| 28 tháng 11, 2008 |
LTS: Sachhiem.net thử thu gọn những câu Anh ngữ mà tác giả đã dịch Việt trong phần trích dẫn vào trong một miếng kẹp giấy . Người đọc chỉ cần rà chuột (mouse) lên nút sẽ thấy nguyên văn ngoại ngữ. Xin bạn đọc vui lòng cho biết nếu kỷ thuật này giúp cho bài viết cô đọng và các ý tưởng được liên tục hơn, hay đã làm trở ngại cho quí vị điều gì. Xin liên lạc qua email sachhiem@nventure.com
Vài Lời Nói Đầu:
Thỉnh thoảng tôi vẫn ghé vào trang nhà Tiếng Nói
Giáo Dân để lướt xem có bài nào lạ, hay khá hơn trước hay không.
Bài mà tôi đọc gần đây là bài “GIÁO HỘI TIÊN KHỞI: MỘT BIỂU TƯỢNG CHÓI LÒA
NHẤT VỀ Ý NGHĨA TRUYỀN THỐNG THÁNH CHIẾN TRONG CÁCH MẠNG TÂM LINH CỦA CÁC CHÍNH
GIÁO” của Nguyễn Anh Tuấn, một người đã được Tiếng Nói Giáo Dân
quảng cáo trước đây là “đã từng dùi mài kinh sử về chính trị học và tôn giáo
hơn 20 năm qua.”. Nhưng tôi đố ai hiểu được ông Nguyễn Anh Tuấn muốn nói gì
với cái đầu đề dài lòng thòng và tối mò mò như vậy.
Trước đây tôi đã phê bình “Sản Phẩm Trí Tuệ” [http://sachhiem.net/TCN/TCNdt/ TCNdt5.php]
của Nguyễn Anh Tuấn, nay đọc bài trên của ông, tôi quả thấy trí tuệ của ông
Nguyễn Anh Tuấn thuộc loại rất đặc biệt. Bài của ông Tuấn khá dài, và nội dung
không ngoài ca tụng Ki Tô Giáo là một chính giáo với những thuộc tính chỉ có
trong nền thần học của Ki Tô Giáo và trong đầu óc của những người như Nguyễn Anh
Tuấn, chứ không thể có ở bất cứ nơi đâu khác, đồng thời hạ thấp các tôn giáo
Đông Phương mà cái hiểu của ông Nguyễn Anh Tuấn về các tôn giáo Đông phương là
cái hiểu của một anh thợ giầy mà lại muốn đi lên trên nơi giày dép.
Điều làm tôi thất vọng là, ông Nguyễn Anh Tuấn là một trí thức Công giáo
nhưng ông ấy lại viết như một linh mục, viết ra những chuyện thuộc loại mê tín,
hoang đường trong Ki Tô Giáo. Truyền đạo bằng lừa dối để mê hoặc đám dân thấp
kém để tự tạo quyền lực thần thánh cũng như thế tục là nghề của các linh mục .
Nhưng một trí thức thì ít ra cũng phải có đôi chút hiểu biết và lương thiện
trí thức. Điều này tôi không thấy ở ông Nguyễn Anh Tuấn. Dù trình độ hiểu
biết có kém cỏi đi chăng nữa, nhưng khi viết lên một bài để phổ biến trong quần
chúng, ít ra chúng ta cũng phải cân nhắc những điều chúng ta viết. Trong thời
đại này, sự hiểu biết của quần chúng về các tôn giáo không còn như trong thời
Trung Cổ ở Âu Châu, và không phải tất cả người Việt Nam đều giam mình trong
những ốc đảo như Bùi Chu, Phát Diệm, hay Hố Nai, Gia Kiệm.. Cho nên, chúng ta
không thể muốn viết gì thì viết. Nhất là khi viết về các tôn giáo khác, chúng
ta lại cần phải cân nhắc kỹ hơn, không thể viết một cách nhập nhằng, đánh đồng
một cách rất sai lạc những quan niệm về tâm linh của các tôn giáo làm một. Tiếc
thay, những điều này chúng ta lại thấy trong bài của ông Nguyễn Anh Tuấn như tôi
sẽ chứng minh trong phần phê bình sau đây. Thật vậy, nội dung bài viết của ông Nguyễn Anh Tuấn đã được Tòa Soạn Tiếng
Nói Giáo Dân giới thiệu như sau:
Văn minh Tây phương ảnh hưởng bao trùm khắp thế giới,
nhất là văn minh khoa học và vật chất.
Văn minh tinh thần của Kito giáo đã nhào nặn, uốn nắn, và dẫn dắt thế giới và
đặc biệt là Âu châu từ 17 thế kỷ qua. Văn minh Kito giáo cũng là đối tượng
bị phê bình chỉ trích và chống đối kịch liệt ngay tại Âu châu và các nơi khác --
nhưng tinh thần Kito giáo vẫn là gốc rễ của tinh thần dân chủ, nhất là tại
Anh và Mỹ.
Thực ra tinh thần của Thánh Kinh Tân Ước và Cựu Ước
cũng không khác tinh thần Tam Giáo Đông Phương, nhưng qua bao thế hệ, các
tiên tri và chính Chúa Jesus đã nói như Đông phương, nhưng bằng ngôn ngữ Hy Lạp
và Do Thái, nên con người tưởng có sự khác biệt. Tuy nhiên các dòng Đạo Học
Đông phương chưa làm nổi bật được tinh thần nhập thế tích cực, cũng như tôn giáo
tương quan thế nào đến thế giới chính trị. Vì thế Giáo Hội Tiên Khởi của
Kito giáo chỉ là một "case study" để các học giả của Tam Giáo có cơ hội nghiên
cứu và đối chiếu giữa Kito giáo và Tam Giáo để cập nhật hóa tinh thần Tam Giáo
trong thế giới chính trị toàn cầu trên đà tiến hóa của văn minh Tây phương và
Đông phương.
Đọc những lời khoa trương ở trên, chúng ta thấy rõ sự cuồng tín của giáo
dân Việt Nam. Chúng ta cũng còn thấy rõ sự ngụy biện nằm trong sách lược Ki-Tô
hóa Á Châu của giáo hoàng John Paul II trong thiên niên kỷ 3, nhập nhằng đánh
đồng nền thần học Ki Tô Giáo với con đường tâm linh của các tôn giáo Đông
phương, nhưng vẫn đề cao những giá trị không hề có của Ki Tô Giáo, hay chỉ có
trên đầu môi chót lưỡi, như dân chủ, nhân quyền, nhập thế v..v… Cũng phải vậy
thôi, vì Ki Tô Giáo đã bị Âu Châu, cái nôi của Ki Tô Giáo trước đây, coi như đồ
phế thải. Vấn đề là Á Châu có sẵn sàng hốt những đồ phế thải của Âu Châu về làm
châu báu của mình hay không. Người Ki Tô Giáo Việt Nam, một thiểu số trong lòng
dân tộc, có vẻ như rất sẵn sàng, nhưng với tuyệt đại đa số người dân, tôi
nghĩ, sẽ không chấp nhận một thứ đồ phế thải đã tác hại không ít lên dân tộc và
tổ quốc.
Tinh thần Tam Giáo là tinh thần hài hòa giữa các tôn giáo khác nhau, còn
tinh thần của Cựu Ước và Tân ước là tinh thần độc tôn, ngoài ta ra không có ai
khác. Cựu Ước viết: “Ngươi không được thờ thần nào khác ngoài ta”; Tân
Ước viết, Giê-su phán: “Hãy mang những kẻ thù của ta, những người không muốn
ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt ta”. Vậy làm sao mà
tinh thần của Thánh Kinh Tân Ước và Cựu Ước cũng không khác tinh thần Tam
Giáo Đông Phương cho được. Chỉ có những người mà đầu óc không đội trời
chung với sự hiểu biết ngày nay về tôn giáo của nhân loại mới không biết rõ như
vậy, và lẽ dĩ nhiên những người này chưa bao giờ đọc Thánh Kinh của Ki Tô Giáo
cũng như chưa từng biết tinh thần của Tam Giáo: Thích, Nho, Lão, là gì. Đạo Phật
là Đạo của trí tuệ. Đạo Lão là Đạo hài hòa với thiên nhiên. Đạo Khổng cho
chúng ta một tập hợp các tiêu chuẩn đạo đức trong xã hội. Tất cả những tính
chất này đều không có trong Ki Tô Giáo, tôn giáo của đức tin, tin không cần biết
không cần hiểu, và là tôn giáo tàn bạo đẫm máu nhất thế gian. Cho nên, Tiếng
Nói Giáo Dân chỉ viết bậy.
Nhưng muốn khoa trương thế nào thì khoa trương, bất kể là Ki Tô Giáo có là
chính giáo hay không, bất kể là cái gọi là “văn minh Ki Tô Giáo” [sự thực thì Ki
Tô Giáo đã hủy diệt văn minh trong quá khứ và còn đang tiếp tục hủy diệt văn
minh qua những giáo điều đã lỗi thời] như thế nào, không ai có thể phủ nhận tình
trạng suy thoái thê thảm của Ki Tô Giáo ở Âu Châu qua những nhận định của Giáo
Hoàng Benedict XVI như sau:
Benedict XVI đã nhiều lần thú nhận về sự suy thoái không cơ cứu vãn của
Công giáo La Mã và Tin Lành ở Tây phương. Theo những tin tức trên báo chí trên
thế giới và cả trên tờ thông tin chính thức của Vatican, tờ L’Osservatore
Romano, vào những ngày 27, 28 tháng 7, 2005, thì Benedict XVI đã lên tiếng
phàn nàn như sau:
“Những tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương [Ki Tô Giáo] có vẻ
đang chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn cần đến
Thiên Chúa nữa.
Nhận xét của Ngài có vẻ bi quan và rầu rĩ hơn Gíáo Hoàng tiền nhiệm là
John Paul II, người đã than phiền về sự suy thoái của đức tin trong các quốc
gia phát triển và nói rằng điều này giải thích sự vật lộn của Giáo Hội Ca Tô
đối với vấn đề số người đi nhà thờ giảm rất nhiều trong những năm gần đây.”
Cũng theo tin hãng Reuters ở Rome thì Giáo hoàng Benedict XVI đã phải đau
lòng mà chấp nhận một sự thực: “Thật là khác lạ trong thế giới Tây Phương,
một thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới mà con
người càng ngày càng tỏ ra không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến
Chúa Giêsu nữa. Những Giáo Hội gọi là 'truyền thống' xem ra như đang
chết dần.”
Theo một phúc trình mới đây của Vatican thì trong một số nước phát
triển, Giáo dân đi lễ ngày Chủ Nhật chỉ còn khoảng 5%. Ngài nói thêm: Tuy nhiên
không phải chỉ có đạo Công giáo bị như vậy mà Giáo Hội Tin Lành cũng bị ảnh
hưởng nặng hơn nữa trong thời điểm lịch sử này. Không thấy có giải pháp nào mau
chóng và thần diệu cả để cứu vãn giúp Giáo Hội chúng ta cả.
Ngày 9 tháng 4, 2007, Giáo hoàng Benedict XVI lại cảnh báo là
“Âu Châu có vẻ như sẽ mất đức tin trong tương lai, và gọi những người Âu Châu
chỉ muốn có ít con là theo “chủ nghĩa cá nhân nguy hiểm” [trong khi cả thế
giới đang lo nạn nhân mãn và cổ súy hạn chế sinh đẻ] Giáo hoàng nói: “Bất
hạnh thay, chúng ta phải ghi nhận là Âu Châu có vẻ như đang tuột xuống một
con đường có thể đưa Âu Châu đến sự giã từ lịch sử” [Ki Tô Giáo vẫn cho
rằng lịch sử Âu Châu là lịch sử Ki Tô Giáo]
Các giáo hoàng John Paul II và Benedict XVI than phiền về sự suy thoái
của Ki Tô Giáo nói chung, Ca Tô Giáo Rô Ma nói riêng, kể ra là đã quá muộn. Sự
suy thoái của Ki Tô Giáo không chỉ mới xẩy ra trong triều chính của mấy ông này
mà đã xẩy ra từ lâu, từ nhiều thập niên trước, nếu không muốn nói là nhiều thế
kỷ trước.
Thật vậy, chúng ta còn nhớ: trong cuộc Cách Mạng 1789, “Pháp, trưởng
nữ của giáo hội Ca-Tô đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, đã tàn sát trên
17000 Linh Mục, 30000 Nữ Tu [sơ] và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi Trường Dòng,
Trường Học Ca Tô, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội v..v..
[Xin đọc The Decline and Fall of The Roman Church của Linh mục Dòng
Tên Malachi Martin, Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã
phục vụ trong Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, trang 196:
]
Từ những sự kiện bất khả phủ bác trên, nếu đúng như Tòa
Soạn Tiếng Nói Giáo Dân khoa trương: “Văn minh tinh thần của Kito giáo đã
nhào nặn, uốn nắn, và dẫn dắt thế giới và đặc biệt là Âu châu từ 17 thế kỷ
qua.”, thì chúng ta bắt buộc phải đặt một câu hỏi: Tại sao lại có tình
trạng suy thoái thê thảm của Ki Tô Giáo ở Âu Châu như vậy? Vậy thực chất cái
gọi là “Văn minh tinh thần của Kito giáo” là cái gì? Ki Tô Giáo
có thực sự là văn minh không, văn minh như thế nào mà con người lại đang từ bỏ
nó? Tôi sẽ cố gắng đưa ra những giải đáp xuyên qua phần phê bình một số đoạn
trong bài viết của ông Nguyễn Anh Tuấn sau đây.
Vấn đề đối với một số trí thức Công Giáo Việt Nam là họ
không biết ngượng. Vì không biết ngượng cho nên họ thường tỏ ra là thiếu sự
lương thiện trí thức, không có liêm sỉ, nên cứ huênh hoang phô bầy những điều
gian dối về đạo của họ. Nhớ lại trước đây, khi ông trí thức Công giáo Nguyễn
Văn Lục viết bài “Người trí thức phải biết ngượng” thì có nhiều độc giả
đã phản ứng. Điển hình là hai phản ứng sau đây:
Do Thi, France: Còn đám "trí thức Ky-tô giáo",
nói riêng ? Khi đã đọc Bible (được gọi là "Kinh Thánh") mà không biết ngượng
thì cũng là điều đáng nể thật.
Dr. Nguyen, San Jose - CA/USA: Nếu quả thực
rằng "Trí thức phải là người biết ngượng", xin mạn phép hỏi tác giả Nguyễn Văn
Lục rằng tại sao các "trí thức Công Giáo" không bao giờ tỏ ra rằng họ "biết
ngượng" hết ?
Nếu các "trí thức Công Giáo" có can đảm đối diện với sự
thực thì họ đã phải "biết ngượng" rằng Công Giáo, mà giáo lý độc đoán và bất
khoan nhượng như được mô tả rõ ràng chi tiết trong Thánh Kinh, chính ra đã là
cha đẻ của mọi chủ thuyết độc tài và cực đoan khác trong đó có Chủ Nghĩa
Cộng Sản. Nếu họ đã từng có chút đầu óc suy xét thì đã họ phải "biết ngượng"
rằng họ đã dại dột đi theo một tôn giáo tay sai ngoại bang và là thủ phạm chính
trong việc kéo đất nước và dân tộc xuống vũng bùn của 100 năm nô lệ thực dân
Pháp. Và nếu họ có chút liêm sỉ tối thiểu thì họ đã "biết ngượng" rằng họ chỉ là
một thiểu số nhỏ nhoi ở Việt Nam, nhưng mà suốt đời họ chỉ muốn áp đặt quyền lợi
của giáo hội Công Giáo lên trên quyền lợi của đại đa số người Việt.
Xin tác giả Lục vui lòng trả lời! Cám ơn.
Nay đọc bài của ông Nguyễn Anh Tuấn, tôi thấy hai nhận
xét trên có thể áp dụng cho ông NAT mà không sợ sai lầm. Tôi sẽ chứng minh
trong phần phân tích sau đây. Bài của ông Tuấn khá dài, tới 50 trang, viết lăng
nhăng về những điều mà ông ta hoặc không hiểu, hoặc hiểu sai. Tuy nhiên, trên
thực tế, tôi chỉ cần phê bình một câu mở đầu của ông NAT là cũng đủ để bác bỏ
mọi lý luận của ông ta trong suốt bài. Nhưng để cho bài viết tạm gọi là
tương đối đủ, tôi sẽ tô điểm thêm vài chỗ để chứng tỏ kiến thức của ông NAT về
chính đạo của ông ta thật sự không thể gọi là kiến thức.
*
Ông Nguyễn Anh Tuấn (NAT) mở đầu bài viết bằng câu:
NAT: Từ 2000 năm qua, Chúa Jesus đã
gởi Giáo Hội của Chúa đến với thế nhân trong thế giới hữu hình này. Đó là
đặc tính NHẬP THẾ TỊCH CỰC của Giáo Hội theo tinh thần Kito giáo.
TCN: Ki
Tô Giáo có 3 giáo hội: Công giáo, Chính Thống, và Tin Lành. Cả 3 giáo hội này
thù nghịch nhau, chém giết lẫn nhau như lịch sử đã viết rõ. Ngày 24 tháng 8,
1572, trong cuộc tàn sát vào ngày Thánh Bartholomew, Công giáo giết 10000 người
Tin Lành. [Xin đọc :
”The Dark Side of Christian History” của Helen
Ellerbe]; Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Công giáo ở Croatia giết 700000 người Chính
Thống và Gypsies. [Xin đọc
“The Vatican Holocaust” của Avro Manhattan].
Tin Lành và Công giáo vẫn còn giết nhau lai rai ở Bắc Ái Nhĩ Lan. Vậy giáo
hội nào là “giáo hội của Chúa”?
Và “thế nhân” có cần đến cái loại tôn giáo
này không? Nhưng vấn đề
chính là, chỉ bằng vào một câu trên và vài câu khác của ông Nguyễn Anh Tuấn, tôi
có thể biết chắc là ông Tuấn chưa hề đọc cuốn Tân Ước, hoặc chỉ đọc ít câu lặt
vặt lạc lõng trong Tân ước chứ chưa hề đọc kỹ Tân Ước.
Bởi vì, nếu đọc kỹ
Tân ước, thì chúng ta phải biết rằng Chúa không hề có ý định thành lập một giáo
hội, cho nên không có giáo hội nào có thể gọi là “giáo hội của Chúa” để Chúa gửi
đến thế nhân. “Giáo hội của Chúa” là điều ngụy tạo của giáo hội Công giáo
để tạo quyền lực tâm linh trên đám tín đồ thấp kém ở dưới. Chứng minh?
Chúng ta đã biết, Giáo hội Công giáo dạy tín đồ rằng: “Giáo hội Công
giáo của họ là do Chúa Giê-su thành lập, truyền lại cho Tông Đồ Phê-Rô làm Giáo
Hoàng đầu tiên, và rồi các Giáo Hoàng kế tiếp là những người kế vị Phê-rô, là
đại diện của Chúa (Vicars of Christ) trên trần v..v…” Giáo hội đã
dựa vào câu trong Tân ước, Matthew 16: 18-19: “…Ngươi là Phê-rô, và
trên phiến đá này ta sẽ xây dựng giáo hội của ta, dầu các cửa hỏa ngục cũng
không chống lại được, Ta sẽ giao cho ngươi những chìa khóa nước trời: sự gì con
cầm buộc dưới đất, thì cũng cầm buộc trên trời, còn sự gì con tháo cởi dưới đất
thì cũng tháo cởi trên trời…”
để đóng vai trò kế vị Giê-su trong giáo hội do chính Giê-su lập ra,
đơn giản là có quyền năng muốn cho ai lên thiên đường thì cho, không cho ai thì
người đó phải chịu. Có ai tin được điều này không? Nếu có, gõ vào trán họ
chúng ta sẽ nghe được một tiếng vang lớn.
Nhưng ngày nay các học giả nghiên cứu Thánh Kinh đều cho rằng thuyết
Giê-su thành lập giáo hội, Phê-rô làm giáo hoàng đầu tiên v..v.. như trên
chỉ là luận điệu thần học ngụy tạo của Giáo hội, và các “bề trên”
trong Giáo hội đã dùng nó để nhốt các tín đồ, vốn không bao giờ đọc Thánh Kinh,
vào một ngục tù tâm linh, vì cái bánh vẽ trên trời nên phải tin tất cả
những gì giáo hội nói và tuyệt đối tuân phục các “bề trên”. Trong Công
giáo có cái gọi là “đức vâng lời”, nghĩa là “quên mình trong vâng phục”. Đó là
lời dạy căn bản trong Công giáo mà Giáo hoàng Benedict XVI mới nhắc lại gần đây.
Đối với các học giả nghiên cứu Thánh Kinh và đối với giới trí thức ở trong cũng
như ở ngoài giáo hội thì câu trên ở trong Tân Ước rõ ràng là được thêm thắt sau
này với mục đích thiết lập quyền lực tinh thần cũng như quyền lợi vật chất của
giới lãnh đạo Công giáo trước đám đông tín đồ thấp kém ở dưới. Thật vậy, các
chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh đã vạch ra rằng câu trên hoàn toàn mâu thuẫn
với nhiều đoạn trong Thánh Kinh, với tư tưởng của Giê-su, và nhất là không thích
hợp với tư cách của Phê-rô.
Đọc Tân Ước, chúng ta thấy rõ là những người viết Tân Ước đều tin rằng
Giê-su sẽ trở lại trần gian trong một tương lai rất gần, ngay trong thời điểm
của Giê-su. Thí dụ những đoạn sau đây đều được trích từ Thánh
Kinh: Cựu Ước Và Tân Ước, Hội Quốc Tế xuất bản, 1994; và Holy Bible: The New
King James Version, American Bible Society, New York, 1982:
Matthew 16: 27-28: “Ta (Con của Người: Giê-su) sẽ trở lại
với các thiên sứ trong vinh quang của Cha ta để thưởng phạt mỗi người tùy theo
việc họ làm. Ta cho các con biết: một vài người đang đứng đây sẽ còn sống
cho đến khi nhìn thấy ta vào trong Nước ta”.
Matthew 24:34: “Ta quả quyết, thời đại này chưa chấm dứt,
các biến cố ấy đã xảy ra rồi”
Mark 9: 1: Chúa bảo các môn đệ: “Ta cho các con biết, một vài
người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy nước trời thiết lập với uy
quyền vĩ đại”
Mark 13:30: “Ta quả quyết, thế hệ này chưa qua đi thì các biến
cố đó (các biến cố xung quanh ngày tận thế và sự trở lại của Giê-su.
TCN) đã xảy ra rồi”.
Luke 21: 27, 32: “Bấy giờ nhân loại sẽ thấy ta giáng xuống trong
mây trời với vinh quang và uy quyền tuyệt đối.. Ta quả quyết: thế hệ này chưa
qua, các biến cố ấy đã xảy ra rồi”.
John 14: 3: “Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho các con. Khi chuẩn bị
xong, ta sẽ trở lại đón các con về với ta để các con ở cùng ta mãi mãi.”
Qua những đoạn trích dẫn ở trên từ Thánh Kinh, chúng ta hãy tự hỏi:
Giê-su thành lập giáo hội và trao chức vụ giáo hoàng chăn dắt tín đồ cho Phê-rô
để làm gì khi mà ông ta tin rằng ngày tận thế gần kề, ngay trong thời của ông,
khi một số môn đồ của ông còn sống? Không những Giê-su tin như vậy, mà còn
truyền cho các Tông Đồ đi rao giảng về một “Nước trời” sắp đến, và chỉ được rao
giảng trong cộng đồng những người Do Thái, như được viết rõ trong Tân Ước. Như
vậy, có phải rằng giáo hội đã thêm thắt câu “..ngươi là Phê-rô, và trên phiến
đá này ta sẽ xây dựng giáo hội của ta…” vào trong Tân Ước để lừa dối tín đồ
là giáo hội do chính Chúa Giê-su thành lập và các giáo hoàng đều là những người
kế vị Phê-rô?
Nhưng mánh mưu trên không chỉ tạo quyền lực cho Giáo hoàng mà còn cho toàn
thể giới chăn chiên. Thật vậy, Giáo hội đã biến câu trên thành những quyền lực
thế tục rất hoang đường và láo lếu cho giới giáo sĩ. Thí dụ, trong nghi lễ
phong chức linh mục, ông Giám mục đặt tay lên đầu vị tân linh mục và phán:
“Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai thì họ được tha, cầm giữ
ai thì họ bị cầm giữ.” [Giáo Lý Công Giáo, Bản dịch của Hoài Chiên và
Nguyễn Khắc Xuyên, trang 231]. Theo tinh thần câu Chúa truyền cho Phê-rô ở
trên, điều này có nghĩa là các Linh mục nắm quyền muốn cho ai lên Thiên đường
thì cho, và lẽ dĩ nhiên, trong Công giáo, tập đoàn chăn chiên, từ Giáo hoàng
xuống tới các Linh mục, ai cũng đều nắm trong tay những chìa khóa của nước trời,
nếu có cái gọi là nước trời. Hiển nhiên đây là chuyện hoang đường nhất trong
những chuyện hoang đường, xét đến vấn đề đạo đức của một số không nhỏ thuộc
giới chăn chiên, từ các giáo hoàng xuống tới các linh mục. Nhưng chúng ta
cũng không thể phủ nhận là, chính điều này đã tạo nên một tâm cảnh sợ sệt, khúm
núm, quỵ lụy “bề trên”, “quên mình trong vâng phục” trong đám tín đồ thấp kém,
vì họ tin rằng các “bề trên” của họ thực sự nắm trong tay cái chìa khóa của nước
trời, một nước chỉ hiện hữu trong nền thần học của giáo hội để khuyến dụ tín
đồ. Thật ra thì, theo Giám Mục James A. Pike trong cuốn Một Thời Để Cho Sự
Ngay Thẳng Của Ki Tô Giáo [A Time For Christian Candor], trang 109:
Cái nhìn về thế giới của Giê-su là cái nhìn của thời đại đó. Quan
niệm về “Nước Trời” mà Giê-su thường nói đến đã được đưa vào đạo Do Thái từ 5
thế kỷ trước khi Giê-su sinh ra, do ảnh hưởng của Zoroaster
Thứ nhì, đọc kỹ Thánh Kinh, chúng ta còn thấy, sau khi trao chìa khóa
thiên đường cho Phê-rô (Matthew 16:19), chỉ 4 câu sau, Matthew 16: 23,
Giê-su gọi Phê-rô là Satan: “Chúa quay lại và nói với Phê-rô: “Hãy đi ra đàng
sau ta, Satan, ngươi là một sự xúc phạm đối với ta”
Cũng vì
sự mâu thuẫn và phi lý trong hai câu gần sát nhau trong Thánh kinh mà Lloyd
Graham đã bình luận như sau:
Như vậy là giáo hội Công giáo được thành lập bởi Phê-rô, người mà, chỉ
4 câu sau trong Thánh Kinh, Chúa gọi là Satan. Vậy, nếu giáo hội Công giáo
được thành lập bởi Phê-rô thì giáo hội đó đã được thành lập bởi Satan – một sự
kiện mà chúng ta đã nghi ngờ từ lâu.
(Xét đến lịch sử đẫm máu
đầy tội ác của Công giáo mà giáo hoàng John Paul II và Tòa Thánh Vatican đã
phải xưng thú 7 núi tội ác trước nhân loại và xin được tha thứ thì câu bình
luận của Graham ở trên không phải là không có căn bản. TCN).
Thứ ba, Thánh Kinh viết rõ, Phê-rô là mẫu người coi lời Chúa như không
có, phản phúc và hèn nhát. Trước ngày Giê-su bị bắt, Giê-su bảo Phê-rô hãy
thức cùng Giê-su để cầu nguyện cho Giê-su, và Giê-su đi ra chỗ khác cầu nguyện,
vì Giê-su cũng sợ chết, không muốn chết nên cầu cùng Chúa Cha:
“Cha ơi, nếu có thể đừng bắt con phải uống chén đắng này” [nghĩa là đừng
bắt con phải chết]
, nhưng khi trở lại thì Phê-rô đã ngủ khì (Matthew
26: 40).. Khi Chúa bị bắt, vì sợ bị kết tội đồng lõa, Phê-rô đã ba lần chối
Chúa, thề là không hề biết Chúa (Matthew 26: 70, 72, 74: Then he began to
curse and swear, saying, “I do not know the Man!”). Khi Chúa bị đóng đinh trên
thập giá thì Phê-rô trốn biệt. Một người tư cách như vậy mà Chúa lại chọn để
thành lập giáo hội hay sao? Chúa không có môn đồ nào tốt hơn và hiểu biết hơn
tên đánh cá Phê-rô hay sao?
Trước những bằng chứng không thể phủ bác như trên ở ngay trong Thánh
Kinh, Joseph L. Daleiden, một học giả Công giáo, trong cuốn Sự Mê Tín Cuối
Cùng, trang 83, cho rằng “câu chuyện ủy quyền cho Phê-rô xây dựng
giáo hội là một chuyện tiếu lâm” (On the face of it, I would take it as
a joke) và trích dẫn lời của Albert Camus, cho rằng “Giê-su
đã riễu cợt cái tên nghèo khổ, hèn nhát Phê-rô khi bảo Phê-rô là vững như phiến
đá”
. Rồi
Daleiden kết luận:
Do đó, chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi biết rằng nhiều học giả
chuyên về Thánh Kinh tin rằng câu chuyện về Phê-rô, giống như nhiều chuyện khác
trong Tân Ước, đã được người ta thêm thắt vào sau.
Nhưng không phải chỉ có các học giả mới nhận ra sự phi lý trong câu chuyện
về Phê-rô, mà chính những nhà Thần học nổi danh trong giáo hội Công giáo cũng
phải thừa nhận rằng thuyết Chúa thành lập giáo hội và trao quyền cho Phê-rô chỉ
là ngụy tạo.
Hans Kung, Giáo sư Thần học tại trường đại học nổi tiếng Tubingen ở Đức,
cũng phải viết như sau:
Con người Giê-su lịch sử, tin chắc rằng ngày tận thế phải xảy ra
ngay khi ông còn đang sống. Và vì sự sắp tới của Nước Trời này, không còn
nghi ngờ gì nữa là ông ta không muốn lập ra một cộng đồng đặc biệt khác với nước
Do Thái, với giáo lý, nghi thức thờ cúng, định chế, cơ quan chỉ đạo riêng của Do
Thái. Tất cả những điều trên có nghĩa là khi còn sống Giê-su không bao giờ
sáng lập một giáo hội nào. Ông ta không hề có ý tưởng thành lập và tổ chức
một hoạt động tôn giáo đại qui mô như được tạo ra về sau. [Một tôn giáo như
Công giáo ngày nay].
Và Uta Ranke-Heinemann, nữ Giáo sư Thần học Công Giáo đầu tiên trong Giáo
hội Công giáo, cũng viết:
Giáo hội đã biến Giê-su thành một dụng cụ tuyên truyền. Vì lý do
này mà chúng ta tin vào mọi điều biện minh cho sự thành lập một giáo hội như
được thêm thắt vào những lời Giê-su nói bởi những tác giả các phúc âm.
Sự thêm thắt này gồm có điều Giê-su ca tụng Phê-rô như một phiến đá làm nền tảng
để Giê-su xây dựng giáo hội của ông ta (Matt. 16:18), vì Giê-su
không bao giờ có ý thành lập một giáo hội… Ở đây, không phải là Giê-su nói,
mà là giáo hội ban khai muốn tạo cho mình một địa vị lãnh đạo và một khuôn mặt
quyền lực vì sự tăng trưởng của cấu trúc lãnh đạo theo cấp bậc.
Trong chương 21, chương ngụy tạo trong phúc âm John – nghĩa là chương
được thêm vào phúc âm chính sau này – ý tưởng về một vai phó đã được phát triển
rõ ràng. Phê-rô trở thành kẻ chăn đàn chiên của Giê-su. Như là đại diện của
Giê-su, người chăn chiên thực sự lúc đầu, hắn thay thế Giê-su trong nhiệm vụ
này. Ngay sau đó, giáo hội nghĩ rằng điều quan trọng không phải là con người
Phê-rô. Giáo hội quyết định rằng chức vụ của Phê-rô là nền tảng của Giáo hội,
do chính Giê-su thiết lập vĩnh viễn. Với quan niệm này chúng ta có những giáo
hoàng là kế thừa Phê-rô và là phụ tá của Giê-su, và chế độ giáo hoàng là nền
tảng của giáo hội.
Một nhận định rất chính xác về bản chất ngụy tạo của cái gọi là giáo hội
của Chúa là của Linh Mục Joseph McCabe. Linh mục Joseph McCabe là một học
giả nổi tiếng về bộ sử 8 cuốn: A Complete Outline of History. Bộ sử này
được dùng trong các đại học Mỹ trong nhiều thập niên. Nhưng nổi tiếng hơn cả là
một bộ sách Thế Lực Đen Quốc Tế “The Black International” (Chỉ Công
Giáo) gồm gần 20 cuốn sách mỏng, viết về mọi mặt của Công giáo.
Trong cuốn Sự Thật Về Giáo Hội Công Giáo (The Truth About The
Catholic Church, Girard, KS; Haldeman Julius, 1942), Linh mục Joseph McCabe
viết:
“Trong tất cả những chuyện giả tưởng vẫn còn được ẩn núp dưới cái dù
dột nát “Chân lý Công Giáo”, truyền thuyết về chế độ giáo hoàng được thành
lập bởi Chúa và hệ thống giáo hoàng thật đúng là lì lợm và có tính cách lãng mạn
nhất. Chẳng có quyền lực thần thánh nào, mà chỉ là một chuỗi những ngụy tạo
và cưỡng bách, những lừa đảo tôn giáo và tham vọng ngỗ ngược, phạm phải
trong một thời đại cực kỳ ngu si, đã dựng lên quyền lực của giáo hoàng, hệ thống
giáo sĩ và tín ngưỡng.
Từ “Giáo hội” chẳng có nghĩa gì trong thời của Giê-su và Phê-rô.
Không có từ đó trong tiếng Aramic. Giê-su đã phải nói là “Giáo đường” [nơi
tụ tập cầu nguyện của người Do Thái], và ông ta ghét những Giáo đường.”
Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết, Hội Nghiên Cứu Về Giê-su (The
Jesus Seminar) gồm nhiều học giả thuộc mọi hệ phái Ki-tô, sau nhiều năm nghiên
cứu, cũng đưa ra cùng một kết luận, nghĩa là, Giê-su không hề có ý định thành
lập giáo hội cũng như không hề ủy quyền cho Phê-rô xây dựng giáo hội. Tất
cả chỉ là những điều giáo hội Công giáo bịa đặt để tạo quyền lực cho giáo hội mà
thôi.
Cũng vì những bằng chứng không thể chối cãi được ở ngay trong Thánh Kinh
mà khi được hỏi rằng: “Giê-su có ý định thành lập một tôn giáo mới, tôn giáo
mà ngày nay chúng ta gọi là Ki Tô Giáo, hay ít nhất là tạo ra một giáo hội Ki Tô
tách biệt (ra khỏi Do Thái giáo. TCN) không?” , Linh mục John Dominic Crossan đã trả lời: “Câu
trả lời cho câu hỏi đó là một chữ “KHÔNG” quyết định” (The
answer to that is an emphatic NO).
Từ những bằng chứng nghiên cứu Thánh Kinh của các học giả trong thế giới
Tây Phương và của cả những nhà Thần học nổi danh trong Công giáo như trên, chúng
ta thấy rõ sự ngụy tạo ra một “Giáo hội của Chúa” chẳng qua chỉ là mánh mưu của
Giáo hội Công giáo để tạo quyền lực trên đám tín đồ đầu óc yếu kém, cả tin, và
không bao giờ đọc hay không đủ khả năng đọc Thánh Kinh . Lịch sử đã chứng tỏ
Giáo hội Công giáo triệt để khai thác sự ngu dốt của quần chúng và cho đến ngày
nay, vẫn duy trì sách lược giam giữ tín đồ trong sự ngu dốt, trong một ngục tù
tâm linh, không dám cho tín đồ biết về những sự thực về Kinh Thánh cũng như về
lịch sử Công giáo, tuy rằng những sự thật này đã được phổ biến rộng rãi trên
thế giới.
Vậy chúng ta phải kết luận sao đây? Vì không làm gì có cái gọi là
“Giáo hội của Chúa gởi đến thế gian” cho nên tất cả những ý kiến, quan điểm của
ông Nguyễn Anh Tuấn, dựa trên một cái “Giáo hội (ma) của Chúa” trong suốt bài
viết chỉ là những điều hoang tưởng, vô giá trị. Nó cũng như là chúng ta
luận bản với đủ mọi suy diễn về lông rùa hay sừng thỏ. Tuy nhiên chúng ta cũng
nên đi tiếp một chút vào bài của ông Nguyễn Anh Tuấn để đo mức độ hiểu biết của
ông ấy về lịch sử và tôn giáo vì ông ấy đã nổi tiếng trong Tiếng Nói Giáo dân là
“đã từng dùi mài kinh sử về chính trị học và tôn giáo hơn 20 năm qua.”
Trước hết, điều khó hiểu đối với tôi là, chuyện các linh mục duy trì
thuyết ngụy tạo về “Giáo hội Công Giáo của Chúa” để tự tạo quyền lực trên đám
tín đồ thấp kém là chuyện dễ hiểu vì đó là nghề nghiệp của họ, sống như các ký
sinh trùng trên sự gian dối của mình và sự ngu dốt của giáo dân, nhưng một bậc
trí thức như ông Nguyễn Anh Tuấn , người “đã từng dùi mài kinh sử về chính
trị học và tôn giáo hơn 20 năm qua.” mà cũng lại không biết được những
điều sơ đẳng này trong chính giáo hội của mình thì quả là một sự lạ. Tại sao
ông NAT không biết truyền thuyết “Giáo hội của Chúa” chỉ là một trong nhiều điều
ngụy tạo của giáo hội, và giáo hội có cả một trường phái ngụy tạo (a school of
forgeries) để ngụy tạo ra các văn kiện, tín lý, và tín điều không hề có trong
cuốn Thánh Kinh.
Sau khi nói bậy về một “Giáo hội của Chúa” , ông NAT đặt một
câu hỏi: Tại sao Chúa gởi Giáo Hội đến với thế gian? Mục vụ phải hoàn thành
là gì? Trước một lô những tài liệu ở trên thì câu hỏi này trở nên vô nghĩa,
và tất cả chỉ là ngụy biện thần học trên những tiền đề sai lầm, vì Chúa không hề
thành lập bất cứ giáo hội nào cho nên không thể gửi “Giáo hội ma nào đó” đến với
thế gian. Tuy nhiên chúng ta hãy thử xem ông NAT trả lời câu hỏi trên ra sao.
Trong toàn bài, ông NAT thường dựa vào một tác phẩm của H. L. Willmington:
“Willmington’s Guide of the Bible”, coi đó như là những lời mạc khải
không thể sai lầm như những lời mạc khải của Thiên Chúa trong Thánh Kinh. Nhưng
đọc cuốn “Willmington’s Guide of the Bible” chúng ta thấy rõ ràng là tác
giả tin vào thuyết Sáng Tạo trong Cựu Ước, nghĩa là Thượng đế của ông ta mới
sáng tạo ra vũ trụ và vạn vật trong đó mới có khoảng 6000 năm nay, tin rằng
người đầu tiên Adam được tạo ra từ đất bụi, và ông ta đã đưa ra mọi lý luận rất
ngớ ngẩn, phi khoa học của trường phái “Khoa học Sáng Tạo” [Creation Science] mà
các khoa học gia đã bác bỏ, phê phán là họ không hiểu gì về khoa học, thí dụ lý
luận dựa trên thống kê dân số, hay lý luận dựa trên sự vi phạm của Định Luật Thứ
Hai Của Nhiệt Động Lực. Và chúng ta đã biết chỗ đứng của trường phái “Khoa học
sáng tạo”, sau ngụy trang dưới bộ mặt “Thiết Kế Thông Minh”, ra sao đến nỗi đã
bị loại ra khỏi học đường, không xứng đáng nói đến khoa học.
Ông NAT không cho chúng ta biết Willmington là người như thế nào, có chỗ
đứng nào trong giới trí thức, học giả. Nhưng vào Internet tìm hiểu thì chúng ta
biết rằng:
Willmington là sáng lập viên của “Trường Willmington Dạy Thánh Kinh”
(Willmington School of the Bible) với mục đích đào tạo những nhà truyền giáo
Nam, Nữ Tin Lành [To adequately prepare men and women of God to minister the
Word of God], thật ra là nhồi sọ những kẻ ngây thơ dại dột để trở thành những
nô lệ của cuốn Thánh Kinh. Bằng cấp do trường Willmington cấp chỉ có giá
trị để nói láo trong các nhà thờ, không có bất cứ một giá trị nào ngoài vài tổ
chức của Ki Tô Giáo, và lẽ dĩ nhiên không được công nhận như bằng cấp của các
đại học có tên tuổi trên nước Mỹ . Chúng ta hãy lấy một thí dụ để chứng minh.
Khi một sinh viên muốn theo học trường dạy Thánh Kinh của Willmington viết thư
hỏi có kiếm được chỗ ở (housing) ở gần trường không thì Willmington viết trả
lời: “Ở nơi nào mà Thiên Chúa dẫn giắt thì Người sẽ cung cấp đầy đủ”
[Where God guides He provides]. Cái đức tin nhảm nhí của Willmington cũng giống
như cái đức tin của Mẹ Teresa. Khi được hỏi là Mẹ có đồng ý là ở Ấn Độ có quá
nhiều trẻ con hay không, Mẹ Teresa đã trả lời: "Tôi không đồng ý vì Thiên
Chúa bao giờ cũng cung cấp đầy đủ"
(I do not agree because God always
provides). Một đầu óc thuộc loại mê sảng như vậy thì
sách của ông ta có giá trị gì không? Chúng ta đã biết những nhà truyền giáo Tin
Lành thường giảng Thánh Kinh như thế nào, đại khái là trích dẫn vụn vặt những
đoạn chọn lọc ngoài ngữ cảnh trong Thánh Kinh và diễn giải chúng theo chiều
hướng hoang tưởng của mình. Willmington cùng loại với những nhà truyền giáo bảo
thủ như Billy Graham, Pat Roberson, Jerry Falwell v..v.. Sách của họ không có
mấy giá trị trong ngành học thuật, do đó không có mấy trí thức Âu Mỹ buồn để ý
đến những tác phẩm của họ. Hiện nay có nhiều tác phẩm nghiên cứu rất giá trị
của chính những bậc chăn chiên cũng như các học giả trong Công giáo, nhưng ông
Nguyễn Anh Tuấn không biết đến mà lại đi dùng cuốn sách vô giá trị của một nhà
truyền giáo Tin Lành. Vô giá trị ở chỗ nào? Chúng ta hãy đọc ông NAT trích dẫn
của Willmington.
NAT: Để trả lời phần đầu của câu hỏi: Tại
sao Chúa gởi Giáo Hội đến với thế gian? H. L. Willmington đưa ra bốn mục
tiêu:
1 - Sự áp chế con người của các chế độ chính trị độc tài.
2 - Sự phá hoại và sự nguy vong của các giá trị tinh thần
và tâm linh của con người.
3 - Sự lang thang mất lối của con người trong các mê lộ của
trần gian đầy bóng tối.
4 - Sự trầm luân khổ ải của kiếp người.
TCN: Đoạn trên ông NAT có ý nói rằng “Chúa
gởi Giáo Hội đến với thế gian?” để giải quyết 4 vấn nạn kê trên. Nhưng viết
như trên, ông NAT cho chúng ta cảm tưởng đó là 4 mục tiêu mà Chúa gửi Giáo hội
đến thế gian. Ông NAT có ý quảng cáo cho tính Nhập Thế của Ki Tô Giáo nhưng
những sự thực lịch sử lại chứng tỏ rằng đó chính lại là những mục tiêu của Chúa,
hay ít ra cũng là những mục tiêu của con cái Chúa. Bây giờ chúng ta hãy đi
vào từng điểm một trong 4 “mục tiêu” của Willmington.
1. Chúa gởi Giáo hội (ma) của Chúa đến với thế gian
vì Sự áp chế con người của các chế độ chính trị độc tài. Thế còn sự áp
chế con người của chính hai cha con Chúa và của các định chế tôn giáo thì sao?
Sự áp chế con người của các chế độ chính trị độc tài có tệ hại như là sự
áp chế con người của Chúa và các định chế tôn giáo, nhất là Công giáo, không?
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa phán: “Ngươi không được có thần nào khác trước mặt
ta” [Exodus 20: 3 : You shall have no other gods before Me] [nếu không thì
sẽ bị giết]; và trong Tân Ước, Giê-su phán: “Hãy mang những kẻ thù của
ta, những người không muốn ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt ta”
[Luke 19: 27: But bring here those enemies of mine, who did not want me to
reign over them, and slay them before me], cùng đe dọa những người rời bỏ ông ta
phải được gom lại như cành củi, làm cho khô héo và mang đi đốt, làm
tiền lệ cho giáo hội Công giáo đi tra tấn rồi thiêu sống những kẻ mà giáo hội
cho là lạc đạo. [John 15: 6: If anyone does not abide in me, he is cast out
as a branch and is withered; and they gather them and throw them into the fire,
and they are burned] Ông ta cũng còn dọa những người không tin ông ta sẽ bị đầy
đọa xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa thiêu đốt vĩnh viễn. Và trong lịch sử, có
chế độ chính trị nào áp chế con người như là Giáo hội Công giáo qua các cuộc
Thánh Chiến, Tòa án xử dị giáo, săn lùng, tra tấn và thiêu sống kẻ lạc đạo cũng
như phù thủy không? Tin Lành có áp chế các thổ dân Mỹ và ở nhiều nơi khác trên
thế giới không? Như vậy, rõ ràng là Chúa đã gởi Giáo hội (ma) đến với thế gian
để áp chế con người chứ không phải là để xóa bỏ sự áp chế con người.
Có bao nhiêu
tín đồ Ki Tô Giáo biết rằng trong Cựu Ước, Cha của Giê-su đã nhiều lần ra lệnh
hay đích thân giết người tập thể (mass killing) vô số người vô tội: đàn ông, đàn
bà, trẻ con, [con số lên đến hàng nhiều triệu] và hủy diệt nhà cửa, thị trấn, và
các tôn giáo khác
. Thiên Chúa, Cha của Giê-su, đã giết bao nhiêu người vô tội? Có
những cuộc tàn sát do chính Thiên Chúa ra tay nhưng không ai có thể đếm được số
nạn nhân. Con số mà người ta có thể đếm được trong Thánh Kinh là 2,270,365+
[hơn 2 triệu 2 trăm 70 ngàn 3 trăm 65 người,
]
gồm cả đàn bà và trẻ con, đó là chưa kể số người chết không thể đếm được
trong nạn Hồng Thủy, trong thành Sodom và Gomorrah v..v.. hay trong các bệnh
truyền nhiễm như dịch hạch mà Thiên Chúa đã gây nên, trong khi Satan chỉ giết có
10 người.
Trong cuốn
“The Dark Side of Christian History”, tác giả Helen Ellerbe viết:
“Trải qua
một thời gian gần 2000 năm, Giáo Hội Ki Tô [theo ông NAT thì đó là Giáo hội
của Chúa]
đã áp bức, bạo hành nhiều triệu người trong toan tính kiểm soát và
ngăn chận sự phát triển tâm linh. Cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo
bày tỏ với chi tiết nghiêm túc về những thảm họa, đau khổ và bất công mà Giáo
hội đã giáng lên nhân loại”
Vậy mà tại sao trong thời buổi này mà vẫn còn những người
không biết ngượng, lên tiếng khoa trương ca tụng cái tôn giáo, giáo hội tàn bạo
ác ôn vô tiền khoáng hậu này với những luận điệu quá sai sự thực?. Thử hỏi tôn
giáo của họ có cái gì đáng để cho họ hãnh diện, khoe khoang?.
2. Theo ông NAT trích dẫn của Willmington thì Chúa gửi “Giáo hội (ma)
của Chúa” đến với thế gian là vì trong thế gian có “Sự phá hoại và sự nguy
vong của các giá trị tinh thần và tâm linh của con người.” Nhưng từ những
sự kiện trong Thánh Kinh và những sự kiện lịch sử ô nhục đẫm máu của Giáo hội,
Giáo hội đã mang đến cho nhân loại những giá trị tâm linh nào? Và chúng ta cần
biết là những giá trị tinh thần và tâm linh nào đã bị suy vong và phá hoại?
Giáo hội (ma) của Chúa gởi đến với thế gian cách đây khoảng 2000 năm hay ít ra
là thừ thời Constantine vào thế kỷ thứ 4. Và giá trị tâm linh của Giáo hội (ma)
mà Chúa gửi đến với thế gian từ ngày đó là đã thành công tạo cho đám tín đồ thấp
kém một tâm cảnh sợ sệt Thiên Chúa; một “đức vâng lời” không suy xét, sẵn sàng
cúi đầu làm nô lệ cho thần quyền Vatican; một đức tin mù lòa, tin bướng tin càn;
những thái độ và hành động cuồng tín; và giá trị tâm linh của những con chiên
Việt Nam là phi dân tộc, phản bội tổ quốc, chỉ biết đến thiên đường Vatican.
Giá trị tâm linh của người Công Giáo là tin rằng [theo Kinh Tin Kính Của Các
Tông Đồ] Chúa Giê-su “ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ
chết” và tin rằng “xác loài người ngày sau sống lại”, và rất hi vọng
được Chúa Giê-su, đến ngày phán xét, hóa phép làm cho thân xác của họ, bất kể
chết từ bao giờ, chết trên giường bệnh, già bình thường hay chết tan xác ngoài
mặt trận, sống lại, hợp với linh hồn của họ mà sau khi chết đã được giữ [ai
giữ?] trong một kho chứa của Chúa, và rồi, úm ba la, cả hai phần hồn và phần
xác, được Chúa cho lên thiên đường để tiếp tục hầu hạ việc Chúa. Phải nói là
“hầu hạ việc Chúa” vì trên thế gian này, người Công giáo Việt Nam thường tự nhận
là tôi tớ, tỳ nữ hầu hạ việc Chúa, đúng ra là hầu hạ việc Vatican, thì sau khi
chết, đến ngày phán xét, lên thiên đường tiếp tục hầu hạ việc Chúa cũng phải
thôi.
Ngày nay đã có rất nhiều người tỉnh ngộ, và nếu con người tỉnh ngộ ra, từ
bỏ những giá trị tâm linh của Công giáo thì con người sẽ lột xác của một con
chiên để trở thành một con người đúng nghĩa là một con người.
3. Chúa gửi “Giáo hội (ma) của Chúa” đến với thế gian
vì “Sự lang thang mất lối của con người trong các mê lộ của trần gian đầy
bóng tối.” Nhưng vấn đề là con người nào “lang thang mất lối trong các
mê lộ của trần gian đầy bóng tối” Nếu chúng ta đã đọc những cuốn sách
như: “The Dark Side of Christian History” của Helen Ellerbe, “The Dark
Side of God” của Douglas Lockhart, “Vicars of Christ” của Giám mục
Peter de Rosa, “The Final Superstition” của Joseph L. Daleiden, “Crime
and Immorality in the Catholic Church” của Linh mục Emmet McLoughlin,
“The Truth About The Catholic Church” của Linh Mục Joseph McCabe,
“Putting Away Childish Things” của Nữ Giáo sư Thần Học Uta Ranke-Heinemann
v..v.. trong số hàng trăm cuốn sách nghiên cứu về Ki Tô Giáo của các học giả ở
trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô thì chúng ta thấy rõ là chính những
tín đồ Ki Tô Giáo mới là những người “lang thang mất lối trong các mê
lộ của trần gian đầy bóng tối”. Lịch sử cho thấy Công Giáo đã trải phủ bóng
tối lên Âu Châu trong suốt mười mấy thế kỷ và lên bất cứ nơi nào mà nó lan đến,
Việt Nam cũng không ra ngoại lệ. Muốn biết Thiên Chúa Giáo đã vào Việt Nam như
thế nào, là ánh sáng hay là bóng tối, xin hãy đọc:
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/CGchinhsu/CGCS8.php
Người Ki Tô Giáo thường hay trích dẫn lời của Giê-su tự
nhận trong Phúc Âm John: “Ta là con đường, Ta là sự sống, Ta là ánh sáng của
thế gian”. Vậy chúng ta hãy thử xem Chúa gửi “Giáo hội (ma) của Chúa” đến
với thế gian để thực hiện con đường, sự sống, và ánh sáng như thế nào. Sau đây
là vài đoạn trong cuốn “The Dark Side of Christian History” của Helen
Ellerbe:
“Giáo hội Công giáo đã có những tác động tàn phá trên xã hội. Khi Giáo
hội nắm được vai trò lãnh đạo, hoạt động trong những ngành y khoa, kỹ thuật,
khoa học, giáo dục, lịch sử, nghệ thuật và thương mại đều sụp đổ. Âu Châu đi
vào những Thời Đại Hắc Ám. Tuy Giáo hội vơ vét được một tài sản to lớn trong
những thế kỷ đó, hầu hết những gì định nghĩa cho văn minh đã biến mất.”
Đúng như Helen Ellerbe đã nhận định ở trên, khi đại đế Constantine trong
thế kỷ 4 theo Ki Tô Giáo và lập Ki Tô Giáo làm quốc giáo thì tôn giáo này nắm
được địa vị và quyền hành tuyệt đối trên thế gian. Và từ đó Công Giáo đã phát
triển, và với một định chế độc tài về tư tưởng và tín ngưỡng, giáo hội Công Giáo
đã đưa Âu Châu vào trong một thời đại “tối tăm” (The Dark Ages), kéo dài suốt
1000 năm, từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15. Thời gian mười thế kỷ này đã được các học
giả, kể cả một số học giả Công Giáo, công nhận là "thời đại tối tăm” (Dark
Ages), đó chính là "thời đại của sự man rợ và đen tối trí thức" (The
ages of barbarism and intellectual darkness; (Grolier Electronic Publishing
1997)). Sở dĩ thời đại này có tên như vậy vì dựa vào quyền lực thế gian,
giáo hội Công giáo đã giữ độc quyền giáo dục quần chúng, áp đặt sự ngu xuẩn, đen
tối trí thức và bạo hành của giáo hội trên quần chúng ở Âu Châu.
Chủ trương tiêu diệt tất cả những tín ngưỡng khác của Công Giáo giáo bắt
đầu bằng một chính sách man rợ và phản tiến hóa nhất của nhân loại: cấm mọi thảo
luận triết lý trong dân gian; đốt tất cả mọi sách vở, sử liệu, chứng tích lịch
sử liên hệ đến các tín ngưỡng khác và liên hệ đến những sự thật về KiTô giáo và
nhân vật Giê-Su; và thay thế vào đó cái ý hệ độc tôn "man rợ và đen tối trí
thức" của Công Giáo Giáo bằng những tư liệu ngụy tạo, những giáo điều dựa trên
quyền lực v...v...
Về sự kiện này, trong cuốn "Những dối trá và huyền thoại của Thánh
Kinh" ("Deceptions and Myths of the Bible", trg. 444) LLoyd M. Graham đã
viết như sau:
"Sự hủy diệt mọi chứng tích về phái Tự Ngộ và những nguồn
tài liệu về đa thần là "việc làm đầu tiên" của KiTô giáo. Chính các nhà truyền
giáo đã khởi sự, ở Antioch, như được nói đến trong sách "Công Vụ các Sứ đồ"
(Acts).. Do lệnh của giáo hội Công Giáo La Mã, tất cả kinh
sách của những người ủng hộ phái Tự Ngộ đều bị đốt, cũng như 36 cuốn
của Porphyry (Porphyry là một triết gia (232-305) chủ trương triết lý là
phương tiện giải thoát và nhấn mạnh đến lối tu khổ hạnh để tinh khiết hóa con
người; TCN). Giáo hoàng Gregory VII đốt thư viện Apollo chứa đầy kiến thức
cổ xưa. Hoàng đế Theodosius đốt sạch 270000 tài liệu về học phái huyền bí vì
những tài liệu này chứa những căn bản giáo lý của ngũ Kinh.
Sự hủy diệt văn hóa này vẫn tiếp tục sau khi những nhà lập giáo đã qua
đời; những tín đồ cuồng tín mà họ đào tạo ra tiếp tục công việc này: đoàn
Thập tự quân đốt tất cả sách vở mà họ có thể kiếm ra được, kể cả những cuộn
nguyên bản Thánh thư Do Thái. Năm 1233 những tác phẩm của Maimonides
(một triết gia Do Thái xuất sắc, 1135-1204; TCN) bị đốt đi cùng với
12000 cuốn của Kinh Talmud (Thánh kinh của Do Thái Giáo. TCN). Năm
1244, 18000 cuốn sách đủ mọi loại bị hủy. Theo Draper, Hồng Y Ximenes đã đốt
80000 bản văn của Ả Rập ở công trường Granada. Ở Tân Thế Giới, toàn bộ kiến
thức cổ xưa bị những người KiTô Tây Ba Nha phá hủy cùng với đền đài chứa đựng
những kiến thức này.
Sau khi đã phá hủy mọi chứng tích, những nhà lập giáo KiTô đầu tiên đã
có thể thay thế những kiến thức cổ xưa này bằng những điều vô nghĩa của họ. Và
để chứng minh những điều vô nghĩa này, họ đã thay đổi lời lẽ và gài vào đó những
câu không có trong những nguyên bản... Về cùng một chủ đề này, Massey viết như
sau: "Trong bốn thế kỷ đầu, họ đã hủy bỏ những tài liệu
quan trọng nhất về mọi sự hiểu biết trung thực về nguồn gốc thực của sự
mê tín trong KiTô giáo. Những huyền thoại được viết và in ra như là lịch
sử nhân loại, mọi tư tưởng khác đều bị dẹp bỏ hay cưỡng bách phải chấp nhận sự
gian dối"...
Theo giáo lý của họ thì "máu của Chúa KiTô đã rửa sạch tội lỗi của thế
giới," nhưng tội lỗi vẫn còn với chúng ta ngày nay. Cái mà thực sự bị rửa sạch
chính là sự lành mạnh của thế giới. Với thời gian, giáo lý của họ đã làm tâm
thức Tây phương mê mẩn đến nỗi Agibard ở Lyons phải viết như sau: "Cái thế
giới bất hạnh này nằm dưới sự chuyên chế điên rồ, những điều mà người KiTô tin,
thực ra là những điều vô nghĩa đến độ từ xưa tới nay không ai có thể làm cho
người ngoại đạo tin được". Nếu độc giả không tin và muốn có một thí dụ
thì chúng tôi xin cống hiến một chuyện trong KiTô giáo về Thánh John trong
phúc âm. Theo lịch sử các Thánh thì John, khi đã rất già, làm cho hoàng đế
Domitian giận. Để trừng phạt John, Domitian sai người ném John vào một cái vạc
chứa dầu và nhựa thông. Và khi người ta châm lửa, dầu bắt đầu sôi thì đám
đông ở ngoài nghe một tiếng hát trong ngọn lửa. Khi vạc dầu sôi cạn
hết thì John vẫn còn sống và không hề hấn gì. Jerome, Eusebius,
Tertullan, tất cả đều kể lại cái phép lạ này và những điều hoang đường trong
đó. Và nay, nếu những tín đồ KiTô xuất sắc có thể tin được sự vô lý này thì họ
có thể tin bất cứ cái gì, ngay cả Thánh Kinh."
Trong cuốn “Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo” (The Dark Side
of Christian History), Helen Ellerbe cũng viết, trang 46, 48:
Khi Giáo hội [Công Giáo] nắm thêm quyền lực, người Ki-Tô
[Công Giáo] đã đóng cửa các trung tâm giáo dục và đốt sách vở cũng như toàn
thể các thư viện. Giáo hội đốt một số rất lớn những tài liệu văn học. Năm 391,
người Công Giáo thiêu rụi một trong những thư viện lớn nhất hoàn cầu ở
Alexandria. được biết là chứa 700000 tác phẩm. Tất cả những sách của hệ phái Tự
Ngộ, 36 cuốn của Porphyry, những tác phẩm của 27 học phái huyền bí, và 270000
tài liệu cổ xưa thu thập bởi Ptolemy Philadelphus đều bị đốt sạch. Giáo dục cho
người ở ngoài Giáo hội bị cấm. Những trung tâm giáo dục cổ xưa đều bị đóng cửa.
Giáo hội chống học văn phạm và tiếng La-Tinh. Giáo hoàng Gregory I
chống học văn phạm, ông ta còn lên án giáo dục nào không phải là giáo dục cho
giới giáo sĩ là điên rồ và xấu xa. Ông ta cấm tín đồ không được đọc Kinh Thánh,
ra lệnh đốt thư viện Palatine Apollo để những văn học thế tục không làm lãng trí
tín đồ trong việc chiêm ngưỡng thiên đường.
Sau nhiều năm các tín đồ Công giáo đi phá hủy sách vở và thư viện,
Thánh John Chrysostom, Giáo Phụ nổi tiếng của Giáo hội, hãnh diện tuyên bố, “Mọi
dấu vết về văn học và triết lý cổ của thời trước đã biến mất khỏi mặt trái đất.”
Sau đây là một tài liệu khác về một số những hành động của giáo hội
Công Giáo khi giáo hội nắm được quyền lực thế gian (Joseph D. Daleiden, The
Final Superstition, trg. 60):
"Không có một trích dẫn thống kê đơn thuần nào có thể nói lên vô
lượng những sự ác ôn mà giáo hội Công Giáo La Mã đã làm nhân danh
Thượng đế. Từ khi mà các triều đại giáo hoàng cấu kết quyền lực với
chính quyền trong thế kỷ 5 cho tới công cuộc Phục Hưng, cái áo vô minh và mê tín
đã phủ lên Âu Châu. Ánh sáng tự do đã tắt ngấm, Dân La Mã cổ xưa
(không phải là dân La Mã dưới quyền thống trị của Giáo hội Công Giáo. TCN) đã
có những thư viện chứa 500000 cuốn sách, thời kỳ từ năm 500 tới năm 1000 ở Âu
Châu dưới quyền lực KiTô không có một thư viện nào có được hơn 600 cuốn sách.
Sự tiến bộ khoa học, đặc biệt là về y học, hoàn toàn ngưng trệ. Văn hóa con
người thoái hóa đến mức tàn bạo.
Thật là mỉa mai, chính những cuộc Thánh chiến chống dân Hồi giáo đã rọi
một tia sáng trí thức qua cái mờ tối của vô minh và mê tín. Không như những dân
KiTô tìm cách tiêu diệt mọi kiến thức không hợp với thần thuyết của họ, những
người theo Hồi giáo đã gìn giữ trí tuệ của dân Hi Lạp cổ xưa. Hơn nữa, họ đã có
nhiều tiến bộ đáng kể về toán học, triết học, và khoa học. Khi những thập tự
quân của Giáo hội Công Giáo La Mã trở về từ miền Đông họ đã mang về cùng
với những chiến lợi phẩm những hạt giống kiến thức mà sau này đưa đến công cuộc
Phục Hưng. Song song với hàng đống những đồ cướp đoạt được và những thánh
tích giả mạo, những thập tự quân cũng mang về theo nghệ thuật và văn học của
cổ Hi Lạp. Những tác phẩm của các triết gia Hi Lạp mà giáo hội Công Giáo
La Mã đã dẹp đi từ nhiều thế kỷ trước, nay lại xuất hiện. Một vài triết gia như
Plato và Aristotle được đưa vào trong giáo thuyết của giáo hội. Thật vậy, những
tác phẩm của Thomas Aquinas, đặc biệt là những chứng minh về sự hiện hữu của
Thượng đế, căn bản là của Aristotle được sửa lại thành mới. Nhưng quan trọng
hơn là, về sau này, triết lý nhân bản của Hi Lạp đã nảy nở trong đầu óc của
những người đau lòng mà nhận ra sự vô ích của những suy đoán thần học cùng sự
xấu ác của những tín điều mà giáo hoàng đưa ra. Kết quả là, chính cái nền tảng
trí thức và độc tài về đạo đức của Giáo hội bắt đầu lung lay."
Và Robert G. Ingersoll đã nhận định như sau (Ingersoll: The
Magnificent, Lewis, trg. 125):
"Khi Ki Tô Giáo có được quyền lực thì tôn giáo này phá hủy mọi
tượng thần mà nó có thể đặt những bàn tay vô minh của nó lên trên. Nó hủy hoại
và xóa bỏ mọi họa phẩm, phá hủy mọi công sự đẹp đẽ, đốt sạch những tác phẩm Hi
Lạp và La Tinh, triệt tiêu mọi lịch sử, thơ phú, triết lý và thiêu rụi mọi thư
viện mà nó có thể đốt được. Kết quả là, màn đêm Trung Cổ đã phủ lên nhân loại.
Nhưng vì tình cờ, vì may mắn, vì bỏ sót, một vài tác phẩm đã thoát được sự ác
liệt của cuồng nhiệt tôn giáo, và những tác phẩm này trở thành cái nhân mà quả
của nó là nền văn minh của chúng ta ngày nay."
Những tài liệu ở trên chứng tỏ Giáo hội Công Giáo, ngay từ đầu, đã theo
đuổi chính sách làm cho người dân ngu muội, tối tăm, để dễ bề kiểm soát đầu óc
của đám tín đồ thấp kém. Và chính sách này được kéo dài cho đến ngày nay. Giáo
hoàng đương nhiệm, Benedict XVI, nguyên là Hồng Y Thiết Giáp Ratzinger, đứng đầu
Bộ Tín Lý và Đức Tin của Công Giáo, đã cấm đoán hoặc cất chức những nhà thần học
nổi tiếng trên thế giới như Teilhart de Chardin, Edward Schillebeeckx, Hans
Kung, Charles E. Curran, Raymond Hunthausen, Uta Ranke-Heinemann v..v..., và
nhất là những nhà thần học trong phong trào Thần Học Giải Phóng, chủ trương phục
vụ con người thay vì phục vụ Thiên Chúa [thực ra là phục vụ Giáo hoàng], điển
hình như Leonardo Boff, Gustavo Gutíerez, Juan Luis Segundo v..v.. , cấm họ
không được viết sách hay dạy học trong những trường học Công Giáo, vì những
người trên đã có những ý kiến không phù hợp với những điều ngu dốt cũa “giáo hội
dạy rằng…”, và riêng trong cộng động giáo dân Việt Nam thì các Cha đều cấm đoán
tín đồ đọc những sách vở viết lên những sự thật lịch sử về giáo hội Công Giáo,
đặc biệt là những sách do Giao Điểm xuất bản, bằng những lời đe dọa thuộc thời
bán khai đã mất thời gian tính như dọa Chúa sẽ đọa đầy xuống hỏa ngục hay bị
Giáo hội tuyệt thông, không cho hiệp thông với Chúa để hưởng một cái bánh vẽ
trên trời sau khi chết. Ratzinger cấm thì cứ cấm, những nhà thần học nổi
danh như Hans Kung, Uta Ranke-Heinemann, Leonardo Boff v..v.. thản
nhiên không coi sự cấm đoán của Ratzinger vào đâu, vẫn tiếp tục dạy học và viết
sách, vì trong thời đại này, giáo hội không còn khả năng để đưa họ lên dàn hỏa
nữa.
Đó là những gì Công Giáo đã làm với mục đích tiêu diệt văn hóa của các tôn
giáo, tín ngưỡng nào không phù hợp với những giáo điều và niềm tin của Công
Giáo. Giáo Hoàng John Paul II cùng bộ tham mưu của ông ta ở Vatican đã xưng thú
cùng thế giới 7 núi tội ác của Công giáo đối với nhân loại. Do đó Chúa đã gửi
“giáo hội (ma) của Chúa” đến với nhân loại không phải vì nhân loại đang “lang
thang mất lối trong các mê lộ của trần gian đầy bóng tối” mà đúng ra
với mục đích dẫn giắt nhân loại “lang thang mất lối trong các mê lộ
của Giáo Hội đầy bóng tối”. Nhưng tiến hóa là một định luật của thiên
nhiên, sự hiểu biết của con người càng ngày càng hoàn chỉnh hơn, cho nên Giáo
hội đã thất bại trong mục đích nhốt nhân loại vào bóng tối của ngục tù tâm linh,
và kết quả là ngày nay Giáo hội đang suy thoái trầm trọng không phương cứu vãn.
Con người không bao giờ có thể trở lại một thời đại tăm tối của Công giáo nữa,
và ánh sáng của lý trí, của sự hiểu biết, của sự thật sẽ dần dẩn xua đi bóng tối
của Công giáo còn hiện hữu trong những ốc đảo ngu dốt ở trên thế giới, trong đó
có Việt Nam.
4. Chúa gửi “Giáo hội (ma) của Chúa” đến với thế gian
vì Sự trầm luân khổ ải của kiếp người. Nhưng Giáo hội đã làm những gì
để cất bỏ Sự trầm luân khổ ải của kiếp người hay Giáo hội, như trong lịch
sử đã ghi rõ, đã làm tăng thêm gấp bội sự trầm luân khổ ải của kiếp người
qua những cuộc thập ác chinh, tòa án xử dị giáo, săn lùng tra tấn và thiêu
sống những người mà giáo hội cho là lạc đạo hay là phù thủy. Sự thật là, Giáo
Hội tuyệt đối không phải là một "hội thánh" vì không có một hội thánh nào lại có
thể gây ra nhiều tội ác như “hội thánh Công giáo”. Giáo hội cũng chẳng có gì có
thể gọi là "công giáo" hay "tông truyền" vì tất cả đều trái ngược với những điều
viết trong Thánh kinh. Giáo hội là một định chế tôn giáo độc tài sánh ngang với
Hồi giáo, Do Thái giáo, do đó tuyệt đối không có một ý niệm gì về dân chủ và
tự do. Giáo hội là một tổ chức không có một đóng góp nào đáng kể cho nền
văn minh Tây phương, trái lại trong suốt 2000 năm đã dùng mọi nỗ lực và thủ đoạn
để ngăn chận sự tiến bộ trí thức của nhân loại, đưa Tây phương vào một thời
đại man rợ và đen tối trí thức (the age of barbarism and intellectual
darkness) kéo dài hơn 1000 năm.
Và sau cùng, Giáo hội chưa hề mang hòa bình và
sự hiểu biết đến bất cứ nơi nào trên thế giới. Bất cứ giáo hội truyền đạo đến
đâu là ở đó xảy ra chiến tranh, hận thù, và chia rẽ, và các tín đồ bị lùa vào
cảnh nô lệ tâm linh, ngu dân dễ trị. Sự trầm luân khổ ải của kiếp
người đã được Đức Phật vạch rõ qua đệ nhất Đế trong Tứ Diệu Đế. Và Đức Phật
cũng đã chỉ cho nhân loại con đường tự mình tu tập để thoát ra khỏi sự trầm
luân khổ ải của kiếp người không cần phải nhờ đến một cái giáo hội ma của
nền thần học bịp bợm Ki Tô Giáo, một giáo hội đã giáng 7 núi tội ác lên đầu nhân
loại.. Con đường này tuyệt đối không phải chỉ cần tin vào huyền thoại
cứu rỗi mà Giáo hội Công giáo khoác lên một người thường Do Thái, tiểu sử bất
minh, mà về trí tuệ cũng như đạo đức, không có gì đáng để cho con người phải
kính ngưỡng, và đã chết và táng xác cách đây gần 2000 năm.
Bây giờ chúng ta hãy sang phần thứ hai trong câu hỏi của
ông Nguyễn Anh Tuấn: Mục vụ phải hoàn thành là gì? Ở trên, chúng ta đã
phân tích khá chi tiết về bốn mục tiêu mà ông Nguyễn Anh Tuấn cho rằng mục đích
của Chúa gửi Giáo hội (ma) của Chúa đến với thế gian là để gỡ bỏ bốn “mục tiêu”
[sic] đó. Gỡ bỏ như thế nào? Ông Nguyễn Anh Tuấn viết:
NAT: Theo Willmington, có tất cả ba nhiệm
vụ được ủy thác trọng trách cho Giáo Hội, huấn lệnh truyền xuống cho các Tông
Đồ, với những việc phải làm với lời tuyên bố công khai. Các Tông Đồ được kêu gọi
để rao truyền và thuyết giảng về sự chết, về sự táng trong mồ và sự phục sinh
của Chúa Cứu Thế; bằng cách kêu gọi con người thanh lọc tâm để thánh hóa tâm hồn
và cuộc sống – việc làm này thường được hiểu là một hành vi sám hối
(repentance), và xây dựng đức tin vào Chúa Cứu Thế, với lời hứa rằng, họ sẽ đón
nhận được sự tha thứ về những tội lỗi của họ, họ sẽ trở nên tốt đẹp trước mặt
Thiên Chúa, và được tái sinh vào nước Trời.
TCN: Tôi sẽ không phê bình đoạn văn đầy
sự mê tín đã lỗi thời của một đầu óc mê sảng nói lảm nhảm về những điều mà hầu
hết giới trí thức cũng như giới hiểu biết đã bác bỏ. Xin để quý độc giả nhận
định lấy về đoạn trên của một trí thức Công giáo “đã từng dùi mài kinh sử về
chính trị học và tôn giáo hơn 20 năm qua.”
Tôi nghĩ có thể chấm dứt bài phê bình ở đây được rồi.
Nhưng có một câu của ông Nguyễn Anh Tuấn làm tôi không thể nhịn cười, do đó
không thể không nhắc đến. Đó là câu:
NAT: 3500 năm trước Moses đã nhịn ăn nhịn
uống khi ông vào ngồi thiền định 40 ngày đêm trên ngọn Sinai để được Thiên Chúa
đưa đến cho ông "Mười Điều Giới Luật của luật giao ước" (Ten Commandments).
TCN: Ở trên tôi đã nói là ông Nguyễn Anh Tuấn
chưa hề đọc Thánh Kinh. Quả nhiên là như vậy. Qua câu trên, ông Nguyễn Anh
Tuấn đã đem râu của Giê-su cắm vào cầm Moses. Vì Moses không hề nhịn ăn nhịn
uống và ngồi thiền trong 40 này trên núi Sinai. Chúng ta hãy đọc Thánh Kinh,
Cựu ước và Tân ước:
Xuất Hành 19-20: Thượng đế “lòng lành” rất
nhân từ của ông NAT phán với Moses: “Bây giờ con về, bảo dân phải giặt áo xống,
giữ mình thanh sạch hôm nay và ngày mai, đến ngày thứ ba phải sẵn sàng để chiêm
ngưỡng ta khi ta giáng lâm tại núi Si-nai. Con cũng phải vạch đường ranh giới
chung quanh núi, cấm không cho ai được vượt qua, và căn dặn dân: Phải cẩn thận,
tuyệt đối không được leo lên núi; người nào dù chỉ chạm đến chân núi cũng phải
tội chết. Đùng ai đụng đến người ấy, nhưng phải ném đá hoặc bắn tên cho chết,
dù thú vật cũng phải chết như vậy. Chỉ khi nào có tiếng kèn thổi (ai thổi??)
mọi người mới được phép đến gần chân núi.
Vậy Moses xuống núi, bảo dân giữ mình thanh sạch, giặt áo
xống. Ông căn dặn họ: “Phải giữ mình thanh sạch từ hôm nay cho đến ngày thứ ba,
đừng gần đàn bà.”
Đến sáng hôm thứ ba, chớp nhoáng sấm sét nổi lên, một đám
mây dày đặc trùm lấy núi, tiếng kèn (Ai thổi kèn?? Thượng đế thổi vì chỉ có mình
Thượng đế ở trên núi. TCN) thổi vang động làm cho mọi người run sợ…Khắp núi
Si-nai đều có khói phủ kín, vì Chúa hằng hữu giáng lâm trên núi như lửa cháy ,
khói bay lên như từ lò lửa rực…Trong khi tiếng kèn càng lúc càng vang động,
Moses bắt đầu nói, và Thượng đế đáp lại, tiếng vang như sấm [át cả tiếng kèn do
chính Thượng đế thổi] Như vậy Chúa hằng hữu giáng lâm trên đỉnh núi Si-nai, gọi
Moses và ông liền lên chầu Ngài…
Và Thượng đế tuyên bố 10 điều răn….
Không hiểu sao người viết Cựu Ứớc lại bỏ sót mất đoạn rất
quan trọng “Moses đã nhịn ăn nhịn uống khi ông vào ngồi thiền định 40 ngày
đêm trên ngọn Sinai để được Thiên Chúa đưa đến cho ông "Mười Điều Giới Luật của
luật giao ước" của ông Nguyễn Anh Tuấn, chắc vì chưa “dùi mài kinh sử về
chính trị học và tôn giáo hơn 20 năm qua.”. Nhưng "Mười Điều Giới Luật
của luật giao ước" có hay ho gì đâu. Có những luật ác ôn cần phải ném vào
sọt rác, còn một số luật khác thì chúng ta đã thấy trong dân gian từ lâu hoặc
trong các tôn giáo khác. Chúng ta hãy đọc vài luật thuộc loại ác ôn của Thượng
đế lòng lành và rất nhân từ của Ki Tô Giáo, Xuất Hành 20: 1-11:
1. Các ngươi không được thờ thần nào khác ngoài ta.
2. Không được làm cho mình tượng của các thú vật bay trên
trời, đi trên đất hay lội dưới nước. Không được thờ quỳ lạy hoặc phụng thờ các
tượng ấy, vì Ta, Chúa Hằng Hữu, Thượng đế các ngươi rất kỵ tà. Khi ta trừng
phạt người có tội, nếu có người nào ghét ta, ta sẽ phạt luôn cả con cháu người
ấy đến ba bốn thế hệ.
3. Không được dùng tên của Chúa hằng hữu, Thượng đế các
ngươi, một cách bất kính, vì ta sẽ không tha người ấy [Thượng đế đã làm gì với
những tác giả các cuốn “God Is Not Great”; “The God Delusion”; “The
Dark Side of God”; “In God We Trust, But Which One?”; “The Impossibility of God”
v..v..]
4. Phải giữ ngày Sa-Bát làm một ngày thánh. Ngươi có 6
ngày để làm công việc, nhưng ngày thứ Bảy là một ngày thánh dành cho Chúa hằng
hữu. Trong ngày ấy, ngươi cũng như con trai, con gái, tôi trai tớ gái, súc vật,
luôn cả khách trong nhà ngươi đều không được làm việc gì cả. Vì trong 6 ngày,
Chúa hằng hữu tạo dựng trời, đất, biển và muo6nva65t trong đó, đến ngày thứ Bảy,
Ngài nghỉ. Vậy Chúa hằng hữu chúc phước cho ngày Sa-bát và làm nên một ngày
thánh.
Lưu-Ca 4:1,2: Chúa Giê-su đầy dẫy Thánh
Linh (tràn cả ra ngoài), từ bờ sông Jordan trở về, liền được Thánh Linh (quậy
trong người) đưa vào sa mạc xứ Judea để cho Sa-tan cám dỗ trong 40 ngày. Chúa
nhịn ăn suốt thời gian ấy, nên ngài đói. [Ngài có thể biến một ổ bánh mì
(Lee Sandwitch) thành 5000 ổ bánh mì, thế mà Ngài lại đói]
Đúng là ông Nguyễn Anh Tuấn đã mang cái râu “nhịn ăn 40
ngày trong sa mạc” của Giê-su, đi ngược thời gian khoảng gần 1500 năm, để cắm
vào cầm ông Moses trên đỉnh núi Si-nai.
Để chấm dứt bài này, tôi xin trích dẫn một câu khác của ông
Nguyễn Anh Tuấn mà không phê bình, không phải là không phê bình được, mà không
đáng để phê bình. Phê bình câu này thì tôi đã tự đặt mình vào sự mê sảng, điên
khùng dốt nát, như Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson đã từng phê bình Giê-su
trong Sách Khải Huyền một cách rất chính xác như sau: “Sách Khải Huyền là
những lời nói dốt nát của một kẻ điên khùng” .
NAT: Qua ân sủng là Thần Khí Thánh Thần các
môn đệ đã nhận được bao quyền năng lạ lùng. Chúa đã nói với họ rằng:
"Nhân danh Ta họ đã xua đuổi được ma quỉ, họ sẽ nói bằng
nhiều ngôn ngữ khác nhau, họ sẽ nắm đầu những loài rắn độc, và nếu họ uống độc
chất, độc chất không làm gì họ được, họ sẽ đặt tay trên những người bệnh hoạn,
những người đó sẽ hết bệnh (Mark 16:17, 18)."
Grayslake, IL.
Thứ Sáu, 28 tháng 11 năm 2008
Các bài đối thoại cùng tác giả
▪
“ Sản Phẩm Trí Tuệ” của Nguyễn Anh Tuấn -
Trần Chung Ngọc
▪
“Sản Phẩm Trí Tuệ” Mới Của Nguyễn Anh Tuấn Về “Giáo H -
Trần Chung Ngọc
▪
“Tự Do Tín Ngưỡng” của Minh Võ -
Trần Chung Ngọc
▪
Ai Dám Tấn Công Đạo Chúa ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chiến Tranh ... Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ -
Trần Chung Ngọc
▪
Chu Tất Tiến: Here We Go Again -
Trần Chung Ngọc
▪
Chung Quanh Một Cuộc Tranh Luận Hào Hứng -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - “Cha Chung” là ai? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Các Vấn Nạn Cần Giải Quyết -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Căn Bản Đức Tin -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Kết Luận -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Lợi Ích ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Comments On John Paul II's Crossing the Threshold of Hope -
Trần Chung Ngọc
▪
Eh! Lữ Giang, alias Tú Gàn, Here we go again! -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Nguyễn Văn Lục -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Tú Gàn -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ Về Tiến Sĩ Nguyễn Học Tập -
Trần Chung Ngọc
▪
Một Trí Thức Không Biết Ngượng -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Bài “Niềm Tin ...” Của Trần Thị Hồng Sương -1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Mấy Câu Trả Lời của Ông Mục Sư NQM -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 ▪
>>>