NGƯỜI VIỆT NAM & “ĐẠO GIÊ-SU”

Trần Chung Ngọc Nguyễn Mạnh Quang
hợp soạn

http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/DAOGIESU/TCN_NMQ5.php

09 tháng 1, 2008

Lời Tòa Soạn
Những mục của tác giả Trần Chung Ngọc: 1 2 3 4
Những mục của tác giả Nguyễn Mạnh Quang: 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
Lời Kết Chung

PHẦN II

[Người Viết: Nguyễn Mạnh Quang]

۩

Phần này nói về những đặc tính tính thâm độc nhất, dã man nhất và bám chặt lấy Việt Nam lâu dài nhất của Đế Quốc Vatican nếu so với các đế quốc xâm lược khác đã từng thống trị Việt Nam, gồm có phần Dẫn Nhập và các chương như sau:

Chương 1: Sơ lược một vài nét về bộ mặt thật của Giáo Hội La Mã.

Chương 2: Vatican bám chặt Việt Nam lâu dài nhất.

Chương 3: Các chính sách của Vatican đã và đang được thi hành ở Việt Nam.

Chương 4: Hậu quả của việc không dạy toàn bộ lịch sử thế giới, của việc cắt bỏ bóp méo lich sử.

Chương 5: Chính sách ngu dân ảnh hưởng mạnh mẽ đến các văn phẩm của tín đồ Da-tô.

Chương 6: Vấn đề đặt ra với tín đồ Da-tô người Việt.

Chương 7: Vatican và tín đồ Da-tô trong quá trình chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam.

Chương 8: Đặc tính ngược ngạo trong đạo Da-tô và của tín đồ Da-tô.

Chương 9: Tài nghệ bịp bợm của Vatican

Chương 10: Sử liệu như thế nào thì mới có tính cách khả tín?

Chương 11: Vì đâu nên nỗi?


DÂN NHẬP

“Giê-su: Đừng tưởng rằng ta xuống đây để mang lại hòa bình trên trái đất. Ta không tới để mang lại hòa bình mà là gươm giáo. Vì ta tới để làm cho con trai chống lại cha, con gái chống lại mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng, và kẻ thù của con người ở ngay trong nhà hắn (Matthew 10: 34-36).”

Tìm hiểu lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, từ đầu thập niên 1780 cho đến nay, chúng ta thấy có khá nhiều thế lực quốc tế trực tiếp can thiệp vào nội tình Việt Nam một cách vô cùng thô bạo và hết sưc trắng trợn. Những thế lực đó là:

1.- Đế Quốc Trung Hoa

2.- Đế Quốc Vatican hay Giáo Hội La Mã

3.- Đế Quốc Pháp

4.- Đế Quốc Nhật Bản

5.- Đế Quốc Mỹ hay siêu cường Hoa Kỳ

Trong các đế quốc trên đây, Vatican (tức Giáo Hội La Mã) là kẻ thù thâm độc nhất, dã man và nguy hiểm nhất đối với nhân loại và riêng đối với Việt Nam, trong thời cận và hiện đại, đế quốc này bám chặt lâu nhất.

Tại sao Vatican lại là kẻ thù thâm độc nhất, dã man và nguy hiểm nhất đối với nhân loại?

Dưới đây là phần trình bày của chúng tôi:

Thứ nhất, thông thường tất cả các đế quốc xâm lược khác đều công khai nhìn nhận là quân xâm lược cướp nước người ta làm thuộc địa. Trái lại, Vatican thì giấu mặt, tàng hình là các nhà truyền giáo của đạo Da-tô đem đến cho người dân bản địa một tôn giáo mới mà thực chất chỉ là một hệ thống gồm toàn những chuyện hoang đường để mê hoặc và lừa gạt những hạng người ngu dốt, tham lợi, háo danh và kèm theo một chút ít vật chất làm miếng mồi câu nhử những hạng người đê tiện này theo đạo để làm công cụ cho chúng sử dụng.

Thứ hai, thông thường các đế quốc xâm lược khác đếu dùng sức mạnh quân sự tấn chiếm chớp nhoáng vùng mục tiêu rồi mới dựa vào thế mạnh cùng với danh và lợi để mua chuộc một số người bản địa tham lợi háo danh, thèm khát quyền lực làm tay sai cho chúng trong bộ máy cai trị người bản xứ. Trái lại, Vatican đã có sẵn một kế hoạch trường kỳ mai phục cả hàng thế kỷ bằng một sách lược mê hoặc, lừa gạt và lùa người dân bản địa vào cái tròng Da-tô (Catholic loop) để cho Vatican siết cổ. Khi đã có một số kha khá vào khoảng 5 ,7 gia đình trở lên, thì những gia đình này sẽ bị tách rời khỏi đồng bào sống theo nền văn hóa cổ truyền của dân tộc và được gom lại cho cư ngụ trong một khu vực riêng biệt, gọi là xóm đạo hay làng đạo. Sau đó, họ được tổ chức thành những đội ngũ được ngụy trang bằng những danh xưng như Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể, Hội Thánh Giuse Lao Công, Hội Các Bà Mẹ Công Giáo, Hội Con Đức Mẹ, Đạo Binh Xanh, Hội Các Dòng Ba, Hội Nghĩa Binh, Hội Công Giáo Tiến Hành, Ca Đoàn Trầm Mặc, v.v…. Trong thực tế, tất cả các đoàn hay hội này đều là những đạo quân thứ 5 vừa có nhiệm vụ thâu thập các tín tức tình báo tại địa phương và các vùng lân cận để cung cấp cho các đấng bề trên của họ, vừa có nhiệm nằm hờ chờ giờ hành động theo chỉ thị của các đấng bề trên.

Thứ ba, thông thường các đế quốc xâm lược khác chỉ tuyển mộ, huấn luyện và sử dụng những người dân bản địa vong bản làm tay sai cho chúng như thông ngôn, đưa đường, dẫn lối, chỉ điểm, v.v… vào khi nào chúng mang quân xâm lược hay đang tiến chiếm quốc gia nạn nhân làm thuộc địa. Trái lại, như đã nói ở trên, truớc khi tiến chiếm một quốc gia nạn nhân nào, Vatican đã có sẵn một kế hoạch trường kỳ mai phục từ mấy chục năm về trước, có khi lâu tới cả một thế kỳ hay lâu hơn, và đã chuẩn bị đầy đủ những cơ sở cùng những phương tiện huấn luyện người dân bản địa về những kỹ thuật đánh phá chính quyền bản địa, chuẩn bị cả người được đưa lên cầm quyền theo sách lược đã hoạch đinh trước.

Thứ tư, thông thường các đế quốc xâm lược khác hoàn toàn trông cậy vào sức mạnh quân sự hay thế lực mạnh (tài chánh hay chính trị) của chính bản thân để tiến chiếm quốc gia nạn nhân: Khi các đế quốc Trung Hoa, Nhật, Anh, Đức, Hòa Lan đem quân tấn chiếm một quốc gia nào thì chính bản thân các đế quốc này đem quân chinh phục, rồi mới sử dụng những dân bản địa làm tay sai cho chúng trong các công việc bình đình và quản trị nhân dân. Trái lại, đế quốc Vatican đã có sẵn một kế hoạch sử dụng tín đồ Da-tô bản địa để đánh phá làm cho quốc gia nạn nhân trở thành bất ổn rồi sau đó mới:

1.- Hoặc là dựa vào sức mạnh của tín đồ thừa thắng xông lên cướp chính quyền để thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô theo đúng phương châm hành động ”Chính quyền Da-tô phải do quân đội Da-tô bảo vệ” (Christendom must be defended by Christian arms) [i]“.

2.- Hoặc là gửi các nhà thuyết khách đem theo những tài liệu tình báo đã thâu được và những dữ kiện về các đạo quân thứ 5 bản địa làm vốn liếng đến thủ đố của một đế quốc Âu hay Mỹ uốn lưỡi Tô Tần thuyết phục đế quốc này liên minh với Vatican và xuất quân chinh phục quốc gia nạn nhân để cùng thống trị, cùng cướp đọat tài nguyên, cùng bóc lột và cùng nô lệ hóa dân tộc nạn nhân. Sách lược này đuợc sách sử ghi nhận như sau:

Bản nghiên cứu về tiêu chuẩn lịch sử cho thấy rằng Giáo Hội La Mã đã sử dụng một sách lược hành động trong nhiều thế kỷ là đồng hóa (liên kết) các mục tiêu tôn giáo của Giáo Hội với mục tiêu của một cường quốc thế tục đương thời. Như chúng ta đã thấy, Giáo Hội đã sử dụng sách lược này ở Á Châu vào những thời kỳ Bồ Đào Nha, Tây Ban và Pháp đang là những đại cường đang lên.

Ở Âu Châu, sách lược trên đây cũng được áp dụng nhiều lần trong thế kỷ 20 này. Có lúc, Giáo Hội đã liên kết với nước Pháp, liên kết với Đế Quốc Gia-tô Áo - Hung trong thời Đệ Nhất Thế Chiến, rồi trước và trong thời Đệ Nhị Thế Chiến thì Giáo Hội lại liên kết với các chế độ độc tài Ý và Đức của phe hữu. Bằng cách đồng hóa với các cường quốc trên đây vào thời đang lên về các quyền lợi kinh tế, chính trị và chiến tranh, Giáo Hội đã thâu tóm được rất nhiều quyền lợi.

Vì rằng không còn một siêu cường Da-tô nào kể từ khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt mang theo sự hủy diệt của chế độ phát xít ở Âu Châu, Giáo Hội La Mã quay ra chọn Hoa Kỳ để liên kết thành một liên minh chính trị. Đây là hành động để đối phó với sự bành trướng của nghĩa Cộng Sản Bôn-sê-vích và siêu cường Nga Sô sau thời Đệ Nhị Thế Chiến. Tình trạng này khiến cho cả Giáo Hội La Mã lẫn Hoa Kỳ cùng lo sợ và bắt buộc hai thế lực này liên kết với nhau thành một liên minh thực sự trong thời Chiến Tranh Lạnh.”

Nguyên văn: "The study of historical patterns reveals a formula which the Catholic Church has used for centuries, namely identification of her religious objectives with those of a major lay political power of a given period. As we have seen, she used this formula in Asia when she identified herself with the major powers of those days, Prortugal, Spain, and France.

In Europe the formula was applied several times in this century. She identified herself at vaious intervals with France, then with the Catholic Empire of Austria-Hungry during the First World War, and with the right wing dictatorships of Italy and Germany, before and during the Second World War. She advanced her interests in the wake of these Powers by identified herself with their economic, political and war interest.

Since the end of the Second World War and the annihilation of European fascism she adopted the U.S. as her lay partner, in the absence of a Catholic superpower. This was prompted by the grim reality of the appearance of Boshevism and the growing military presence of Soviet Russia after World War II. The menacing reality of these two compelled the Vatican and the U.S. together and in due course force them into veritable alliance known as the Cold War.[ii]

Thứ năm, một khi đã chiếm được chính quyền rồi, Vatican sẽ dùng chính sách chia để trị, xé nhỏ quốc gia nạn nhân thành nhiều mảnh nhỏ theo biên giới địa lý, sắc tộc, và tôn giáo, biến mỗi mảnh nhỏ này thành một tiểu quốc, rồi tìm kiếm một hay mổt số tín đồ khả tín tại địa phương đó đưa lên cầm quyền, thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô để làm tay sai cho Vatican. Các chính quyền đạo phiệt này đều có Hội Đồng Giám Mục (đại diện của Vatican) ở hậu trường chỉ đạo, được lệnh phải thiết lập bộ máy cai trị bằng các tổ chức công an, mật vụ và cảnh sát như thiên la địa võng, rồi dùng tất cả các phương tiện của nhà nước để:

1.- Cưỡng bách nhân dân phải theo đạo Da-tô.

2.- Kiểm soát hết tất cả mọi pham vi sinh hoạt kinh tế, tài chánh, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v… để tận tình thu vơ tài sản của cải rồi gom lại tích lũy vào trong kho nhà Chúa (gọi là của Nhà Chung). Sự kiện này được sách sử ghi nhận như sau:

Về các vấn đề tôn giáo, trước khi Kitô giáo ra đời, các tôn giáo trên thế giới đều có đặc tính khoan dung. Một trong những thông điệp của Delphic Oracle là “Mọi người đều đúng cả. Chẳng có ai quấy.” Nguyên tắc của người La Mã thời bấy giờ là “Tôn giáo ở trong vùng (nơi bạn cư ngụ) là tôn giáo của bạn.” Trong tâm trí và trong cách ứng xử của người đời thời bấy giờ là không có sự liên hệ gì giữa tôn giáo và chân lý. Tôn giáo không được coi như là một sự vật có thật. Vì thế cho nên, trước khi có đạo Kitô, không có chiến tranh tôn giáo, không có chuyện bách hại tôn giáo, và cũng không có người nào gọi là tử đạo cho niềm tin tôn giáo của họ cả. Lúc bấy giờ, không có ai cố gắng áp đặt tôn giáo hay cưỡng bách bắt buộc người khác phải theo tôn giáo của mình. Chỉ có những người Kitô giáo mới sản xuất ra chiến tranh tôn giáo, gây nên những vụ bách hại tôn giáo và tạo nên những người tử đạo.

Ngay từ lúc đầu, người Kitô giáo khăng khăng cho rằng tôn giáo của họ là chân lý, rằng tôn giáo của họ nói về thực tế. Họ đưa ra lập luận rằng tôn giáo của họ là một chân lý toàn cầu, rằng chỉ có Kitô giáo mới là tôn giáo đích thực. Vì thế cho nên mọi hệ thống triết lý khác và mọi hệ thống kiến thức khác - bất kỳ ngành họat động nào của con người có liên hệ với chân lý – đều phải hài hòa với tôn giáo đích thực là Kitô giáo. Trái lại, đó chỉ là một hệ thống triết lý giả, một kiến thức giả. Tất nhiên là mọi tính cách đạo đức đều từ Kitô giáo mà ra.. Kitô giáo thấm nhập vào tất cả mọi lãnh vực trong đời sống thế tục từ kinh tế, chính trị, tài chánh, nghệ thuật, giáo dục cho đến các cơ cấu khác trong xã hội. Tôn giáo và chính trị, tôn giáo và tài sản, tôn giáo và chính quyền, tôn giáo và nghệ thuật, tôn giáo và sự học hỏi – giữa những liên hệ cơ cấu này, không có sự chống đối nào mà không hòa giải được. Những cơ cấu này không thể tách rời được và cũng không thể giữ nó ở trong tình trạng tách rời nhau.. Các vấn đề như quân sự chính trị, tài sản, nghệ thuật và chính quyền, tất cả đều phải bị tôn giáo thống trị tuốt luốt.

Nguyên vănIn religious matters, the pre-Christian world was ecumenical tolerant. “Everybody is right. Nobody is wrong,” was one message of the Delphic Oracle, “Whatever be the region of the earth where you find yourself,” went the Roman principle, “that region’s religion is your religion.” In men‘s minds and in the way they conducted their affairs, there was no connection between religion and truth. Religion was not considered a true thing. Hence, prior Christianity, there was no religious wars and no religious persecutions. There was no religious martyrs for their faith. No one tried to impose religion as such on anyone else. Only Christians produced such wars, persecutions and martyrs.

From their beginnings, Christians insisted that their religion was true, that it did speak about reality. They drew the logical conclusion from that: that it was universally true. That there could be only one true religion. Theirs. Hence all philosophy and all knowledge - any branch of human activity that dealt with the truth – had to be, would be reconcilable with the true religion, Christianity. Otherwise, it was a false philosophy, a false knowledge. Automatically, an all embracing morality from this Christianity. It permeated al aspects of temporal life:economics, politics, finance, the arts, education, social structures. Religion and politics, religion and wealth, religion and government, religion and art, religion and learning – between these there was no irrececoncilable opposition. They were not separate or to be kept separate. Military matters, matters of politics, wealth, art, government – all became dominated by religion.”][iii]

3.- Thi hành chính sánh ngu dân và giáo dục nhồi sọ để làm cho người dân vừa ngu vừa dốt, vừa trở thành những hạng người vong bản, phản dân tộc và phản quốc:

a.- Ngu là không biết vận dụng lý trí để tìm hiểu sự vật, không thể phân biệt được sự khác biệt giữa lẽ phải với điều sai trái, giữa hậu quả với nguyên nhân, giữa sự kiện với ý kiến, giữa một bên là những quy tắc đạo lý nặng tính cách thuận lý (logic), vô tư, nhân ái , công bằng và một bên là tín lý tôn giáo (gồm những điều nhảm nhí, hoàng đường), cùng với những giáo luật và lời dạy nặng tính cách chuyên chế, áp bức, bóc lột, mang nặng tính cách thiên vị, mất hết lương tính thiên bẩm “nhân chi sơ, tính bản thiện”..

b.- Dốt là vị bị bưng bít, bị bịt mắt, không cho học hỏi những tư tưởng tiến bộ của loài người, không cho học lịch sử thế giới để hiểu biết được những bước tiến của loài người từ thuở hồng hoang cho đến thời tin học như ngày nay, không cho học những bài học lịch sử có liên hệ đến những việc làm bất chính, bất nhân, đại gian và đại ác của Giáo Hội từ ngày 20/5/325 cho đến ngày nay. Tình trạng này khiến cho tín đồ Da-tô và người dân dưới quyền chẳng khác gì những đứa con hoang trong cộng đồng dân tộc và những đứa con hoang trong cộng đồng nhân loại.

c.- Bị nhào nặn thành những hạng người vong bản, phản dân tộc và phản quốc. Những hành động của tín đồ Da-tô người Pháp chống lại chính quyền Cách Mạng Pháp 1789 và chống lại nước Pháp trong suốt chiều dài lịch sử từ ngày 14/7/1789 cho đến ngày 28/7/1830, những hành động của tín đồ Da-tô người Nhật chống lại dân tộc Nhật và nước Nhật trong thế kỷ 17, những hành động của tín đồ Da-tô người Trung Hoa chống lại dân tộc Trung Hoa và nước Trung Hoa từ thế kỷ 17 đến hết thế kỷ 20, khẩu hiệu của Linh-mục Hoàng Quỳnh hô hào giáo dân “thà mất nước, chứ không mất Chúa” và những hành động của tín đồ Da-tô người Việt chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 1784 cho đến ngày 30/4/1975 và cho đến ngày nay họ cũng vẫn còn tiếp tục, v.v..., tất cả là bằng chứng hùng hồn cho sự thật này và cũng là bằng chứng cho chúng ta thấy rằng “Bất cứ kẻ nào đã trở thành tín đồ Da-tô, thì sẽ trở thành hạng người vong bản, phản dân tộc và phản quốc.”

d.- Hoàn toàn mất đi ý niệm về công bằng, mang nặng đặc tính thiên vị, mất hết lương tính thiên bẩm “nhân chi sơ, tính bản thiện”. Những đặc tính này thuờng được thể hiện ra trong cung cách hành xử của họ. Họ đã bị Vatican nhào nặn thành những hạng người bị điều kiện hóa, chỉ tin rằng “bất kỳ cái gì của hay thuộc về Giáo Hội La Mã đều tốt cả, bất kỳ cái gì không phải hay không thuộc về Giáo Hội Lã Mã đều là xấu xa và tội ác.” (Pagans are wrong. Christians are right.)”[iv]

4.- Hủy diệt tất cả các tôn giáo và tất cả những di sản của các nền văn hóa phi Da-tô.

5.- Hủy diệt lòng yêu nước và tình yêu dân tộc để thay thế vào đó bằng tình yêu đối với Giáo Hội La Mã hay đối với Tòa Thánh Vatican được ngụy trang bằng tình yêu đối với Thiên Chúa.

Vấn đề đặt ra Giáo Hội La Mã luôn luôn cao rao rằng "Thiên Chúa của Giáo Hội toàn năng, toàn trí, toàn thiện và có mặt ở khắp mọi nơi". Vậy thì một ông Thiên Chúa như vậy có cần đếncó tình yêu của người đời không?

Còn nữa! Giáo Hội và các ông tu sĩ Da-tô thường hay sử dụng chiêu bài "phục vụ Chúa" làm bức bình phong che đậy cho dã tâm sử dụng tín đồ làm nô lệ cho Giáo Hội. Vấn đề đặt ra là "Thiên Chúa toàn năng, toàn tri, toàn thiện và có mặt ở khắp mọi nơi" như Giáo Hội thường cao rao, có cần phải được người đời phục vụ không?

Vì bị chính sách ngu dân và nhồi sọ của Giáo Hội làm cho mất hết khả năng vận dụng lý trí , tín đồ Da-tô trở thành hajg người vừa hết sức ngu xuẩn (không biết động não) vừa dốt đặc cám mai táu (về lịch sử, đặc biệt về lịch sử thế giới và lịch sử Giáo Hội La Mã), cho nên chẳng bao giờ họ có thể động não đặt ra những vấn đề như trên.

Hậu quả là bất kỳ dân tộc nào bất hạnh rơi vào ách thống trị của Vatican, thì dân tộc đó sẽ mang cái đại họa vừa nghèo đói, vừa lạc hậu, vừa chậm tiến, vừa ngu dốt. Đây là tình cảnh Âu Châu trong thời Trung Cổ, Croatía ngày nay, các cựu thuộc địa của Tây Ban Nha ở Châu Mỹ La Tinh, Phi Luật Tân, các xứ cựu thuộc địa của Bồ Đào Nha ở Phi Châu, của Bỉ và tất cả các thuộc địa của Pháp ở nhiều nơi trên thế giới trong đó có các quốc Gia Đông Dương, v.v… Tình cảnh được nêu lên trên đây là những bằng chứng bất khả phủ bác cho sự thật này. Sách The Rich Church, Poor Church cũng ghi lại rõ ràng với nguyên văn như sau:

“"Sự trái ngược giữa các nước nghèo khó ở Nam Âu và sự phồn thịnh của các nước ở Bắc Âu thật là quá rõ ràng. Nước Anh Tin Lành đã trở thành một cường quốc trên thế giới và đang trên đường trở thành một trong các đại đế quốc thương mại; nước Phổ Tin Lành giầu có và hùng mạnh; nước Hòa Lan Tin Lành đã khởi tiến việc ngoại thương và xứng đáng được mang tước hiệu đế quốc. Một du khách đi từ Bắc và Trung Âu tới nước Pháp và bán đảo Tây Ban Nha rồi qua Ý Đại Lợi sẽ thấy sự tương phản về kinh tế, mức sống và trình đồ học vấn tổng quát của người dân trong các quốc gia này. Ở Bắc và Trung Âu, phần lớn là Tin Lành, không có quốc gia nào rơi vào tình trạng chết đói và nghèo khổ triền miên như các nước ở miền Nam Âu. Chủ nghĩa tư bản cổ điển đã lỗi thời và các quốc gia theo đạo Tin Lành cũng đã thức thời và sẵn sàng từ bỏ nó để làm lợi cho đất nước.Các nhà chính khách và vua chúa ở các quốc gia Nam Âu cho rằng Tòa Thánh La Mã và chế độ giáo hoàng phải chịu trách nhiệm về sự suy thoái và thua kém của nước họ so với các nước theo đạo Tin Lành."

[Nguyên văn: "The contrast between the impoverished southern European countries and the flourishing northern European states at this time was a glaring one. Already Protestant England had become a world power and was on its way to founding one of the great commercial empires; Protestant Prussia was prosperous and powerful; Protestant Holland was already starting the overseas trade that in time would offer it the title of empire. A traveller from northern and central Europe down into France, the Iberian peninsula, and Italy would be struck by the contrast in economic welll-being, standard of living, and general education of the people. The northern and the central nations, predominantly Protestant, had none of the starvation and endemic poverty exhibit down south. Classical capitalism was off on its first flight and the Protestant nations were ready to take advantage of it.

The statesmen and kings in southern Europe held Rome and the papacy primarily responsible for that degrading difference them and their Protestant counterparts.[v]

Đây cũng là lý do tại sao các nhà viết sử lại gọi Thời Trung Cổ (the Middle Ages) ở Âu Châu (cái thời hoàng kim của Vatican) là “Thời Hắc Ám” (the Dark Ages), tại sao văn hào Voltaire lại gọi đạo Da-tô là “Cái tôn giáo ác ôn”, tại sao người Pháp lại gọi các ông tu sĩ Da-tô là “lũ quạ đen” (le corbeaux noirs), và tại sao học giả Henri Guillemin lại gọi Giáo Hội La Mã là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn” (Malheureuse Église).

Thứ sáu, sau khi bị đánh bại và phải rút quân về nước, thường thường, các đế quốc xâm lược khác dứt khoát không nghĩ đến việc đem quân tái chiếm các thuộc địa cũ, mà tính chuyện thiết lập bang giao với tân chính quyền. Cũng vì thế mà bọn bản địa phản quốc đã từng muối mặt làm tay sai cho các đế quốc này, dù đã cuốn gói ra đi với quan thày hay ở lại trong nước, cũng đều yên phận, sống đời lương thiện, mưu sinh nuối sống gia đình, và nếu có hoàn cảnh, họ cũng hăng say tích cực góp bàn tay cùng với đồng bào xây dựng đất nước: Năm 1783, Đế quốc Anh bị Mỹ đánh bại và rút khỏi nước Mỹ vào năm này, không còn có thằng Mỹ gian nào đã từng làm tay sai cho Anh tiếp tục đánh phá chính quyền và nước Mỹ. Đầu năm 1789, giặc Thanh bị quân dân ta đánh bại và rút về Tàu, không còn có thằng Việt gian nào đã từng làm tay sai cho giặc Thanh tiếp tục đánh phá chính quyền Nhà Tây Sơn của dân ta và tổ quốc Việt Nam. Đầu tháng 5/1945, Đức Quốc Xã bị quân đội Đồng Minh Mỹ - Anh – Nga – Pháp đánh bại và chế độ Đức Quốc Xã bị sụp đổ, không còn có thằng Pháp gian nào đã từng muối mặt làm tay sai cho Đức tiếp tục đánh phá chính quyền Đệ Tứ Cộng Hòa và nước Pháp. Tháng 8/1945, Nhật bại trận rút khỏi lục địa Á Châu về chính quốc, không còn có thằng Hán gian nào đã từng muối mặt làm tay sai cho Nhật tiếp tục đánh phá chính quyền và nước Trung Hoa.

Trái lại, Vatican thì hòan toàn khác hẳn. Ngày 14/7/1789, chính quyền đạo phiệt Da-tô Louis XVI bị lật đổ, Vatican tìm cách vận động các nước Phổ, Áo, Anh và Nga thành lập các liên minh thánh (holy alliances) đem quân tấn công vào nước Pháp, lật đổ tân chính quyền và hủy diệt hết tất cả các công trinh Cách Mạng Pháp 1789, phục hồi chế độ đạo phiệt Da-tô; đồng thời, ra lệnh cho bọn quạ đen bản địa xúi giục giáo dân tại các vùng Bretagne, Normandie và Vendée nổi loạn đánh phá chính quyền cách mạng và tổ quốc Pháp, làm nội ứng tiếp tay cho các đoàn quân xâm lăng của các liên minh thánh (do Vatican vận động thành lập).

Ngày 9/3/1945, Liên Minh Pháp – Vatican bị Nhật hất cẳng ra khỏi chính quyền Đông Dương, rồi ngày 15/8/1945 Nhật đầu hàng Đồng Minh; những ngày kế đó, dân ta thừa thắng xông lên đòi lại chính quyền cho dân tộc, và ngày 2/9/1945, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa dưới quyền lanh đạo của cụ Hồ Chí Minh công bố cho toàn thể nhân dân thế giới biết rằng nước Việt Nam ta đã hoàn toàn độc lập. Thế nhưng, Vatican lại đưa tên Giám-mục Antoine Drapier, Khâm Sứ Tòa Thánh Vatican tại Hà Nội, công khai xúi giục nhóm thiểu số tín đồ bàn địa nổi loạn tiếp tay cho đoàn quân viễn chinh Liên Minh Pháp – Vatican một cách hết sức trắng trợn[vi], gây nên “Cuộc Chiến Tranh Bản Thỉu” (La salle Guerre) kéo dải cả chín năm trường, giống y hệt như Vatican đã làm trong thời Cách Mạng Pháp 1789-1815.

Ngày 7/5/1954, Liên Quân Xâm Lược Pháp – Vatican bị thảm bại tại tập đoàn cứ đỉểm Điện Biên Phủ, Pháp nghiêm chỉnh thương thuyết với phái đoàn của chính quyền Kháng Chiến Việt Nam tại Hội Nghi Genève, rút quân về nước, công nhận chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam và thiiết lập bang giao với chính quyền Việt Nam ta. Kể từ đó, Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican tan vỡ. Thế nhưng, Vatcian vẫn ngoan cố, vẫn không bỏ cuộc, vẫn còn muốn bám chặt lấy Việt Nam như loài đỉa đói, quay ra tìm cách vận động Mỹ thành lập Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican, đưa thằng tam đại Việt gian Da-tô Ngô Đình Diệm về cầm quyền, vi phạm điều khoản quy định việc tổ chức tổng tuyển vào tháng 7 năm 1956 của Hiệp Định Genève 1954 để thống nhất đất nước với dã tâm duy trì Việt Nam mãi mãi ở trong tình trạng chia đôi, gây nên cuộc chiến Bắc Nam kéo dài gần 20 năm trường.

Vi bị bọn Da-tô Việt gian làm tay sai cho Vatican và cho Mỹ cực kỳ tham nhũng và hết sức bạo ngược, khiến cho miền Nam Việt Nam nát bấy như tương Bần (Yên Nhân), vì bị nhân dân thế giới lên án kịch liệt, vì bị nhân dân Hoạ Kỳ chống đối dữ dội, chính quyền Mỹ đành phải thương thuyết nghiêm chỉnh với chính quyền Việt Nam tại Hội Nghị Paris (1968-1973), để rồi rút khỏi miền Nam vào ngày 30/4/1975, và tới năm 1994, chính quyền Mỹ đã tái lập bang giao với chính quyền Việt Nam ta. Thế nhưng, Vatican vẫn ngoan cố, vẫn không bỏ cuộc,vẫn tiếp tục sử dụng BỌN QUẠ ĐEN xúi giục nhóm thiểu số “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” đánh phá tổ quốc và chính quyền Việt Nam ta theo sách lược cố hữu “quậy cho nước đục để thà câu” và “Không được ăn thì đạp đổ” mà Vatican đã sử dụng từ ngày 20/5/325 cho đến ngày nay. Bằng chứng là:

1.- Ngày 15/3/2001, Giám-mục Nguyễn Văn Thuận đến Orange County, California xúi giục giáo dân ở hải ngoại cũng như ở trong nước nổi loạn chống chính quyền và tổ quốc Việt Nam bằng lời tuyền bố ngược ngạo: ““Vatican không nói, mà làm. Làm ra sao thì cứ nhớ lại biến cố Đông Âu thì rõ.” [vii] Ai cũng hiểu rằng khi đưa ra lời tuyên bố như vậy là tên Giám-mục Nguyễn Văn Thuận muốn nhắn nhủ với giáo dân rằng: “Yên trí đi, tuy rằng không tuyên bố ồn ào hay công khai, nhưng Vatican đã và đang hành động tiến chiếm Việt Nam giống như trước đây Vatican đã làm ở Đông Âu và Việt Nam trước đây.”

2.- Vụ linh mục Nguyễn Văn , theo Wikipedia:

Tháng 5/1983, LM Lý bị bắt và kết án 10 năm tù và 4 năm quản chế với tội danh "gây rối trật tự xã hội". LM Lý bị đưa về giam tại Thanh Cẩm (Thanh Hóa) và Ba Sao (Nam Hà).

Tháng 7/1992, LM Lý được trả tự do và cho về cư ngụ tại Tòa Giám mục Huế, nhưng bị cấm không được làm nhiệm vụ linh mục.

Tháng 11/1994, LM Lý đã công bố “Tuyên ngôn 10 điểm về vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam”.

Năm 1997, LM Lý về nghỉ dưỡng bệnh tại giáo xứ Nguyệt Biều của linh mục quản xứ Trần Văn Quý.

Ngày 24/11/2000, LM Lý phổ biến bản "Tuyên ngôn về thực trạng Giáo hội Công giáo tại giáo phận Huế"] và lời kêu gọi "Chúng tôi cần có tự do tôn giáo thật sự tại Việt Nam".

Ngày 5/2/2001, Toà Tổng Giám mục Huế thuyên chuyển Linh mục Nguyễn Văn Lý về làm linh mục quản xứ An Truyền thuộc xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Ngày 26/2/2001, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên-Huế đã ra quyết định quản chế hành chính 2 năm đối với LM Lý tại xã Phú An vì lý do "sử dụng tòa giảng để kích động giáo dân chống phá chính quyền".

Ngày 19/10/2001, Tòa Án Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên-Huế đã xét xử và tuyên án LM Lý 15 năm tù giam, 5 năm quản chế tại địa phương nơi cư trú về hai tội "phá hoại chính sách đoàn kết" và "không chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc quản chế hành chính" (Điều 87 và 269 Bộ Luật Hình Sự). LM Lý sau đó bị đưa về giam tại Ba Sao (Nam Hà).” [viii]

Trong những hành động gây rối này, có cả yêu sách đòi lại khối tài sản bất động sản của Giáo Hội La Mã đã bị chính quyền tịch thu. Ngoại trừ những tín đồ Da-tô cuồng tín, ai cũng biết rằng khối bất động sản này là một phần trong những khối tài sản kếch sù mà Giáo Hội đã ăn cướp của dân ta trên toàn cõi Việt Nam trong thời 1862-1954, và ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 . Sự kiện này đã được các nhà viết sử trình bày khá đầy đủ trong các sách:

a.- Thập Giá Và Lưỡi Gươm của Linh -mục Trần Tam Tỉnh (Paris, Sudestasie, 1978), tr 48-49

b.- Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II của nhiều tác giả (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1996), tr 242-245.

c.- Vatican Thú Tội Và Xin Lỗi? của nhiều tác giả (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1996), tr 184-199

d.- Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hoà Toàn Thư 1954-1963 của Nguyễn Mạnh Quang (Houston, TX: Văn Hoá, 2000), tr.399-432 và trong lá Thư Ngỏ gửi Giáo Hoàng John Paul II đề ngày 19/9/1999 in trong cuốn sách này nơi các trang 547-558.

e.- Bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã, Phần III, Mục X (sẽ được đưa lên sachhiem.net và giaodỉmonline.com trong một ngày gần đây).

Vì hành động gây rối chống lại tổ quốc Việt Nam như vậy, linh mục Lý bị chính quyền Việt Nam bắt giữ vào ngày 1/5/2001. Nhân việc linh mục Lý bị bắt giữ, Vatican ra lệnh cho các cơ quan truyền thông tay sai của Vatican ở hải ngoại tuyên truyền rầm rộ rằng chính quyền Việt Nam đang đàn áp tôn giáo. Dựa vào những việc làm này, Vatican mới có lý do lên tiếng đòi chính quyền Việt Nam phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo, rồi vận động Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc tạo sức ép và gây khó khăn cho chính quyền và đất nước Việt Nam.

Những tưởng rằng trong thời gian bị giam giữ, quạ đen Lý đã biết ăn năn về việc làm tội ác của hắn, cho nên chính quyền đã khoan hồng giảm án và phóng thích cho hắn về sớm hơn. Thế nhưng, ngựa quen được cũ, không biết hắn có bị các đấng bề trên xúi giục tiếp tục hoạt động chống phá chính quyền hay không, sự thực như thế nào, chỉ có Vatican và nhà cầm quyền Việt Nam biết rõ. Nhưng có đỉều chắc chắn là ngày 18/2/2007, chính quyền bắt được tại tư gia nhà hắn những đồ thiết bị và một khối tài liệu được coi như là trái với luật pháp hiện hành qui định. (Xin xem lại Chương 11 đã đưa lên sachhiem.net và giaodiemonlin.com từ tháng 10/2007.)

3.- Từ mấy năm nay, quạ đen Nguyễn Hữu Lễ và đồng bọn hô hào và thỉnh cầu Vatican cho phép chúng được đổi tên thành phố Hồ Chí Minh trở lại là Sàigòn, giống y như bọn quạ đen Pháp trong thời Cách Mạng Pháp 1789-1815 đòi phục hồi chế độ đạo phiệt Da-tô và đưa Louis XVIII lên cầm quyền ở nước Pháp.

4.-Trong mấy năm gần đây, quạ đen Phan Hữu Lợi và đồng bọn lập ra cái gọi là Khối 8406, nói là tranh đấu dân chủ cho Việt Nam, nhưng chúng lại không đả động gì đến chế độ giáo hoàng (papacy) là một chế độ cực kỳ chuyên chế, cực kỳ toàn trị, cực kỳ phong kiến và cực kỳ lạc hậu.

5.- Mới đây, Giám-mục Ngô Quang Kiệt lại chơi cái trò chống lại chính quyền và tổ quốc Việt Nam qua việc đưa ra lời tuyên bố đòi chiếm lại mảnh đất đã bị chính quyền ta đòi lại sau khi đã bị Vatican cướp đoạt trong thời 1862-1954. Hành động ngược ngạo này giống y hệt như hành động linh mục Nguyễn Văn Lý đã làm trong năm 2001 như đã nói ở trên.

Phần II của tập sách này sẽ làm sáng tỏ những điều nêu lên trên đây. Riêng về những điều nêu lên trong các mục số 3, 4 và 5 trong điều thứ năm trên đây, độc giả có thể kiểm chứng bằng cách tiếp xúc trực tiếp với tất cả các ông tu sĩ Da-tô mà người Pháp gọi là “lũ quạ đen” (hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, sư huynh cũng như các bà nữ tu) và tín đồ Da-tô ngoan đạo người Việt hay đọc các ấn phẩm của họ, nhất là những ấn phẩm của những người đã có bằng đại học hay tự xưng là trí thức như Nguyễn Văn Chức, Nguyễn Cần (tức Lữ Giang hay Tú Gàn), Nguyễn Gia Kiểng, Lê Hữu Mục, Nguyễn Gia Đệ, Bằng Phong, Phạm Xuân Thu, Trần Trung Lương, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Lục, Nguyễn Vy Khanh, LM Vũ Đình Hoạt, LM Phan Phát Huồn, LM Bùi Đức Sinh, v.v…Tất cả họ đều mang những căn bệnh mà chúng tôi đã nêu lên trong các mục số 3, 4 và 5 trong điều thứ năm trên đây.

(Xem tiếp)



Chú thích

[i] Malachi Martin, The Decline and Fall of the Roman Church (New York:G.P. Putnam’s Sons. 1981), p. 110

[ii] Manhattan, Avro. Vietnam - Why Did We Go? (Chino, CA: Chick Publication, 1984), p. 157

[iii] Malachi Martin, Rich Church Poor Church (New York: G. P. Putnam’s Sons, 1984) p. 90.

[iv] Malachi Martin, The Decline and Fall of the Roman Church, Ibid. p. 111.

[v] Malachi Martin, Rich Church Poor Church (New York: G.P. Putnam's Sons, 1984), pp 155-156.

[vi] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 - Tập A: 1939-1946 (Houston, TX: Văn Hóa, 1996), tr. 295.

[vii] Vi Anh. “Vatican Làm, Không Nói.” Việt Báo Miền Nam số 305, Thứ Bẩy 14/7/2001: A1.

[viii] Theo Wikipedia.

 


Trang Tôn Giáo