|
24-Apr-2012 |
Vài Lời Nói Đầu
Một chuyện cũ đã mười mấy năm rồi, nhưng nay lại thấy trên trang nhà
sachhiem.net có người nhắc lại một bài của ông Dương Ngọc Dũng: "Nhận
Định Về Các Trí Thức Phật Giáo Trong Nhóm Giao Điểm Phê Bình Quyển "Đối
Thoại Với Đức Giáo Hoàng"", chắc hẳn cho rằng bài này có
giá trị học thuật và trí thức lắm, có thể đánh đổ mọi luận điểm của các
tác giả trong cuốn “Đối Thoại…”. Vậy thì chúng ta thử hâm nóng
lại chuyện này xem giá trị bài của Dương Ngọc Dũng thực sự như thế nào.
Có lẽ chúng ta phải trở lại từ đầu.
Năm 1994, Nhà Xuất Bản Alfred A. Knopf ở New York phát hành cuốn Crossing
The Threshold of Hope, nội dung là những câu hỏi của nhà báo Ý Vittorio
Messori, một giáo dân Ca-tô, và những câu trả lời của Giáo hoàng John
Paul II. Có tất cả 34 câu hỏi ngắn và các câu trả lời của Giáo hoàng
đã hình thành một cuốn sách dày hơn 200 trang. Đọc những câu trả lời
của Giáo hoàng, chúng ta thấy Ngài giảng đạo của Ngài chứ không phải
là trả lời thẳng vào câu hỏi, vì Ngài thường viện dẫn Kinh Thánh để giảng
đạo, kể cả những điều mà thế giới ngày nay xếp vào loại mê tín hoang
đường, làm như tất cả những gì viết trong Kinh Thánh đều là những chân
lý mạc khải, không thể sai lầm.
Thí dụ: trước câu hỏi: “tại sao nhân
loại cần sự cứu rỗi?” thì Ngài viện dẫn câu John: 3: 16 nội dung
là “ai tin vào con một của Thiên Chúa (Giê-su) thì sẽ được cứu rỗi
để không bị luận phạt”, một câu tầm bậy nhất trong Tân Ước, vì chỉ
những người sinh sau Giê-su, nếu biết và bị mê hoặc bởi một cái bánh
vẽ trên trời nên mới tin vào Giê-su, trong khi trước Giê-su nhân loại
đã hiện hữu trên trái đất cả nhiều trăm ngàn năm, nếu không muốn nói
là cả triệu năm.
Cuốn sách trên được một số giáo dân Việt Nam: Tiến
sĩ Trần Mỹ Duyệt, Cựu Thẩm Phán Nguyễn Cần, Kỹ sư Trần Văn Trí, và Giáo
sư Trần Văn Nhượng, cùng đóng góp dịch ra tiếng Việt. Tên sách là Bước
Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng, và được nhà xuất bản Thăng Tiến phát hành
năm 1995, và trong Lời Cảm Tạ ở đầu, những dịch giả đã đặt hi vọng tràn
trề trên điều mà họ cho là Giáo hoàng đã ân tình thầm nhắn giáo dân Việt
Nam, trang 11: “Cha đã tiên phong góp phần giải phóng quê hương
Cha, và tiếp đến sẽ là quê hương chúng con”. Nhưng thực tế
là, Cha đã đi chuyến tàu suốt và chẳng ngó ngàng gì đến quê hương chúng
con cả. Hi vọng trở thành ảo vọng. Hãy chờ đến khi Cha sống lại như
Chúa và đến khi Cha trở lại lần thứ hai [second coming], nếu có thể trở
lại, thì khi đó may ra Cha mới giải phóng quê hương chúng con, sau khi
Cha giải phóng Gia-tô La-mã giáo của Cha, theo thứ tự ưu tiên.
Trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, Giáo Hoàng John Paul
II đã có những nhận định sai lầm và tiêu cực, nếu không muốn nói là cố
ý xuyên tạc với ác ý về Đức Phật và Phật giáo, ngoài những điều hạ thấp
Mohammed và Hồi giáo. Do đó cuốn sách đã gây nên một làn sóng phê
bình phản đối trên khắp thế giới, từ những nhà trí thức và tôn giáo học,
kể cả một số vị lãnh đạo trong Giáo hội Gia-tô La-mã, về sự bất lương trí
thức và đạo đức tôn giáo trong tác phẩm trên. Chúng ta hãy đọc vài
nhận định về cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng” trên thế giới:
☛ Linh mục Ken Tanaka, giáo sư của viện Phật Học ở Berkeley phát biểu
rằng: “Rõ ràng là Giáo hoàng không chịu làm bài tập” (nghĩa là
không chịu tìm hiểu vấn đề cho cặn kẽ) và đã trình bày một quan điểm
quá đơn giản về Phật Giáo. Giáo sư Tanaka nói: “Cốt tủy của Phật
Giáo là thoát khỏi sự ràng buộc vào tham, sân, si – chứ không phải thoát
khỏi thế giới [như Giáo hoàng ngộ nhận]. Nhờ đó mà con người
ngộ được trình độ tỉnh thức cao hơn.”
[Rev. Ken Tanaka, a professor at the institute for Buddhist Studies in
Berkeley, said it is clear that the pope "hasn't done his homework" and
presents "a very simplistic view of Buddhism. "Essentially,
Buddhism is about becoming detached from greed, hatred and ignorance -
not from the world, " Tanaka said. "That's how one awakens
to a higher level of awareness."]
☛ Linh mục Thomas Hand nói rằng ông ước mong Giáo hoàng “có đủ khả
năng nói về Phật Giáo dựa vào những kinh nghiệm bản thân.Chúng ta
không thể nói gì về về sự sâu sắc hiển nhiên như Phật Giáo mà không tự
mình đi vào trong đó.”
[Rev. Thomas Hand, a Catholic priest, said he wished the pope "were
able to speak about Buddhism from experience. You can't speak about anything
as obviously profound as Buddhism without getting into it."]
☛ Alan Senauke, một thiền sư, nói rằng những lời phê bình của Giáo hoàng
về Phật Giáo chẳng hơn gì mấy cái chuyện “dựng lên những hình nộm người
rơm rồi quật chúng xuống” Ông nói: “Dù là ngu dốt hay cố ý,
đó cũng là một sự trình bày sai lầm nghiêm trọng về Phật Giáo.”
[Rev. Alan Senauke, a Zen priest and coordinator of the Buddhist Peace
Fellowship, said the pope's comments on Buddhism were little more than "setting
up straw men, then knocking them down. "Whether through ignorance
or intention, it is a serious misrepresentation of what Buddhism is all
about".]
☛ Lama Ole Nydahl , một giáo thụ của tu viện Kamtsang Choling, Mỹ, một
phần của một hệ phái Phật Giáo Tây Tạng, không lấy gì làm ngạc nhiên về
những lời phê bình Phật Giáo của Giáo hoàng. Ông hỏi rằng ”Sao mà
một người như Giáo hoàng có thể đồng ý với một tôn giáo như Phật Giáo,
một tôn giáo đưa con người vượt qua cảnh giớn nhị nguyên và tạo nên một
mối liên hệ lành mạnh giữa thân và ý”
[Lama Ole Nydahl, a teacher affiliated with the Kamtsang Choling, U.S.A.,
part of a Tibetan Buddhist sect, was not surprised with the pope's comments. "How
could a man like him possibly agree with a religion like Buddhism, which
takes people beyond dualism and produces a healthy relationship with their
bodies and minds?" he asked.]
☛ Nalin de Silva, một thành viên của “Liên Minh Các Hiệp Hội Phật Giáo”
tại Tích Lan, cho rằng: “Những nhận xét lắt léo với ác ý của Giáo
hoàng về Phật Giáo có vẻ như là phản ứng trước sự bành trướng của Phật
Giáo và Hồi Giáo gần dây ở Âu Châu.” De Silva nói: “Ông ta đang
cố gắng chống đỡ đức tin của ông ta. Hồi Giáo và Phật Giáo là hai thách
thức chính đối với Ki Tô Giáo.”
[A member of the Federation of Buddhist Organizations in Sri Lanka, Nalin
de Silva, said the Pope's remarks were malicious and appeared to be a reaction
to the recent spread of Buddhism and Islam in Europe. "He
is trying to defend his faith, " de Silva said, "Islam
and Buddhism are the main challenges to Christianity."]
Chúng ta thấy rằng nhận định của các Linh mục Ken Tanaka, Thomas Hand
và của thiền sư Alan Senauke cùng nói lên một điểm: “Giáo hoàng không
đủ kiến thức về Phật Giáo để có thể bình luận về Phật Giáo nên đã đưa ra
những nhận xét sai lầm nghiêm trọng về Phật Giáo, có thể là vì
ngu dốt hay cố ý” Nhưng nhận định của Tỳ kheo Nalin de Silva và
Lạt ma Ole Nydahl mới thực sự đi vào nguồn gốc của vấn đề: “Tâm cảnh
của Giáo hoàng không thể lãnh hội được sự sâu sắc của Phật Giáo; Giáo hoàng
đã viết một cách lắt léo với ác ý và lý do là để chống đỡ và duy trì niềm
tin của giáo dân.”
Trước một biến cố liên quan đến Phật giáo, tôn giáo của tuyệt đại đa
số người Việt, Giao Điểm đã không thể đứng ngoài, và đã nhập cuộc. Kết
quả là tháng 6, 1995, tác phẩm “Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan-Phao-Lồ
II Nhân Đọc Cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, do Giao Điểm xuất bản,
ra đời như một trái bom bức nổ.
Đối với con chiên thì Giáo hoàng có nói gì hay viết gì thì con chiên
chỉ có việc nghe và tuân theo cùng ca tụng, theo nghĩa “Tòa Thánh có
đánh r… cũng khen thơm” (Nguyễn Văn Trung) chứ không làm gì có chuyện
“đối thoại” với Giáo hoàng. Nhưng trí
thức Việt Nam là con người chứ không phải là con chiên, nên với tinh
thần vô úy, 18 tác giả, 18 bài viết từ Mỹ, Pháp, Úc, Đan Mạch, Việt Nam,
gửi về và những tài liệu văn hóa đó đã đập tan những luận điệu
vu khống, xuyên tạc của Giáo hoàng John Paul II đối với Phật Giáo. Trong
số các tác giả trên có cả sự đóng góp của người Ca-tô, và tác phẩm cũng
đã được gửi đến Tòa Thánh Vatican với ghi nhận “đã nhận được” kèm theo
lời “cám ơn” của Tòa Thánh. Trước phản ứng trên thế giới, đại diện “Tòa
Thánh” đã lên tiếng xin lỗi Phật Giáo.
Cuốn “Đối Thoại” đã
được độc giả hoan nghênh và đánh giá cao cho nên chỉ hai tháng sau khi
ấn bản đầu tiên phát hành vào tháng 6, 1995, đến tháng 8, 1995 đã phải
in lại ấn bản hai, rồi đến năm 2000 lại phải in lại lần nữa để có thế đáp
ứng sự đòi hỏi của độc giả.
Sự kiện đa số độc giả có cảm tình với cuốn "Đối
Thoại.." cũng dễ hiểu, vì tuy không phải là
tiếng nói của bất cứ một tổ chức tôn giáo hay lực lượng dân tộc nào,
nhưng cuốn "Đối Thoại.." đã
phần nào nói lên tâm tư của những người Việt yêu nước, phản ánh một
tinh thần bất khuất truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đây là tiếng
nói trí thức phát huy tinh thần dân tộc, tinh thần vô úy, của một số
người cảm thấy mình có trách nhiệm phải trả lại những sự thực cho lịch
sử, những sự thực đã bị xuyên tạc và bóp mép bởi những chính quyền thực
dân đô hộ, hay chính quyền tôn giáo trị dựa vào thế lực tư bản và ngụy
trang dưới chiêu bài chống Cộng như chính quyền Ngô Đình Diệm... Tiếng
nói này cất lên với tinh thần tôn trọng sự thực, bất kể những sự thực
này liên hệ đến vấn đề tế nhị tôn giáo của một thế lực toàn cầu, vừa
mạnh về chính trị, vừa giàu có về tiền bạc, như Giáo hội Gia-tô La-mã.
Cũng như giới trí thức Tây phương, giới trí thức ngoại đạo Việt Nam biết
rõ, ngày nay giáo quyền Vatican chỉ là con cọp giấy, vì như John Remsburg
đã nhận định: "Bây giờ Giáo hội không giết được nữa vì không
còn quyền lực để mà giết.Thanh gươm (để giết người) và bó củi
(để thiêu sống người) đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Giáo
hội, và bây giờ Giáo hội chỉ còn dùng được hai vũ khí, gây thù hận
và vu khống." (The Church does not kill now
because it does not have the power to kill. The fagot and the sword
have been wrested from her bloody hands, and hatred and slander are the
only weapons left her now.)
Nhưng, với tâm cảnh của một thuộc hạ nô lệ tôn giáo thời Trung
Cổ, ông luật sư Nguyễn văn Chức, một đại trí thức CaTô Việt Nam, cho
rằng "đối thoại với Giáo Hoàng là mang tội bất kính, là phường
vô lại hay vô giáo dục" (Xin đọc bài "Một Khuôn Mặt
Siêu Việt Trong Một Thế Giới Hữu Hạn: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II",
Thế Giới Ngày Nay, số 139, trg. 51). Ông ta không biết rằng, trong
thế giới Tây phương, giới trí thức không chỉ “đối thoại” mà còn đi xa
hơn nữa, như vài sự kiện sau đây mà ông Chức mù mờ không biết đến:
1. Ở Denver, nơi ông Chức đến cúi đầu hôn nhẫn GH John Paul
II thì một số phụ nữ Mỹ đã "đón tiếp" Giáo Hoàng bằng biểu ngữ "Hãy
để những bài tán tụng Mary của Ngài ở ngoài buồng trứng của chúng tôi" (Keep
your rosaries out of our ovaries) để phản đối tín điều cấm dùng thuốc ngừa
thai của Vatican.
2. Một sinh viên đã "lên lớp" Giáo Hoàng John Paul II ngay giữa
công trường Thánh Phêrô về vụ Giáo Hoàng tiếp Cựu Thủ Tướng Ý là Giulio
Andreotti đang bị xử như là một Mafia. Các viên chức của Giáo Hội từ chối
không bình luận về vụ này. ("The Orlando Sentinel", Dec. 14,
1995: 'Student Upbraids Pope, Leaving Vatican Stunned': Vatican City -
After an unprecedented scene in St. Peter's Basilica in which a student "lectured" Pope
John Paul II about a meeting with Italy's former Prime Minister, on trial
for Mafia charges, Catholic Church officials Wednesday refused all comment.)
3. Hàng trăm thanh niên Đức ở Bá Linh đã gào lên những lời như "Hãy
đi xuống Địa Ngục" và "Hãy thiêu sống Giáo Hoàng" vào
mặt Giáo Hoàng và ném sơn vào xe Popemobile của Ngài ("The Orlando
Sentinel", June 24, 1996: Hundreds of young anarchists from Berlin's
lively underground scene screamed "Go to Hell" and "Burn
the Pope" as the Polish pontiff, 76, rode toward the Brandenburg Gate
in his pearl-white popemobile. Two paint bags hit the vehicle.
4. Frank Zindler lên án Giáo hoàng John Paul II là “Đệ Nhất Ác Nhân
Của Thế Kỷ”
5. Richard Dawkins và một số trí thức Anh Quốc đòi bắt Giáo hoàng Benedict
XVI bỏ vào tù.
6. 2 luật sư Đức đệ đơn truy tố Benedict XVI trước Tòa Án Tội Phạm Thế
Giới về 3 tội ác chống nhân loại.
7. Truyền thông thế giới lên án Benedict XVI về tội bao che các linh mục
loạn dâm và ấu dâm.
8. “Hội đồng lãnh đạo các nữ tu” (LCWR), qui tụ 1.500 bề trên của 80% trên
tổng số 57 ngàn nữ tu Ca-tô tại Hoa Kỳ với những tuyên ngôn công khai bày
tỏ bất đồng hoặc thách thức những giáo lý về đức tin của Giáo hội v…v…
Và còn nữa, những hành động tương tự như trên của Giáo dân và giới
trí thức Tây phương nhiều đến độ không sao kể xiết. Nhưng các con chiên
Việt Nam thì vẫn cứ mê muội, một điều “đức thánh cha”, hai điều “đức thánh
cha”, không cần biết đến những diễn biến trong xã hội và trong giáo hội
ra sao. Một vài trí thức Ca-tô, trong tâm cảnh nô lệ tâm linh, bèn lên
tiếng phê bình cuốn Đối Thoại để bênh vực cho “đức thánh cha”.
-- o0o --
Phản ứng trước cuốn Đối Thoại, có ba bài của ba nhà đại trí thức Ca-Tô:
- Giáo sư Nguyễn
Văn Trung với bài "Có ThểCùng Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy
Vọng Không?", đăng trong mục "Điểm Sách", trong
cuốn "TRIẾT 2", xuất bản tại San Jose, Cali., tháng 6 - 1996;
- Giáo sư Đỗ Mạnh Tri với bài "Đọc "Đối
Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phaolô II"", đăng
trên tờ Đất Mẹ, số 66, tháng 12, 1996, trg. 47-51;
- Luật
sư Nguyễn Văn Chức với bài "Một Khuôn Mặt Siêu Việt Trong Một
Thế Giới Hữu Hạn: Đức Giáo Goàng Gioan PhaoLo II", đăng
trong tập san "Thế Giới NGÀY NAY", số
139, trg. 34-50.
- Ngoài ra còn có ông Dương Ngọc Dũng ở trong nước, khi
đó hình như đang học ở Mỹ, cũng viết cuốn "Nhận Định Về Các Trí
Thức Phật Giáo Trong Nhóm Giao Điểm Phê Bình Quyển "Đối Thoại Với
Đức Giáo Hoàng"", Cambridge, 1996, (từ đây về sau được
viết tắt là "Nhận Định..").
Tên tác giả này tôi chưa
từng nghe, nhưng trong một bài chưa được phổ biến thì ông Dũng tự khoe
là một "Ứng
viên Tiến Sĩ" tại đại học Boston, Hoa Kỳ. Tôi có nghe nói ông
là một giáo sư ở bên nhà.
Để phản biện, Giao Điểm xuất bản ngay hai cuốn sách phê bình ông Dương
Ngọc Dũng, Tập I (1997), và ông Đỗ Mạnh Tri, Tập II (1997). Từ đó đến
nay không có một ai khác còn lên tiếng phê bình cuốn “Đối Thoại” nữa.

Điều thú vị là sau đó Nhà Nước đã ra lệnh cho ông Dương Ngọc Dũng hãy
im đi, đừng có viết bậy thêm nữa, như lời ông ta tự thú nhận. Và thú vị
hơn nữa là nhận định về giá trị trí thức của các tác giả trên của Linh
Mục Augustinô Nguyễn Hữu Trọng, quản nhiệm văn phòng Nhà Thờ Đức Chúa Trời
ở TP Hồ Chí Minh, trong một bức thư đề ngày 8.12.1997, nội dung phúc trình
về những tệ nạn trong Giáo hội Công Giáo Việt Nam. Bức thư được gửi đến:
Kính khấu tâu trình Đức Thánh Cha {John Paul II) rất chí thánh.
Kính bái đệ trình Đức Hồng Y (Phạm Đình Tụng) Giáo Chủ Giáo Hội Công Giáo
Việt Nam rất tôn nghiêm
Trong đó có đoạn nói về thực chất giá trị của những tác phẩm phê
bình các tác giả trong cuốn “Đối Thoại..”, nguyên văn như sau:
Trong tác phẩm phê bình nhóm Giao Điểm Phật
Giáo hải ngoại phê bình Đức Giáo Hoàng, giáo sư Dương Ngọc Dũng (DND)
viết rằng: "Nếu
các ngài Giao Điểm tố cáo Giáo Hội Công Giáo có 400 Linh Mục hiếp dâm
con nít [tới nay con số là trên 5000. TCN], lập tức Tòa
Thánh sẽ tìm ra 4000 Linh Mục hết sức thánh thiện." (sic). Ông
DND quả là "ngu si, dốt nát, ấu trĩ, lạc hậu, khoe khoang, lòi cái
dốt ra, nói càn "shut up!" (những chữ của DND).
Bênh Công Giáo kiểu này thật là "ngu xuẩn" (chữ
của DND) ! Tòa Thánh làm cách nào để tìm ra được "4000 Linh
mục hết sức thánh thiện" đây cha nội. Hay là DND muốn chơi xỏ giỡn
mặt Tòa Thánh? Có thể tìm ra được những Linh Mục tốt lành, nhân hậu
nhưng rất khó mà tìm ra được một "Linh mục hết sức thánh thiện" hiểu
theo nghĩa không hề đụng đến nữ giới bao giờ. Tự vỗ ngực là thông
kim bác cổ, sao DND quên mất câu chuyện thành Sôđôma, đốt đuốc không
tìm ra được một người "hết sức thánh thiện" để Chúa tha phạt
cả thành?
DND chơi xỏ như thế mà có những Linh Mục, trí thức Công Giáo
ca tụng DND lên tận mây xanh, có người đã bắt quàng làm họ, rêu rao
là bạn bè lâu năm của vợ chồng DND, như ông H., ông L., mới gặp DND lần
đầu trong một quán cóc nào đó ở Q. 3. Các vị trí thức CG này vớ được
DND như một vị cứu tinh cho Đức Giáo Hoàng. Tác phẩm bênh vực
Đức Giáo Hoàng của DND thuộc loại mì ăn liền, in vi tính trên khổ
giấy A5, dày non 100 trang. DND khoe viết vội trong 3 ngày, không thèm
sửa 1 chữ, chỉ gửi cho thầy Như Hạnh ở Mỹ đọc chơi. Những người tự
vỗ ngực là trí thức Công Giáo, rành chuyện đời chuyện đạo hơn mọi người
CGVN, vớ được tài liệu này của DND như vớ được của quý, bèn suy tôn DND
quá xá, tìm cách làm quen, chiêu đãi, kết thân, định mời DND tổ chức
hội thảo này nọ, nhưng đã bị Cô Ngọc vợ của DND không tán thành.
Chống Giao Điểm và ca tụng Giáo hoàng là mắc mưu Phật Giáo hải
ngoại rồi đó mấy cha nội! Bởi vì tự dưng các tác phẩm của họ được các
nhà đại trí thức Công Giáo quảng cáo bán chạy như tôm tươi. Thậm chí
có các dòng, các Linh Mục bỏ tiền ra in hàng ngàn cuốn "Đối Thoại
với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II" của nhóm Giao Điểm và tác phẩm
mì ăn liền của DND phê bình cuốn "Đối Thoại" của Giao Điểm.
Nhóm Tin Nhà Paris cũng được ăn theo với bài "Ngón Tay Trỏ" [Tên
cuốn sách là “Ngón Tay Và Mặt Trăng”. TCN] của Đỗ Mạnh Tri
(ĐMT) bênh vực Đức Giáo Hoàng. Bài này dài lê thê, vừa công nhận
vừa bổ sung thêm những điều Giao Điểm công kích GHCG, vừa biện hộ cho
GH như trước cộng đồng Vatican II! Nhóm Giao Điểm không đả đụng
gì tới bài của ĐMT. Họ lướt qua bài của NVT (Nguyễn Văn Trung), NVC
(Nguyễn Văn Chức) và đánh mạnh vào tác phẩm của DND. Nhưng phê phán
DND thì ít, được dịp chửi thêm Giáo Hội Công Giáo thì nhiều. Kẻ tung
người hứng quả thật là tuyệt chiêu! Chỉ có mấy vị trí thức Công Giáo
tháp ngà là mắc mưu một cách thảm hại, vô tình tuyên truyền và suy tôn
những người chửi cha mình.
Thật ra thì Giao Điểm chẳng có mưu mô gì, tất cả chỉ là những kết quả
nghiên cứu cặn kẽ vấn đề và viết ra những sự thực bất khả phủ bác về Giáo
hoàng và Gia-tô La-mã giáo. Và dù những người muốn biện hộ cho Giáo hoàng
có cố tình hạ thấp các tác giả trong cuốn Đối Thoại bằng cách đem những
từ họ dùng nhưng có thể phản ánh thực chất của chính họ như dốt nát, ngu
xuẩn v…v… vu vơ chụp lên đầu các tác giả Giao Điểm thì họ cũng không thể
chối cãi được là những gì viết trong cuốn Đối Thoại về Giáo hoàng và Gia-tô
La-mã giáo đều là sự thật, không ngoài sự thật, và chỉ là sự thật.
Nhận định tổng quát về mấy ông trí thức Ca-tô trên thì, tôi không biết
kiến thức ở ngoài đời của họ ở mức nào, nhưng tôi phải nói rằng sự hiểu
biết của họ về Gia-tô La-mã giáo thì rất nghèo nàn, phản ánh sự mê sảng
tâm linh của các tín đồ Ca-tô còn sót lại ở trong những ốc đảo chậm tiến,
mê muội, trong khi giới trí thức Tây phương đã tiến xa từ hai thế kỷ nay.
Còn kiến thức về Phật giáo của họ thì không thể gọi là kiến thức.
Vì gần đây có người muốn hâm nóng lại bài của Dương Ngọc Dũng, cho
nên trước hết, trong Phần I, tôi sẽ bình luận về bài của ông Dương Ngọc
Dũng, rồi sau đó sẽ lướt qua vài điểm của các ông Nguyễn Văn Chức, Đỗ Mạnh
Tri và Nguyễn Văn Trung trong Phần II. Những bài phê bình chi tiết về
ông Dương Ngọc Dũng quý đọc giả có thể tìm đọc trong cuốn sách Giao Điểm
xuất bản ở trên. Ở đây, để cho bài khỏi quá dài, tôi chỉ phê bình một
số điểm trong bài của ông Dương Ngọc DŨng.
PHẦN I
Về Ông Dương Ngọc Dũng
Để cho vấn đề được rõ ràng, trước hết tôi xin phép quý độc giả cho
tôi được trình bày đại cương bố cục của bài "Bước
Qua Ngưỡng Cửa Vô Minh" của tôi, bài
này chiếm 45 trang trong cuốn "Đối Thoại...":
1 - Mở đầu. Nhận xét của một số học giả, tu sĩ về
những nhận định sai lầm của John Paul II về Phật Giáo. [Xin đọc vài nhận
xét ở trên]
2 - Nội dung của bài: Tìm hiểu những lý do chính đã
khiến cho John Paul II viết cuốn "Bước Qua
Ngưỡng Cửa Hi Vọng".
LÝ DO THỨ NHẤT: Đà suy sụp
của GiaTô LaMã Giáo và quyền lực của Giáo Hoàng cùng Tòa Thánh Vatican
trên thế giới. [Đây là một sự kiện bất khả phủ bác].
Lý do này gồm 4 nguyên nhân chính:
- Nguyên Nhân Thứ Nhất: Nhận
định của Malachi Martin, nguyên Giáo Sư Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh tại
Vatican:
"..Giáo Hoàng biết rất rõ rằng, trong thế kỷ tới, GiaTô Giáo
sẽ chỉ còn tồn tại ở các nước trong thế giới thứ ba. Từ bao giờ, GiaTô
Giáo chỉ nẩy nở trong đám dân chúng nghèo khổ và ít học. Tây phương phức
tạp không còn tiếp nhận sự hẹp hòi của GiaTô Giáo nữa. Giáo Hoàng biết
rõ như vậy."
- Nguyên Nhân Thứ Nhì: Phong
trào tranh đấu của các Giáo Hội GiaTô địa phương để được độc lập, không
chịu quyền thống trị tư tưởng cũng như vật chất của Vatican. Phong Trào "Thần
Học Giải Phóng" trên thế giới: một tuyên ngôn khẳng định sự độc lập
về văn hóa và trí thức.
- Nguyên Nhân Thứ Ba: Càng
ngày càng có nhiều linh mục và giáo dân rời bỏ Giáo Hội GiaTô LaMã.
- Nguyên Nhân Thứ Tư: Hình
ảnh của Giáo Hội GiaTô LaMã bị giảm sút nhiều bởi những xì-căng-đan vang
dội thế giới. [Giáo hoàng vô đạo đức, Linh mục loạn dâm và ấu dâm v…v…]
- LÝ DO THỨ HAI: Sự bành trướng
của Phật Giáo và Hồi Giáo ở Âu Châu và Mỹ Châu.
3. Bình luận về vài điểm trong cuốn BQNCHV: Thuyết tạo
dựng, Tội Tổ Tông, Giê Su là con duy nhất của Thượng Đế. [Những luận điệu
nay đã không còn giá trị]
4 Kết Luận
Với bố cục như trên, tôi đã khai triển từng chủ đề, và để xác minh
từng điểm một trong các chủ đề, tôi dã trích dẫn, dịch thuật nhiều tài
liệu, ngắn có, dài có, với tất cả hơn 50 tài liệu mà phần lớn tác giả của
những tài liệu này là những người trong hàng giáo phẩm GiaTô Giáo như Hồng
Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, Linh Mục, nhà Thần Học, Giáo sư đại học chuyên
về tôn giáo v...v... Nhưng đọc bài của ông Dương Ngọc Dũng chúng ta sẽ
thấy ông ta lạc đề như thế nào và mục đích ông ta viết bài đó để làm gì.
Bây giờ chúng ta hãy đi vào cuốn "Nhận Định Về Các Trí Thức
Phật Giáo Trong Nhóm Giao Điểm Phê Bình Quyển "Đối Thoại Với Đức
Giáo Hoàng"", Cambridge, 1996, (từ đây
về sau được viết tắt là "Nhận Định..")
của Dương Ngọc Dũng.
Trước hết là một nhận xét tổng quát:
Trong cuốn "Nhận Định..",
tác giả Dương Ngọc Dũng tỏ ra là mình có một vốn liếng hiểu biết sách
vở về Phật Giáo, nhưng đọc kỹ chúng ta thấy kiến thức của tác giả về
Phật Giáo rất hời hợt. Điều đáng phàn nàn là tác giả đã trình bày sở học
của mình qua một văn phong không xứng đáng với một người có học. Đọc văn
phong của Dương Ngọc Dũng chúng ta có cảm tưởng là ông ta mới ở trong rừng
ra. Căn bản lý luận của tác giả có thể tóm gọn trong một điều: tác giả
đặt vấn đề thẩm quyền, không ở trong các luận cứ, không ở trong các tài
liệu khả tín dẫn chứng, không ở trong nội dung các bài trong cuốn "Đối
Thoại Với Giáo Hoàng Gioan PhaoLô II Nhân Đọc Cuốn "Bước Qua Ngưỡng
Cửa Hi Vọng"" (từ đây về sau được viết
tắt là "Đối Thoại..."), mà
là ở bằng cấp chuyên môn của những người viết bài. Tác giả có vẻ như tự
khoe ngầm là mình đã tốt nghiệp đại học, đã thông thạo tiếng Pali , Sanskrit,
Hán Cổ v..v.. và như vậy tự cho mình cái thẩm quyền hiểu về Phật Giáo và
chê bai tất cả các tác giả viết trong cuốn "Đối Thoại...", trong
khi nội dung cuốn “Đối Thoại..” không phải là viết về Phật Giáo.. Để hỗ
trợ cho những luận cứ của mình, tác giả đã phải dùng đến tiểu xảo trích
dẫn ngoài ngữ cảnh hay ngoài toàn bộ vấn đề (out of context), nhặt trong
bài này một đoạn, trong bài kia một đoạn, thường là độc lập với nhau, góp
lại thành một luận điểm để dựa vào đó mà đả kích các tác giả viết trong
cuốn "Đối Thoại..", và đặc
biệt là tác giả đã cố ý thay đổi cả nguyên văn lời trích dẫn, dựa vào đó
dựng lên một số hình nộm người rơm để rồi quật những hình nộm này xuống.
Tất cả những nhận xét đại cương này sẽ được chứng minh trong bài phân tích
sau đây.
Đọc những luận điểm của tác giả tôi thấy ở đây trường hợp của một người
có một cái Ngã rất lớn, tự cao tự đại với cái sở học của mình mà không
biết rằng đó chỉ là một sở học còn thiếu sót rất nhiều, và nhất là chưa
tiêu hóa được cái học khoa cử, sách vở. "Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng
Tổng", đó là cái bệnh chung của những người không có thực học, chưa
tiêu hóa được cái học sách vở. Vì chưa tiêu hóa được cái học sách vở cho
nên cái sở học này tích tụ ở trong người, nhất là ở trong đầu, và mỗi khi
có dịp thoát ra thì nó thoát ra qua những từ rất nặng mùi như "dốt
nát", "bẩn thỉu", "thối tha" v... v... mà chúng
ta thấy tác giả dùng đầy rẫy trên các trang sách để phê bình người khác,
điều mà một người trí thức biết tự trọng không bao giờ làm. Với một văn
phong như vậy, không hiểu các đồng nghiệp của ông DND ở bên nhà đánh giá
ông ra sao, chứ ở hải ngoại tôi không nghĩ rằng độc giả sẽ đánh giá cao
ông DND. Tác giả đã tỏ ra là người có học, nhưng còn vấn đề có hạnh thì
cần phải xét lại. Người Việt Nam thường phân biệt giữa có học và có hạnh,
và lẽ dĩ nhiên "hữu tài nhưng vô hạnh" không phải là một mẫu
mực được tôn trọng ở Việt Nam.
Ông Dương Ngọc Dũng đã để ra 12 trang đầu để bàn về cái gọi là "Học
Thuật Phật Giáo" và những cái mà ông cho là "Những Sai Lầm
Tổng Quát Trong Cuốn "Đối Thoại.."" và dùng 88 trang còn
lại để phê bình 8 tác giả trong số 18 người viết trong cuốn "Đối
Thoại..". Trong số những tác giả được ông "chiếu cố" có
tôi. Vì không có tư cách trả lời thay cho các tác giả khác cho nên tôi
xin tự hạn trong sự phân tích và nhận định một số điểm trong phần tổng
quát ở đầu cuốn "Nhận Định" và
trong mục ông dành cho tôi.
Đặc biệt là trong phần dành cho tôi, ông Dương Ngọc Dũng đã viết
rất lạc đề với đầu đề bài "Nhận Định Về Các Trí Thức Phật
Giáo Trong Nhóm Giao Điểm Phê Bình Quyển "Đối Thoại Với Đức Giáo
Hoàng"" của ông ta. Ông ta không phê bình bài "Bước
Qua Ngưỡng Cửa Vô Minh" tôi viết trong cuốn "Đối
Thoại.." mà lại lôi hai bài tôi viết đã được
đăng trên tạp chí Giao Điểm và vài tạp chí PG khác như "Hoa Sen", "Phật
Giáo Hải Ngoại": Bài "Ý Nghĩa Và Vai Trò
Trí Thức Trong Phật Giáo" và bài "Quan
Niệm Giải Thoát Trong Phật Giáo Và Gia Tô Giáo",
ra để phê bình. Nội dung bài phê bình này phần lớn là để mạ lỵ,
mạt sát, hạ thấp cá nhân bằng những danh từ thiếu văn hóa như tôi đã
nêu ra ở trên, với một văn phong hằn học, gay gắt, mà điểm chủ yếu chẳng
qua chỉ là để khoe cái sở học học được vài “cua” về tiếng Pali và Sanskrit
ở một đại học Mỹ, và để bênh vực học giả Như Hạnh, những vấn đề chẳng
liên quan gì đến bài tôi viết trong cuốn “Đối Thoại..”.
Sau đây tôi sẽ đi vào một số điểm trong bài viết của ông DND mà tôi
thấy cần phải phân tích để cho vấn đề được sáng tỏ.
Trước hết, trong mục bàn về học thuật Phật Giáo ông Dương Ngọc Dũng (DND)
phê bình các tác giả viết trong cuốn "Đối Thoại..." như
sau:
"Những tác giả này chỉ trích
sự hiểu biết về Phật Giáo của Đức Giáo Hoàng và nhận định, phê phán toàn
bộ triết học tư tưởng Thiên Chúa Giáo một cách ngây thơ nông cạn...Ngay
cái tựa đề "Đối Thoại" cũng đã sai lầm vì các trí thức Phật
Giáo trong nhóm Giao Điểm (ngoại trừ một vài tác giả thực sự có ý định
đối thoại) chỉ làm một việc là công kích Thiên Chúa Giáo một cách phiến
diện, nông nổi, chứ không hề có ý muốn đối thoại trong tinh thần bao
dung tôn giáo...
Thật ra thì chính tôi là người đã tự
ý đổi lại chủ đề "Đối Thoại" của tuyển tập thành "Nhận Định..." khi
viết bài "Bước Qua Ngưỡng Cửa Vô Minh" đăng
trong tuyển tập. Tôi đã đưa ra 4 lý do không thể có cuộc đối thoại với
GH John Paul II. Nhưng khi cuốn "Đối Thoại..." ra
đời, đọc lời nói đầu của Giao Điểm tôi đã hiểu dụng ý của Giao Điểm khi
dùng từ "Đối Thoại" và đây chính là một điểm son của Giao Điểm.
Tôi nghĩ rằng không phải Giao Điểm không biết đến cái nghĩa thông thường
của từ "Đối Thoại" trong tinh thần bao dung tôn giáo, nhưng
Giao Điểm cũng thừa biết Giáo hội CaTô Rô-ma chưa bao giờ thực sự đi vào
con đường Đối Thoại một cách thành thực (Gần đây John Paul II đã gọi những
nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ là những "con chó sói đói mồi",
và trong cuốn BQNCHV đã lên án Đức Dalai Lama là mang Phật Giáo vào "khuấy
động" các xã hội Tây phương), cho nên Giao Điểm đã dùng cái nghĩa
rộng và tổng quát hơn của từ "Đối Thoại": "Một sự trao
đổi những ý kiến và quan niệm" (An exchange of ideas and opinions:
The American Heritage Dictionary) để đưa ra một khẳng định về một thái
độ, một lập trường.Lập trường này toát ra một tinh thần dân tộc, đó
là tinh thần vô úy, bình đẳng của trí tuệ Phật Giáo.
Chẳng cần phải nói, ai cũng biết là theo cấu trúc quyền lực của GiaTô
LaMã Giáo, thì khi Giáo Hoàng, thường được các tín đồ gọi là Đức Thánh
Cha, phán điều gì, các tín đồ chỉ có việc cúi đầu tuân phục, không có chuyện
bàn cãi, không có chuyện đối thoại. Sự tuân phục này bắt nguồn từ một
tâm cảnh sợ hãi, bất an, thiếu tự tin, do đó tự nguyện đặt sự suy luận
trí thức của chính bản thân mình vào trong tay một tổ chức tôn giáo mà
thực chất ngả nhiều về chính trị, kinh tế, với những thủ đoạn xảo quyệt
nhất hành tinh: Giáo hội GiaTô LaMã, với hi vọng giáo hội sẽ phát cho mình
một vé lên Thiên Đường. Phật Giáo chủ trương giải phóng toàn diện con
người với tinh thần vô úy, vận dụng trí tuệ tối đa để tự mình đi đến chân
lý. Cho nên, dù biết thế lực của GiaTô LaMã Giáo rất rộng lớn, Giao Điểm,
với tinh thần vô úy của Phật Giáo, đã đứng trên một vị thế bình đẳng để
nói lên tiếng nói của mình. Hơn nữa, trong lịch sử cận đại Việt Nam, GiaTô
LaMã Giáo mà số tín đồ chỉ vào khoảng từ 5 tới 7 phần trăm dân số Việt
Nam, đã dựa vào thế lực thực dân, thế lực của Tòa Thánh liên kết với thế
lực tư bản, để leo lên địa vị độc quyền tôn giáo. Phật Giáo, tôn giáo
của dân tộc, dưới sự áp bức của Thực dân và tay sai GiaTô, chỉ được coi
như một hiệp hội. Do đó, quyền lực của GiaTô LaMã Giáo ở Việt Nam, nấp
bóng thực dân và tư bản, đã khiến cho một số người dân e ngại trong thời
kỳ nước nhà bị Pháp đô hộ và dưới chính thể độc tài với chủ trương diệt
mọi tôn giáo khác để mở mang nước Chúa ở miền Nam Việt Nam của Ngô Đình
Diệm. Cho nên, Giao Điểm đưa ra từ "Đối Thoại" để phá vỡ những
e ngại còn sót lại trong dân gian Việt Nam đối với quyền lực của GiaTô
LaMã Giáo, đồng thời khẳng định một chối bỏ của tuyệt đại đa số người dân
Việt Nam, đáp thẳng vào câu "Điều mặc khải này
dứt khoát, con người chỉ còn có thể hoặc chấp nhận, hoặc chối bỏ" của
John Paul II trong cuốn BQNCHV. Tôi hiểu dụng ý của Giao Điểm đại khái
là như vậy, hi vọng cái hiểu của tôi, tuy thiếu sót, nhưng không sai với
sự thực là bao.
Thứ đến, nếu tôi không lầm thì các tác giả viết trong cuốn "Đối
Thoại.." không hề bàn luận đến "toàn
bộ triết học tư tưởng Thiên Chúa Giáo" như ông
DND đã bịa đặt ra như ở trên, trừ một tác giả có nhắc qua đến "Năm
luận điểm" của Thomas Aquinas (thật ra Thomas Aquinas chỉ xào xáo
lại tư tưởng của Aristotle và ngày nay nhiều nhà thần học GiaTô cũng đã
công nhận năm luận điểm của Aquinas không hợp lý (irrational) đối với những
con người văn minh tiến bộ ngày nay). Như trên đã nói, không có vấn đề
trách nhiệm tập thể qua nội dung các bài trong cuốn "Đối
Thoại.." , cho nên viết "các trí thức trong
nhóm Giao Điểm thế này, thế nọ", dựa trên một chi tiết nhỏ trong một
bài trong cuốn "Đối Thoại.." là
viết càn, là xuyên tạc, với ý định dựng lên một hình nộm để có cớ quật
nó xuống . Phần lớn nội dung các bài viết độc lập trong cuốn "Đối
Thoại..." là để phản bác những nhận định sai lầm
của John Paul II về Đức Phật và Phật Giáo bằng những luận cứ thông thường
và những trích dẫn tài liệu chứ không bàn đến "toàn bộ triết lý tư
tưởng Thiên Chúa Giáo". Chưa kể là Thiên Chúa Giáo nguyên thủy rất
coi nhẹ triết lý mà đặt nặng vào thần học, vì triết lý dùng đến lý luận
trong khi thần học dựa trên sự mặc khải và đức tin. Thật vậy, Joseph L.
Daleiden, một học giả GiaTô LaMã, đã viết trong cuốn "The Final
Superstition", trg. 154:
"Không bao lâu sau khi đốt thư viện tại Alexandria, một đòn
thứ hai giáng xuống sự tự do trí thức khi Giáo hội (GiaTô LaMã) dẹp mọi
thảo luận tự do về triết lý" (Not long after the burning of
the library at Alexandria the second blow to intellectual freedom fell
when the Church silenced the free discussion of philosophy).
Vậy nhắc đến triết lý Thiên Chúa Giáo làm gì? Giáo hội có muốn các
tín đồ lý luận bao giờ đâu? Cho tới bây giờ Tòa Thánh vẫn còn khóa miệng
các nhà thần học có quan niệm không phù hợp với quan niệm thời Trung Cổ
của toà Thánh.
Sau cùng, nếu cho rằng những bài khảo luận trong cuốn "Đối
Thoại.." với đầy đủ tài liệu dẫn chứng, mà phần lớn
những tài liệu này lại do chính những chức sắc trong GiaTô LaMã Giáo trong
đó có cả Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, Linh Mục, nhà Thần Học GiaTô,
Giáo sư đại học chuyên về tôn giáo v...v.. mà tôi chắc bất cứ người nào
cũng có trình độ chuyên môn vượt xa ông DND, để nói lên một số sự thực
không ai có thể phủ nhận về GiaTô LaMã Giáo trên hoàn cầu, là "công
kích Thiên Chúa Giáo một cách phiến diện, nông nổi" thì
đó là quyền của ông DND, vì với trình độ hiểu biết của ông ta thì ông ta
chỉ có thể hiểu như vậy, hoặc là cố ý hiểu như vậy. Nhưng khi ông viết
vu vơ như vậy mà không chứng minh cho độc giả thấy những "công kích" này
đúng hay sai, và nếu sai thì sai ở chỗ nào, phiến diện và nông nổi ở chỗ
nào, thì người đọc có cảm tưởng đó không phải là một lời phê bình trí thức,
mà chỉ là những lời vu vơ phát xuất từ những cảm tính riêng, và mục đích
chỉ là hạ thấp, mạt sát các tác giả viết trong cuốn Đối Thoại. Điều này
thật là rõ ràng, ông dựng lên chuyện các tác giả Giao Điểm phê phán
toàn bộ triết học tư tưởng Thiên Chúa Giáo rồi dựa trên sự hiểu biết
nông cạn của ông về triết học tư tưởng Thiên Chúa giáo mà tôi tin rằng
có chăng ông chỉ biết một cách hời hợt, để chỉ trích các tác giả Giao Điểm.. Ông
thử nói lên cho chúng tôi nghe toàn bộ triết học tư tưởng Thiên
Chúa Giáo là những gì, của bao nhiêu tác giả, với những tác
phẩm nào, và nội dung ra sao. Không nói được có phải không, ông “ứng
viên tiến sĩ”?Ông tưởng những lời viết huênh hoang và vu vơ như vậy
là có giá trị trí thức lắm hay sao?
Ông dựa trên những giả định sai lầm để rồi hạ một câu:
"Như vậy làm sao có thể gọi là đối
thoại tôn giáo trong khi tất cả các trí thức Phật Giáo này đều tự cho
là "hiểu" đạo Phật là đạo hiền hòa, từ bi, không sân si, tranh
chấp với ai. Vậy thì tức giận về sự hiểu lầm của một người thuộc
về một tôn giáo khác thì có đúng với tinh thần đạo Phật hay không?"
Ông Dương Ngọc Dũng đã thừa nhận là
Giáo hoàng hiểu lầm, hay cố ý hiểu lầm, về Đức Phật và Phật Giáo. Nếu ông
DND hiểu cái hiền hòa, từ bi, không sân si, không tranh chấp của đạo Phật
là cứ giơ má cho người ta tát rồi xoa mặt cám ơn thì quả thật là ông không
hiểu gì về đạo Phật, chỉ biết đạo Phật qua sách vở, và ngay cả cái biết
sách vở cũng chưa tiêu hóa được. Thời còn tại thế chính Đức Phật cũng
đã nhiều lần tranh luận với ngoại đạo để dẫn họ ra khỏi bức màn vô minh.
Hành động này phát xuất từ lòng từ bi, không phải từ lòng tức giận.
Trong cuốn "Đối Thoại..", Giao Điểm nói rõ trong lời nói
đầu: "..mục đích của những bài viết vẫn là làm sáng tỏ những ngộ
nhận, làm triệt tiêu những xuyên tạc về Đức Phật và đạo Phật";
Đặng Nguyên Phả viết, trg. 46: "Chiều hướng bài viết của tôi là
để giải thích những nhận xét khiếm khuyết mà Giáo Hoàng nhìn vào Đức Phật
và Phật Pháp, chứ không phải để tranh luận về giáo thuyết ai đúng ai sai.";
và Trần Chung Ngọc khẳng định: "Phật Pháp vốn không tranh cãi
với các thế gian Pháp". Như vậy mà ông DND vẫn cho là mục đích
cuốn "Đối Thoại..."là để tranh chấp. Có cái
gì để tranh chấp ở đây trong khi bản chất Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo
hoàn toàn khác nhau từ giáo lý đến các phương pháp hành trì. Làm sao
mà một tôn giáo của trí tuệ như Phật Giáo lại đi tranh chấp với một tôn
giáo mê tín như Gia-tô La-mã Giáo? Hơn nữa, có vẻ như ông DND mang
cái tâm của chính mình đặt vào các tác giả viết trong cuốn "Đối Thoại.." để
cho rằng các tác giả trên viết bài là vì tức giận về sự hiểu lầm của một
người thuộc tôn giáo khác. Ông không thể nhìn thấy đây là một cuộc thảo
luận trí thức nghiêm chỉnh với mục đích phản bác những nhận định sai lầm
của John Paul II về Đức Phật và Phật Giáo. Một trong năm giới căn bản
của Phật tử là không được nói dối mà còn có bổn phận phải nói lên sự thực
với một tâm thiện, dù hành động này đôi khi có thể mang phiền lụy đến chính
bản thân. Cho nên những lời lên án sai lạc ở trên của ông Dương Ngọc Dũng
là bắt nguồn từ một cái nhìn phiến diện về Phật Giáo, và chỉ để xuyên tạc
cái động cơ thúc đẩy những tác giả tham gia viết cho tuyển tập "Đối
Thoại.." Động cơ này là lòng mong muốn, giải hoặc,
phá đổ những xuyên tạc về Đức Phật và Phật Giáo, chứ không bắt nguồn từ
lòng tức giận. Điều này thể hiện trong câu: "Giáo Hoàng đáng
thương hơn là đáng trách" của một tác giả trong cuốn "Đối
Thoại.."

Tiếp theo, ông DND đóng vai Giáo Hoàng đưa ra một câu hỏi làm cho người
đọc có đôi chút học thức phải lắc đầu ngao ngán, câu này phản ánh trình
độ trí thức của ông, bất kể bằng cấp của ông như thế nào. Ông cãi ẩu để
bênh vực cho John Paul II nhưng thực ra ông lại kéo “đức thánh cha” xuống
bùn đen:
"Tại sao một người Thiên Chúa
Giáo lại có bổn phận phải nghiên cứu tìm hiểu đạo Phật? Tại sao các
trí thức này không tự hỏi cái mà mình hiểu về Thiên Chúa Giáo như vậy
có đúng và công bằng hay không? Tại sao tôi lại phải tìm hiểu triết
học Phật Giáo trong khi chuyên môn của tôi là thần học Thiên Chúa Giáo?
Nếu Giáo Hoàng trả lời như thế, thì các tác giả trường phái Giao Điểm
nói sao?"
Tiếc rằng ông DND không phải là Giáo Hoàng và Giáo Hoàng không có cùng
một trình độ như ông DND. Cho nên đại diện của Giáo Hoàng đã xin lỗi
Phật Giáo chứ không có kiểu cãi chầy cãi cối như trên. Không ai bắt
Giáo Hoàng phải nghiên cứu tìm hiểu đạo Phật. Nhưng với cương vị của một
vị chủ chăn của một tôn giáo lớn thì Giáo Hoàng không có quyền nói sai
về Đức Phật và Phật Giáo, Giáo chủ và tôn giáo của người khác, trừ khi
ông ta cố ý làm như vậy. Nếu chuyên môn của Giáo Hoàng là thần học Thiên
Chúa Giáo thì Giáo Hoàng không nên nói gì về triết học Phật Giáo trước
khi làm bài tập, nghĩa là tìm hiểu cặn kẽ về triết lý của tôn giáo này.
Vả chăng, chúng ta đừng quên Giáo Hoàng có cả một bộ tham mưu gồm toàn
những đầu óc thượng thặng về mọi lãnh vực để cố vấn cho ngài. Ông DND
có thể viết ẩu nhưng Giáo Hoàng thì không thể như vậy trừ phi ngài cố ý. Những
gì mà các tác giả trong "Đối Thoại.."hiểu
về Gia-tô La-mã Giáo không có gì là thần bí, cao siêu cả, không thuộc
về lãnh vực thần học hay triết lý tôn giáo, mà chỉ là những điều thông
thường hiển nhiên qua một chút suy luận và hiểu biết thông thường.
Một mặt khác, những tác giả này chỉ là những con người bình thường, không
có địa vị trong xã hội, không phải là tiếng nói của Phật Giáo, không đại
diện cho ai, cho nên không thể so bì với Giáo Hoàng.
Ông DND đã dựa trên những giả định sai lầm cộng với một kiến thức đáng
phàn nàn như trên, lên án sai lầm các tác giả trong cuốn "Đối
Thoại.." để rồi đưa đến điểm chính như sau, điểm
mà ông có vẻ tự đắc, cho đó là một luận cứ vững chắc, vì được nhắc đi nhắc
lại nhiều lần trong cuốn sách, như một chiếc đĩa hát cổ chạy kim đã cùn,
với một vẻ tự đắc :
"Nói tóm lại, trong tất cả
các tác giả tự nhận là trí thức Phật Giáo thuộc nhóm Giao Điểm, mở cả
trường dạy Phật Học Lý Trần, kể cả giáo sư Minh Chi thuộc trường Cao
Cấp Phật Học trong nước, không một ai có bằng cấp hay chứng minh thư
cho thấy được đào tạo trong ngành Phật Học. Không một ai trong nhóm
toàn "PhD" này biết một ngôn ngữ Phật Giáo nào (Sanskrit,
Pali, Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu, Hán Cổ, Triều Tiên hay Nhật Bản) hay
một ngôn ngữ thần học Thiên Chúa Giáo (Hy Lạp, La Tinh, Do Thái cổ, Đức...)
nào, vậy mà đủ can đảm viết về cả hai tôn giáo có truyền thống lớn vào
bậc nhất trong lịch sử nhân loại. Đòi đối chiếu, đối thoại mà không
hề học qua tôn giáo học tỷ giảo (comparative religion), hiện tượng học
tôn giáo (phenomenology of religion), xã hội học tôn giáo (sociology
of religion) và thông thích luận (hermeneutics), nói chung là mù tịt
về phương pháp luận tôn giáo học, thì sự đối chiếu và so sánh sẽ diễn
ra trên cơ sở nào?"
Tôi nhìn thấy ở đây một con "ếch ngồi đáy giếng". Tôi cũng
nhìn thấy ở đây một tâm cảnh thuộc loại tự mãn với cái sở học và bằng cấp
của mình, cho rằng khoe lên cái vốn liếng vài ba "cua" học ở
đại học, biết vài ba thứ tiếng cổ mà nhiều khi chỉ đủ để tra tự điển, đã
cho mình là nhất, là bậc vô thượng thiên tài, không ai hơn, không ai bằng,
chê tất cả mọi người khác là ngu xuẩn, dốt nát, và dành cho mình độc quyền
khảo luận về tôn giáo. Tôi nhìn thấy ở đây một sự hiểu biết rất nông cạn
về Phật Giáo, nhất là về tinh thần Phật Giáo. Tôi cũng nhìn thấy cách
đặt vấn đề, lý luận trong đoạn trên phản ánh một cái ngã vô cùng lớn mà
gốc rễ là từ một kiến thức nghèo nàn, huênh hoang, tự đắc, phét lác, và
tôi rất nghi ngờ về cái giá trị thực sự của cái sở học mà ông DND đã phô
trương một cách huênh hoang, khó nghe này. Trong một phần sau tôi sẽ chứng
minh mức hiểu biết rất nghèo nàn của ông Dương Ngọc Dũng về Phật Giáo.
Nhưng trước hết tôi xin luận tổng quát về đoạn văn trên:
Cái điều kiện tiên quyết mà ông DND đặt ra là phải biết một vài thứ
tiếng như Pali, Sanskrit, Triều Tiên, Tây Tạng, Nhật Bản v...v... mới đủ
thẩm quyền viết về Phật Giáo, cũng như phải biết tiếng Hi Lạp, La Tinh,
Do Thái cổ v..v.. mới có thẩm quyền viết về Thiên Chúa Giáo.Nhưng cái
điều kiện tiên quyết mà ông DND đặt ở trên có phải là một chân lý khoa
học không, hay đó chỉ là sự hoang tưởng của một đầu óc bất bình thường
với một tầm nhìn không quá cái mũi của mình.Cái sai lầm căn bản của
ông DND trong luận cứ này là cho rằng học Phật cũng giống như học các môn
học khác như nhân văn khoa học, và thẩm quyền về Phật Giáo là phải đi học
vài cua ở đại học hay có bằng cấp đại học và biết vài ba cổ ngữ Phật Giáo.
Thực tình tôi không muốn tranh luận với một đầu óc như vậy, nhưng vì
lợi ích chung, và để cho những người có đầu óc tương tự như ông DND đừng
có tiếp tục khoe khoang bằng cấp và sở học một cách thiếu suy nghĩ, thiếu
hiểu biết, tôi xin trích dẫn đoạn sau đây của một học giả tu sĩ Phật Giáo
người Anh rất nổi tiếng trên thế giới: Tỳ Kheo Sangharakshita. Sangharakshita
là một Tỳ Kheo người Anh, đã tu tập mấy chục năm dưới sự hướng dẫn của
một số danh Tăng, Lạt Ma ở bên Ấn Độ cũng như ở Tây Tạng về các dòng tu
Tiểu Thừa, Đại Thừa, và Kim Cang Thừa. Ngài thông thạo tiếng Pali, Sanskrit,
Tây Tạng v..v.., vừa tu tập vừa nghiên cứu Kinh điển Phật Giáo và đã giữ
một vai trò quan trọng trong sự truyền bá đạo Phật ra khắp thế giới hiện
đại trong hơn 30 năm qua. Ngài cũng đang hoạt động trong phong trào Phật
Giáo thế giới với nhiều trung tâm Phật Giáo trong 13 quốc gia, là tác giả
của hơn 30 tác phẩm trong đó có những cuốn nổi tiếng hoàn cầu như "A
Survey of Buddhism", "The Three Jewels", "The
Essence of Zen", "The Thousand-Petallled Lotus", "The
Eternal Legacy", "The Ten Pillars of Buddhism",
và cuốn mới nhất "A Guide to the Buddhist Path". Đoạn
sau đây là ở trong cuốn "The Eternal Legacy", một tổng
luận về văn học Phật Giáo, trg. 3-4:
"Những vị trong Thượng Tọa Bộ (Phật Giáo Nguyên Thủy) hiện
đại ưa phát biểu như sau: "Đức Phật dạy Giáo Lý bằng tiếng Pali" hay "Pali
là ngôn ngữ của Đức Phật"... Trước hết, Pali không phải là tên
của một ngôn ngữ. Pali có nghĩa "một dòng, một hàng (chữ)" và
như vậy, suy rộng ra thành "kinh điển". Những người Tây phương
khảo cứu về văn học Phật Giáo Nguyên Thủy, thấy trong những lời bàn luận
những từ ngữ như "palinayena", nghĩa là "theo văn bản
kinh điển", coi từ này như là tên của ngôn ngữ của kinh điển và,
qua những văn phẩm của họ, đã làm cho người ta chấp nhận sự hiểu lầm...
Điều mà Phật Giáo Nguyên Thủy nhất định cho rằng Đức Phật nói
tiếng Pali, ngôn ngữ của Ba Tạng Kinh Luật Luận, là do sự hiểu lầm về
giáo thuyết hơn là sự thiếu hiểu biết về những sự kiện lịch sử. Sự hiểu
lầm này nằm trong niềm tin là Giáo Lý của Đức Phật không thể tách rời
dạng thức "quan niệm dính liền với lời nói"...Do đó mới có
những lời tuyên bố như "Không thể hiểu được Phật Giáo một cách đúng
đắn mà không học tiếng Pali", hoặc "Làm sao mà người Tây Tạng
có thể thực sự là Phật tử? Họ đâu có biết tiếng Pali."
Cái thái độ hiểu biết theo nghĩa đen đó đã sinh ra tinh thần
cuồng tín, độc tôn, và toàn trị giáo điều mà người ta thấy rõ trong
một số những vị thuộc Phật Giáo Nguyên Thủy. Thật ra cái thái độ này
rõ ràng là không tương hợp với nhiều đoạn trong ngay chính Ba Tạng Kinh
điển. Điều rõ ràng là trong Ba Tạng Kinh điển này, theo Đức Phật
thì Giáo lý của Ngài không chỉ tùy thuộc vào một ngôn ngữ đặc biệt nào
mà có thể truyền đạt qua nhiều ngôn ngữ khác với cái ngôn ngữ được dùng
để thuyết giảng lúc đầu...
Điều này không có nghĩa là phủ nhận những bản giáo lý nguyên thủy,
nhất là khi ngôn ngữ dùng trong những bản này gần đúng với ngôn ngữ Đức
Phật đã dùng sẽ luôn luôn chứa một ý nghĩa lịch sử đặc biệt.. Điều
mà chúng ta phủ nhận, và phủ nhận một cách dứt khoát, là do một sự trùng
hợp kỳ lạ mà cái ngôn ngữ dùng bởi Đúc Phật được coi như là để truyền
đạt ý nghĩa của Giáo lý lại hữu hiệu hơn là bất cứ ngôn ngữ nào khác,
và do đó, một sự hiểu biết về văn tự Phật Pháp là cần thiết để hiểu tinh
thần của Phật Pháp..."

(Modern Theravadins are fond of making such statements as "The Buddha
taught in Pali" or "Pali is the language of the Buddha"...To
begin with, Pali is not the name of a language at all. The word means,
literally, "a line, a row (of letters)" and thus, by extention
of the meaning, "the "canonical" text". Early Western
students of Theravada literature, finding in the commentaries expressions
such as 'palinayena', 'according to the [canonical] text', took the word
for the name of the 'language' of the texts and, through their writings,
gave currency to this misunderstanding....
The insistence of the Theravada that the Buddha spoke Pali, the language
of the Tipitaka, stems less from ignorance of historical facts than from
a doctrinal misunderstanding. This misunderstanding consists in the belief
that the import of the Teaching in inseparable from its original conceptual-cum-verbal
formulations... Hence sweeping pronouncements such as "It is impossible
to understand Buddhism properly without studying Pali", or "How
can the Tibetans be real Buddhists? They don't know Pali."..
This literalistic attitude has given rise to that spirit of bigotry, exclusiveness,
and dogmatic authoritarianism, for which some modern Theravadins are notorious.
Yet such attitude is clearly incompatible with a number of passages in
the Tipitaka itself... From the latter it is, indeed, obvious that according
to the Buddha the spirit of his Teaching, far from being dependent on any
particular form of words, could be given equally valid expression in languages
other than the one in which it had originally been propounded...
This is not to deny that early versions of the Teaching, especially when
their language approximates to the language used by the Buddha will always
possess a special historical signigicance...What we deny, and deny emphatically,
is that by an extraordinary coincidence the language used by the Buddha
(whatever it may have been) happens to be intrinsically more capable of
conveying his meaning than any other than that, therefore, a knowledge
of the letter of the Dharma, is indispensable to an understanding of its
spirit...)
Kể ra thì đoạn trích dẫn trên đã đủ để bác bỏ luận cứ của ông DND là phải
biết tiếng Pali hay Sanskrit mới có thẩm quyền bàn luận về Phật Giáo.
Nhưng mục đích của ông DND có lẽ không đặt trọng tâm vào việc hiểu biết
hay lý luận, mà câu ông viết ở trên có lẽ chỉ để khoe cái sở học dỏm
của ông ta, nhưng càng khoe thì đọc giả càng thất thực chất sở học của
ông ta ra sao. Ông ta viết chỉ để mà viết, vì chính ông cũng không
biết là ông đang viết cái gì. Thật vậy, sau đây tôi sẽ đưa ra vài luận
điểm để chứng tỏ cái điều kiện về tiếng Pali và Sanskrit ông DND đưa ra
không có một căn bản hiểu biết và luận lý nào xứng đáng với một người ở
trình độ "Ứng viên Tiến Sĩ", bất kể là ông biết bao
nhiêu ngôn ngữ cổ Phật Giáo, bất kể ông sắp tốt nghiệp hay đã tốt nghiệp
ở đâu ra:
Thứ nhất, đọc những bài trong cuốn "Đối Thoại...", có những
chủ đề nào cần đến một kiến thức về các ngôn ngữ cổ Phật Giáo cũng như
Thiên Chúa Giáo? Khi tôi phê bình những nhận định sai lầm của John
Paul II về Đức Phật và Phật Giáo, tôi có cần đến những kiến thức về các
ngôn ngữ cổ nói trên không? Những ngôn ngữ cổ trên giúp cho tôi được
gì khi tôi đưa ra những luận cứ dựa trên tác phẩm của những nhà Thần Học,
dựa trên Kinh điển Phật Giáo bằng tiếng Việt, dựa trên Thánh Kinh bằng
tiếng Anh hay Việt, dựa trên tác phẩm của các học giả, giáo sư đại học
chuyên ngành, dựa trên tin tức báo chí hay trên TV v...v... Ông DND
có thể vạch ra những chỗ nào trong cuốn "Đối Thoại..." đòi
hỏi một kiến thức không có không được (sine qua non) về các cổ ngữ như
Pali, Sanskrit v...v.. . Cuốn "Đối Thoại.." chỉ
là một tập hợp những luận cứ phản bác những nhận định sai lầm của John
Paul II về Đức Phật và Phật Giáo, không phải là một cuốn sách khảo cứu
về một đề tài chuyên biệt, thí dụ như một tư tưởng, một triết lý đặc biệt
trong Phật Giáo, hay đi sâu vào toàn bộ các triết lý, tư tưởng của Phật
Giáo và Thiên Chúa Giáo.
Thứ nhì, cho rằng chỉ có những người thông thạo một số cổ ngữ như
Pali, Sanskrit v...v... và có bằng PhD về Phật Giáo mới có thẩm quyền viết
về Phật Giáo (đoạn trích dẫn của Sangharakshita ở trên chứng tỏ điều
này phản ánh một sự hiểu biết hẹp hòi và sai lầm căn bản về Phật Giáo),
ngụ ý những điều họ viết không thể sai lầm, thì có phải là một hoang tưởng
hay không? Giả thử tôi chấp nhận điều trên, có nghĩa là họ có đủ thẩm
quyền viết về Phật Giáo vì đã có bằng PhD về Phật Giáo, và những điều họ
viết ra bằng tiếng Việt chẳng hạn là đúng, có thể tin.Ở trên thế gian
này, PhD về Phật Giáo nhiều không đếm xuể, và những người này cũng đã có
nhiều tác phẩm nổi danh bằng đủ mọi thứ tiếng. Nếu tôi đọc những tác phẩm
về Phật Giáo của họ, những người có căn bản vững chắc về những ngôn ngữ
Phật Giáo như Pali, Sanskrit v...v..., thì những tác phẩm đó có đáng tin
cậy hay không, hay là tôi bắt buộc phải đọc tác phẩm của một người Việt
nào đó biết lõm bõm tiếng Pali, Sanskrit và là “ứng viên tiến sĩ” về Phật
Giáo?
Thứ ba, nói về các ngôn ngữ cổ Phật Giáo thì chẳng cần phải tốt nghiệp
ở Harvard ra mới biết rằng, Đức Phật khi xưa không hề viết một chữ. Tất
cả các kinh điển Phật Giáo chỉ được viết ra sau khi Đức Phật tịch diệt
mấy trăm năm, trải qua một thời gian dài hoàn toàn dựa vào truyền khẩu.
Điều này chứng tỏ trong kinh điển Phật Giáo có những thiếu sót cùng những
thêm thắt của các Phật tử sau này, vậy biết tiếng Pali hay Sanskrit cũng
chỉ là đọc những bản văn hoặc thiếu sót hoặc có thêm thắt mà thôi, có gì
mà phải khoe khoang? Chưa kể là kinh điển Phật Giáo bằng tiếng Pali chỉ
chiếm một phần trong toàn bộ kinh điển Phật Giáo, và ngày xưa Đức Phật
đã khuyên các đệ tử phải truyền đạo bằng các tiếng địa phương và các tiếng
địa phương này không phải là Pali hay Sanskrit. Cho nên, bảo rằng
phải biết tiếng Pali hay Sanskrit mới có thể hiểu được Phật giáo là một
luận cứ không có căn bản vững chắc, chưa kể là mù tịt về tính chất sinh
động và tùy duyên của Phật Giáo (xin đọc lại phần trích dẫn từ tác
phẩm của Sangharakshita).
Thứ tư, Phật Giáo xuất phát từ Ấn Độ, khi truyền vào Trung Quốc thì
trở thành Phật Giáo Trung Quốc. vào Nhật Bản trở thành Phật Giáo Nhật Bản,
vào Việt Nam trở thành Phật Giáo Việt Nam v...v... Do đó mỗi địa phương
có những sắc thái Phật Giáo riêng, dựa vào những văn kiện, kinh điển bằng
tiếng bản xứ, vậy thì bám vào mấy thứ tiếng Pali, Sanskrit để làm gì?
Tôi là người Việt Nam, tôi cảm thấy rất thoải mái với Phật Giáo Việt Nam,
với những sách vở, kinh điển bằng tiếng Việt Nam, tại sao tôi phải quan
tâm đến tiếng Pali hay Sanskrit để tìm hiểu về Phật Giáo Ấn Độ mà tôi biết
có những điều không hợp với người Việt Nam. Vả chăng, nếu cứ bám vào mấy
tiếng Pali hay Sanskrit trong thời buổi này thì chỉ là dậm chân tại chỗ
trong khi mọi người đã tiến xa. Tôi lấy một thí dụ sau đây:
Thiền sư Nhất Hạnh dạy Thiền về Tỉnh Thức và giữ Chánh Niệm khi gọi
điện thoại, lái xe hơi v...v.. Ông mở 7 bồ chữ Pali, 8 bồ chữ Sanskrit
của ông ra để đọc các văn kiện gốc Phật Giáo cổ xưa về Thiền, nhưng chẳng
thấy chỗ nào nói đến điện thoại hay xe hơi rồi ông kêu: Thiền sư Nhất Hạnh
không biết gì về Thiền, vì không thông thạo các ngôn ngữ Phật Giáo như
Pali, Sanskrit, không tốt nghiệp từ Harvard ra, như vậy có được không?
Người khác nghĩ sao tôi không biết, nhưng tôi thì tôi mời ông về dưỡng
trí viện ngồi chơi sơi nước, ông không có chỗ đứng ở đây. Nói tóm lại,
ông đang bám vào một cái xác chết khô cứng, đang vùng vẫy trong một ao
nước tù, tự mãn trong một khuôn khổ nhỏ hẹp, trong khi cái tinh thần Phật
Giáo là rộng rãi, sinh động, hoạt dụng, như dòng suối chảy, luôn luôn thay
đổi nhưng lúc nào cũng giữ bản chất tinh khiết, và cái tinh thần Phật Giáo
từ xưa tới nay là hành Đạo chứ không "đọc Đạo" bằng tiếng Pali
hay Sanskrit.
Một thí dụ khác: ở đại học Wisconsin, Thiền sư Tây Tạng Geshe Sopa,
giáo sư Phật học, dùng cuốn "A Guide To Bodhisattva's Way of Life" của
Stephen Batchelor làm một "textbook" để giảng về Pháp Đại Thừa.
Cuốn sách này nguyên bản bằng tiếng Sanskrit (Bodhisattvacharyavatara)
của Bồ Tát Shantideva ở đại học Nalanda bên Ấn Độ vào thế kỷ 8, được dịch
ra tiếng Tây Tạng (Byang.chub.sems.dpai'.spyod.pa.la.jug.pa), Stephen Batchelor
dịch ra tiếng Anh, và Thích Trí Siêu dịch ra tiếng Việt lấy tên là "Bồ
Tát Hạnh". Nếu ai cũng như ông DND, cho rằng phải biết tiếng Sanskrit
hay Tây Tạng mới hiểu được Phật Giáo thì sao Giáo Sư Sopa không giảng bằng
tiếng Tây Tạng, không dùng bản dịch bằng tiếng Tây Tạng, mà lại dùng cuốn
bằng tiếng Anh? Chắc hẳn Giáo sư Sopa phải cho rằng bản dịch sang tiếng
Anh của Batchelor cũng có thể giúp cho các sinh viên am hiểu những tư tưởng
trong cuốn sách. Vậy tôi có cần biết tiếng Sanskrit hay Tây Tạng để có
thể lãnh hội được nội dung của tác phẩm này không? Hay là tôi phải chờ
đến Tết Congo để đọc bản dịch của một người Việt nào đó biết tiếng Pali,
Sanskrit và là “ứng viên tiến sĩ” về Phật Giáo ở đại học Boston ra? Mà
chắc gì người này đã dịch hay hơn Stephen Batchelor hay Thích Trí Siêu?
Biết đâu đọc bản dịch của họ tôi lại thấy dốt đi thì sao?
Thứ năm, ông cho rằng phải biết những ngôn ngữ Phật Giáo như Tây Tạng,
Triều Tiên, Nhật Bản v...v... để có thể hiểu về Phật Giáo. Tại sao
ông lại bỏ sót Việt Nam? Ông không biết rằng Phật Giáo truyền vào
Triều Tiên khoảng cuối thế kỷ 4, vào Nhật Bản khoảng giữa thế kỷ 6, vào
Tây Tạng khoảng thế kỷ 7-8, trong khi truyền vào Việt Nam ngay từ thế kỷ
đầu, trước các nước trên cả mấy trăm năm, vậy tại sao tiếng Việt Nam không
được kể là một ngôn ngữ Phật Giáo? Ông vọng ngoại hay là ông cho rằng
cái gia tài văn học Phật Giáo Việt Nam không có gì đáng kể, vì từ xưa tới
nay chẳng có ai biết tiếng Pali, Sanskrit, chẳng có ai tốt nghiệp ở Boston
hay Harvard ra, cho nên chẳng có ai có thẩm quyền viết về Phật Giáo? Tuy
Việt Nam chưa có một Việt Tạng đầy đủ nhưng những sách vở, kinh điển hiện
hữu không đủ cho ta am hiểu Phật Pháp hay sao? Tôi không thể tưởng tượng
là một người mang danh là “ứng viên tiến sĩ” về Phật Giáo lại có thể có
một sự hiểu biết về lịch sử và văn học Phật Giáo dân tộc một cách thiếu
sót quái gở như vậy.
Thứ sáu, ông phô trương những môn học như tôn giáo tỷ giảo (comparative
religion), hiện tượng học tôn giáo (phenomenology of religion), xã hội
học tôn giáo (sociology of religion), và thuyên thích luận (hermeneutics)
ra đây để làm gì? Chỉ để khoe khoang mấy cua ông học ở đại học Mỹ? Nhưng
cuốn "Đối Thoại.." đặt trọng tâm vào việc phê
bình vài nhận xét sai lầm của John Paul II về Đức Phật và Phật Giáo, đôi
khi có khai triển rộng ra nhưng chủ điểm vẫn chỉ để phản bác những nhận
xét sai lầm kể trên. Vậy, trong cuốn "Đối Thoại.." có
những đề mục nào hay chủ đề nào cần đến một sự hiểu biết về mấy cái môn
học này?
Tôn giáo tỷ giảo chỉ đưa ra những nét chính về lịch sử và
giáo lý của các tôn giáo chứ có bao giờ nhắc đến chuyện tôn giáo đã mang
tới cho nhân loại bao nhiêu phúc lợi cũng như bao nhiều bất hạnh? Xã hội
học tôn giáo nói đến vai trò của tôn giáo trong các vấn đề xã hội. Môn
học này mới phát triển gần đây, từ sau đệ nhị Thế Chiến vì điạ vị đứng
trên xã hội của GiaTô Giáo bị chao đảo nên bắt buộc phải chuyển thành đứng
trong xã hội trước sự tiến bộ của nhân loại. Có tác giả nào trong cuốn "Đối
Thoại.."bàn đến những vấn đề này? Hiện tượng học
là một bộ môn triết lý do Edmund Husserl đề xướng vào đầu thế kỷ 20, khảo
sát về đối tượng của ý thức (phenomena), sau đó nhà thần học GiaTô Edward
Schillebeeckx áp dụng vào môn thần học để khảo sát ý nghĩa của sự hiện
hữu của con người (theology of human existence) nhưng luận cứ của Schillebeeckx
thiên về Thần Học Giải Phóng (Liberation Theology) nên bị Toà Thánh Vatican
gọi về Rome "hỏi thăm sức khỏe" nhiều lần. Vậy môn học này dùng
vào được việc gì trong những bài trong cuốn "Đối
Thoại..". Còn
Thuyên Thích Luận là một khoa học và phương pháp giải thích, áp dụng nhiều
trong việc giải thích Thánh Kinh, nhưng việc giải thích Thánh Kinh lại
là độc quyền của Tòa Thánh cho nên có học cũng vô dụng vì có ai được quyền
diễn giảng Thánh Kinh ngược với lời diễn giảng của một số người da trắng,
mắt xanh, mũi lõ? Vậy thì môn học này dính dáng gì tới những luận điểm
trong cuốn "Đối Thoại..."?
Vậy ông phô trương những môn học chẳng ăn nhằm gì (irrelevant) tới các
chủ đề trong cuốn "Đối Thoại.." cốt chỉ để khoe vài cái "cua" học
ở đại học và coi đó như một đảm bảo để mình hiểu biết về tôn giáo.
Nói tóm lại,
ông DND đã dựng lên một hình nộm như sau: Giao Điểm nhận
định, phê phán "toàn bộ triết lý tư tưởng Thiên Chúa Giáo" cùng "đối
chiếu hai tôn giáo lớn" rồi dựa vào cái hình nộm này để khoe ta đây
tài giỏi, biết nhiều thứ tiếng cổ, học nhiều "cua" về triết học,
rồi tự cho mình cái thẩm quyền bàn về tôn giáo, và quật cái hình nộm đó
xuống bằng cách chê bai những tác giả viết trong cuốn 'Đối Thoại.." là
không có sở học như mình nên không có thẩm quyền v...v... mà không biết
rằng, qua đoạn trích dẫn từ tác phẩm của Tỳ Kheo Sangharakshita và sáu
luận điểm ở trên, tôi đã chứng minh rằng những điều ông phô trương chẳng
ăn nhằm gì tới nội dung cuốn "Đối Thoại..", chẳng
phải là một bảo đảm chứng tỏ ông am hiểu về Phật Giáo, chưa
kể là về phương diện luận lý (logic) ông còn yếu kém một cách rõ rệt.
(xem tiếp -->)
Các bài đối thoại cùng tác giả
▪
“ Sản Phẩm Trí Tuệ” của Nguyễn Anh Tuấn -
Trần Chung Ngọc
▪
“Sản Phẩm Trí Tuệ” Mới Của Nguyễn Anh Tuấn Về “Giáo H -
Trần Chung Ngọc
▪
“Tự Do Tín Ngưỡng” của Minh Võ -
Trần Chung Ngọc
▪
Ai Dám Tấn Công Đạo Chúa ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chiến Tranh ... Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ -
Trần Chung Ngọc
▪
Chu Tất Tiến: Here We Go Again -
Trần Chung Ngọc
▪
Chung Quanh Một Cuộc Tranh Luận Hào Hứng -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - “Cha Chung” là ai? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Các Vấn Nạn Cần Giải Quyết -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Căn Bản Đức Tin -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Kết Luận -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Lợi Ích ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Comments On John Paul II's Crossing the Threshold of Hope -
Trần Chung Ngọc
▪
Eh! Lữ Giang, alias Tú Gàn, Here we go again! -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Nguyễn Văn Lục -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Tú Gàn -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ Về Tiến Sĩ Nguyễn Học Tập -
Trần Chung Ngọc
▪
Một Trí Thức Không Biết Ngượng -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Bài “Niềm Tin ...” Của Trần Thị Hồng Sương -1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Mấy Câu Trả Lời của Ông Mục Sư NQM -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 ▪
>>>