| 17 tháng 5, 2008 |
LTS: Không phải vì bài viết của TS Trần Chung Ngọc khá dài, nhưng có lẽ do sự hứng khởi khi đọc bài của ông,
Sachhiem.net đã mạn phép tác giả đề tựa cho một vài đoạn như trình bày dưới
đây. Do đó sachhiem.net xin chịu trách nhiệm nếu đọc giả không hài lòng về ý nghĩa của một tiểu tựa màu đỏ nào đó trong bài. Còn lại, sachhiem hoàn toàn tôn trọng nội dung và ngôn từ của bài viết theo ý tác giả. (SH)

Con bò mộng Tây Ban Nha
Đảo vào Đàn
Chim Việt tôi thấy có bài “Tự Do Tín Ngưỡng” của Minh Võ. Là người
nghiên cứu về tôn giáo nên tôi tò mò muốn biết Minh Võ hiểu thế nào là “Tự Do
Tín Ngưỡng”. Ngay câu đầu tôi đã nhận ra ngay ý đồ đen tối của Minh Võ.
Điều
này không lạ, vì Minh Võ đã nổi tiếng là một con bò mộng màu đen Tây Ban Nha, cứ
thấy màu đỏ là húc càn bất kể sống chết, sống chết về trình độ kiến thức và về
phương diện lương thiện trí thức chứ không phải sống chết thân xác.
Về trình độ
hiểu biết của Minh Võ về chính cái đạo Công giáo của ông ta thì đó là những hiểu
biết thuộc thế kỷ 17. Về sự hiểu biết của ông về Phật Giáo thì không thể nói là
hiểu biết. Còn về các vấn đề linh tinh khác thì xin miễn phê bình vì không
ngoài lối truyền đạo rẻ tiền ấu trĩ cho nên có phê bình cũng chỉ phí thì giờ.
Vì Minh Võ viết bậy cho nên xin quý độc giả thông cảm nếu tôi phải dùng đến
những lời lẽ nặng nề. Ái ngữ không thể áp dụng đối với những con người như Minh
Võ mà phải vạch ra cái bộ mặt thật của ông ta.
Mở đầu bài
“Tự Do Tín Ngưỡng” Minh Võ viết:
“Bài này được viết nhân
đại lễ Vesak sắp được tổ chức trong nước, mà có người coi như một bằng chứng về
“tự do tôn giáo”.”
Và ở đoạn kết, ông Minh Võ đưa ra mấy câu hỏi:
- Với đại hội
Phật Giáo nhân dịp lễ Phật Đản sắp tới ở Việt Nam, Cộng Sản Việt Nam có chứng tỏ
được cho thế giới thấy rằng dân Việt ngày nay đã có tự do tôn giáo không?
- Liên Hiệp Quốc
có tiếp tay cho Cộng Sản Việt Nam làm việc đó không?
- Các ông Lê Mạnh Thát,
Thích Tuệ Sĩ, những tử tội của Cộng Sản một thời, có cùng với những Thích Nhất
Hạnh, Trần Quang Thuận, Trần Chung Ngọc v.v...và hàng trăm tu sĩ Phật Giáo khác
mới ly khai, hay bị khai trừ khỏi, giáo Hội Việt Nam Thống Nhất có đã đầu hàng
Việt Cộng, cùng với nhà nước CS chứng minh với thế giới rằng “giáo hội Phật Giáo
Việt Nam” trong nước mới là đạo thật, còn các giáo hội (Phật Giáo) khác không
được nhà nước cho phép hành đạo chỉ là tà đạo?
Tôi có thể nói ngay rằng chỉ có những người như Minh Võ mới có thể viết lên
những câu chứng tỏ trình độ hiểu biết quá thấp kém của mình và húc càn Cộng Sản
không phải chỗ, không phải lúc. Điều này cũng không lạ, vì một trí thức (sic)
Công giáo như Minh Võ thì chỉ có thể viết như vậy cũng như ông ta đã từng viết
láo lếu về ông Hồ Chí Minh trước đây mà tôi đã từng phê bình qua bài “Vài Nét
Về Cụ Hồ”. Về câu hỏi thứ nhất thì tôi bắt buộc phải giảng bài cho Minh Võ
như sau, nếu ông ta muốn học, nhưng tôi tin rằng có học ông ta cũng không hiểu,
vì trong đầu óc của ông ta đã đầy ắp hai chữ “Chống Cộng”, không còn chỗ nào để
mà tiếp nhận thêm những kiến thức mới, nhất là những kiến thức này lại không
thuộc loại chống Cộng cho Chúa:
Thứ nhất, Đại Lễ Vesak Tam Hợp Liên Hiệp Quốc
là một sinh hoạt văn hóa và tôn giáo của Liên Hiệp Quốc, đề ra cách đây 9 năm,
để kỷ niệm cùng lúc ba biến cố trọng đại trong cuộc đời của Đức Phật: Đản Sinh,
Thành Đạo, và Nhập Niết Bàn. Liên Hiệp Quốc đã chọn ngày Đức Phật Đản Sinh để
tổ chức Đại Lễ Tam Hợp, và coi ngày đó là Ngày Văn Hóa và Tôn Giáo Thế Giới,
để kỷ niệm và tôn vinh Đức Phật, một vĩ nhân văn hóa và tâm linh của nhân
loại, một bậc Đại Giác đã để lại cho hậu thế một giáo lý nhân bản, vị tha, từ
bi trong tinh thần hòa hợp, hòa bình, những điều mà thế giới vô minh hỗn
loạn đầy tranh chấp ngày nay cần đến hơn bao giờ hết.
Thứ nhì, ngày 29-5-2007, trong lễ bế mạc đại lễ Vesak LHQ ở Thái
Lan, Hoà thượng Dharmakosajarn đã căn cứ vào Hiến chương đại lễ Vesak Liên Hiệp
Quốc, công bố trước hơn 500 đoàn đại biểu Phật giáo thuộc 62 quốc gia rằng Việt
Nam là nước đăng cai Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc 2008, và Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát, Phó viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành Phố Hồ Chí Minh làm
Chủ Tịch Uỷ ban Tổ chức Quốc tế (viết tắt là IOC = International Organizing
Committee). Đây là một sự kiện có nhiều ý nghĩa đối với Việt Nam.
Thứ ba, chỉ có các
nước Phật Giáo mới được cái vinh dự tổ chức Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc. Thử
hỏi, nếu quốc gia Vatican, hay Ý, hay Pakistan đăng cai Đại Lễ Phật Đản thì có
được hay không? Đây là một Lễ Hội Tôn Giáo của Liên Hiệp Quốc đề ra, không liên
quan gì đến chính trị các chính thể. Mấy năm trước, Đại lễ Vesak được tổ chức ở
Thái Lan. Năm nay, 2008, Đại lễ Vesak được tổ chức ở Việt Nam. Chính thể và
chính trị của Thái Lan và Việt Nam khác nhau, điều này chứng tỏ tinh thần của
Đại Lễ Vesak là phi chính trị. Minh Võ có hiểu được điều này không?
Và thứ tư, người nào
mà cho rằng “Cộng Sản Việt Nam lợi dụng Đại lễ Vesak ở Việt Nam để chứng tỏ
cho thế giới thấy rằng dân Việt ngày nay đã có tự do tôn giáo”
thì đúng là một người mù
trước những cảnh sinh hoạt tôn giáo ở trong nước. Việt Nam không cần phải
chưng bất cứ bằng chứng nào, và cũng không cần phải chứng tỏ cho thế giới thấy
là Việt Nam đã có “tự do tôn giáo”. Có tự do tôn giáo hay không thì những sinh
hoạt tôn giáo của người dân đã chứng tỏ hơn gì hết. Việt Nam đã có tự do tôn
giáo từ lâu và hơn ở đâu hết.
Có nơi nào tự do
tôn giáo hơn là một ông Tổng Giám mục ở đó có thể huy động giáo dân kể cả con
trẻ, vác búa kìm và xà beng thắp nến cầu nguyện ăn vạ trước Tòa Khâm Sứ cũ ngày
này sang ngày khác. Có nơi nào tự do tôn giáo hơn là giáo dân được tự do phá
sập cổng sắt của Tòa Khâm Sứ. Ngoài ra, cứ đến ngày mà người ta cho là
Bà Mary đẻ ra đứa con Do Thái tên là Giê-su, thì người ta lại quảng cáo rầm rộ
trên TV, chăng đèn kết hoa, thiên hạ kéo ra chật cả đường phố trong “đêm thánh
vô cùng” [sic]. Có ai bị cấm đi lễ Nhà Thờ?
Có ai bị cấm đi lễ Chùa? Ngày mồng 5 Tết, có ai cấm người dân chen chúc nhau đi
lễ Hội Chùa Hương?
Hiển nhiên là “tự do tôn giáo” của người dân đôi khi
đã bị lạm dụng vì cuồng tín, vô minh, như vụ cầu nguyện với búa kìm và xà beng
trước Tòa Khâm Sứ. Xin đừng lẫn lộn tự do tôn giáo của người dân với “tự do tôn
giáo” [sic] của một số cá nhân có những hoạt động ra ngoài lãnh vực tôn giáo.
Tự do tôn giáo của người dân không thuộc loại
những hành động hung hăng và lời lẽ côn đồ trong Tòa của “Cha cũng như Chúa”
Nguyễn Văn Lý mà có một số người cuồng tín nô lệ ngoại bang và có thể Minh Võ
cũng cho đó là tự do tôn giáo.
Tự do tôn giáo của người dân cũng không
phải “tự do tôn giáo” của mấy ông mục sư Tin Lành muốn lập nước tự trị Dega trên
cao nguyên để ngự trị trên đám người yếu kém thiếu hiểu biết.
Tự do tôn giáo là
của cả tập thể tín đồ các tôn giáo, không phải là tự do tôn giáo của vài cá nhân
trong bất cứ tôn giáo nào. Một linh mục không
phải là Công Giáo. Một ông sư không phải là Phật Giáo. Một mục sư không phải
là đạo Tin Lành. Đó là những hiểu biết rất sơ đẳng về tôn giáo.
Câu hỏi mà Minh Võ đặt:
Liên Hiệp Quốc có tiếp tay cho Cộng Sản Việt Nam làm việc đó không? là một câu hỏi rất ngu, ngu vì không
hiểu Liên Hiệp Quốc là một tổ chức như thế nào, ngu vì đó là một câu hỏi không
bao giờ nên đặt ra vì nó xúc phạm đến uy tín của cả một tổ chức quốc tế và nó vô
lý và ấu trĩ đến độ chỉ có con chiên Minh Võ mới có thể đặt ra như vậy.
Và câu hỏi thứ ba của Minh Võ như sau thì lại càng ngu hơn
nữa:
- Các ông Lê Mạnh Thát, Thích Tuệ Sĩ, những tử tội
của Cộng Sản một thời, có cùng với những Thích Nhất Hạnh, Trần Quang Thuận, Trần
Chung Ngọc v.v...và hàng trăm tu sĩ Phật Giáo khác mới ly khai, hay bị khai trừ
khỏi, giáo Hội Việt Nam Thống Nhất có đã đầu hàng Việt Cộng, cùng với nhà nước
CS chứng minh với thế giới rằng “giáo hội Phật Giáo Việt Nam” trong nước mới là
đạo thật, còn các giáo hội (Phật Giáo) khác không được nhà nước cho phép hành
đạo chỉ là tà đạo?
Tôi có cảm tưởng rằng, trong cái đầu óc đã bị tê liệt bởi
thuốc phiện Công Giáo của ông Minh Võ, thì bất cứ ai không chống Cộng cho Chúa,
hay không chống Cộng chết bỏ, đều là thân Cộng hay đầu hàng Cộng cả. Vậy tôi
xin tặng ông Minh Võ nhận định rất chính xác của một ký giả, viết trên tờ OC
Register nhân vụ biểu tình chống báo Người Việt ở Cali như sau, và tôi tin rằng
câu này áp dụng cho ông Minh Võ thật chẳng sai chút nào:
Những người biểu tình chống đối có biết rằng trong thế giới ngày nay mà lên án
một người nào đó là cộng sản thì thật là ngu xuẩn như thế nào không? Nó đã quá
lỗi thời và chứng tỏ rõ ràng là các người thiếu giáo dục.
[Do you protestors realize
how ignorant it sounds to utilize and accuse someone of being a communist in
today's world? It's outdated and clearly demonstrates your lack of education.]
Tôi đã từng khẳng định một lập trường trong bài
“Những Thắc Mắc cần Được Giải Đáp” đăng trên
sachhiem.net, và nay lại xin xác định lại lập trường
đó: “Bất cứ người nào chụp lên đầu tôi cái
mũ Cộng sản tôi cũng xin sẵn sàng đội nó lên đầu. Nhưng đối với tôi thì người
đó chẳng qua chỉ là một tên ngu xuẩn và thiếu giáo dục.”
Bởi vì, ngày nay mà lên án một người nào đó là Cộng sản đã
là ngu xuẩn và thiếu giáo dục rồi, thì lên án người nào đó là thân Cộng hay làm
tay sai cho Cộng Sản thì còn ngu xuẩn và thiếu giáo dục hơn một mức nữa.
Tôi không có nói chơi mà sẽ chứng minh hẳn hoi. Tôi không
biết gì mấy về Lê Mạnh Thát, Thích Tuệ Sĩ hay Trần Quang Thuận, nhưng tôi biết
chút chút về Thích Nhất Hạnh và “biết khá nhiều” về Trần Chung Ngọc.
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Trước hết
chúng ta hãy nghe BBC nói gì về THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH [Xin đọc bài
Engaged Buddhism for 21th Century “Phật giáo dấn thân cho thế kỷ 21”
trên
www.Phusa.info]:
Thích Nhất Hạnh
là một thiền sư nổi danh trên thế giới, là một văn nhân, một thi nhân, một học
giả, mà cũng là một người đấu tranh cho hòa bình. Bên cạnh đức Đạt Lai Lạt Ma
thì Thầy là bậc đạo sư nổi tiếng nhất trên thế giới hiện nay. Ngoài ra Thầy
còn là tác giả của trên một trăm cuốn sách, trong đó gồm có những "xếp hạng bán
chạy nhất“ (bestsellers) như những cuốn Hòa Bình Từng Bước Chân (Peace
is Every Step), Phép lạ của sự Tỉnh thức
(The
Miracle of Mindulness), Chúa ngàn đời, Bụt ngàn đời
(Living Buddha Living Christ) và Giận (Anger).
Bài
trên Phusa.info viết về Thầy Nhất Hạnh dẫn 450 đệ tử từ khắp năm châu trong đó
có 380 đệ tử ngoại quốc từ 40 quốc gia về “đầu hàng” [từ của Minh Võ] Việt Cộng
[cái ngu của Minh Võ là không biết cả từ Việt Cộng là chỉ để chỉ những người
trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam khi xưa] nhân dịp Đại Lễ Vesak:
Từ ngày
05.05.2008 cho đến ngày 11.05.2008, từ khắp năm châu, 380 thiền sinh
và 70 vị xuất gia thuộc tăng thân Làng Mai đã đến Việt Nam tu tập chánh niệm
7 ngày tại Khách sạn Kim Liên, Hà Nội trước khi chính thức tham dự Đại Lễ Phật
Đản Quốc Tế 2008. Khách sạn Kim Liên là một trong những khách sạn có mặt bằng
rộng rãi nhất ở Hà Nội, rất tiện cho những sinh hoạt ngoài trời như đi thiền
hành, tập khí công và thái cực quyền cho 450 người. Ban ghi danh liệt kê được
40 quốc gia trong số 380 thiền sinh, chưa tính Việt Nam vì ban tổ chức đã cố
gắng tạo điều kiện để một số nhỏ Phật tử cư sĩ Hà Nội cũng được tham dự vào khoá
tu mang nhiều tính cách lịch sử tại Hà Thành. Dưới đây là danh sách các quốc gia
và số lượng thiền sinh đại diện:
Australia (Úc): 35
thiền sinh; Austria (Áo): 1; Bangladesh:1; Belgium (Bỉ): 4; Brazil (Ba Tây): 2;
Bulgaria (Bun-ga-ri):1; Canada: 24; Chile (Chi-Lê): 1; China (Trung Quốc): 1
Danmark (Đan Mạch): 1; France (Pháp): 23; Germany (Đức): 25; Greece (Hy Lạp): 1;
Hong Kong: 14; Iceland: 1; India (Ấn Độ): 1; Indonesia: 7; Ireland (Ái Nhĩ Lan):
3; Israel (Do Thái): 3; Italy (Ý): 2; Japan (Nhật): 1; South Korea (Nam Hàn): 1;
Malaysia: 5; Mexico (Mễ Tây Cơ): 1; Nederlands (Hà Lan): 7; New Zealand (Tân Tây
Lan): 1; Norway: 3; Peru: 1; Qatar:1; Russia (Nga): 3; Singapour: 6; South
Africa (Nam Phi):1; Spain (Tây Ban Nha):3; Sweden (Thuỵ Điển): 4; Switzerland
(Thuỵ Sĩ): 8; Taiwan (Đaì Loan):3; Thailand (Thái Lan): 17; Tonga: 1; United
Kingdom (Anh): 24; USA (Mỹ): 136; Venezuela: 1; Vietnam: 8.
Tôi tự hỏi, một
khuôn mặt quốc tế như Thích Nhất Hạnh mà cả thế giới đều biết, không biết phải
đi “đầu hàng” [sic] “Việt Cộng” để làm cái gì? Chỉ có loại đầu óc chứa toàn bùn
như của Minh Võ mới có thể nói lên điều ngu xuẩn hết sức vô lý như vậy. Đây
không phải là vấn đề tự do ngôn luận mà là vấn đề xuyên tạc chụp mũ lố lăng.
Hơn nữa, từ “đầu hàng” chỉ có thể áp dụng cho những thế lực hay cá nhân đang ở
thế yếu, không có chọn lựa nào khác ngoài cách chịu đầu hàng. Có vẻ như tiếng
Việt của Minh Võ chưa được thông suốt cho lắm, thế mà viết hết bài nọ đến bài
kia, và có vẻ như Đàn Chim Việt không có Editor nào có khả năng, nên cho đăng
những bài quá thấp kém của Minh Võ như vậy.
Nhưng có bao nhiêu
người, thuộc những thành phần nào, ở đâu, tới Việt Nam dự Đại Lễ Vesak để, theo
Minh Võ, cùng
với nhà nước CS chứng minh với thế giới rằng “giáo hội Phật Giáo Việt Nam” trong
nước mới là đạo thật?
1/ Đại lễ Phật đản quốc tế lớn
nhất Việt Nam với số đại biểu chính thức là 3.500 người đến từ 75 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới.
2/ Hội thảo Phật giáo quốc tế lớn
nhất Việt Nam với số lượng đại biểu tham dự lên tới 5.000 người của 600 phái
đoàn đến từ 75 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Không hiểu Minh Võ có thấy cái
luận điệu hết sức ngu xuẩn và thiếu giáo dục của mình hay không khi viết những
câu rất ấu trĩ như trên?
Vài hàng về Trần Chung Ngọc
Còn về Trần Chung
Ngọc thì hơi khó nói, vì nói ra thì mắc cỡ. Nhưng có mắc cỡ cách mấy thì cũng
phải nói vì không thể bán rẻ lương tâm trí thức. Thật ra thì Trần Chung Ngọc đã
“đầu hàng” “Việt Cộng” từ tháng Tư năm 1975, và sau khi “đầu hàng” thì leo lên
máy bay Mỹ sang Mỹ làm dân tị nạn “Việt Cộng”. “Việt Cộng” lại có lòng tốt,
không đuổi theo sang Mỹ để bắt Trần Chung Ngọc phải “đầu hàng” lần nữa. Phải chờ
đến nay, nhờ ông Minh Võ cho phép, Trần Chung Ngọc mới lại có cơ hội để đi đầu
hàng Việt Cộng thêm một lần nữa. Dù vậy tôi nghĩ đến nát óc cũng không hiểu Trần
Chung Ngọc đầu hàng “Việt Cộng” (sic) để làm cái gì khi ông ta đã gần 80 tuổi và
đã hồi hưu từ một đại học Mỹ, sống với tiền an sinh xã hội (Social Security),
tiền hưu trí của đại học Wisconsin – Madison, và tiền phải lấy ra một số tối
thiểu hàng năm từ quỹ tiết kiệm sau khi được 70 tuổi rưỡi, không cần phải lãnh
lương của ông Bush để chống Cộng? Minh Võ quả thật đúng là con chiên Minh Võ.
Viết mà không biết mình viết cái gì.
Kiến thức thuộc thế kỷ 17
Bây giờ chúng ta
hãy sang mớ kiến thức thuộc thế kỷ 17 của Minh Võ về chính cái đạo Công Giáo của
ông ta. Minh Võ viết:
Tôi tin con người sinh ra được tự do và có quyền được hưởng tự do. Ngay cả
Thượng Đế cũng tôn trọng sự tự do đó của con người. Bằng chứng là có nhiều người
phủ nhận sự hiện hữu của Thượng Đế (hay Tạo Hoá), khước từ sự can thiệp của
Thượng Đế, nhất định không tuân theo những “giới răn” của Thượng Đế. Truyện bà
Evà ăn trái cấm trong Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo là một ví dụ.
Thứ nhất, câu trên vô nghĩa với đa số độc giả, vì tôi có
thể bảo đảm là Minh Võ không hề biết Thượng đế là ai mà chỉ nhắc lại như con vẹt
những điều ông ta bị nhồi vào óc từ nhỏ là:
Ngay cả Thượng Đế cũng tôn trọng sự tự do đó của con người. Minh Võ chưa hề đọc Cựu Ước để biết
Thượng đế của ông ta đã tôn trọng tự do của con người như thế nào. Sau đây là
một bài học cho Minh Võ về cách Thượng đế của ông tôn trọng tự do của con người,
và đây chỉ là một trong hàng trăm điều tương tự trong cái gọi là Kinh Thánh:
Phục truyền 13: 4-10: Các người phải theo Đức Chúa Trời của các
ngươi, sợ hãi Ngài, giữ các điều răn của Ngài, và tuân lệnh lời Ngài phán… Nếu
anh em, con trai, con gái, vợ yêu quý của ngươi, hay bạn ngươi, mà nói với
ngươi: “Chúng ta hãy đi thờ các thần khác” mà ngươi cũng như ông cha ngươi không
biết, những thần trong dân gian có khắp xung quanh ngươi, thì ngươi không được
theo hay nghe họ, cũng không được thương hại họ, không được để cho họ sống sót
hay che dấu họ, mà nhất định ngươi phải giết họ; ngươi là người đầu tiên phải
giết họ, rồi đến các người khác. Và ngươi phải ném đá cho đến khi họ chết.” [Bible, King James Version: You shall
walk after the Lord your God and fear Him, and keep his commandments and obey
His voice… If your brother, your son or your daughter, your wife of your bosom,
or your friend entices you saying: “Let us go and serve other gods which you
have not known, neither you nor your fathers, “of the gods of the people which
are all around you… you shall not consent to him or listen to him, nor shall
your eye pity him nor shall you spare him or conceal him, but you shall surely
kill him; your hand shall be first against him to put him to death, and
afterward the hand of all the people. And you shall stone him with stones until
he dies…”]
Đó là sự tôn trọng sự tự do của con người mà Thượng đế của
Minh Võ truyền xuống cho Moses để dạy giáo dân. Hãy thành thực mà nói, ông Minh
Võ có muốn cái thứ tự do này hay không? Vậy thì Minh Võ nói lăng nhăng cái gì
về Ngay cả Thượng Đế cũng tôn trọng sự tự do đó
của con người. Đúng là “ngu đạo” mà không tự biết.
Thứ nhì, mười điều “răn” [The ten
commandments], mà Commandment thì không phải là điều răn mà là mười điều ra lệnh
hay là mười “điều đe”, tuyệt đối không có sự tự do trong đó.
Thứ ba, Thượng đế là một sản phẩm do óc tưởng
tượng của người Do Thái trong thời bán khai để giải thích phần nào lịch sử của
họ, không phải là Thượng đế của cả nhân loại. Nhiều người, vào khoảng trên 4 tỷ
người, phủ nhận sự hiện hữu của Thượng Đế của Ki Tô Giáo, vì họ thấy quan
niệm Thượng đế của Ki Tô Giáo là một quan niệm hoang đường, không có bất cứ một
bằng chứng nào có thể chứng tỏ là có thật, và Ki Tô Giáo cũng không có cách nào
có thể chứng tỏ Thượng đế là có thật. Họ dạy tín đồ tin mà không biết Thượng đế
là như thế nào, đó chính là sự mù lòa tin bướng tin càn. Ông Minh Võ có thể cho
độc giả biết Thượng đế là cái gì, là đực hay cái, là người hay quỷ. Tôi xin
nhắc để ông Minh Võ biết rằng, Giáo hội Công giáo của ông đã đưa ra 23 thuộc
tính (attributes) để mô tả Thượng đế của ông. Ở đây tôi chỉ nêu ra vài thuộc
tính điển hình: không ai thấy được (invisible), không thể biết được
(unknown), không thể hiểu được (incomprehensible). Tin vào một cái gì
không thể thấy được, không thể biết được, không thể hiểu được, thì có phải là mù
lòa tin bướng tin càn hay không? Nhưng ông Minh Võ không nghĩ như vậy, ông
viết:
Khi đã nói đến tin thì đừng đòi phải có lý. Tín
ngưỡng đa thần còn cho ta thấy nhiều đối tựơng tôn thờ lạ lùng rất đa dạng,
chẳng hạn, đạo thờ thần Mặt Trời, thần Sấm, thần Bò (Vàng), thần rắn, thần Cây
Đa, và Ấn Độ (và một tỉnh nào đó ở Bắc Việt Nam) còn có cả thần Âm Vật (Yoni),
và Dương Vật (Linga) v.v...
Như vậy thì có phải là Thượng đế mà ông tin cũng chẳng khác gì các thần
Cây Đa, thần Âm Vật, thần Bò v..v.. Nhưng mà những Cây Đa, Âm Vật hay Bò là
những thứ có thể thấy được, có thể biết được, có thể hiểu được, và chắc chắn là
về phương diện đạo đức chúng còn đứng trên Thượng đế khá xa. Tại sao? Vì Cây
Đa, Âm Vật hay Bò chưa từng ra lệnh cho ai giết người, chưa từng ra lệnh cho
người thờ mình phải đi giết những người không chịu thờ mình như Thượng đế trong
Cựu Ước mà tôi vừa trích dẫn ở trên. Đó là sự khác biệt giữa tín ngưỡng đa thần
và tín ngưỡng độc thần hay thần độc. Chẳng có gì là lạ lùng khi con người tôn
thờ những thứ mà người ta thấy được, biết được, hiểu được. Lạ lùng chính là
những kẻ đi tôn thờ cái thứ không thấy được, không biết được, không hiểu được.
Thứ tư, Evà có được tự do không nghe lời
Thượng đế của ông Minh Võ không? Nếu Thượng đế của ông thực sự tôn trọng sự tự
do của Eva thì tại sao Thượng đế của ông lại trừng phạt Eva và tất cả loài người
vì cái tội hoang đường mà giáo hội của ông gọi là “tội tổ tông”. Chuyện Adam và
Eva chỉ là một huyền thoại của dân Do Thái vào thời bán khai, ngày nay mà người
nào còn tin vào cái huyền thoại này và dùng nó trong lý luận như Minh Võ thì nếu
gõ vào trán họ ta có thể nghe được một tiếng vang lớn. Giáo Hoàng John Paul II,
khi chấp nhận thuyết Tiến Hóa thì đã de-facto bác bỏ huyền thoại về Adam và Eva
rồi. Thế mà ngày nay Minh Võ còn ngu ngơ mang nó ra để mà viết trên một diễn
đàn truyền thông, tưởng rằng ai cũng ngu ngơ như các con chiên như mình hay sao?
Tiếp theo chúng ta hãy
sang phần kiến thức mà không phải là kiến thức của Minh Võ về Phật Giáo. Chủ ý
Minh Võ viết về Phật Giáo chỉ là để tán láo và lăng nhăng về những điều mà ông
ta chẳng hiểu gì hết. Thật vậy, ông ta khẳng định những điều ông ta viết lăng
nhăng “chỉ là quan điểm cá nhân, không dựa vào văn bản nào của Phật học.”
Viết về những quan niệm siêu đẳng trong Phật Giáo như Niết Bàn mà không dựa vào
văn bản nào của Phật Học thì có phải chỉ là viết láo hay không.
Minh Võ viết:
Về tín ngưỡng, tôi quan niệm đó là lòng tin của con người vào một đấng
linh thiêng, giác quan không cảm nhận được. Trí tuệ cũng không nhận thức được,
vì không giải thích được một cách khoa học bản chất của đấng ấy. Tin có một đấng
linh thiêng thì cũng tin ở một cõi linh thiêng, là nơi đấng linh thiêng ngự trị.
Nơi chốn linh thiêng ấy thường được gọi là Niết Bàn, Thiên Đàng, Cõi Vĩnh Hàng,
Miền Cực Lạc... tức nơi không còn sinh lão bệnh tử, không còn phải tái sinh hay
đầu thai vào một kiếp khác.
Một niềm tin như vậy bao hàm một niềm tin khác là
con người có hai phần hồn, xác. Khi chết thì xác về với cát bụi, vì từ cát bụi
mà ra. Còn hồn thì về với đấng linh thiêng đã tác tạo ra mình theo hình ảnh của
Người. Nói cách khác đã tin có đấng linh thiêng và cõi thiêng liêng, thì cũng
tin có linh hồn bất tử. Khái niệm đó thu gọn trong 4 từ sinh ký tử quy (Sống
gửi, thác về).
Khi để thiên đàng liền bên cạnh Niết Bàn là tôi đã tự ý hiểu rằng Niết Bàn
chính là cõi linh thiêng, là cõi vĩnh hằng, là miền cực lạc, không còn sinh lão
bệnh tử. Nhưng chắc sẽ có nhiều Phật Tử không thích lối pha trộn niềm tin như
vậy. Vì Đức Phật không bao giờ nói đến một đấng thiêng liêng nào. Và Phật tử
luôn coi Ngài chính là Đấng Thế Tôn. Mà chẳng phải riêng Ngài. Tất cả mọi người
nếu tu đắc đạo đều có thể thành Phật.
Đúng là Minh Võ đã viết lăng nhăng về những vấn đề tín ngưỡng qua cái hiểu rất
hạn hẹp của ông ta và rất mâu thuẫn. Ông ta cho rằng tín ngưỡng là lòng tin của
con người vào một đấng linh thiêng. Nhưng tín ngưỡng ở đây chỉ là tín ngưỡng
Công Giáo và con người ở đây chỉ là những con chiên vì chỉ có con chiên Công
giáo mới tin vào một đấng linh thiêng, đúng như Minh Võ viết: “Tin có một
đấng linh thiêng thì cũng tin ở một cõi linh thiêng, là nơi đấng linh thiêng ngự
trị”. Đây chính là niềm tin đặc thù của Công giáo, về Thượng đế của Công
Giáo và Thiên Đường, nơi Thượng đế của ông ta ngự trị, không phải của con người
trên thế gian trong các tín ngưỡng khác, nhất là Phật Giáo. Tại sao?
Vì Đức Phật không bao giờ nói đến một đấng thiêng liêng nào. Lý luận của Minh Võ hoàn toàn dựa theo niềm tin của Công giáo ở thế kỷ 17 và
đi đến điều hoang đường là cưỡng ép các tôn giáo khác cũng phải có cùng niềm tin
như Công Giáo. Khoan kể là khoa học ngày nay đã bác bỏ quan niệm về một phần
hồn riêng biệt, cho nên điều Minh Võ viết: Còn hồn thì về với đấng linh
thiêng đã tác tạo ra mình theo hình ảnh của Người, chỉ là một quan niệm đã
lỗi thời ở trong Cựu Ước, rằng Thượng đế đã sáng tạo ra loài người theo hình ảnh
của Người. Ngày nay, quan niệm có một đấng linh thiêng tác tạo ra con người theo
hình ảnh của đấng linh thiêng đó là một quan niệm rất ngớ ngẩn. Vì chính Giáo
hoàng John Paul II đã phải thú nhận trước thế giới là con người không phải là do
Thượng đế sáng tạo ra tức thời mà là do một quá trình tiến hóa lâu dài. Những
con chiên như Minh Võ không hề biết những tiến bộ ngay trong chính tôn giáo của
mình, không hề biết rằng những bậc lãnh đạo trong Công giáo đã từ bỏ những giáo
lý về tội tổ tông, sống lại, đồng trinh v..v.. từ lâu, nhưng vì thiếu lương
thiện trí thức nên vẫn dùng chúng để huyễn hoặc đầu óc của đám tín đồ thấp kém.
Vì cho rằng Phật Giáo cũng tin rằng có một đấng linh thiêng tác tạo ra con
người, và do đó có một cõi linh thiêng để đấng linh thiêng ngồi trên đó mà ngự
trị thế gian cho nên Minh Võ đã đánh đồng cõi linh thiêng đó của Công Giáo với
quan niệm về Niết Bàn của Phật Giáo. Nhưng Minh Võ đã không thể hiểu rằng, cõi
linh thiêng của Công Giáo là thuộc về niềm tin, niềm mong ước (Wishful thinking)
của các con chiên, còn Niết Bàn là kết quả của sự tu tập cá nhân trong Phật
Giáo. Phật tử không có ngồi đó mà mong sau khi chết được lên Niết Bàn như các
con chiên mong rằng chỉ cần tin vào Chúa của họ thì sau khi chết phần hồn của họ
sẽ lên cõi vĩnh hằng. Cho nên, cõi vĩnh hằng của Công Giáo không thể nào đặt
song song với Niết Bàn của Phật Giáo. Ở đây, tôi không muốn viết gì về Niết
Bàn. Tôi xin giới thiệu một bài Pháp dài 29 trang về Niết Bàn:
Niết-Bàn: Bản Chất và Mục Tiêu Giác Ngộ
của Tỳ Kheo Thích Nhật Từ trên
https://www.buddhanet.net/budsas/uni/1-bai/phap031.htm,
Tôi
chỉ giới thiệu thôi chứ tôi không tin là Minh Võ có thể hiểu được nội dung bài
này.
Còn về “cõi linh thiêng” hay “cõi vĩnh hằng” hay “thiên đường” của Công Giáo thì
chúng ta đã biết chính Giáo Hoàng John Paul II đã khẳng định chẳng làm gì có
những cõi như vậy trên các tầng mây, và chẳng phải là một trụ xứ cho bất cứ cái
gì. Nhưng Minh Võ thì vẫn mơ ước là sau khi chết thì phần hồn của ông ta sẽ
được về một nơi như vậy.
Tiếp theo, Ông Minh Võ đi vào mục đích truyền giáo.
Nhưng ông truyền giáo như thế nào? Ông đưa ra tên tuổi một số nhân vật Việt Nam
như Bảo Đại, Nguyễn Bá Cẩn, Ngô Khắc Tỉnh, Bàng Bá Lân, Phạm Đăng Sung, Trần
Bích Lan, Nguyễn Khắc Bình, Nguyễn Ngọc Hạnh, Vũ Thành An, Duyên Anh v..v.. theo
Công Giáo, và kể cả trường hợp Michael Gorbachev và nhà báo Ý Magdi Allam
mới theo Công giáo gần đây, làm như thể đó là một lý luận có giá trị tuyệt luân
để chứng tỏ Công Giáo là cái đạo đáng theo. Minh Võ khoe trường hợp của Magdi
Allam như sau Magdi Allam là một tín đồ Hồi Giáo đã để nhiều năm nghiên cứu
về tôn giáo, rồi sau cùng quyết định cải đạo sang Công Giáo. Điều đáng chú ý là
ông đã nhất định vận động để xin giáo hoàng Benedict XVI đích thân làm phép “rửa
tội”. Và giáo hoàng đã nhận lời. Điều này nói lên cái gì? Hồi giáo có cùng
một nguồn gốc với Công giáo, căn bản niềm tin giống nhau, vì vậy Allam xin Giáo
hoàng Benedict XVI đích thân làm phép “rửa tội” cũng không có gì là lạ. Cái lạ
là ở chỗ Allam chẳng có tội gì mà phải đi rửa và đó là vô minh. Vì “rửa tội”
chỉ là một nghi thức dựa trên một niềm tin hoang đường về “tội tổ tông”, một
luận điệu thần học đã bị bác bỏ hầu hết trên thế giới ngày nay. Nhắc lại,
chuyện Adam và Eva sa ngã tạo thành tội tổ tông chỉ là một huyền thoại của người
Do Thái trong thời bán khai, vậy ngày nay mà đi “rửa tội” thì có nghĩa gì?
Không phải là không có
lý do mà giám mục Tin Lành John Shelby Spong đã khẳng định trong cuốn
Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi
Không Thì Chết
(Why Christianity Must Change or Die) như sau:
" Nhân loại chúng ta không
sống trong tội lỗi. Chúng ta không sinh ra trong nguyên tội. Chúng ta không cần
phải rửa sạch cái tì vết của tội tổ tông trong lễ rửa tội. Chúng ta không phải
là những tạo vật sa ngã, mất đi sự cứu rỗi nếu không đi rửa tội.
Do đó, một đấng cứu thế có nhiệm vụ
khôi phục tình trạng tiền sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín
trước-thời-Darwin và một sự vô nghĩa sau-thời-Darwin."
(We human beings do
not live in sin. We are not born in sin. We do not need to have the stain of
our original sin washed away in baptism. We are not fallen creatures who will
lose salvation if we are not baptized.. A savior who restores us to our
prefallen status is therefore pre-Darwinian superstition and post-Darwinian
nonsense)
Giám Mục Spong còn
giảng rõ:
Chúng ta xuất hiện từ
một quá khứ tiến hóa, và chúng ta vẫn còn đang được tạo thành. Sự bất toàn của
con người là một dấu hiệu của bộ hành lý mà chúng ta mang trên mình như là những
kẻ sống sót của cái quá khứ lâu dài và khó khăn đó. [Giám mục Spong muốn nói về
thuyết “Chọn Lọc Thiên Nhiên” (Natural Selection) và “Thích Ứng Nhất Với Hoàn
Cảnh Xung Quanh” (Best Fit) để sống còn của Darwin. TCN] Chúng ta là những kẻ
mang trên mình “hạt giống di truyền ích kỷ” (the selfish gene), theo lời
của nhà Sinh Học Anh Quốc Richard Dawkins. Đây chính là sự mô tả đơn giản con
người. Đó là đặc tính của con người”.
Một đấng siêu nhiên
cứu chuộc đi vào trong thế giới sa ngã của chúng ta để khôi phục sự sáng tạo chỉ
là một huyền thoại của đạo thờ Thần (a theistic myth). Do đó,
chúng ta phải vứt bỏ cái vai trò “cứu thế” của Giê-su đi. Cái hình ảnh Giê-su
trong câu nói “như là một đấng, từ thiên đường xuống để cứu vớt chúng ta” không
còn một giá trị nào trong thế giới của chúng ta. Những quan niệm này cần phải
nhổ bật chúng lên từ gốc rễ, và vứt bỏ.
Nhưng trong khi quảng
cáo cho vụ cải giáo của Gorbachev hay Allam thì Minh Võ lại không biết rằng
chính giáo hoàng Benedict XVI đã nhiều lần thú nhận về sự suy thoái không
cơ cứu vãn của Công giáo và Tin Lành ở Tây phương. Theo những tin tức trên báo
chí trên thế giới và cả trên tờ thông tin chính thức của Vatican, tờ
L’Osservatore Romano, vào những ngày 27, 28 tháng 7,
2005, thì Benedict 16 đã lên tiếng phàn nàn như sau:
“Những tôn giáo chủ đạo ở Tây
Phương [Ki Tô Giáo] có vẻ đang
chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn cần đến Thiên
Chúa nữa.
Nhận xét của Ngài có vẻ bi quan và
rầu rĩ hơn GH tiền nhiệm là John Paul II, người đã than phiền về sự suy thoái
của đức tin trong các quốc gia phát triển và nói rằng điều này giải thích sự vật
lộn của Giáo Hội Ca Tô đối với vấn đề số người đi nhà thờ giảm rất nhiều trong
những năm gần đây.”
(ROME (Reuters, July 27,
2005) - Mainstream churches in the West appear to be dying as societies that are
increasingly secular see less need for God, Pope Benedict said in comments
published on Wednesday.
His outlook was even
glummer than that of his predecessor John Paul, who lamented the decline of
faith in the developed world and said it explained the Catholic Church's
struggle with falling attendance in the West in recent years.)
Cũng theo tin hãng
Reuters ở Rome thì Giáo hoàng Benedict XVI đã phải đau lòng mà chấp nhận một sự
thực: “Thật là khác lạ
trong thế giới Tây Phương, một thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một
thế giới mà con người càng ngày càng tỏ ra không cần đến Thiên Chúa, mà cũng
chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa. Những Giáo Hội gọi là 'truyền thống' xem ra
như đang chết dần.”
Theo một phúc trình mới đây của
Vatican thì trong một số nước phát triển, Giáo dân đi dự lễ ngày Chủ Nhật chỉ
còn khoảng 5%. Ngài nói thêm: Tuy nhiên không phải chỉ có đạo Công giáo bị
như vậy mà Giáo Hội Tin Lành cũng bị ảnh hưởng nặng hơn nữa trong thời điểm lịch
sử này. Không thấy có giải pháp nào mau chóng và thần diệu cả để cứu vãn giúp
Giáo Hội chúng ta cả.
(It is different in the
Western world, a world which is tired of its own culture, a world which is at
the point where there’s no longer evidence for a need of God, even less of
Christ," he told a meeting of clergy in the Italian Alps.
"The so-called
traditional churches look like they are dying," he said, according to a text
published by Vatican daily L’osservatore Romano.
Participation at Sunday
Mass in some developed countries was as low as 5 percent, a recent Vatican
report said.
"The Catholic Church is
not doing as badly as the big Protestant Churches but naturally it shares the
problem of this moment in historỵ" "There’s no system for a rapid change.”)
Như vậy thì việc cải
đạo của vài cá nhân như Gorbachev hay Allam có ý nghĩa gì đặc biệt?
Nhưng Minh Võ, khi đưa ra những thông tin về cải đạo lẻ
tẻ trên, đã quên mất một điều: giá trị của một tôn giáo không phải là ở chỗ
có bao nhiêu người theo và có ai theo, mà là ở chỗ giáo lý của tôn giáo đó như
thế nào và tôn giáo đó đã làm những gì cho nhân loại.? Giáo lý của Công
giáo nằm trong cuốn Kinh Thánh: Cựu Ước và Tân ước mà một nữ tín đồ Công giáo,
sau khi đọc xong, đã đề nghị phải bán giấu dưới quầy hàng [under the counter],
giống như những sách thuộc loại X. Còn Công giáo đã làm gì cho nhân loại thì
nằm trong lịch sử của Công Giáo.
Vậy thì tới đây tôi lại xin
nhắc lại một câu hỏi mà tôi đã nêu lên nhiều lần mà chưa có ai giải đáp. Hi
vọng ông Minh Võ có thể giải đáp cho tôi cũng như cho toàn thể độc giả thắc mắc
sau:
Tại sao Giáo hội Công giáo La Mã hữu thần
[tin có Thượng đế hay đấng linh thiêng] lại có một lịch sử ô nhục
đẫm máu nhất trên thế gian, mang trên bờ vai trên dưới 200 triệu sinh mạng vô
tội gồm già trẻ lớn bé, qua những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm
nay đối với nhân loại như những cuộc Thập Ác Chinh, những Tòa Hình Án Xử Dị
Giáo, những cuộc săn lùng và thiêu sống phù thủy, sử dụng những hình cụ tra tấn
man rợ nhất trong lịch sử loài người, với chính sách bách hại người Do Thái, kỳ
thị phái nữ, làm tiên phong hay theo gót thực dân để truyền đạo v.. v.. đến nỗi
chính giáo hoàng John Paul II đã phải xưng thú trước thế giới 7 núi tội ác của
Công giáo đối với nhân loại, trong khi các tôn giáo Đông Phương như Thích, Nho,
Lão vô thần [không tin có Thượng đế hay đấng linh thiêng], ra đời
trước Ca-Tô Giáo cả 5,6 trăm năm nhưng không hề làm đổ một giọt máu trong lịch
sử truyền đạo của mình ??
Ông Minh Võ múa gậy khoa học !
Cuối cùng,
tôi không tin rằng ông Minh Võ là một nhà khoa học. Không phải là một nhà khoa
học, không biết rõ vấn đề mà lại viết về khoa học để truyền đạo thì cũng giống
như anh thợ giầy cứ muốn đi lên trên nơi giầy dép. Để quảng cao cho nền văn
minh Ki Tô Giáo và Chúa của ông ấy, ông Minh Võ đã viết như sau:
"...Ví
dụ việc Thượng Đế tạo lập trời đất, vũ trụ và loài người trong 6 ngày rồi nghỉ
ngày thứ bảy. Thế mà cũng có hàng triệu, hàng tỷ người tin. Và đặc biệt là sự
tin tưởng vào điểu “ngớ ngẩn” ấy ngày nay đã trở thành nếp sống ngàn năm của cả
loài người không phân biệt tôn giáo: Tuần lễ có 7 ngày, trong đó ngày chủ nhật
(hay Chúa Nhật) là ngày nghỉ có ăn lương.
Riêng về Công Giáo, hay nói chung Ki Tô Giáo, không thể phủ nhận rằng nền văn
minh Tây Phương, nếu không nói là nền văn minh nhân loại, mang dấu ấn sâu đậm
của Ki Tô giáo. Chỉ nêu vài ví dụ: tuần lễ 7 ngày, lịch chung cho mọi nước là
lịch do giáo hoàng Gregorio 13 lập dựa theo thuyết trái đất xoay quanh mặt trời
của linh mục Copernicus (1473– 1543), tiền bối của Gallilée (1564–1642). (5)
Lịch sử nhân loại lấy Đấng Christ là trung tâm điểm. Những khúc quanh quan trọng
trong lịch sử đều có sự đóng góp chính của các khoa học gia Công giáo trong đó
có linh mục Copernicus, người Balan, xướng xuất thuyết trái đất xoay quanh mặt
trời, linh mục Lemaître phát minh thuyết Big Bang."
Công giáo có thói quen là cứ vơ vào mình những thứ
không phải của mình để tự đánh bóng. Nhưng với trình độ trí thức của thiên hạ
ngày nay, thì thủ đoạn này không qua được mắt ai. Sau đây là một chút kiến thức
về lịch Tây và tuần lễ 7 ngày mà ông Minh Võ cho là của Ki Tô Giáo dựa theo ngày
sinh của Giê-su và huyền thoại về Thượng đế của ông ấy sáng tạo ra vũ trụ muôn
loài trong 7 ngày:
Hầu hết các lịch
được tính theo ba chu kỳ của thiên nhiên: trái đất quay xung quanh trục Nam-Bắc
xác định thời gian của một ngày; mặt trăng quay xung quanh trái đất xác định
thời gian của một Tháng Ta; và trái đất quay xung quanh mặt trời xác định thời
gian của một năm.
Lịch Tây mà chúng ta dùng ngày nay không dính dáng gì đến
ngày sinh của Dê-su như những người Ki-tô Giáo thường tưởng. Có nhiều lý
do: thứ nhất, không ai biết ngày sinh của Dê-su là ngày nào; thứ nhì lịch
Tây ngày nay [chỉ bắt đầu được dùng ở Tây phương từ năm 1582, ở Trung Quốc
năm 1912, ở Nga Sô-Viết năm 1918 (Cuộc cách mạng Sô-viết tháng 10, 1917, theo
lịch Tây ngày nay thì thực sự xảy ra vào tháng 11)] dựa vào ngày sinh của
Dê-su là sai vì không phù hợp với Kinh Thánh; và thứ ba, ba chu kỳ chuyển
động thiên nhiên trên không dính dáng gì đến ngày sinh của Dê-su [khoan kể là
Kinh Thánh của Ki Tô Giáo không biết là trái đất có hình cầu và chuyển động quay
xung quanh mặt trời.].
Nói tóm lại, lịch được đặt ra chỉ là để đánh dấu
ngày, tháng, năm, và Ki-tô Giáo đã lấy một ngày sinh sai lầm của Dê-su để
làm một cái mốc thời gian cho lịch Tây ngày nay. Do đó, lịch Tây này chỉ là
một lịch thuộc loại tùy tiện, độc đoán của Ki-tô Giáo. Cũng vì vậy mà ngày
nay, tuy lịch Tây vẫn được dùng một cách phổ quát, hầu hết các học giả trên
thế giới đã bỏ từ B.C. (Before Christ) và thay thế bằng B.C.E. (Before Common
Era), và bỏ từ A.D. (Anno Domino = Year of Our Lord) và thay thế bằng C.E.
(Common Era) trong các tác phẩm lịch sử và các niên đại lịch sử. Trong bài
này tôi sẽ dùng các ký hiệu TTL (Trước Tây Lịch) và TL (Tây Lịch)
để chỉ các niên đại.
Có một điều lý thú
về một ngày lễ trọng của Ki-tô Giáo. Đó là ngày lễ Phục Sinh (Easter). Tín đồ
Ki-tô ăn mừng ngày lễ Phục Sinh, tưởng rằng ngày này được quy định theo lịch
Tây. Nhưng không phải. Ngày lễ Phục sinh được quy định dựa theo cả hai
lịch: Lịch Ta và Lịch Tây. Ngày lễ Phục Sinh được quy định vào ngày Chủ
Nhật đầu tiên sau ngày rằm đầu tiên (theo Lịch Ta) sau ngày Xuân Phân. Sau đây,
chúng ta sẽ tìm hiểu chút ít về lịch sử Lịch Ta và Lịch Tây.
Một chút về Lịch Ta và Lịch Tây
Ngay từ thế kỷ
14 TTL, thời nhà Thương, Trung Quốc đã quy định một năm Dương Lịch (lịch
theo mặt trời) gồm có 365.25 ngày [trước lịch của Julian bắt đầu trong thời đại
của Hoàng đế La Mã Julius Caesar vào thế kỷ 1 TTL, 13 thế kỷ. Lịch Julian cũng
quy định một năm Dương lịch gồm 365.25 ngày], và một tuần trăng là 29.50 ngày.
Con số đúng là 29.53059 ngày cho một tháng Ta. Do đó một năm theo lịch Ta, tính
theo 12 tuần trăng, chỉ có 354 ngày, ít hơn một năm theo lịch Tây là 11 ngày.
Vì thế, để cho phù hợp với con số 365 ngày, cứ 4 năm lại có một tháng nhuận 29
hoặc 30 ngày, và năm nhuận thường là có 383 hoặc 384 ngày. Người Trung Hoa
thường coi lịch của mình là Lịch Âm-Dương vì phối hợp cả hai: Âm Lịch và Dương
Lịch. Một sắc thái đặc biệt của Âm Lịch là tổ hợp 10 Can (giáp, ất, bính, đinh,
mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý) và 12 Chi (tý, sửu, sần, mão, thìn, tỵ , ngọ,
mùi, thân, dậu, tuất, hợi) thành 60 đơn vị để đếm (gọi tên) ngày, và trong hơn
3000 năm hệ thống đếm này vẫn không thay đổi. Tổ hợp Can-Chi được dùng để đếm
(gọi tên) năm có lẽ bắt đầu từ thời nhà Hán vào thế kỷ 2 TL, và tạo thành chu kỳ
60 năm cho các năm. Năm nay là năm Mậu Tý, sang năm sẽ là Kỷ Sửu. 60 năm sau
lại trở lại Mậu Tý, rồi tiếp theo lại là Kỷ Sửu v..v... Các nhà nghiên cứu lịch
còn cho thấy có bằng chứng chứng tỏ người Trung Hoa đã phát triển một hệ thống
lịch có chu kỳ là 19 năm, gồm 12 năm có 12 tháng Ta, và 7 năm có 13 tháng, với
tổng số là 235 tháng, giống y như hệ thống lịch phát triển bởi nhà thiên văn học
Meton ở Athens, Ai Cập, vào khoảng năm 430 TTL, nghĩa là lịch Metonic ra sau
lịch Tàu khoảng hơn một thế kỷ.
Lịch Tây mà chúng
ta dùng ngày nay gồm 365 ngày một năm. Nhưng trái đất không quay xung quanh mặt
trời đúng 365 ngày, mà cũng chẳng phải là 365.25 ngày như theo lịch đời nhà
Thương (thế kỷ 14 TTL) hay sau đó theo lịch Julian thời Julius Caesar (thế kỷ 1
TTL), mà là “365 ngày, 5 giờ, 48 phút, và 45.96768... giây”
Chuyển động quay
của trái đất, như chúng ta đã biết, xác định thời gian của một ngày. Nhưng
xếp những ngày thành từng tuần lễ 7 ngày thì không phải là do toán học (vì
365 ngày không chia đúng cho 52 tuần lễ, mỗi tuần 7 ngày, do đó mỗi năm dư ra
một ngày, tính theo tuần lễ) hay do huyền thoại sáng tạo của Ki-tô Giáo:
Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ muôn loài trong 6 ngày rồi nghỉ ngày thứ bảy,
điều mà ông Minh Võ viết trong bài, do đó không làm gì có ngày gọi là ngày “Chúa
Nhật”. Người Pháp gọi ngày đó là Dimanche, người Mỹ gọi là Sunday, có gì là
dính Chúa vào đây, Pháp và Mỹ là những nước Ki Tô Giáo, chỉ có những con chiên
Mít ngu ngơ không biết ngượng về cái dốt của mình mới gọi ngày đó là ngày “Chúa
Nhật”. Thật ra thì tuần lễ 7 ngày có nguồn gốc có thể dựa trên 4 kỳ của một
tuần trăng, mỗi kỳ 7 ngày thành 28 ngày (gần đúng) cho một tháng, hoặc dựa trên
con số thiêng liêng, số 7, của dân Babylone ngày xưa liên hệ đến 7 hành tinh như
chúng ta thấy trong bảng tên sau đây:
| Hành Tinh | Tên La-Tinh | Tên Pháp | Tên Anh | Tên Saxon |
| Sun | Dies Solis | Dimanche | Sunday | Sun’s Day |
| Moon | Dies Lunae | Lundi | Monday | Moon’s Day |
| Mars | Dies Martis | Mardi | Tuesday | Tiw’s Day |
| Mercury | Dies Mercurii | Mercredi | Wednesday | Wooden’s Day |
| Jupiter | Dies Jovis | Jeudi | Thursday | Thor’s Day |
| Venus | Dies Veneris | Vendredi | Friday | Frigg’s Day |
| Saturn | Dies Saturni | Samedi | Saturday | Saterne’s Day |
Năm 45 TTL, Julius
Caesar đổi mới lịch của La Mã và dùng lịch Julian, dựa trên một năm có 365.25
ngày (con số đúng ngày nay là 365.242199 ngày/1 năm). Vì mỗi năm, theo lịch
Julian, dư ra ¼ ngày nên cứ mỗi 4 năm lại có một năm 366 ngày. Nhưng so với con
số đúng thì lịch Julian mỗi năm lại dư ra 11 phút 14 giây. Qua nhiều thế kỷ,
những phút dư này tích tụ thành ngày, vào khoảng 7 ngày trong 1000 năm.
Dưới triều đại của
Giáo Hoàng Gregory XIII vào thế kỷ 16, số ngày dư ra là 10 ngày. Điều này làm
cho việc xác định những ngày Xuân Phân, Thu Phân, Hạ Chí, Đông Chí rất khó khăn.
Năm 1578, Giáo
Hoàng Gregory XIII bổ nhiệm một giáo sĩ dòng Tên rất giỏi về toán học,
Christopher Clavius, để nghiên cứu một hệ thống lịch sao cho đúng với các sự
kiện thiên văn xảy ra hàng năm. Lịch mới được công bố vào năm 1582. Trong lịch
này, Clavius đã bỏ đi 10 ngày dư, từ 5 đến 14 tháng 10, nghĩa là trong năm 1582,
ngày sau ngày 4 tháng 10 là ngày 15 tháng 10. Mặt khác Clavius dùng con
số 365.2422 ngày trong một năm, nghĩa là dư vào khoảng 25.96 giây mỗi năm, tính
ra thì cứ khoảng 2800 năm lại dư mất một ngày. Và đây chính là Dương Lịch mà
chúng ta dùng ngày nay.
Trở lại 10 thế kỷ
trước khi lịch Gregorian ra đời, trong thế kỷ 6, Giáo Hoàng John I truyền cho
linh mục Dionysius Exiguus nghiên cứu một bảng niên đại của Ki-tô Giáo về lịch
sử nhân loại, dựa theo ngày sinh của Dê-su [A Christian chronology of human
history, based on the date Jesus comes]. Vào thời đó, Dionysius Exiguus, thường
ghi các biến cố lịch sử theo ngày thành lập La Mã (AUC = Ab Urbe Condita). Ông
ta ấn định ngày sinh của Giê-su là ngày 25 tháng 12, 753 AUC, và thời đại của
Ki-tô (Christian Era) bắt đầu 1 tuần lễ sau đó, ngày 1 tháng 1, 754 AUC – ngày
Giê-su làm lễ cắt bì, theo phong tục Do Thái, khi Giê-su sinh ra được 1 tuần
lễ. Ngày 1 tháng 1 cũng là ngày mồng một đầu năm của lịch La Mã. Về sau, Ki-tô
Giáo lấy ngày 1 tháng 1, 754 AUC làm ngày 1 tháng 1 năm 1 [không có năm 0]. Do
đó không có một lý do nào để tính thiên niên kỷ theo ngày đó.
Nhưng vấn nạn
chính là Dionysius Exiguus đã lấy sai ngày sinh của Dê-su [thật ra thì cho tới
ngày nay, không ai biết ngày sinh của Dê-su là ngày nào]. Ông ta lấy ngày sinh
của Dê-su vào 4 năm sau khi Herod chết. Tuy các học giả không có một tài
liệu lịch sử nào về ngày sinh của Dê-su nhưng họ biết rõ năm Herod chết: năm 750
AUC hay năm 4 TTL. Kinh Thánh viết rằng Dê-su sinh ra trong triều đại của
Herod, và vì sự sinh ra của Dê-su mà Herod ra lệnh giết tất cả những đứa trẻ sơ
sinh dưới 2 tuổi ở Jerusalem. Như vậy thì Dê-su không thể sinh ra trong năm 1
mà phải là năm 4 TTL hay trước nữa. Chính
Giám Mục Ussher ở Ái Nhĩ Lan đã dùng
năm –4 (4 TTL) làm năm sinh của Dê-su và kết quả cuộc tính toán vô tiền khoáng
hậu có một không hai của ông ta là đặt ngày Thiên Chúa “sáng tạo” ra vũ trụ muôn
loài vào chính ngọ ngày 23 tháng 10, năm –4004(4004 TTL), và
ngày tận thế của
Ki-tô Giáo sẽ phải xảy đúng vào chính ngọ năm 1997, đúng 2000 năm sau ngày Dê-su
sinh ra đời, và 6000 năm sau ngày sáng tạo.
Nói tóm lại, về
bản chất, lịch Tây ngày nay chúng ta dùng chẳng có gì đặc biệt, chẳng qua chỉ là
một hệ thống để ghi các niên đại dựa trên sự chuyển động chính xác của trái đất
xung quanh mặt trời. Và lẽ dĩ nhiên, vì lịch này gần đúng nhất với những sự
kiện thiên văn như những ngày Xuân Phân, Thu Phân, Hạ Chí và Đông Chí, nên thế
giới dùng nó để ghi những mốc điểm có tính cách lịch sử, thuận tiện trong đời
sống xã hội chung, tuyệt đối không có nghĩa là liên hệ đến ngày sinh của Dê-su
như người ta thường tưởng và cũng chẳng phải là sản phẩm trí tuệ đặc biệt của Ki
Tô Giáo.
Tôi thực tình
không hiểu tại sao những người gọi là trí thức Công Giáo như Minh Võ luôn luôn
lại viết ra những điều sai lầm để đánh bóng giáo hội và Chúa của mình. Có vẻ
tất cả hầu như đều không đội trời chung với sự lương thiện trí thức. Đọc những
bài viết của họ chúng ta thấy rõ, đúng như Mục sư Ernie Bringas đã nhận định, họ
đều có một loại đầu óc cũ kỹ lỗi thời [an astrolabe mind], có một điểm mù tôn
giáo trong đầu [a religious blind spot] cộng với một sự đen tối trí thức
[intellectual darkness], cho nên kiến thức của họ về chính tôn giáo của họ thích
hợp với thế kỷ 17 hơn.
Tôi thật quả thấy rất tội nghiệp cho họ. Nhưng đó là
nghiệp của mỗi người, chúng ta đâu có thể làm gì được. Chúng ta thực tâm muốn
giúp họ để họ thoát ra khỏi cái vòng kim cô đã xiết chặt trên đầu họ từ lâu đời,
nhưng họ không muốn chúng ta vứt đi cái cặp nạng đã giúp họ lê lết trên cuộc
đời, và đó là quyền chọn lựa của họ mà chúng ta không thể làm gì hơn.
Các bài đối thoại cùng tác giả
▪
“ Sản Phẩm Trí Tuệ” của Nguyễn Anh Tuấn -
Trần Chung Ngọc
▪
“Sản Phẩm Trí Tuệ” Mới Của Nguyễn Anh Tuấn Về “Giáo H -
Trần Chung Ngọc
▪
“Tự Do Tín Ngưỡng” của Minh Võ -
Trần Chung Ngọc
▪
Ai Dám Tấn Công Đạo Chúa ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chiến Tranh ... Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ -
Trần Chung Ngọc
▪
Chu Tất Tiến: Here We Go Again -
Trần Chung Ngọc
▪
Chung Quanh Một Cuộc Tranh Luận Hào Hứng -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - “Cha Chung” là ai? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Các Vấn Nạn Cần Giải Quyết -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Căn Bản Đức Tin -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Kết Luận -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Lợi Ích ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Comments On John Paul II's Crossing the Threshold of Hope -
Trần Chung Ngọc
▪
Eh! Lữ Giang, alias Tú Gàn, Here we go again! -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Nguyễn Văn Lục -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Tú Gàn -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ Về Tiến Sĩ Nguyễn Học Tập -
Trần Chung Ngọc
▪
Một Trí Thức Không Biết Ngượng -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Bài “Niềm Tin ...” Của Trần Thị Hồng Sương -1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Mấy Câu Trả Lời của Ông Mục Sư NQM -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 ▪
>>>