|
24-Apr-2012 |
(tiếp theo phần đầu)
Trên đây tôi vừa phân tích qua loa vài điểm
trong phần đầu của cuốn "Nhận
Định..", và sau mấy điểm phân tích này tôi chắc quý
độc giả đã nắm được phần nào vấn đề và đánh giá đúng mức sở học cũng như
trình độ hiểu biết của ông Dương Ngọc Dũng.
Sau đây tôi sẽ phân tích vài
điểm trong mục tiếp theo: "Những
Sai Lầm Tổng Quát Trong Cuốn "Đối Thoại.." của Nhóm Giao Điểm".
Mở đầu mục này, ông DND viết:
"Sai lầm cơ bản đầu tiên của nhóm Giao Điểm
là chỉ có những kiến thức hoàn toàn sơ đẳng, phiến diện về Phật Giáo,
lẫn lộn Phật Giáo và Phật Học, khi thì nói về Phật Giáo như một tôn giáo,
khi thì nói về Phật Giáo như một hệ thống triết học trong cùng một ngữ
cảnh khiến mọi thảo luận đều trở nên rối răm, lộn xộn, đầy ẩn ý xuyên
tạc, ngộ nhận"
Có thể nào có một phê phán vu vơ hơn câu trên? Tại sao ông không đưa
ra những kiến thức nào mà ông cho là "kiến thức hoàn toàn sơ đẳng" rồi
đưa ra những kiến thức "thượng đẳng" của ông ra để đối chiếu?
Tại sao ông không đưa ra những thảo luận nào mà ông cho là "đầy ẩn
ý, xuyên tạc, ngộ nhận". Nhưng vấn đề ở đây là, ông lấy tư cách gì
để phê phán như trên, khi mà tôi đã chứng minh, không phải là phê phán
vu vơ, trong phần trên là sở học và hiểu biết của ông thuộc loại "ếch
ngồi đáy giếng"?
Chúng ta không thể định nghĩa Phật Giáo đơn thuần
như là một hệ thống triết lý, một tôn giáo, một hệ thống đạo đức. Phật
Giáo bao gồm tất cả. Vậy các tác giả trong cuốn "Đối
Thoại.." tùy nghi nói về Phật Giáo theo cái khía
cạnh mà mình muốn nói. Có người bàn về Phật Giáo như một hệ thống triết
lý, có người bàn về Phật Giáo theo khía cạnh tôn giáo hay đạo đức. Nhưng,
như tôi đã minh định ở phần đầu bài, những bài trong cuốn "Đối
Thoại..." có tính cách độc lập và tự đầy đủ. Cho
nên ông lấy trong bài này một đoạn, lấy trong bài kia một đoạn, không hiểu
là các bài đó hoàn toàn độc lập đối với nhau, rồi gồm tất cả những luận
cứ trong các bài trên để phê bình rằng nó không nhất quán thì một là ông
không biết đọc sách, hai là ông cố ý xuyên tạc sự việc. Cả hai điều trên
đều không xứng đáng với một người tự cho là trí thức, học nhiều.
Rồi trong một đoạn sau ông DND lại chỉ trích "nhóm Giao Điểm" như
sau:
"Đứng về mặt phương pháp luận tỷ giảo tôn giáo, nếu so sánh
Phật Giáo như một tôn giáo trong khía cạnh lý tưởng với Thiên Chúa Giáo
như một tôn giáo trong khía cạnh thực tế lịch sử là hoàn toàn sai lầm.
Và đây chính là điều các "trí thức Phật Giáo" trong nhóm Giao
Điểm tiến hành. Họ dẫn chứng kinh điển Phật Giáo (tức là Phật Giáo như
một lý tưởng) để chứng minh là Phật Giáo là một tôn giáo hoàn thiện,
tốt đẹp, giầu lòng từ bi. Nhưng khi công kích Thiên Chúa Giáo lại đưa
vào các thực hành tôn giáo diễn ra trong lịch sử phát triển của tôn giáo
này (Pháp đình tôn giáo, vụ án Galileo v..v..) Những người Thiên Chúa
Giáo có thể làm ngược lại và sự cãi nhau sẽ kéo dài vô tận vì phương
pháp so sánh đã hỏng ngay từ nền tảng."
Đến đây tôi bắt buộc phải nghi ngờ về
sự lương thiện trí thức của ông DND. Điều ông viết ở trên hoàn toàn là
bịa đặt vì trong 18 bài trong cuốn "Đối Thoại.." không
có bài nào đưa ra một sự so sánh kinh điển Phật Giáo với các sự kiện lịch
sử trong GiaTô Giáo như Pháp đình tôn giáo, vụ án Galilei. Rải rác trong
các bài ta thấy đây đó một vài quan niệm bắt nguồn từ kinh điển Phật Giáo
dùng để phản bác những nhận xét sai lầm của Giáo Hoàng về Đức Phật và Phật
Giáo, và riêng trong bài của Trần Văn Kha, tác giả chỉ đưa ra vụ án Galilei
để chứng minh chính sách chống khoa học tiến bộ của Giáo hội, với mục đích
phản bác lập luận của John Paul II là "Giáo hội xây dựng nền văn
minh Âu Châu và phát triển nhờ có thành quả của khoa học, kỹ thuật".
Ông nhặt trong bài này một chút, trong bài kia một chút, rồi gom lại thành
một luận điểm để mà phê phán, như thế là gian lận chứ đâu có phải là phê
bình trí thức.
Trong cuốn "Đối Thoại.." cũng
không có chuyện so sánh hai tôn giáo vì một điều hiển nhiên là hai tôn
giáo này không có gì để mà so sánh. Từ giáo lý đến phương pháp hành trì
cho đến quan niệm giải thoát, hai tôn giáo này hoàn toàn khác biệt nhau,
tuy rằng gần đây có một số tác giả GiaTô đã cố gắng lấy những tư tưởng
Phật Giáo xào xáo thành tư tưởng GiaTô Giáo. Nếu muốn đi vào chi tiết
hơn nữa thì ta thấy rằng lịch sử phát triển GiaTô LaMã Giáo là một lịch
sử đẫm máu với những cuộc Thánh chiến, những tòa án xử dị giáo, những cảnh
tra tấn rồi mang thiêu sống ngoại đạo kể cả các khoa học gia, cùng làm
tiền phong hay theo gót thực dân đến gây chia rẽ, tàn phá và phá hủy các
nền văn hóa của nhiều nước v..v.. trong khi lịch sử phát triển Phật Giáo
trong suốt hơn 2500 năm không làm đổ một giọt máu, vậy lấy gì để mà so
sánh? Chẳng có lẽ chúng tôi lại mượn vài cuộc Thánh Chiến của Lữ Giang
ra để so sánh với các cuộc Thánh chiến của GiaTô Giáo?
Về kinh điển thì
Phật Giáo có rất nhiều nhưng ta không hề thấy trong đó những chuyện chém
giết tàn bạo, những chuyện vô luân, vô đạo đức, trong khi Thánh kinh đầy
rẫy những chuyện tàn sát dã man, những chuyện loạn luân, những chuyện dâm
ô tục tĩu, vậy lấy cái gì để mà so sánh?
Lý luận của ông thật là quái
gở, chúng tôi chỉ nêu ra những sự kiện tôn giáo nó là như thế, nhưng ông
lại cứ nhất định cho đó là so sánh tôn giáo để dựa vào đó mà phê bình.
Thực ra là ông chỉ phê bình những cái chính ông đưa càn ra mà thôi. Ông
dùng sách lược này để hạ thấp đối phương thì có thể thành công với một
số độc giả vốn coi Giao Điểm như kẻ thù, không phải vì Giao Điểm đã công
kích tôn giáo của họ, mà vì Giao Điểm dám cả gan đối thoại với Đức Thánh
Cha một cách bình đẳng và dám đưa ra những sự thật bất khả phản bác về
tôn giáo của họ, những sự thật mà họ không hề biết vì Giáo hội đã làm đủ
mọi cách bưng bít không cho họ biết. Còn đa số độc giả, nếu đã đọc cuốn "Đối
Thoại.." thì thừa thông minh để thấy đâu là sự thật
và thấy ngay rằng những phê phán của ông chỉ là những thủ đoạn lắt léo
lặt vặt mà thôi.
Sau đây chúng ta hãy đọc tiếp một định ý (fixed idea) mà ông DND cứ
lập đi lập lại như một cái đĩa hát cùn, cho rằng đó là những lời không
thể sai lầm như những điều mặc khải trong Thánh kinh:
"Nhưng nếu tự cho là người am hiểu Phật Pháp với tư cách người
nghiên cứu thì phải chấp nhận tiêu chí đánh giá chung của cộng đồng học
giả trong cùng ngành: phải biết sử dụng thành thạo các ngôn ngữ Phật
Giáo (ít nhất cũng phải biết Pali và Sanskrit), phải tiếp cận được với
các văn bản Phật Giáo gốc (primary sources), có nghĩa là không phải đọc
qua bản dịch của Phạm Kim Khánh blah..blah..blah..."
Tôi có nên bình luận về câu trên nữa không đây? Quanh đi quẩn lại
ông DND lại trở lại việc phô trương biết tiếng Pali và Sanskrit. Thật
là nản quá nhưng thôi, tôi cũng lý luận chơi với ông một chút.
● Thứ nhất, giả thử là tôi chấp nhận điều trên là đúng, nghĩa là muốn am
hiểu Phật Pháp thì phải biết tiếng Pali và Sanskrit. Thế nhưng, cái am
hiểu đó dùng được vào việc gì nếu không tìm cách phổ biến cái am hiểu đó.
Nếu không phổ biến thì làm sao người ta biết là ông am hiểu Phật Pháp?
Vậy thì, ông phải trình bày cái am hiểu đó ra qua văn tự hay thuyết Pháp.
Thuyết Pháp thì không có ông rồi vì ông chỉ có thể thuyết cho mình ông
nghe, trong khi thiên hạ trong đó có cả đống PhD ùn ùn kéo đến nghe các
Hòa Thượng như Thanh Từ, Nhất Hạnh thuyết Pháp, vậy chỉ còn lại vấn đề
dịch thuật và luận bàn. Không có lẽ ông dịch từ tiếng Pali sang tiếng
Sanskrit hay ngược lại. Vậy ông phải đưa ra những tác phẩm bằng tiếng
mẹ đẻ hoặc bằng một ngôn ngữ thông dụng trên thế giới hiện nay, thí dụ
như tiếng Anh, tiếng Pháp. Đây là con đường mà rất nhiều học giả chuyên
về Phật Giáo và đáng bậc Thầy của ông đã làm. Tác phẩm đó phản ánh trình
độ am hiểu Phật Pháp của ông.
Tôi không biết tiếng Pali và Sanskrit.
Giả thử là tôi có cùng một khả năng đọc sách như ông và tôi đọc tác phẩm
của ông viết, tôi có am hiểu được Phật Pháp hay không? Nếu không thì chính
là ông không am hiểu Phật Pháp vì những luận giải của ông mù mờ không ai
đọc mà hiểu. Nếu hiểu được thì tôi cần gì đến tiếng Pali hay Sanskrit
vì tác phẩm của ông đã trình bày trung thực tinh thần văn bản gốc rồi.
Hiện nay trên thế giới đã có không biết bao nhiêu là tác phẩm , kinh điển
Phật Giáo v..v.., kết quả sáng tác và nghiên cứu của các học giả có thể
xếp vào bậc Thầy của ông, và viết bằng những thứ tiếng không phải là Pali
hay Sanskrit. Vậy những tác phẩm và dịch phẩm này dùng để làm gì? Vậy,
lập luận rằng phải biết tiếng Pali hay Sanskrit để đọc các văn bản gốc
Phật Giáo mới có thể am hiểu Phật Pháp là không có căn bản hợp lý, mà chỉ
cốt để khoe khoang là ta đây biết tiếng Pali và Sanskrit.
● Thứ nhì, ai nói là tôi muốn gia nhập cái cộng đồng nghiên cứu Phật
Pháp của ông (không phải là cái cộng đồng các tu sĩ Phật Giáo nghiên cứu
và hành trì Phật Pháp), cái cộng đồng mà tôi biết rằng thuộc loại "khẩu
Thiền" theo định nghĩa của Tỳ Kheo Maha Sthavira Sangharakshita: "Đây
là Thiền của những người chỉ nói suông về Thiền, hoặc viết sách hay các
bài khảo luận về Thiền, và chưa bao giờ thực hành Thiền." ("Mouth
Ch'an": This is the Ch'an of people who merely talk about Zen, or
write books and articles about it, and never do any practice.) Vậy
thì tiêu chí đánh giá chung của cộng đồng học giả các ông có giá trị gì
đối với tôi?
● Thứ ba, một câu hỏi được đặt ra: thế từ xưa tới nay những người không
biết sử dụng thông thạo tiếng Pali và Sanskrit thì không có ai am hiểu
Phật Pháp? Ông đang nằm mơ hay đang tự mãn trong một hoang tưởng? Mà ông
có chắc là biết sử dụng thông thạo tiếng Pali và Sanskrit để đọc các văn
bản Phật Giáo gốc là am hiểu Phật Pháp? Ông hiểu thế nào là am hiểu Phật
Pháp? Là có thể đọc được Kinh Phật bằng tiếng Pali? hay tiếng Sanskrit?
Ông đọc cuốn "Đối Thoại.." còn chưa thông, còn
chưa hiểu hết, chuyện nọ xọ sang chuyện kia, nói chi đến đọc Kinh Phật
bằng tiếng Pali mà đòi am hiểu Phật Pháp. Nếu am hiểu Phật Pháp thì đã
không viết lăng viết nhăng như vậy. Tôi kể cho ông nghe một chuyện để
chứng minh nhận xét về "khẩu Thiền" của Sangharakshita: Alan
Watts, một học giả có nhiều uy tín và rất nổi tiếng ở Âu Mỹ về công cuộc
khảo cứu và những tác phẩm về triết lý tôn giáo Đông phương, đặc biệt là
về Zen mà cuốn "The Way of Zen" của ông đã một thời được dùng
làm sách giáo khoa (textbook) trong các đại học Mỹ, khi gần mãn cuộc đời
mới chấp nhận là cốt tủy của Zen là thực hành Thiền (The core of Zen is,
in fact, Zazen (Tọa Thiền)) và những điều ông viết từ trước tới nay chỉ
là những lời viết suông (It was just that - words -) Cho nên đưa cái hiểu
biết về tiếng Pali, Sanskrit ra thì cũng chẳng chứng tỏ được cái gì đặc
biệt, mà chỉ chứng tỏ cho người đọc là mình thiển cận, cái nhìn không quá
cái mũi.
Tiện đây tôi đi thêm một chút về lý luận: cái lập luận mà ông nhắc đi nhắc
lại chỉ để phô trương một kiến thức. Nhưng cái kiến thức này chỉ là vay
mượn, vay mượn từ sách vở, từ các giáo sư v..v.. Trong Phật Giáo, những
hiểu biết vay mượn này chẳng có giá trị gì, nếu con người không hội nhập
chúng, nghĩa là sống với chúng trong đời sống hàng ngày. Ông hãy trả lại
những hiểu biết từ sách vở cho sách vở, trả lại những điều giảng dạy của
Giáo sư cho các giáo sư v..v.. trong đầu ông nó còn cái gì? Tôi nghĩ chắc
chẳng còn lại bao nhiêu. Đây chính là cốt tủy của Phật Giáo vì Phật Giáo
đặt nặng vấn đề thực hành chứ không coi trọng những bàn luận trí thức mà
Phật Giáo cho rằng bàn chỉ để mà chơi, không có ứng dụng thực tế trong
việc tu tập, danh từ thông dụng và quen thuộc trong Phật Giáo gọi là "hý
luận". Nếu ông am hiểu Phật Pháp bằng cách tu tập thì những cái hiểu
đó là của chính ông, còn nếu ông chỉ nói qua cái kiến thức sách vở thì
đó chỉ là vẹt nói, vì có cái gì thực sự của ông đâu. Hi vọng ông hiểu
tôi muốn nói gì.
Trên đây tôi chỉ luận về vài điểm chính thôi chứ nếu đọc kỹ ra thì
tôi còn có thể nhặt ra một đống sạn trong cách đặt vấn đề và lập luận của
ông DND. Ngoài ra, cách trình bày của ông cũng rất lộn xộn, đang từ vấn
đề này nhảy sang vấn đề khác chẳng có liên hệ gì tới nhau cả, nhưng đây
chỉ là sự kém cỏi trong nghệ thuật trình bày một chủ đề không phải là điểm
quan trọng cho nên tôi không muốn phí thời giờ để bàn luận.
Cuối cùng, tôi xin sang phần ông DND dành cho tôi.
Trong số 88 trang
ông dùng để phê bình 8 tác giả trong cuốn "Đối Thoại.." ông
đã dành cho tôi gần 17 trang. Nhưng đặc biệt là ông không phê bình bài "Bước
Qua Ngưỡng Cửa Vô Minh" của tôi trong cuốn "Đối
Thoại.." mà
lại phê bình hai bài viết khác của tôi đăng trên Giao Điểm và một số tạp
chí khác: Bài "Ý Nghĩa và Vai Trò Trí Thức Trong Phật Giáo" và
bài "Quan Niệm Giải Thoát Trong Phật Giáo và GiaTô Giáo".
Tôi
đã phê bình toàn bài của ông Dương Ngọc Dũng trong cuốn phản biện ông Dương
Ngọc Dũng, Giao Điểm xuất bản ở trên. Ở đây để cho bài khỏi quá dài tôi
chỉ lướt qua vài điểm để cho chúng ta thấy kiến thức dỏm của ông Dương
Ngọc Dũng về những điều ông ta tự khoe là hiểu biết về Phật Giáo qua vài
cua học ở đại học Mỹ về tiếng Pali, Sanskrit và Hán cổ. Ông mở đầu bằng
câu:
"Trong bài thứ nhất tác giả chẳng làm gì khác hơn là đem học
giả Như Hạnh ra chê bai, dè bỉu một cách hết sức vô lý, chỉ cho thấy
động cơ chính của các tác giả nhóm Giao Điểm là ganh ghét, hằn học, đố
kỵ với những người thực sự nghiên cứu Phật Giáo một cách nghiêm túc"
Đây là một câu hoàn toàn lạc lõng chẳng liên quan gì
đến cuốn Đối Thoại. Chuyện tôi phê bình Như Hạnh là ở trong bài "Ý
Nghĩa và Vai Trò Trí Thức Trong Phật Giáo" đăng
trong tập san Giao Điểm, chiếm 12 trang giấy khổ lớn, trong đó chỉ có chưa
đầy 3 trang dùng để phê bình vài nhận xét của Như Hạnh về Thiền Tông, còn
phần lớn, gần 10 trang là để phê bình một bài viết của ông Nguyễn Văn Trung.
Bài "Ý Nghĩa..." của tôi cũng còn đăng
trên "Phật Giáo Hải Ngoại" và "Hoa Sen", có
liên hệ gì tới các tác giả trong cuốn "Đối Thoại..", vậy
tại sao ông Dũng lại vơ quàng vào "nhóm Giao Điểm", phần lớn
các tác giả này tôi không hề quen biết. Vậy tại sao ông lại chụp bài viết
của tôi mà nội dung chẳng dính dáng gì đến cuốn "Đối
Thoại.." và trách nhiệm hoàn toàn thuộc về cá nhân tôi, lên đầu các
tác giả trong cái mà ông gọi là "nhóm Giao Điểm" để mà viết càn
rằng: "Động cơ chính của các tác giả nhóm Giao
Điểm là ganh ghét, hằn học, đố kỵ với những người thực sự nghiên cứu Phật
Giáo một cách nghiêm chỉnh". Ông có hàm hồ
không, mục đích vơ quàng vơ xiên của ông là gì, ông có hiểu là ông đang
viết cái gì không? Tôi muốn dùng một ý của Như Hạnh ở đây: "..tại
sao người ta lại có thể trơ tráo đến độ viết mà không biết là mình viết
cái gì."
"Trong bài thứ hai Trần Chung Ngọc bắt tay vào công việc đối chiếu
hai hệ thống tôn giáo lớn, Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo, trong khi không
có gì cho thấy tác giả họ Trần đã được học hành huấn luyện trong lãnh vực
tôn giáo đối chiếu (comparative religion) hay có kiến thức vững chắc về
hai tôn giáo này."
Bài thứ hai mà ông Dũng nói đến là bài "Quan Niệm Giải
Thoát Trong Phật Giáo và GiaTô Giáo". Bài viết
chỉ giới hạn trong quan niệm giải thoát của hai tôn giáo cho nên không
thể nói là "đối chiếu hai hệ thống tôn giáo lớn". Hơn
nữa, chắc ông cũng không đọc kỹ, vì trong đoạn mở đầu tôi có viết như
sau:
"Tuy nhiên, tôi cần phải minh định một điều: Bài khảo luận
này không phải là một bài thuộc môn học so sánh các tôn giáo, lại càng
không phải là một bài so sánh giáo lý Phật Giáo và GiaTô Giáo để phân
định đúng sai, hay dở. Chúng ta không thể nào so sánh, hay nói
khác đi, lấy một giáo lý làm chuẩn để phê phán một giáo lý khác, điều
mà John Paul II đã làm khi viết cuốn Crossing The Threshold of Hope,
vì từ tinh thần, triết lý cho tới các phương pháp hành trì, các tôn
giáo đều khác nhau. Bài này chỉ có mục đích duy nhất là trình bày
khách quan những sự khác biệt căn bản trong giáo lý giải thoát của
Phật Giáo và GiaTô Giáo, những mâu thuẫn tự tại trong các giáo lý này,
nếu có, để cho bạn đọc có thể có một ý niệm rõ ràng hơn về vấn đề giải
thoát trong hai tôn giáo."
Có gì có thể rõ ràng hơn, nhưng ông DND lại cố tình dựng lên một người
rơm để rồi tự tay quật nó xuống, nhất định cho rằng đó là một bài "đối
chiếu hai hệ thống tôn giáo lớn." Tôi chỉ có
thể nghĩ rằng, một là ông có đầu mà không có óc, hai là ông cố tình xuyên
tạc. Nhưng điểm đặc biệt trong câu trên không phải là sự xuyên tạc, mà
là trở lại cái định ý cũ: "không có gì cho thấy tác giả họ Trần
đã được học hành, huấn luyện trong lãnh vực tôn giáo đối chiếu hay cái
kiến thức vững chắc về hai tôn giáo này." Điểm
đặc biệt hơn nữa là tuy viết như trên nhưng ông DND không hề phân tích
và chứng minh những điều tôi viết về quan niệm giải thoát trong Phật Giáo
và GiaTô Giáo sai ở chỗ nào mà chỉ bàn toàn những chuyện ngoài lề.
Mục
đích của ông Dũng đã rõ ràng, ông chỉ nhắm vào chuyện mạt sát hạ thấp cá
nhân tôi, cho nên lôi những bài đâu đâu chẳng liên quan gì đến cuốn Đối
Thoại để phê bình theo trình độ hiểu biết của ông ta, chứ hoàn toàn không
phê bình những điều tôi viết trong cuốn Đối Thoại. Phần lớn phần phê bình
cá nhân tôi của ông Dương ngọc Dũng là để bênh vực thần tượng Như Hạnh
của ông ấy, nhưng có một câu để lộ cái kiến thức dỏm của Dương Ngọc Dũng
như sau:
"Tôi cho rằng Trần Chung Ngọc nếu tự cho
là mình hiểu về Thiền, đặc biệt là Thiền Tông Việt Nam, hơn Như Hạnh
để có thể phê phán tác giả này là thể hiện một thái độ hỗn xược của những
anh thợ điện đòi phê phán Einstein bằng cách hỏi Einstein có biết sửa
cầu chì trong nhà hay không"

Câu này đã để lộ cái dỏm của ông
DND. Không hiểu rõ về khoa học mà lại đòi ví von về khoa học. Anh thợ
điện học để sửa điện ở trong nhà, và 9 trên 10 anh thợ điện chưa bao giờ
nghe đến tên Einstein mà cũng chẳng biết Einstein là ai, còn Einstein là
một Vật Lý Gia lý thuyết, cha đẻ của thuyết tương đối, toan tính dùng thuyết
này để đi tới một lý thuyết về "trường hợp nhất" (Unified field
theory). Hai trình độ khác nhau thuộc hai lãnh vực khác nhau. Cho nên,
câu hỏi của anh thợ điện hỏi Einstein có biết sửa cầu chì không không phải
là hỗn xược mà là một câu hỏi ngu, tương tự như câu hỏi của một anh học
được vài ba cua về tiếng Pali, Sanskrit rồi hỏi các Thiền sư là có biết
tiếng Pali hay Sanskrit không? Chưa kể là về phương diện thực tế,
tôi tin rằng Einstein không những biết sửa cầu chì mà còn có thể giảng
tất cả những gì mà con người muốn biết về cầu chì, từ lý thuyết cho đến
thực hành, cho tới sự cấu tạo của các vật liệu làm cầu chì. Hơn nữa, một
người không cần phải học điện mới biết sửa cầu chì. Ở Việt Nam chỉ cần
nối lại cái dây chì giữa hai cực điện, hoặc nếu không có dây chì dùng tạm
miếng giấy nhôm nào cũng được. Còn ở Mỹ thì nhiều khi chỉ cần bật đi bật
lại cái cầu chì hay là mua cái khác thay là xong, chẳng cần phải sửa.
Kiến thức khoa học là một kiến thức thuộc loại tích lũy, có nghĩa là tùy
thuộc biết cái trước mới có thể hiểu được cái sau. Còn về học Thiền thì
có cần đến loại kiến thức tích lũy này hay không? Có cần phải đi học ở
Harvard để lấy vài cua về Thiền từ 101 tới 911 (từ thấp tới cao) mà từ
người dạy cho tới người học chẳng có ai có kinh nghiệm trực tiếp gì về
Thiền. Còn Trần Chung Ngọc thì chẳng cần phải học ở đại học Mỹ nào cũng
biết chút chút về Thiền Tông Việt Nam, biết không nhiều, chỉ vừa đủ để
phê phán cái biết của Như Hạnh về Thiền Tông Việt Nam thôi, cho nên không
thể ví von một cách lãng xẹt và dỏm như trên được. Hơn nữa, ông DND thử
đưa ra những luận cứ vững chắc để bác bỏ những điều tôi phê phán về Như
Hạnh xem nào. Ông chỉ có một luận điệu: Như Hạnh có bằng về Phật Giáo,
và Trần Chung Ngọc không có bằng cấp gì về Phật Giáo, nên không đủ thẩm
quyền để phê phán Như Hạnh. Luận cứ này, tôi đã chứng minh chỉ là một
hoang tưởng.
Chẳng cần nói về Phật Giáo, ngay ở ngoài đời này, nhiều người
bằng cấp đầy mình mà vẫn làm dưới quyền những người không có bằng cấp như
họ. Vậy cái tiêu chuẩn bằng cấp chỉ là cái tiêu chuẩn của một con chim
vừa mới đủ lông đủ cánh đã tự cho là bay cao nhất, hay của những kẻ “chưa
đỗ ông nghè đã đe hàng tổng”. Sau đây tôi sẽ luận về một điểm ông nêu
ra về Như Hạnh để xem cái cái bằng cấp dùng vào được việc gì trong vấn
đề hiểu biết và lý luận:
"Khi Như Hạnh nhận xét rằng
các bài thơ Thiền đời Trần có "nội dung rất là luộm thuộm " là
căn cứ vào "kinh nghiệm bản thân" đọc thơ Thiền của anh, căn
cứ vào sự thực khách quan nào để Trần Chung Ngọc bác bỏ lời nhận xét
này?"
Thứ nhất, Như Hạnh dựa vào cái gì để mà phê phán như trên? "Kinh
nghiệm bản thân"? Như Hạnh có kinh nghiệm tu chứng hay kinh nghiệm
làm thơ nào so với các Thiền sư đời Lý, Trần? Như Hạnh tốt nghiệp PhD
từ Harvard ra về cách dạy làm thơ? Cho là như vậy đi, nhưng thơ đây là
thơ Thiền, không phải là thơ của Nguyễn Chí Thiện. Vậy Như Hạnh có tư
cách gì để đưa ra một phê phán như trên? Chưa kể là lời phê phán trên
không có tính cách chuyên nghiệp (unprofessional). Vì sao? Vì thơ văn
là thuộc về nghệ thuật, không ai có thể dùng cái cảm xúc riêng của mình
để phê phán một tác phẩm thuộc nghệ thuật.
Tôi cho ông vài thí dụ: Tranh
của Picasso có bức bán cả triệu đô la. Tôi nhìn vào chẳng thấy gì là đẹp
so với mấy bức tranh thủy mạc của Tàu, giá chỉ vài đô-la. Tôi có thể viết
báo chê là tranh của Picasso vẽ dở ẹc như vẽ bùa, dựa trên "kinh nghiệm
bản thân" của tôi được không? Ngày xưa tôi ở cùng phòng với một anh
bạn, anh này rất thích nghe vọng cổ. Tôi thì lại thích nghe nhạc cổ điển
Tây phương. Môi khi tôi nghe một bản đại hòa tấu của Beethoven hay của
Richard Strauss thì anh kêu ầm lên là "Toa nghe
cái gì mà như gõ thùng thiếc bể, nhức cả đầu" Anh ta có dám viết
báo chê nhạc của Beethoven nghe như gõ thùng thiếc bể, dựa trên "kinh
nghiệm bản thân" của
anh ta hay không? Và nhạc của Beethoven thực ra có phải là nghe như gõ
thùng thiếc bể hay không? Cái thùng thiếc bể nó ở trong đầu anh ấy chứ
không phải ở trong nhạc của Beethoven.
Qua vài thí dụ trên, có gì bảo
đảm là đầu óc Như Hạnh không luộm thuộm? Rất có thể đầu óc Như Hạnh luộm
thuộm nên mới thấy những bài thơ Thiền trong thời Lý, Trần là có nội dung
luộm thuộm, trong khi cả trăm ngàn người khác lại thấy các bài thơ đó hay
và có nội dung siêu thoát. Không hiểu Như Hạnh đã đọc bộ "Văn
Thơ Lý Trần" xuất bản ở trong nước chưa? Ai đúng? Ai sai? Dựa
trên tiêu chuẩn nào để phân định đúng sai? Dựa trên bằng cấp? hay tiếng
Pali? Sanskrit? Như Hạnh có quyền cho những bài thơ Thiền đó là luộm thuộm,
nhưng khi anh viết báo phê phán như vậy để cho công chúng đọc thì công
chúng có quyền phê bình và coi anh như là làm công việc của một anh thợ
giầy đi lên trên nơi giầy dép. Đó là cái lý luận dựa trên sự thực khách
quan của tôi đấy.
Tôi chẳng có ác cảm gì với Như Hạnh, cũng chẳng có ác cảm gì với bất cứ
ai. Tôi biết Như Hạnh là người có tài, có một sở học vững chắc nhưng điều
này không có nghĩa là Như Hạnh không thể sai lầm. Nhưng Như Hạnh chưa
học được câu: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" của Nguyễn Du,
rồi lại được Nguyễn Văn Trung đôn lên làm bậc vô thượng thiên tài, không
hiểu rằng NVT lợi dụng anh để đập Phật Giáo, cho nên sinh lòng kiêu cao
mở miệng chê bai tất cả mọi người đồng đạo kể cả những người mà anh không
biết rõ, tự cho rằng sở học của mình là vô địch, kết quả là tự cô lập mình.
Đó là cái tâm làm hại cái tài. Tinh thần khiêm cung trong Phật Giáo không
tương hợp với cung cách xử sự của anh cho nên không coi trọng anh, còn
ngoại đạo chỉ tâng bốc anh để lợi dụng anh, tự ái của anh được ve vuốt
nên anh phát biểu một câu làm những người có đôi chút hiểu biết phải mỉm
cười: "..chỉ cảm thấy gần gũi, được hiểu biết khi ngồi với mấy
ông tu sĩ KiTô giáo hơn là mấy ông Thầy đồng đạo " Gần gũi thì
đúng rồi nhưng còn hiểu biết thì chỉ thuộc loại "kinh nghiệm bản thân" như
tôi vừa luận ở trên, mà "kinh nghiệm bản thân" của mấy ông tu
sĩ Thiên Chúa Giáo phần lớn chỉ là những kinh nghiệm được nhồi sọ trong
các trường Dòng để tuân phục Giáo Hoàng và Tòa Thánh cùng ngự trị trên
sự ngu tối của đám con chiên ít học.
Nhận xét thẳng thắn như trên của
tôi chỉ có một mục đích là mong Như Hạnh thay đổi thái độ, trình bày sở
học của mình qua những tác phẩm nghiên cứu đứng đắn và tránh việc chê bai
bất cứ một ai khác, vì chê bai người khác để tự đề cao mình là một hạ sách,
chỉ có phản ứng ngược lại. Được như vậy, sự đóng góp của anh cho văn học
Phật Giáo và dân tộc có thể rất là quý báu, và tên tuổi anh có thể có một
chỗ đứng trong nền văn học Việt Nam.
Sau đây chúng ta hãy đi thêm vào "nghệ thuật" trích dẫn của
ông DND.
Trong một đoạn dài tôi trích dẫn của Tiến sĩ Kimura Taiken, ông
DND trích ra hai câu nằm trong hai giai đoạn trong mạch tư tưởng của Kimura
Taiken để phê bình. Nhưng sự phê bình này lại để lộ ra cái trình độ hiểu
biết hời hợt về Phật Giáo, tuy rằng có thể ông thông thạo các cổ ngữ Phật
Giáo như Pali, Sanskrit để đọc những văn bản gốc của Phật Giáo.
Ông DND viết:
"Ngay trong đoạn văn Trần Chung Ngọc trích
dẫn cũng chứa nhiều sai lầm về lý thuyết giải thoát trong Phật Giáo: "Lập
trường chủ yếu của giải thoát quan trong Phật Giáo là vượt ngoài cõi
dục (dục giới)."
Cả Thích Quảng Độ, người dịch Kimura Taiken, và cả Kimura Taiken
đề không ý thức được rằng đối với giáo lý đức Phật, mục tiêu cuối cùng
của Phật Giáo là chấm dứt luân hồi, giải thoát ra khỏi vòng quay của
bánh xe sinh diệt (samsara) vượt qua cả ba cõi (dục giới, sắc giới và
vô sắc giới) chứ không phải chỉ vượt qua dục giới. Kimura Taiken (theo
Trần Chung Ngọc trích dẫn) nói về niết bàn một cách dễ dãi như sau:
"Mà Niết Bàn theo nghĩa đen là "dập tắt" nghĩa là dập tắt
hết mọi dục vọng tồn tại và lấy đó làm lý tưởng cứu cánh."
Nếu chúng ta nhận đây là định nghĩa duy nhất đúng về Niết Bàn thì làm
sao cắt nghĩa được sự mâu thuẫn khi Kimura Taiken viết tiếp là: "Cái
gọi là giải thoát, là Niết Bàn, nếu không có ích gì lợi gì đối với cuộc sống
thực tế, thì tự nó cũng không có nghĩa gì cả." Đã chấm dứt mọi khát
vọng tồn tại thì còn quan tâm đến cuộc sống thực tế làm gì nữa? Vấn đề ích
lợi hay không ích lợi đâu còn đặt ra! Nếu cho rằng giải thoát là "chấm
dứt mọi dục vọng tồn tại" thì vấn đề đạo đức hay từ bi mất hết lý do
tồn tại..."
Rõ ràng là ông DND không đủ trình độ để hiểu và nắm được mạch văn của
Kimura Taiken luận về giải thoát quan trong Phật Giáo dù ông ta đã học
được vài cua về tiếng Pali ở một đại học Mỹ. Kimura Taiken luận về "Đại
Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận" và trong đoạn văn tôi trích dẫn
không có cách nào mà một người có đôi chút hiểu biết về Phật Giáo Đại Thừa
có thể hiểu như ông DND phê bình ở trên. Để cho vấn đề được rõ ràng chúng
ta cần đọc lại đoạn văn trên với đôi lời giải thích. Tôi xin quý vị độc
giả thông cảm và đừng nghĩ rằng tôi coi thường trí tuệ của độc giả, tôi
chỉ có mục đích phản bác lập luận của ông DND mà thôi.
Chúng ta sẽ thấy
rằng Kimura Taiken đi từ thấp tới cao, đi từ cái "nghĩa đen" của
Niết Bàn (hữu dư hay vô dư Niết Bàn) để cuối cùng đi tới giải thoát quan
(vô trụ Niết Bàn) của Đại Thừa. Cái mạch tư tưởng của Kimura Taiken rõ
ràng như vậy nhưng tiếc rằng ông DND đã không nhận ra, vì vậy nên ông đã
trích dẫn vài câu lạc lõng để mà phê bình theo sự hiểu biết rất hời hợt
của ông.
Thật vậy, trước hết Kimura Taiken đưa ra một luận điểm trong giải thoát
quan của Phật Giáo Tiểu Thừa:
Lập trường chủ yếu của giải thoát quan Phật-giáo
là vượt ra ngoài cõi Dục (Dục giới). Phật Giáo không thừa nhận thế-giới-quan
Thần quyền, lại không thừa nhận cái "Ngã" cá nhân bất biến,
mà chủ trương hết thảy đều do nhân duyên hòa hợp mà hiển hiện, và sở
cứ của nhân duyên là ý chí của chúng ta. Do đó, nếu muốn được giải thoát,
con người phải cắt đứt mọi nhân duyên, nghĩa là diệt hết dục vọng của
ý chí. Theo các học phái khác, giải thoát tức là đưa cái tiểu ngã của
cá nhân trở về với Đại ngã của một đấng sáng tạo ra vũ trụ. Nhưng Phật
Giáo vì không thừa nhận Thần quyền, nên gọi giải thoát là Niết Bàn.
Mà Niết-Bàn theo nghĩa đen là "dập tắt", nghĩa là dập tắt hết
dục vọng tồn tại và lấy đó làm lý tưởng cứu kính. Các Kinh điển Đại
Thừa, nhất là Kinh Bát Nhã, đặc biệt thuyết minh về điểm này và mệnh
danh là "Không", "Không Không" rốt ráo là "Không",
đó là chân tướng của vũ trụ, và khi ta đã đạt được chân tướng ấy tức
là đạt đến giải thoát, đến Niết Bàn...
Sau đó ông sửa soạn cho lý tưởng Đại Thừa:
Các học phái khác lấy siêu nhiên
(supernatural) làm chủ nên không quá coi trọng đạo đức thế gian, nhưng
Phật thì lấy từ bi làm chủ, chuyên đứng về phương diện đạo đức để giáo
hóa loài người, đó là tiếng nói giải thoát. Tại Ấn Độ có nhiều tôn giáo
nhưng chỉ có Phật-Giáo là lấy toàn thể nhân loại làm đối tượng để truyền
giáo, và cũng chỉ có Phật Giáo mới có những giáo lý làm thỏa mãn nhu
cầu tinh thần của mọi hạng người..
Rồi đi xa hơn nữa, nên để ý câu mở đầu "Tiến thêm một bước
nữa", ông khai triển quan niệm "Ta Bà là Niết Bàn" trong
Phật Giáo Đại Thừa:
Tiến thêm một bước nữa mà khảo
sát thì Phật, theo một ý nghĩa nào đó, có thể được coi là một nhà đề
xướng hiện thực chủ nghĩa. Cái gọi là "giải thoát", là "Niết
Bàn", nếu không có ích lợi gì đối với cuộc sống thực tế, thì tự
nó cũng không có một ý nghĩa nào cả. Giải thoát hay Niết Bàn, theo Phật,
không phải chỉ có thể đạt được sau khi chết, mà trái lại, nó có thể được
chứng nghiệm ngay ở hiện tại, ngay trong giây phút, nghĩa là bất cứ trong
giờ phút nào ta cắt đứt được mọi mối ràng buộc của tham lam, của dục
vọng, khiến cho tâm hồn thanh thản, lâng lâng, tự tại, tự do, thì ngay
giờ phút đó ta đã đạt đến cảnh giải thoát chân thực rồi...
Do đó, trong Phật Giáo, nếu nói đến giải thoát mà phủ nhận giá
trị của thế giới hiện thực thì không những trái với đạo lý mà còn làm
hại cho chính Pháp rất nhiều. Nhưng đây cũng lại là điểm vô cùng khó
khăn, bởi lẽ vẫn sống trong thế giới hiện thực mà làm cách nào để đừng
bị mê hoặc, lôi cuốn theo, để tìm cầu giải thoát khỏi hiện thực là một
việc mà có lẽ không ai dám tự phụ làm một cách dễ dàng...
Coi đó ta thấy chủ nghĩa giải thoát của Phật Giáo, nếu chỉ nhìn
bề ngoài, có vẻ như một chủ nghĩa "không tịch", nhưng nếu căn
cứ vào nhân cách hoạt động của đức Phật, do nhân cách đó mà tìm hiểu
ý nghĩa chân thực của giáo lý Ngài, ta thấy Phật Giáo quyết không phải
lấy hư vô làm lý tưởng, đó là điều không một nhà học Phật chân chính
nào phủ nhận...
Và sau cùng ông thuyết minh về cái đặc trưng nhất quán của giải thoát
quan trong Phật Giáo, phù hợp với thuyết Chân Không Diệu Hữu trong Phật
Giáo:
Như thế chung cục nhận Phật là
vị Nhân-Cách-Thần, nhận Như Lai là chân ngã, rồi từ lập trường hiện tượng
tức thật tại mà xướng lên thuyết "tức thân thành Phật", cứ
như thế giáo lý Phật-giáo bắt đầu triển khai. Mà cái đặc trưng nhất
quán của chủ nghĩa giải thoát của Phật Giáo là ở chỗ tự mình tuyệt đối
mãn túc, rồi vì hạnh phúc của thế giới, vì sự tiến bộ của nhân loại,
đem hết sức mình ra làm việc với một tâm hồn thái nhiên tự nhược, nghĩa
là không đam mê, không cố chấp, luôn luôn thanh thản tự do trước mọi
hoàn cảnh.
Và đó là tóm tắt đại cương về giải thoát quan trong Phật Giáo. Chúng
ta thấy rằng sự trình bày về giải thoát quan của Tiến Sĩ Kimurai Taiken
rất sát với nội dung diễn tiến của Kinh điển Phật Giáo.
Tôi rất lấy làm buồn vì phải giảng cho ông "ứng viên tiến sĩ" DND
cách đọc một đoạn văn của Kimura Taiken, nhưng điều mà tôi không thể biết
được là, với cái sở học mà ông phô trường trong bài viết của ông như là
thông thạo tiếng Pali, Sanskrit để đọc những cổ phẩm Phật Giáo gốc, cùng
những "cua" ông học ở đại học về tôn giáo tỷ giảo hay gì gì
đó, có thể dùng vào được việc gì trong vấn đề am hiểu Phật Pháp?
Không những trích dẫn ngoài toàn bộ vấn đề (out of context) như trên, ông
DND còn dùng tới thủ đoạn thay đổi cả lời văn trong phần trích dẫn như
ta thấy trong câu sau:
Ông DND viết:
"Chính do chẳng có căn bản học vấn căn bản nào về tôn giáo
nào Trần Chung Ngọc mới viết một câu ngu xuẩn như sau về Thiên Chúa
Giáo: "Trong Gia Tô Giáo vì là một tôn giáo cứu rỗi, nên
vấn đề đạo đức KHÔNG ĐẶT RA."
Khi dùng chữ Gia Tô Giáo (Christianity) Trần Chung Ngọc cứ hiểu
lầm đây là một thực thể tôn giáo thống nhất trong khi thế giới tôn giáo
Thiên Chúa Giáo cũng cực kỳ phức tạp. Không hiểu là Trần Chung Ngọc
muốn nói đến Thiên Chúa Giáo La Mã (Roman Catholicism) hay Chính Thống
Giáo Hi Lạp (Greek Orthodox) hay Tin Lành (Protestant), vì hệ thống tín
lý của ba nhánh Thiên Chúa Giáo này rất khác nhau, thậm chí xung khắc
vì nhiều điểm nữa."
● Thứ nhất, trong câu ông DND trích dẫn ông đã thay đổi lời văn, tôi
cho đây là một thủ đoạn bất lương trí thức. Nguyên văn câu của tôi là: "Trong
Gia Tô Giáo, vì là một tôn giáo cứu rỗi, nên vấn đề đạo đức KHÔNG QUAN
TRỌNG, và con người chỉ cần đặt tất cả vào một niềm tin ở một đấng siêu
nhiên để mong cầu được giải thoát cho riêng mình." Ông
DND cắt ngắn câu trên và đổi "không quan trọng" thành "không
đặt ra", để xuyên tạc vấn đề và dựa vào đó mà
công kích. ("Không quan trọng" và "không đặt ra" hoàn
toàn khác nhau). Đây chính là sự bất lương trí thức của ông Dương Ngọc
Dũng.
● Thứ nhì, trong bài "Quan Niệm Giải Thoát Trong Phật Giáo và
Gia Tô Giáo", ngay từ đầu tôi đã dịch Christianity là Ki-Tô
Giáo để phân biệt với Gia Tô La Mã Giáo là Roman Catholicism. Hơn nữa
tôi còn đưa ra 7 tín lý đặc thù của Gia Tô Giáo trong đó có những tín
lý mà Chính Thống Giáo và Tin Lành không công nhận. Một người có đôi
chút hiểu biết về Ki Tô Giáo nói chung không thể nào lầm lẫn danh từ
Gia Tô Giáo tôi dùng là Christianity. Đây lại là một bằng chứng khác
về trình độ đọc sách của ông DND. Nhưng ông DND đã là "ứng viên
tiến sĩ" rồi, vậy tôi chỉ còn có thể hiểu rằng ông đã cố ý xuyên
tạc lời văn cùng áp đặt một điều ông bịa ra để từ đó ông đưa ra những
lời công kích cá nhân. Thủ đoạn này thật quả không xứng đáng với một
người mang danh trí thức, dù chỉ là một trí thức tự phong.
Tới đây tôi đã cảm thấy không còn muốn tiếp tục lý luận với một người
không biết lý luận, đặt vấn đề với một người không biết đặt vấn đề, và
nhất là đối đáp với một người đã phải dùng những tiểu xảo cắt xén và trích
dẫn xuyên tạc, bịa đặt. Cho nên tôi nghĩ bài phân tích của tôi tới đây
kể ra đã tạm đủ.
Qua bài phân tích trên tôi đã chứng tỏ rằng kiến thức
của ông Dương Ngọc Dũng về Phật Giáo cũng như về Ki Tô Giáo thật là quá
yếu kém. Nhưng điều đáng trách không phải là cái kiến thức yếu kém của
ông, vì con người ai ai cũng có thể học hỏi thêm để trau giồi kiến thức.
Điều đáng trách là ông DND không có tư cách của một bậc trí thức qua những
từ thiếu văn hóa mà ông dùng để hạ thấp hay mạ lỵ cá nhân một cách vô căn
cứ trong một bài phê bình, và qua những tiểu xảo cắt xén và xuyên tạc bản
văn của tác giả mà ông muốn phê bình. Với tư cách này, và với kiến thức
này, thì bất kể ông biết bao nhiêu ngôn ngữ cổ Phật Giáo, bất kể ông có
bao nhiêu bằng PhD ở bất cứ đại học nào, đối với tôi ông không phải là
người đáng để tôi phải kính trọng.
Kết Luận
Để kết luận, tôi xin có vài lời tóm tắt về những luận điệu phê
bình của ông Dương Ngọc Dũng.
Khi phê bình một cuốn sách hay một bài viết người ta thường xét đến
những điểm chính như văn phong, bố cục, nội dung và mức độ khả tín của
những tài liệu dẫn chứng, nếu có. Một phê bình gia có đôi chút văn hóa
không bao giờ chỉ trích cá nhân bằng những danh từ thiếu văn hóa, vì như
vậy là viết văn chợ đò chứ không phải là văn phê bình. Một phê bình gia
thường là người có uy tín trong lãnh vực mà họ phê bình, và khi phê bình
họ phê bình các luận điểm ở trong sách hay trong bài chứ không phê bình
cá nhân tác giả.
Ông Dương Ngọc Dũng đã không hội đủ những điều căn bản trên trong bài phê
bình của ông.
● Thứ nhất, bài "Ý Nghĩa và Vai Trò Trí Thức Trong Phật Giáo" dài
12 trang trong đó chỉ có chưa đầy 3 trang phê bình một vài quan niệm của
Như Hạnh, còn hơn 9 trang là để phê bình ông Nguyễn Văn Trung. Tuyệt nhiên
ông DND không đả động gì tới phần chính mà chỉ phê bình phần phụ, độc giả
thấy ngay đó không phải là một bài phê bình nghiêm chỉnh, mà chỉ là một
bài viết lên một cách hằn học để mạ lỵ tác giả bài ông phê bình vì đã dám
đụng tới một vô thượng thiên tài Phật Giáo, theo quan niệm của Nguyễn Văn
Trung, là Như Hạnh, người biết tiếng Pali, Sanskrit và có PhD từ Harvard
ra. Ông Dũng cho rằng sở học này là một bảo đảm về thẩm quyền am hiểu
Phật Pháp của Như Hạnh. Nhưng đây chính lại là một sai lầm căn bản trong
trình độ hiểu biết và trong cách lý luận của ông, như tôi đã vạch rõ trong
phần phân tích ở trên.
● Thứ nhì, ông DND không có sự lương thiện trí thức khi phê bình vì ông đã
phải dùng đến tiểu xảo cắt xén những câu ngoài toàn bộ vấn đề (out of context)
và thay đổi ngay cả chính bản văn để dựa vào đó mà công kích tác giả bài
mà ông phê bình. Tiểu xảo này không qua mắt được độc giả vì nó quá lộ
liễu và thấp kém.
● Thứ ba, ông DND đã dùng những danh từ thiếu văn hóa như "ngu xuẩn", "dốt
nát", "ngốc nghếch", "thối tha", "trình
độ kiến thức tiểu học", "trình độ tiểu học trường làng" v..v..
để hạ thấp các tác giả mà ông phê bình. Ông cho rằng những luận điểm của
ông là vô địch, và những danh từ dao to búa lớn của ông như trên là có
tác dụng trong diễn đàn trí thức hải ngoại. Nhưng ông không thể nghĩ ra
điều là nếu những luận điểm của ông, phản ánh trình độ hiểu biết của ông,
bị bẻ gẫy, như tôi đã chứng minh trong bài phân tích này, thì những danh
từ đó lại quật ngược về ông. Nó tương tự như một người đứng ngược chiều
gió ném tro vào mặt người khác.
● Thứ tư, ông DND đã viết những lời rất hỗn xược đối với các bậc tu hành
như Thích Nhất Hạnh, Thích Trí Tịnh, Thích Minh Châu, và Tam Tạng Pháp
Sư Tuyên Hóa, những người mà tôi nghi rằng ông DND không hề biết rõ và
không hề biết là những vị đó đã có những công cuộc hoằng Pháp như thế nào
ở trong nước hay ở ngoại quốc. Những vị này, vừa thông hiểu Phật Pháp
vừa hành trì Phật Pháp, có thể nói là đáng bậc Thầy của phần lớn những
giáo sư dạy về Phật học trong các đại học Âu Mỹ trong đó có đại học Boston
và Harvard.
Tôi không hiểu ông DND dựa vào đâu để phê bình các vị như
Nhất Hạnh và Tuyên Hóa là "dỏm" và "nói bậy bạ về Thiền" và
những kinh dịch bởi Thích Trí Tịnh hay Thích Minh Châu là không có giá
trị. Ông Dương Ngọc Dũng hãy cho độc giả biết ông đã có những tuyệt phẩm
nào về Phật Giáo, cũng như tên tuổi ông đã có chỗ đứng nào ở trong nước
cũng như ở ngoại quốc.
Và sau cùng, ông DND không phải là một phê bình gia được biết trong văn
đàn ngoại quốc. Lần đầu tiên tên ông xuất hiện với một bài phê bình mà
từ kiến thức cho đến văn phong không ai có thể xếp ông vào lớp những người
trí thức khoan kể là phê bình gia. Chưa kể là "xem văn biết người",
các độc giả có thể mường tượng được không ít về tư cách con người của ông,
và như vậy ông đã tự nhận mình xuống bùn.
Tôi không phiền mà cũng không trách phong cách phê bình thiếu chuyên môn,
thiếu văn hóa của ông DND như tôi vừa trình bày ở trên. Tôi hiểu rằng,
nếu ở ngoài đời có những thành phần xã hội làm nghề đi đánh nhau thuê thì
trong lãnh vực văn hóa cũng có thể có những người chỉ vì đồng tiền hay
hư danh mà phải làm nghề viết thuê, hay đứng tên thuê, để đánh phá người
khác bằng một văn phong mà người có văn hóa không ai dùng. Bởi vậy Nhà
Nước đã sáng suốt khi bảo ông hãy im đi đừng có viết bậy thêm nữa.
Trần Chung Ngọc
Grayslake, Illinois