu trên mà chúng tôi nghĩ không ai có thể phủ bác được, cuối cùng một câu hỏi tất nhiên phải được đặt ra:

NGƯỜI VIỆT NAM THEO ĐẠO GIÊ-SU LÀ VÌ CÁI GÌ?

Và quý độc giả nay đã hiểu sự thắc mắc như trên của chúng tôi là chính đáng, có cơ sở. Chúng tôi nghĩ rằng, câu hỏi này, xin để cho các bậc thức giả, các vị lãnh đạo trong Ca-Tô Giáo Rô-ma và Tin Lành trả lời, soi sáng cho chúng tôi một vấn nạn trí thức. Chúng tôi không đủ khả năng, hay nói đúng hơn, chúng tôi không thể nào hiểu nổi tại sao người Việt Nam lại theo đạo Giê-su, trước những sự thật bất khả phủ bác về lịch sử Ki Tô Giáo, về tư cách, đạo đức của giới chăn chiên, và về những sự kiện trong Thánh Kinh mà chúng tôi vừa trình bày ở trên. Chúng tôi hi vọng là các bậc thức giả, các vị lãnh đạo trong Ca-Tô Giáo Rô-ma và Tin Lành hãy thành thực phê phán những kết quả nghiên cứu về đạo Giê-su của chúng tôi, và đưa ra những sai trái mà chúng tôi phạm phải trong công cuộc nghiên cứu này, căn cứ trên những hiểu biết trí thức ĐÃ ĐƯỢC CẬP NHẬT HÓA chứ không thể căn cứ trên một “đức tin” không cân biết, không cần hiểu.

Chúng tôi nghĩ, xã hội của chúng ta ngày nay không còn chịu những cảnh man rợ của Ki-tô giáo cách đây trên 250 năm ở Âu Châu và Mỹ Châu. Ngày nay, nói lên những sự thật về Ki-tô giáo, không còn là một điều cấm kỵ và phải chịu đựng những sự bạo hành của Ki-tô giáo như trước, nhất là ở những nơi mà tôn giáo này chỉ là thiểu số.. Đối với giới trí thức, đây là một bổn phận của những con người hiểu biết để giải hoặc quần chúng, giữ cho xã hội được lành mạnh. Sự xuất hiện của hàng ngàn tác phẩm mà tác giả đều là những người Tây phương, cùng hàng trăm diễn đàn điện tử trên Internet của người Tây Phương, mà Ki-tô giáo và những tín đồ cuồng tín liệt vào loại “chống Ki-tô giáo” là một bằng chứng cụ thể nhất về sự tiến bộ trí thức của nhân loại. Tác giả những cuốn sách này, trong đó có những giới cao cấp trong Ki-tô giáo, những giáo sư đại học, học giả, sử gia, chuyên gia về tôn giáo v..v.. là những người đã nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt quần chúng thoát ra khỏi những mê hoặc và xiềng xích trí tuệ cũng như vật chất của Ki-tô giáo. Sự hiện hữu của những tác phẩm này và những websites này trong những xã hội Ki-tô mà không gây ra một sự bất hòa, hỗn loạn nào trong xã hội vì lý do tôn giáo là một bằng chứng khác về sự tiến bộ trí thức của nhân loại, ít ra là ở trong những xã hội văn minh tân tiến.

Đây là một trong những lý do để chúng tôi viết bài thuộc loại nghiên cứu thuần trí thức này. Và chính quyền có bổn phận phải để cho những tác phẩm nghiên cứu trong lãnh vực học thuật được phổ biến rộng rãi để mở mang dân trí.

Với tất cả những bằng chứng khoa học, những sự kiện lịch sử, và trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại đến trình độ ngày nay, vấn nạn Ki-tô đã trở nên rõ ràng: đó là Ki-tô giáo nói chung đã giới thiệu với các tín đồ một bông hoa tươi đẹp, và một miếng mồi to lớn. Rồi các giáo hội Ki-tô hứa hẹn với các tín đồ là họ có thể bắt được cái bóng của miếng mồi ở dưới đáy nước, và hái được bông hoa trong kính. Bởi vì miếng mồi to lớn là cái “ơn cứu rỗi” của Giê-su, nhưng thực ra đó chỉ là cái bóng của một ảo tưởng mà nền thần học Ki-tô giáo đã dựng ra. Bông hoa thật ở ngoài đời là bông Hoa Tâm, nhưng người ta đã dạy các tín đồ chỉ đi tìm nó ở ngoài, ở trong kính, ở dưới đáy nước. Có thể nói, đây là tóm tắt tất cả những gì mà những bộ óc siêu việt trong Ki-tô giáo đã nghĩ ra đủ mọi cách, đủ mọi thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn tàn bạo và vô đạo đức tôn giáo như lịch sử Ki-tô giáo đã ghi rõ, để đưa các tín đồ vào trong vòng ngự trị của một người: giáo hoàng Ca-tô mà các tín đồ coi như là, mượn lời của Kim Dung mô tả Nhậm Ngã Hành, “Thánh Giáo Chủ, Thiên Thu Vạn Đại, Nhất Thống Giang Hồ” . [“Thánh giáo chủ” vì Ngài là đại diện của Giáo chủ Giê-su (sic) trên trần (Vicar of Christ), tự nhận là thừa kế chức Giáo chủ của Giê-su mà các tín đồ thương xưng tụng Ngài là “Đức Thánh Cha”; Giáo chủ Giê-su “hằng sống” (sic) nên tất nhiên phải là “Thiên thu vạn đại”; và Giáo chủ Giê-su là Thiên Chúa toàn năng toàn trí do đó đương nhiên phải là “nhất thống giang hồ”]; của một tập đoàn kiểm soát, nắm giữ tâm linh các tín đồ: giới giáo sĩ Ca-tô tự ban cho mình cái nhãn hiệu “cha cũng như Chúa”, có quyền thay Chúa làm những gì mình muốn làm, kể cả những chuyện không nên làm; và của một cuốn sách: Kinh Thánh mà Tin Lành coi như đích thật là những lời mạc khải của Thượng đế nên không thể sai lầm, do đó phải tin và tuân theo từng chữ một. Ngoài ra, chúng ta cũng không thể không biết đến những mục đích thế tục, vơ vét tiền bạc, vật chất của các giáo hội Ki-tô. Hãy nhìn vào tài sản của các giáo xứ Ca-Tô, ở ngay trong những nước nghèo khổ ở Nam Mỹ, Phi Châu và Á Châu; hãy nhìn vào những nguồn lợi vật chất to lớn mà các nhà truyền bá Phúc Âm [televangelists] trên TV kiếm được, hãy nhìn vào những sản phẩm thương mại có tính cách mê tín của Ki Tô Giáo tung ra thị trường, hãy nhìn vào các cơ sở đầu tư của Vatican v..v.., là chúng ta có thể thấy rõ thực chất của Ki Tô Giáo, Ca-Tô Giáo Rô-ma cũng như Tin Lành:

buôn thần bán thánh.

Chúng tôi hiểu rằng người đời thường bám chặt vào niềm tin của mình, nhất là khi niềm tin này, do cha truyền con nối, đã được cấy vào trong đầu óc từ khi còn nhỏ, chưa đủ khả năng để phán đoán, suy luận, hoặc niềm tin đã được cấy vào để an ủi một người đang ở trong tình trạng khủng khoảng tinh thần hay vật chất, đầu óc bấn loạn… như các tân tòng Tin Lành. Điều chúng tôi muốn nêu lên ở đây là, ở trên đời, có một số người thường bám chặt vào những niềm tin của mình, dù tất cả những bằng chứng hiển nhiên đã chứng tỏ đó là những niềm tin sai lầm. Nói cách khác, số người đó thường có khuynh hướng đóng sập cửa vào mặt chân lý khi chân lý đích thân đến gõ cửa. Tại sao vậy? Vì họ thuộc loại người yếu kém về tinh thần, khó khăn về vật chất v.. v.., hoặc luôn luôn cần một cái phao thần linh để bám víu vào, buông ra sợ mình chết chìm; hoặc luôn luôn cần đến một cặp nạng thần linh để lê lết trên cuộc đời mà họ được tẩy não là tạm bợ, vô nghĩa, tội lỗi, đầy bất hạnh; hoặc đã bị cấy vào đầu óc từ khi còn nhỏ những sự mê tín mà khi đó họ chưa đủ khả năng trí tuệ để suy tư. Do đó, không những cố bám vào những niềm tin đã lỗi thời, họ còn đưa ra mọi lý luận, thường không phải là lý luận, để bác bỏ những sự thật trái với niềm tin của họ. Điều này chúng ta thấy rõ trong những bài viết hoặc sách đã xuất bản của những tín đồ Ki-tô, Ca-tô cũng như Tin Lành, điển hình là của một số linh mục, mục sư cũng như một số gọi là trí thức trong đạo Giê-su.

Nhưng thật ra, vấn đề không phải là tin vào Thượng đế của người Do Thái, vì ai cũng có quyền tin vào một Thượng đế mà mình muốn tin, cũng như ai cũng có quyền tin vào một chú Cuội ngồi ở gốc cây đa trên cung Hằng, hay tin “con Cóc là cậu Chúa Trời”, “Thần cây đa”, “Thần bình vôi” v..v… Trong thế giới ngày nay, chúng ta thấy có cả trăm Thượng đế khác nhau, và về bản chất, mọi Thượng đế và mọi đối tượng tín ngưỡng đều như nhau, nếu chỉ là thuần túy đối tượng của một đức tin không cần biết, không cần hiểu. Vấn đề chính là tin như thế nào, và những hành động tôn giáo bắt nguồn từ đức tin của mình có thật sự làm sáng danh Thượng đế mà mình tin hay không, hay ngược lại chỉ kéo Thượng đế của mình xuống vòng ô nhục. Thảm thay, đây chính lại là điều các tín đồ Ki-tô thường làm, tưởng rằng để vinh danh Thiên Chúa nhưng thực ra lại hạ thấp Thiên Chúa của mình xuống hàng tệ mạt nhất trong nhân loại, qua những hành động tàn bạo, ác ôn nhất trong lịch sử nhân loại. Có phải là kỳ lạ không khi chúng ta tin vào Thần cây đa, Thần bình vôi v… v…, chúng ta không hề gây hại cho ai, trong khi tin vào Thiên Chúa của Ki Tô Giáo thì lại gây ra bao thảm cảnh cho nhân loại. Vậy về phương diện xã hội, những niềm tin nào đã gây hại cho xã hội. Các tín đồ Ki-tô có bao giờ nghĩ đến điều này không?

Thật vậy, trong cuốn Những Tân Khải Thị (The New Revelations, Atria Books, New York, 2002) Neale Donald Walsch đã viết, trang 62:

“Hầu hết những sự giết chóc, thống trị, đàn áp, những sự kinh hoàng trên hành tinh của chúng ta đã được gây ra dưới lá cờ chiều hướng tư tưởng của tổ chức tôn giáo và nhân danh Chúa. 200 năm của những cuộc Thánh chiến Ki-tô là một thí dụ điển hình, trong thời gian này, con người bị tàn sát nhân danh Chúa Ki Tô.

[Most of the killing and most of the domination and most of the suppression and most of the terror on our planet has been carried out under the banner of organized religion and in the name of God. The 200 years of the Christian crusades are a prime example, during which people were slaughtered in the name of Christ.]

Thắc mắc ở trên đưa đến một thắc mắc thứ hai:

“Tại sao Giáo Hội Ca Tô Rô-ma tại Việt Nam phải lệ thuộc Vatican để đi vào con đường phản bội dân tộc như trong quá khứ?”

Trong Phần I, chúng tôi đã chứng minh một sự kiện: Chúa Giê-su không hề có trong một giáo hội ngụy tạo là Giáo hội Ca-Tô Rô-ma. Chúng tôi hi vọng có ai đó trong Giáo Hội có thể giải đáp cho chúng tôi thắc mắc này. Đây không phải là vấn đề thuộc nội bộ Giáo Hội Ca Tô Rô-ma tại Việt Nam, mà còn là một vấn đề liên hệ đến mọi khía cạnh của đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Tôn giáo là một bộ phận của quốc gia, nằm trong luật pháp quốc gia, không thể đứng ngoài hay đứng trên quốc gia với lý do tự do tôn giáo hay tự do tín ngưỡng, nhất là khi cái căn bản tín ngưỡng này lại được xây dựng trên một nền tảng không thực.

Mặt khác, chúng ta cũng cần biết, trong lịch sử nhân loại, thực chất của Giáo hội Ca-Tô Rô-ma là như thế nào và đã mang những phúc lợi gì đến cho nhân loại? Chúng ta có thể tóm tắt những điều này trong vài tài liệu sau đây:

1988: Peter de Rosa, một linh mục dòng Tên (a Jesuit), giáo sư về Siêu Hình Học và Đạo Đức tại trường Dòng Westminster, khoa trưởng khoa Thần học tại đại học Corpus Christi ở Luân Đôn (Professor of Metaphysics and Ethics at Westminster Seminary and Dean of Theology at Corpus Christi College in London) xuất bản cuốn Những Đại Diện của Chúa Ki-Tô: Cái Mặt Đen Tối Của Những Triều Chính Giáo Hoàng (Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy) trong đó tác giả vạch trần cái mặt đen tối đã ngự trị trong nhiều triều chính giáo hoàng như đồi bại, ngụy tạo tài liệu, loạn dâm, giết người, theo đuổi chính sách diệt chủng v..v.. (corruption, document-forgery, sex scandal, murder, genocide). Tác giả đã mở toang những cánh cửa kính màu (thường là mẫu mực trong các nhà thờ ở Tây phương, nhất là Thánh đường Phê-rô ở Vatican. TCN) và để lộ ra những giáo điều của Giáo hội thường là "...hình thành bởi những ham muốn đồi bại, độc tài và cuồng tín của những giáo hoàng” (Peter de Rosa opens the stained glass window and reveals that the Church's teachings were too often "..shaped by the whims of corrupt, despotic and fanatical popes"). Cuốn sách đã được nhiều tín đồ Ca-tô đánh giá cao vì tính chất lương thiện và nghiêm túc của nó (The book was appreciated for its honesty and seriousness by many Catholics).

1994: Trong một mật thư gửi cho các hồng y, về sau bị lộ ra cho báo chí Ý, giáo hoàng John Paul II đặt câu hỏi: "Làm sao mà chúng ta có thể tiếp tục yên lặng trước nhiều hình thức bạo tàn mà giáo hội đã phạm phải nhân danh đức tin - chiến tranh tôn giáo, những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo và những hình thức vi phạm nhân quyền khác?" (Chicago Tribune, June 5, 1995: In a 1994 confidential letter to cardinals which was later leaked to the Italian Press, Pope John Paul II asked: "How can one remain silent about the many forms of violence perpetrated in the name of faith - wars of religion, tribunals of the Inquisition and other forms of violations of the rights of persons?")

1995: Giáo hoàng John Paul II thúc giục Giáo Hội Ca Tô Rô Ma hãy nắm lấy cơ hội "đặc biệt thuận lợi" của một thiên niên kỷ mới để ghi nhận "cái mặt đen tối của lịch sử giáo hội (Ca-tô)" (Ibid.,: Pope John Paul II had urged the Roman Catholic Church to seize the "particularly propitious" occasion of the new millennium to recognize "the dark side of its history").

1995: Helen Ellerbe cho ra đời cuốn "Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo" (The Dark Side of Christian History). Chúng ta có thể đọc những lời tóm tắt sau đây nơi trang bìa sau: "Trong khoảng thời gian gần 2000 năm, giáo hội Ki-Tô đã đàn áp và bạo hành nhiều triệu người trong toan tính kiểm soát và ngăn chận vấn đề tâm linh của con người. Cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo phanh phui với chi tiết tỉ mỉ những thảm họa, đau khổ và bất công mà giáo hội đã giáng lên nhân loại. Tác phẩm vạch trần sự thật này là một đòi hỏi hấp dẫn và nồng nhiệt cho nhân phẩm và sự tự do trong vấn đề tâm linh" (Over a period of almost two millennia, the Christian Church has oppressed and brutalized millions of individuals in an attempt to control and contain spirituality. The Dark Side of Christian History reveals in painstaking detail the tragedies, sorrows and injustices inflicted upon humanity by the Church. This exposé is a compelling and passionate cry for human dignity and spiritual freedom).

1999: Douglas Lockhart xuất bản tác phẩm Cái Mặt Đen Tối Của Thượng Đế (The Dark Side of God) với lời giới thiệu như sau:

"Giáo hội Ki-tô (Ca-tô Rô-ma) tự nhận là thừa hưởng trực tiếp từ Giê-su quyền năng tinh thần như được viết trong Phúc Âm. Nhưng thực ra có phải là một sự chuyển giao quyền lực một cách êm ả từ Giê-su cho Phê-rô và từ Phê-rô cho Giáo hội hay không? Hay đó chỉ là một chiến dịch tuyên truyền, ngụy tạo, và lừa dối lâu dài đã che đậy bản chất thực sự của các biến cố. Cuốn sách mới, có tác dụng làm cho chúng ta suy nghĩ, về nguồn gốc Ki Tô Giáo, đưa ra một họa đồ về sự theo đuổi quyền lực không ngừng của Giáo hội , từ lúc đầu cho đến ngày nay. Trong sự phân tích hấp dẫn và thường gây ngỡ ngàng về niềm tin trong Ki Tô Giáo, cuốn sách này khảo sát từ đâu mà Giê-su, người xứ Nazareth, đã được thổi phồng lên quá mức hoàn toàn xa với thực tế thường ngày."

(The Christian Church claims to inherit its spiritual authority directly from Jesus through the teaching of the gospels. But was there really a smooth transfer of power from Jesus to Peter and thence to the Church? Or has a long-term campaign of propaganda, forgery and deception concealed the true nature of events? This thought-provoking new book on the origins of Christianity charts the Church's relentless pursuit of power, from its beginnings to the present day. In a compelling and often disturbing analysis of Christian belief, it examines how Jesus the Nazarene was inflated into a figure of cosmic proportions far-removed from everyday reality...)

Từ nội dung những tác phẩm trên, không còn nghi ngờ gì nữa, các triều chính giáo hoàng cũng như giáo hội Ca-tô quả thật có một lịch sử đen tối, và ngay cả Thượng đế của họ cũng có cái mặt đen tối của mình.

Giáo hoàng John Paul II đã chính thức thú nhận lịch sử giáo hội Ca-tô Rô-ma có một mặt đen tối, và lịch sử đó đã chứa không ít bạo tàn đối với nhân loại dưới nhiều hình thức. Lẽ dĩ nhiên, tuyệt đại đa số tín đồ Ca-Tô giáo Rô-ma không hề biết hay không muốn biết đến cái mặt đen tối này, nhất là những tín đồ Việt Nam thì lại càng ít biết hơn nữa. Bởi vậy, có những tín đồ Ca-Tô Việt Nam vẫn tiếp tục ca tụng trên báo chí, đài phát thanh ở hải ngoại rằng "hội thánh công giáo vẫn luôn luôn thánh thiện, công giáo và tông truyền".

Với kinh nghiệm 2000 năm lừa dối thế giới, với khả năng tài chánh vô tận, với những phương tiện truyền thông rồi rào, và với một đoàn cán bộ trung kiên (hồng y, tổng giám mục, đức ông, giám mục và linh mục), những người chuyên vận dụng khả năng trí thức của mình để lôi kéo quần chúng thấp kém vào vòng nô lệ tâm linh, giáo hội Ca-Tô Rô-ma đã thành công cấy vào đầu tín đồ những niềm tin như "giáo hội là một "hội thánh" thánh thiện, công giáo và tông truyền", "giáo hội tiền phong trong việc tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ, tự do", "giáo hội là hiện thân của nền văn minh tốt đẹp Tây phương", "giáo hội mang hòa bình và sự hiểu biết đến cho mọi dân tộc". Tất cả những điều tự nhận như trên của giáo hội Ca-Tô Rô-ma đều chỉ là những sản phẩm tuyên truyền lừa dối đám tín đồ thấp kém, vì lịch sử giáo hội đã chứng tỏ chúng hoàn toàn trái ngược với sự thực.

Sự thực là như thế nào? Giáo Hội tuyệt đối không phải là một "hội thánh" vì không có một hội thánh nào lại có thể gây ra nhiều tội ác như “hội thánh Ca-Tô”. Giáo hội cũng chẳng có gì có thể gọi là "công giáo" hay "tông truyền" vì tất cả chỉ là những sản phẩm thần học ngụy tạo, trái ngược với những điều viết trong Thánh kinh như đã được phân tích trong phần đầu của bài viết này. Giáo hội là một định chế tôn giáo độc tài sánh ngang với Hồi giáo, Do Thái giáo, do đó tuyệt đối không có một ý niệm gì về dân chủ và tự do. Giáo hội là một tổ chức không có một đóng góp nào đáng kể cho nền văn minh Tây phương, trái lại trong suốt 2000 năm đã dùng mọi nỗ lực và thủ đoạn để ngăn chận sự tiến bộ trí thức của nhân loại, đưa Tây phương vào một thời đại man rợ và đen tối trí thức (the age of barbarism and intellectual darkness) kéo dài hơn 1000 năm. Và sau cùng, Giáo hội chưa hề mang hòa bình và sự hiểu biết đến bất cứ nơi nào trên thế giới. Bất cứ giáo hội truyền đạo đến đâu là ở đó xảy ra chiến tranh, hận thù, và chia rẽ, và các tín đồ bị lùa vào cảnh nô lệ tâm linh, ngu dân dễ trị. Điều này chúng ta thấy rõ hơn đâu hết trong chính lịch sử truyền đạo Ca-Tô vào Việt Nam.

Lời thú nhận của giáo hoàng John Paul II ở trên là bằng chứng hùng hồn nhất để phủ bác những điều tự nhận của giáo hội. Chỉ tội nghiệp cho đám con chiên thấp kém ở dưới đã bị mê hoặc bởi bộ mặt giả dối của giáo hội và những hứa hẹn hoang đường giáo hội đưa ra, đám người xấu số vì thiếu hiểu biết cho nên cam tâm tình nguyện làm cái đáy của một kim-tự-tháp, để cho một số người vô hạnh ngồi trên chóp đỉnh, ngự trị trên đầu trên cổ.

Với tất cả những tài liệu ở trên, và đây chỉ là một phần vô cùng nhỏ nhoi về Giáo hội Ca-Tô Rô-ma, chúng tôi muốn nhắc lại câu hỏi:

“- Người Việt Nam Theo Ca-Tô Giáo Rô-ma Là Vì Cái Gì?
- Và Tại sao Giáo Hội Ca Tô Rô-ma tại Việt Nam phải lệ thuộc Vatican để đi vào con đường phản bội dân tộc như trong quá khứ?”

Chúng tôi mong có sự giải đáp từ các bậc thức giả trong Ca-Tô Giáo Rô-ma tại Việt Nam. Chúng tôi thành thực nghĩ rằng, để giải đáp những thắc mắc rất chính đáng trên, chúng ta không có con đường nào khác là mở mang dân trí, cập nhật hóa kiến thức thời đại về bản chất và vai trò các tôn giáo trong cộng đồng dân tộc. Đây chính là một nhiệm vụ quan trọng trong thời đại ngày nay, không chỉ riêng của chính quyền mà là nhiệm vụ chung của mọi người dân Việt Nam nào còn có lòng với dân tộc, đất nước, còn trân quý truyền thống văn hóa và tôn giáo của Việt Nam. Chúng tôi rất hi vọng giới trí thức, nhất là giới trẻ ngày nay, hãy nhận thức rõ tầm quan trọng của lãnh vực văn hóa này. Vì lợi ích của mọi người, và vì tương lai của dân tộc và đất nước, chúng ta hãy cùng nhau tích cực hoạt động trong đường hướng mở mang dân trí, giúp người dân nhận thức được những sự thật về các tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam. Chúng ta không cần phải e ngại trước những luận điệu vu khống vô căn cứ là chúng ta “chống Thiên Chúa Giáo”, xâm phạm tín ngưỡng của người khác, gây bất hòa trong xã hội, chia rẽ tôn giáo, vì công việc của chúng ta rất nghiêm chỉnh, không xuyên tạc, không bôi nhọ, tất cả chỉ là những nghiên cứu trí thức dựa trên các dữ kiện đã được phổ biến rộng rãi trong phương trời Âu Mỹ. Hơn nữa, sự chia rẽ tôn giáo, gây bất hòa trong xã hội v.. v.. nằm ngay chính trong cuốn Kinh Thánh, trong cuốn “Phép Giảng Tám Ngày” của tên Linh mục thực dân Alexandre de Rhodes đang được lưu hành ở Việt Nam, và trong Kinh Nhật Khóa của người Ca-Tô Việt Nam. Việt Nam không lẽ lại lạc hậu đến độ không dám nói đến những sự thật về tín ngưỡng, về tôn giáo hay sao?

Chúng ta hãy tích cực trong nhiệm vụ này. Giúp cho người dân mở mang đầu óc, cập nhật hóa kiến thức thời đại, nhận rõ chân thực, là mang đến cho họ một nguồn vui vô tận; giúp cho người dân tỉnh thức, không bị huyễn hoặc bởi những điều hoang đường, mê tín, cất bỏ lòng sợ hãi thần quyền, và thoát khỏi một tâm cảnh nô lệ ngoại quyền, đó chính là cứu khổ. Vì sự an sinh của quần chúng, vì tương lai của dân tộc, vì sự tiến bộ trí thức của người dân, chúng ta hãy cùng nhau góp sức đẩy mạnh những hoạt động có ích này trong tình trạng đang phát triển, tiến bộ về mọi mặt của đất nước. Chúng ta nên nhớ, văn hóa là linh hồn của dân tộc. Và văn hóa của Việt Nam chính là văn hóa của tuyệt đại đa số người dân. Chúng ta sẽ không cần phải e ngại trong nhiệm vụ đập tan mọi luận điệu, mưu toan muốn hạ thấp hay xóa bỏ nền văn hóa của Việt Nam mà nhiều đời ông cha cũng như chúng ta đều trân quý. Lẽ dĩ nhiên, đây là nhiệm vụ chung của mọi người dân yêu nước, nếu chúng ta muốn duy trì, gìn giữ một quốc gia thuần nhất về truyền thống và văn hóa. Chúng ta không ngần ngại áp dụng những cái hay cái đẹp của các xã hội khác trên thế giới. Nhưng chúng ta quyết không để cho những đồ phế thải của các xã hội đó xâm nhập vào Việt Nam để gây phương hại cho đất nước. Chúng tôi hi vọng mọi người chúng ta sẽ có đủ kiến thức và tinh thần vô úy để chiến đấu trong mặt trận văn hóa này.

» HẾT »