Samuel
Butler, trong kịch bản “The Way of All Flesh” đã viết một câu
đối thoại giữa một nhân vật và một giáo sĩ Ki Tô. Nhân vật này vạch rõ
cho ông giáo sĩ thấy rằng: “Các tín đồ Ki Tô thực sự không ghét tội
lỗi - họ ghét sự thật.” (A character points out to a Christian
clergyman that “Christians don’t really hate sin – they hate the truth”).
Lịch sử Ca Tô Rô Ma Giáo cũng như Tin Lành đã chứng tỏ đúng như vậy.
Khi xưa, Giáo hội Ca-tô đã cấm tín đồ đọc Thánh Kinh, và vì là con chiên
để cho người ta chăn dắt nên các tín đồ cứ cúi đầu tuân theo luật phản
trí thức trên. Giáo hội cũng cấm dịch Thánh Kinh ra các tiếng địa phương,
dành quyền giảng bậy Thánh Kinh bằng tiếng La-tinh. Tại sao vậy? Vì Giáo
hội sợ con chiên biết đến những sự thật, những sự thật nằm chình ình
trong cuốn Thánh Kinh, những sự thật mà không người nào có đầu óc còn
có thể chấp nhận được, vì chúng cực kỳ trái với những tiêu chuẩn về công
bằng, đạo đức trong thế giới ngày nay. Do đó, trong Ca-tô Rô-ma Giáo
không có sự thật mà chỉ toàn là dối trá vì chỉ có dối trá mới ghét sự
thật. Dối trá về Thánh Kinh (Bible), dối trá về các “bí tích” (sacraments)
và các tín lý (dogma), dối trá về vai trò và đạo đức của giới chăn chiên,
và dối trá về một thiên đường mù. Những dối trá này mà ngày nay đã bị
thiên hạ phanh phui đã tạo thành “tử huyệt” của Ca-tô Rô-ma Giáo.
Trước
những bài nghiên cứu nghiêm chỉnh về những sự thật trong Ca-tô Rô-ma
Giáo của các học giả Tây phương, trong đó có nhiều bậc lãnh đạo trong
Ca-tô Giáo, đánh thẳng vào tử huyệt của Ca-tô Giáo, đưa đến sự suy thoái
trầm trọng của Ca-tô Rô-ma Giáo ở phương trời Âu Mỹ, những người Ca-tô
Việt Nam lạc hậu nhất hành tinh lại cứ luôn luôn chống đỡ, năng nổ
xuyên tạc lịch sử, không bao giờ dám tham gia đối thoại trí thức, chống
đỡ bằng những luận điệu chụp mũ như “phá đạo”, “gây chia rẽ tôn giáo”,
“theo sách lược chống Ca-tô của CS”, “vi phạm tự do tín ngưỡng”, “thù
hận Công giáo” v…v…. hòng bịt miệng những người viết ra những sự thật
về Ca-tô Giáo. Tại sao vậy? Cũng chỉ vì họ sợ sự thật.
Cho
nên, chuyện Lữ Giang chuyên viết bậy và xuyên tạc sự thật đã là chuyện
chẳng xa lạ đối với ai. Trong đầu óc của một con chiên như ông ta thì
các giây thần kinh liêm sỉ và biết ngượng có lẽ đã biến mất từ khi rửa
tội. Điều này chẳng lạ vì nó cũng đã xẩy ra với một số không nhỏ Giáo
hoàng, Hồng y, Tổng Giám mục, Giám mục và Linh mục. Nếu không thì làm
sao Ca-tô Rô-ma Giáo có thể tạo nên những chương lịch sử ô nhục đẫm máu
trong lịch sử nhân loại. Riêng ở Việt Nam, nếu biết thế nào là liêm sỉ
và biết ngượng thì đã không có những nhân vật như Pétrus Ký, Nguyễn Trường
Tộ, Trần Lục, Lê Hữu Từ, Nguyễn Bá Tòng, Phạm Ngọc Chi, Ngô Đình Khả,
Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Nhu, TGM Ngô Quang
Kiệt, Lm Đinh Xuân Minh, Lm Vũ Đức, Lm Nguyễn Văn Lý, con chiên Nguyễn
Gia Kiểng, Phan Thiết Nguyễn Kim Khánh, và tất nhiên có cả Lữ Giang v.v…,
chỉ kể một số điển hình.
Có
thể nói, không có một tác giả nào mà tôi phải mất công phê bình nhiều
như ông Lữ Giang alias Tú Gàn alias Nguyễn Cần. Tại sao vậy? Vì ông ta
là người rất lì lợm, không bao giờ dám lên tiếng phản biện những bài
tôi phê bình ông ấy, nhưng thỉnh thoảng lại gài tên tôi vào những bài
mà nội dung phần lớn là xuyên tạc sự việc một cách hết sức ấu trĩ. Tôi
đã từng viết, “Tiểu xảo viết lách” của Lữ Giang là viết khơi khơi,
đưa ra những khẳng định vô căn cứ và vô trách nhiệm mà không bao giờ
dẫn chứng để chứng minh những điều mình viết. Đây chính là thủ đoạn
của những kẻ khôn lỏi, hi vọng người đọc sẽ tin nếu mình cứ tiếp tục
nói dai, nói dại, nói lấy được, bất kể sự thực, bất kể đến liêm sỉ và
lương thiện trí thức. Một tiểu xảo khác của những người Công giáo là
viết bịa ra những việc không hề có, thí dụ như Chu Tất Tiến viết láo
là Phật giáo đã tàn sát hơn 100 ngàn người Công giáo chỉ vì họ theo đạo
Công giáo, và rồi trước phản ứng của độc giả, đã chính thức lên tiếng
xin lỗi về lời phát biểu tầm bậy vô căn cứ của ông ta về Phật giáo.
Nhưng
đây chính là sách lược và mánh mưu của Giáo hội Công giáo từ xưa. Khi
xưa Giáo hoàng John Paul II cũng đã viết bậy về Phật Giáo, nhưng sau
đó trước phản ứng của thế giới, đại diện của ông ta đã phải chính thức
xin lỗi Phật Giáo. Giáo hoàng Benedict XVI, khi còn là Hồng Y cũng phán
bậy về Phật Giáo. Và chiến dịch bôi nhọ Phật Giáo, vu khống Phật Giáo
là Cộng sản làm mất nước, cái nước cầm quyền bởi những kẻ nô lệ cho Vatican,
thực ra chỉ là muốn làm mờ nhạt và xóa đi tội bán nước của Công giáo
mà lịch sử đã ghi rõ. Nhưng đây chỉ là tiểu xảo của một mánh mưu của
những kẻ hạ tiện, tung ra những thông tin láo bất kể liêm sỉ, rồi nếu
cần thì xin lỗi, một mục đích mà người Mỹ gọi là “sự tổn hại đã tạo ra”
(The harm is done). Nhưng họ đã tính sai vì ngày nay, độc giả không ngu
như họ tưởng mà tin vào tất cả những gì họ viết, dù người viết là Giáo
hoàng, vì không ai có thể che dấu được sự thật, và chân lý ngàn đời của
nhân loại là “tà không thể thắng nổi chánh”.
Lữ
Giang - tức Tú Gàn, Nguyễn Cần
Vốn
đã là một con chiên sợ sự thật mà Lữ Giang lại viết một bài với đầu đề
“Cuộc chiến với Sự Thật” thì kể cũng lạ. Nhưng sự thật của Lữ
Giang là như thế nào. Đó là những xuyên tạc lịch sử, chụp mũ Phật Giáo
theo Cộng Sản, và bài bác chụp mũ vu vơ những người viết ra những sự
thật về “Công giáo”. Sau đây chúng ta thử duyệt qua vài đoạn của Lữ Giang
[LG] để xem ông ta viết lách ra sao, và một lần nữa cho chúng ta thấy
bộ mặt thật và đạo đức của một con chiên Mít như Lữ Giang. Tôi không
có thì giờ đi vào những chi tiết trong toàn bài của Lữ Giang mà hầu hết
là viết láo lếu. Tôi chỉ phê bình vài đoạn điển hình trong đó.
LG: Hàng
năm, cứ vào khoảng tháng 10 dương lịch, khi gần đến ngày kỷ niệm Tổng
Thống Ngô Đình Diệm bị Hoa Kỳ ra lệnh lật đổ và hạ sát, trên báo chí
và nhất là trên Internet, “cuộc chiến” lại diễn ra giữa phe “bênh”
và phe “chống” ông Diệm. Phe “bênh” tổ chức lể truy điệu và viết bài
ca tụng “công đức” của ông Diệm, còn phe “chống” kể “tội ác” của ông
Diệm và Thiên Chúa Giáo. Hiện tượng này phát xuất từ mặc cảm tội lỗi
của một số người trước đây vì có những tham vọng ngông cuồng, đã bị
cả CIA lẫn Việt Cộng lừa và biến thành công cụ, xử dụng xong rồi loại
bỏ, đưa Phật Giáo vào đất nước vào những ngày đen tối, nên chơi trò
đánh lận con đen để “rửa mặt” và “chạy tội”!
TCN:
Lữ Giang dốt sử: Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên và cũng do Mỹ hạ xuống.
Thân phận làm tay sai cho ngoại bang là như vậy. Có thể trách được ai.
Ông Diệm chết đã 48 năm rồi, chẳng ai buồn chống ông ta làm chi. Chúng
tôi chỉ nghiên cứu lịch sử và viết ra những sự thật lịch sử về ông Diệm,
cũng như nghiên cứu về Thiên Chúa Giáo và viết ra những sự thật về Thiên
Chúa Giáo. Đây là điều mà giới trí thức Tây phương đã làm từ nhiều năm
nay. Chỉ có những kẻ u mê cuồng tín mới tiếp tục xuyên tạc lịch sử, hi
vọng có thể lừa dối được quần chúng để “rửa mặt” và “chạy tội” cho ông
Diệm cũng như chạy tội cho Công Giáo ở Việt Nam.
Lữ
Giang viết bừa một cách hết sức nhảm nhí, ấu trĩ, và hơi ngu. Thật vậy,
ai là những người bị CIA và Việt Cộng lừa và biến thành công cụ, công
cụ để làm những gì, Lữ Giang không nói. Nhưng sự thật lịch sử là: CIA
và Vatican đưa Diệm lên, sử dụng đến khi không còn cần nữa thì loại bỏ.
Lữ Giang định chụp mũ cho Phật Giáo nhưng mà ai loại bỏ Diệm? Toàn là
những nhân vật Cần Lao thân tín trước của Diệm như chính Lữ Giang viết
trong một đoạn sau: Những thành
phần Cần Lao nồng cốt được ông Diệm tin cậy như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn
Văn Thiệu, Tôn Thất Đính, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu... đã bị CIA mua chuộc,
làm đảo chánh lật đổ và giết ông Diệm, sau đó làm mất miền Nam.
Những
cá nhân Cần Lao bị CIA biến thành công cụ thì có liên hệ gì đến Phật
Giáo mà đưa Phật Giáo vào những ngày đen tối? Viết bậy như vậy mà cũng
viết ra được thì chỉ có đầu óc của một con chiên mất dấu như Lữ Giang
mới có thể viết được như vậy.
Những
ngày đen tối không đến với Phật Giáo. Lễ Tam Hợp vinh danh Đức Phật của
Liên Hiệp Quốc đã được tổ chức tại Việt Nam. Ngày tư ngày Tết, dân chúng
nườm nượp đi lễ Chùa Hương, Yên Tử, Bái Đính v…v… Các lễ hội Phật Giáo
được tổ chức rất hoành tráng. Tiến sĩ Hồng Quang và Bác sĩ Nguyên Hiền
về Việt Nam dạy Thiền, một phương pháp để chữa bệnh và tăng sức khỏe,
ở đâu cũng có đông người, tăng và tục, tham dự. Chỉ có Thiên Chúa Giáo
mới đi vào những ngày đen tối, vì mất đi quyền lực dựa vào thực dân Pháp,
dựa vào chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam, và ông chủ Mỹ. Bộ mặt nô
lệ Vatican của Gm Ngô Quang Kiệt đã rõ rệt. Đó là sự thật, và sự thật
không cần đến cuộc chiến để phơi bày. Vì người dân đã biết đến sự thật
này từ lâu.
Đất
nước cũng chẳng đi vào đen tối, thống nhất và mở mang phát triển như
chưa từng thấy. Cứ ngồi ở nước ngoài trong tâm cảnh Công giáo chống Cộng
của thời Đệ Nhất Cộng Hòa mà nói láo. Tôi đã về Việt Nam bốn lần: 1996,
1998, 2007, và 2010. Mỗ lần về tôi lại thấy Việt Nam khác trên đà mở
mang. Đường xá, cầu cống phát triển nhiều làm cho sự giao thông trên
toàn quốc dễ dàng và đỡ mất thì giờ hơn trước. Nhìn vào số xe hơi, xe
gắn máy mà chóng mặt. Buôn bán tấp nập, quán ăn lúc nào cũng đông khách.
Người dân có tiền đi du lịch ngoại quốc, kể cả đi Mỹ, Pháp, Canada rất
dễ dàng. Mỗi năm có cả triệu du khách đến Việt Nam, trong đó có ít ra
cũng là 3-4 trăm ngàn “Việt kiều chống Cộng”, và Việt kiều “tiếp hơi,
tiếp sức” cho Việt Cộng mỗi năm từ 6 đến 8 tỷ đô-la. Bất kể người ta
diễn giải xã hội Việt Nam ngày nay như thế nào, với quốc nạn tham nhũng,
với những tệ đoan, với nền giáo dục xuống cấp, với sự cách biệt giàu
nghèo v…v…, nhưng bộ mặt hiện thực của xã hội Việt Nam là như trên.
LG: Dĩ
nhiên, cả hai bên tranh luận đều không quan tâm đến sự thật lịch sử.
Bên “chống” viết “Bản Cáo Trạng”: Đi
lượm bất cứ sự kiện hay quan điểm nào chống ông Diệm và Thiên Chúa
Giáo rồi phổ biến, không cần biết đúng hay sai.
TCN:
Nói bậy ! Chỉ có bên những người bênh ông Diệm và Thiên Chúa Giáo mới
không quan tâm đến lịch sử và cố tìm cách xuyên tạc lịch sử, mà Lữ Giang
là người đã nổi tiếng trong vấn đề này. Còn những người viết ra những
sự thật về ông Diệm và Thiên Chúa giáo đều dựa trên công phu nghiên cứu
những tài liệu của các học giả Tây phương có uy tín cũng như chính cuốn
Thánh Kinh và bao giờ cũng đưa ra xuất xứ rõ ràng, nhưng không hề thấy
một người nào, nhất là những người thuộc phe bênh ông Diệm và Thiên Chúa
Giáo, phản biện, chứng minh tài liệu nào, quan điểm nào là sai cho độc
giả thấy. Nếu Lữ Giang muốn nói là “đi lượm” thì Lữ Giang đã coi những
sự thật về ông Diệm hay Thiên Chúa Giáo đều là đồ rác rưởi, có phải như
vậy không? Với trình độ như vậy, không hiểu sao mà Lữ Giang có thể
trở thành một Chánh án của VNCH.
Những
người tiếp tục ca tụng ông Diệm hay Thiên Chúa Giáo hầu hết chỉ theo
cảm tính cá nhân vô căn cứ, tung hô trơ trẽn ông Diệm là “chí sĩ” bao
năm lê gót trong các tu viện Ca-tô ở ngoại quốc để cứu nước, là tổng
thống anh minh nhất mực v…v… và Thiên Chúa Giáo là một “hội thánh” trong
khi họ chẳng biết gì về chính tôn giáo của họ, vì trên thực tế ông Diệm
là người vô tài vô đức, và là một bạo chúa Công giáo, theo như nhận định
của vô số nhân sĩ học giả trên thế giới, và Thiên Chúa Giáo, đặc biệt
là Công giáo, qua những công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh của giới trí
thức Tây phương, chỉ là những tổ chức thế tục buôn thần bán thánh để
kiếm lời.
Thật
vậy, Công giáo đi buôn hai mẹ con bà Maria để bán cho tín đồ kiếm lời,
và Vatican đã trở thành một cái xưởng sản xuất thánh [a saint factory],
sản xuất ra những sản phẩm hạ đẳng vô giá trị, trong đó có 117 tội đồ
của Việt Nam, đã chứng tỏ như vậy. Tin Lành bày đặt ra hết ngày tận thế
này đến ngày tận thế khác cũng chỉ để vơ vét của cải của tín đồ, điển
hình là ở Nam Hàn, đã chứng tỏ như vậy. Cách phản biện duy nhất của những
người theo Thiên Chúa Giáo cuồng tín và ngu xuẩn là mạ lỵ cá nhân các
tác giả đối lập, hoặc bịa chuyện về đời tư của những tác giả mà họ không
ưa trước những sự thật mà những tác giả đó đã đưa ra với đủ bằng chứng.
Nhưng họ không đủ khả năng để hiểu được rằng, chính những lời lẽ hạ cấp
để chụp mũ đối phương vô căn cứ đã quật ngược lại chính họ để cho đọc
giả thấy rõ căn bản giáo dục Ca-tô của họ. Đọc giả ngày nay muốn đọc
những lý luận sắc bén với những tài liệu dẫn chứng làm hậu thuẫn chứ
không đọc những lời chửi rủa bịa đặt vu vơ hạ cấp của những kẻ vô giáo
dục và vô văn hóa.
LG: Nhìn
vào “chiến trường”, chúng ta thấy phe chống ông Diệm gần như thắng
thế hơn phe bênh ông Diệm vì các lý do sau đây:
Lý
do thứ nhất: Phe chống có lãnh đạo.
Những
thành phần chống ông Diệm đã hình thành được một nhóm chủ đạo luân
phiên gây chiến như Trần Chung Ngọc, Cao Huy Thuần, Hồ Đắc Xuân, Lê
Cung, Vũ Ngự Chiêu, Hoàng Văn Giàu (Hoàng Nguyên Nhuận), Nguyễn Mạnh
Quang, Charlie Nguyễn (đã chết), Bùi Kha, v.v. Còn các thành phần trợ
chiến như Nguyễn Hữu Ba, Trần Quang Diệu, Bảo Quốc Kiếm, Võ Văn Sáu,
Lê Nguyên Long, Lê Xuân Nhuận... nhiều vô số kể.
TCN:
Thứ nhất, cần phải nhắc lại là chẳng có ai buồn chống một xác chết đã
nằm trong lòng đất 48 năm rồi. Cho nên khi Lữ Giang cho rằng những người
viết lịch sử có lương tâm trí thức, đưa ra những sự thật lịch sử bất
khả phủ bác, là để gây chiến… là Lữ Giang muốn tạo ra một cuộc chiến
không thể nào xẩy ra: cuộc chiến giữa những người làm văn hóa nghiêm
chỉnh với những người vô lại cuồng tín thuộc loại “côn đồ văn hóa” và
“đao phủ văn chương”, trong số người này có lẽ Lữ Giang chiếm giải quán
quân, vì chỉ viết láo, không bao giờ đưa ra những bằng cớ có giá trị
để chứng minh. Trong nhóm trên, có nhiều người tôi chẳng biết là
ai, ở đâu, mặt mũi ra sao, trừ vài ba người quen thuộc. Nhưng tôi cho
rằng, họ đều như tôi và Nguyễn Mạnh Quang, hoạt động độc lập trong lãnh
vực hiểu biết của mình, không ở trong bất cứ một tổ chức nào, kể cả Giao
Điểm hay Sách Hiếm [Sách Hiếm chỉ là một website, không phải là một tổ
chức], và tất nhiên không phải là những nhân vật lãnh đạo của một tổ
chức, vì lãnh đạo là hoạch định đường lối và chỉ đạo cho một tập thể,
thí dụ như Vatican lãnh đạo tập thể các con chiên ngu muội. Ông Lữ Giang
thử nói những người trên lãnh đạo ai, và ai để cho họ lãnh đạo?
LG: Trái
lại, những thành phần bênh ông Diệm không có tổ chức, chỉ hành động
theo sáng kiến cá nhân. Như chúng ta đã biết, nhóm Cần Lao đã hoàn
toàn bị tan rã sau khi ông Diệm bị giết. Những thành phần Cần Lao nồng
cốt được ông Diệm tin cậy như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Văn Thiệu, Tôn
Thất Đính, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu... đã bị CIA mua chuộc, biến thành
“bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền
rủa” (cụm từ của Tổng Thống Johnson), làm đảo chánh
lật đổ và giết ông Diệm, sau đó làm mất miền Nam.
TCN: Tổng
Thống Johnson nói gì về ông Diệm? Đó là thằng nhóc con duy nhất mà
chúng ta có ở đó (He is the only boy we got there). Mặt khác, như
vậy chứng tỏ rằng Diệm ngu, tin cậy những người không đáng tin cậy. Bọn
“ác ôn côn đồ” đó đã được toàn quốc - minus Công giáo - hoan hô, ghi
ơn. Hãy nhìn những hình ảnh người dân vui mừng hân hoan thế nào khi cuộc
đảo chánh thành công và dân chúng, giới trẻ, sinh viên học sinh nam nữ
ùa ra đường, mang vòng hoa choàng cổ Tướng Trần Văn Đôn, mang thức ăn
thức uống đến cho binh sĩ tham dự đảo chánh. Đây mới là sự thật đó, ông
Lữ Giang ạ. Trong cuốn "Nobody Wanted War", A Doubleday
Anchor Book, New York 1970, Ralph K. White viết, trang 91:
Theo
Malcolm Browne, chế độ Diệm đã bị cả nước oán ghét. Nếu nhà Ngô còn
cầm quyền cho đến ngày nay (1965) thì chắc chắn là Việt Nam sẽ hoàn
toàn là Cộng sản.” [Bọn Ca Tô hoài Ngô ngày nay vẫn còn đưa ra
luận điệu “Còn cụ thì không mất nước”. Tại sao cụ không còn? Vì số
phận một bạo Chúa thì trước sau gì cũng như vậy thôi]
(According
to Malcolm Browne, there was a "sweeping hatred" of the regime
throughout the country. If the Ngo family had remained in charge there
is little doubt that Vietnam would be entirely Communist today. (1965).)
Theo: http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3o_ch%C3%ADnh_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_1963
Theo
chứng nhận của bác sĩ Huỳnh Văn Hưỡn, Giám đốc bệnh xá và cũng là người
đã tiến hành vụ khám nghiệm thì hai ông Diệm, Nhu bị bắn từ sau gáy
ra phía trước. Xác tổng thống Ngô Đình Diệm có nhiều vết bầm, chứng
tỏ đã bị đánh đập trước khi bắn. Xác Ngô Đình Nhu bị đâm nhiều nhát,
áo rách nát và đầy máu….
Điều
này chứng tỏ là chính quyền Ngô Đình Diệm và Nhu đã bị người dân oán
ghét như thế nào. Nếu chỉ là đảo chính và tránh hậu hoạn thì mỗi người
chỉ cần một viên đạn là đủ. Tại sao còn phải đánh đập và đâm nhiều nhát.
Giáo
sư đại học Boston, Seth Jacobs, viết trong “America's
Miracle Man in Vietnam: Ngo Dinh Diem, Religion, Race, and U.S. Intervention
in Southeast Asia”, Duke
University Press, 2004:
Tin tức về hai
anh em Diệm Nhu bị giết được loan truyền trên đài phát thanh, Sài-gòn
nổ tung sự hân hoan. Một ký giả Mỹ kể lại, “Hầu như mọi người đều ra
ngoài đường ca hát, nhảy múa, hò hét, phất cờ, hoặc đứng xem. Có những
nụ cười trên hầu hết các khuôn mặt.” Nhiều chục ngàn người bu quanh
những xe tăng của binh sĩ và trao tặng cho họ quà cáp và những lời
biết ơn. Những hộp đêm mở cửa và người ta nhảy “twist”, tango và những
điệu nhảy khác mà Diệm đã cấm. Chùa Xá Lợi làm lễ cảm tạ suốt ngày.
Sinh viên tràn vào Dinh Độc Lập đầy vết đạn, hô “Tự Do” và “Quân nhân
Đảo Chính muôn năm”. Khi những tù nhân được thả ra và kể lại những
chuyện bị tra tấn, những nhóm người giận dữ ném rác vào tòa nhà Quốc
Hội và đốt nhà viên chức chính phủ. Một số người dân lấy giây cáp từ
một chiếc tầu ở bến Saigon để kéo bức tượng em dâu của Diệm xuống,
tượng bà Nhu. Văn phòng tờ “Times of Vietnam”, một tờ báo ủng hộ Diệm
do quỹ của Mỹ, bị thiêu rụi. Đám đông đốt rác trước cửa nhà các viên
chức ngoại giao Mỹ, cướp phá những cơ sở thương mại của Nhà Ngô,và
xé bỏ hình ảnh của Diệm ở bất cứ nơi nào được trưng bày. Sự hỗn loạn
kéo dài chưa đến một ngày và rồi sự bình yên trở lại trên khắp thị
trấn. Frances FitzGerald viết “Sau cơn khủng khoảng qua đi, người dân
Daigon chẳng mấy khi còn nhắc đến chế độ Diệm nữa. Chẳng còn gì để
mà nói.”
[As
news of the assassinations went out over the radio, Saigon exploded in
jubilation. An American correspondent reported, "Everybody seemed
to be in the streets, singing, dancing, shouting, waving banners, or
just standing by, watching. There were smiles on practically every face." Tens
of thousands flocked around the tanks of rebel soldiers to shower their
heroes with presents and expressions of gratitude. Nightclubs threw open
their doors, and revelers danced the twist, the tango, and all the other
dances Diem had banned. Saigon's Buddhists congregated at Xa Loi Pagoda
for a daylong service of thanksgiving. Students stormed the shell-scarred
Presidential Palace, screaming "Freedom!" and "Long live
the junta!" When newly released political prisoners began relating
stories of torture, outraged mobs laid waste to the National Assembly
Building and set fire to the homes of government officials. A few resourceful
citizens used a power winch from a ship in Saigon harbor to pull down
a statue of Diem's sister-in-law, Madame Nhu. The offices of the Times
of Vietnam, a pro-Diem newspaper funded by the United States, were
burned to the ground. Crowds lit bonfires in front of the residences
of American diplomats, ransacked buildings and business establishments
owned by the Ngo family, and ripped up Diem's portrait wherever it was
displayed. The cathartic rioting lasted less than a day, and then calm
settled over the city. "After the crisis had passed," Frances
FitzGerald wrote, "the people of Saigon rarely spoke of the Diem
regime again. There was nothing more to be said." ]
Tướng
Trần Văn Đôn được người dân choàng vòng hoa vinh quang, sau cuộc đảo
chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm
5-11-1963
- KHI QUYỀN LỰC CỦA TT DIỆM BỊ ĐẬP TAN TẠI NAM VN--Một thanh niên
VN chân không giày dép chuẩn bị nhảy xuống trên đầu một bức tượng
trên một con đường ở Sài gòn trong thời gian cuộc đảo chánh mà đã
dẫn đến việc lật đổ chế độ của TT Ngô Đình Diệm. Bức tượng này là
biểu tượng cho ảnh hưởng trong chính quyền của bà Ngô Đình Nhu, em
dâu của TT Diệm. Đây là bức ảnh trong một sêri ảnh độc đáo gửi đến
New York hôm nay từ Sài Gòn. (AP Wirephoto)
Vậy
mà ngày nay, ở hải ngoại, những kẻ hoài Ngô vẫn khoa trương Ngô Đình
Diệm được dân chúng miền Nam ca tụng và biết ơn. Tín đồ Ca-tô biết ơn
Ngô Đình Diệm vì Ngô Đình Diệm đã chống Cộng cho Chúa, nhưng Chúa lại
không biết ơn mà lại khiến cho Ngô Đình Diệm phải chết thảm như những
bạo Chúa khác, kể cả Chúa của Ngô Đình Diệm, vì đã bị đóng đinh và chết
thảm trên cây Thập giá.
LG: Lý
do thứ hai: Phe chống có nhiều phương tiện.
Đa
số các bài viết của nhóm chống ông Diệm và chống Công Giáo đều được
in thành sách hay đưa lên các websites như sachhiem, giaodiemonline,
chuyenluan, Virtual Archivist, talavas blog, v,v,. Một số websites
của các trung tâm Phật Giáo cũng đã yểm trợ cho phe này như quangduc.com, buddismtoday.com, thuvien-thichnhathanh.org, old.thuvienhoasen.org,
v…v…
TCN:
Ai cũng biết, phần lớn phương tiện truyền thông ở hải ngoại như truyền
thanh, báo chí, Internet là nằm trong tay người Công giáo. Và Công giáo
là một tổ chức chặt chẽ, muốn bao nhiêu tiền cũng có. Nhưng người Công
giáo chỉ dùng những phương tiện đó để chống Cộng và ca tụng Công Giáo,
từ các Giáo hoàng vô đạo đức như John Paul II và Benedict XVI mà họ gọi
là “đức thánh cha” trở xuống cho đến các linh mục vô đạo đức mà họ gọi
là “đức cha”, và trơ trẽn tuyên xưng Công giáo là một “hội thánh”. Họ
không thể dựa vào đâu để mà phản biện những công cuộc nghiên cứu về Công
giáo của các học giả Tây phương mà chúng tôi đưa ra. Cho nên họ luôn
luôn tìm cách che dấu hoặc ngụy biện làm nhẹ bớt những tội ác của Giáo
hội và giới chăn chiên. Và tất nhiên nếu họ viết về lịch sử Việt Nam
cận đại thì chỉ với mục đích xuyên tạc lịch sử và chụp mũ cho Phật Giáo
thiên Cộng để chạy tội làm tay sai cho ngoại bang (Vatican là một tiểu
tiểu quốc) và chạy tội bán nước trước đây và có thể trong tương lai của
Công Giáo. Nên nhớ rằng, tất cả những sách hay bài viết về Công Giáo
đều dùng tài liệu của giới trí thức Tây phương, ở trong cũng như ở ngoài
các giáo hội Ki Tô Giáo, không có một tài liệu nào của Phật Giáo hay
của Cộng Sản.
Tài
liệu trong những cuốn sách và bài viết đó là những tài liệu bất khả phủ
bác, nếu không thì người Công giáo đã lên tiếng phản biện vì động đến
tôn giáo và Chúa của họ. Nhưng vì tất cả đều là sự thật nên họ không
dám mở miệng chống đối, mà chỉ chụp mũ vu vơ này nọ, tuyệt đối không
bao giờ dám tranh luận trên các chủ đề. Một điều họ không cản nổi là
những cuốn sách và bài nghiên cứu về Công Giáo sẽ được lưu truyền trong
xã hội Việt Nam và càng ngày sẽ càng có nhiều người tham gia vào mặt
trận văn hóa này. Giáo hội Công Giáo hoàn vũ cả ngàn năm đã bưng bít
che dấu sự thật, nhưng cuối cùng đã thất bại, vì ngày nay chúng ta có
cả ngàn tác phẩm nghiên cứu về mọi mặt của Ki Tô Giáo nói chung, Công
giáo nói riêng, khoan kể đến một số websites trên Internet.
Những
sách và bài viết về Công giáo của người Việt thật sự chẳng thấm vào
đâu so với số lượng tài liệu về Công giáo trên thế giới.
Vậy mà người Công giáo Việt Nam đã sợ rồi. Nếu họ biết đến những tác
phẩm và websites thực sự chống Công giáo thì không biết họ còn sợ tới
đâu. Lữ Giang kết bài bằng câu của Chúa Giê-su: “Sự thật sẽ giải
thoát các ngươi”. Những sự thật trong bài này không hi vọng sẽ
giải thoát được người Công giáo, vì giải thoát thì có vẻ khó, nhưng
may ra thì có thể sẽ cởi trói cho những người Công giáo nếu họ biết
được chút ít sự thật và bớt đi được lòng sợ sự thật.
LG: Lý
do thứ ba: Phe chống hành động có chiến thuật.
Chiến
thuật quen thuộc nhất của phe chống ông Diệm là luôn liên
kết các hoạt động của ông Diệm với Thiên Chúa Giáo để kích động lòng
hận thù tôn giáo. Trong chiến tranh Việt Nam, Thích
Trí Quang và nhóm Phật Giáo đấu tranh luôn dùng chiến thuật này để
kích động Phật tử đứng lên đấu tranh. Sau chiến tranh, khối Phật Giáo
đấu tranh ngày càng tan rã, nhóm chống ông Diệm lại càng phải kích
động lòng hận thù tôn giáo để thu hút các thành phần Phật Giáo cực
đoan còn lại đứng về phía họ để kéo dài sự tồn tại.
TCN: Đây chỉ là điều cố ý xuyên tạc lịch sử của Lữ Giang và vu vạ cho Phật
Giáo. Nhưng làm sao ông ta có thể thành công trong thủ đoạn bất lương
trí thức này. Lịch sử đã rõ ràng, những hoạt động của ông Diệm đều bắt
nguồn từ cái chất Công giáo của ông ta với sự tiếp tay của Tổng Giám
mục Ngô Đình Thục, của thủ lãnh mật vụ và đảng Cần Lao Nhân Vị Ngô Đình
Nhu, của Hung thần miền Trung Ngô Đình cẩn và đám gia nô Công giáo. Đưa
ra những sự kiện lịch sử này không phải là để kích động lòng hận thù
tôn giáo mà chỉ để lấy lại công bằng lịch sử trước những luận điệu xuyên
tạc lịch sử như của Lữ Giang, khoa trương trơ trẽn để tiếp tục vinh danh
ca tụng một tội đồ của dân tộc Việt Nam đã bị ít ra là đa số người Việt
oán ghét.
Phật
Giáo đã tha thứ cho gia đình họ Ngô Đình về những tội ác của họ đối với
Phật Giáo và người dân Việt. Điển hình là những hành động từ bi hỉ xả
của Hòa Thượng Thích Mãn Giác đối với gia đình họ Ngô. Vì Phật Giáo nhìn
Ngô Đình Diệm như là một con người bị vô minh sai khiến, một sự vô minh
trầm trọng bắt nguồn từ ý thức hệ tối tăm dầy đặc của Công giáo Rô Ma
(Dr. Barnado: the thick darkness of Romanism). Điều mà Phật Giáo muốn
dứt bỏ là vô minh chứ không phải là con người bị vô minh sai khiến. Giáo
lý Phật Giáo khẳng định: một niệm sân hận nổi dạy có thể thiêu đốt cả
rừng công đức.
Nhưng
hàng năm, vào dịp 1/11, tại một số ốc đảo Công Giáo Việt Nam ở hải ngoại,
cái gọi là “Phong Trào Phục Hồi Tinh Thần Ngô Đình Diệm” lại
tổ chức tưởng niệm Ngô Đình Diệm và đưa ra những luận cứ hoang đường,
hoàn toàn sai sự thực lịch sử để tôn vinh NĐD như là một nhà yêu nước
chống Cộng, còn cụ thì không “mất nước” (sic) v..v... Họ không buồn quan
tâm đến câu hỏi then chốt: Tại sao cụ lại không còn, trong khi cụ vẫn
tin rằng có “ơn trên” (sic) phù hộ? Tác giả Trần Văn Kha cũng đã đưa
ra câu hỏi: “Nhà Ngô đã có nhiều công mở mang nước Chúa. Thế mà lại
không được “ơn trên” phù hộ, vẫn bị bắn chết! Tại sao?” Câu trả
lời là: Thực tế đã chứng tỏ chẳng làm quái gì có cái gọi là “ơn trên”,
và “cụ không còn” chính là luật nhân quả: ác giả ác báo.
Tại
sao một người như NĐD mà vẫn còn được tôn vinh? Những người Công giáo
tôn vinh NĐD không phải vì ông Diệm là người có tài, có đức, mà chỉ vì
ông ta là người Công Giáo, được Tòa Thánh và Mỹ đưa về để làm một lá
bài chống Cộng cho Mỹ và cho Vatican, đi kèm với âm mưu Công giáo hóa
Việt Nam, hay ít ra là miền Nam Việt Nam. Điều này không lấy gì làm lạ
vì hành động tôn vinh NĐD cũng chẳng khác gì những việc mà họ đã làm
trước đây và tiếp tục làm bất kể đến liêm sỉ và lương thiện trí thức:
tôn vinh những tên Việt Gian như Pétrus Ký, Nguyễn Trường Tộ, Trần Lục,
Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ v..v.. chỉ vì những người có danh này, dù
là danh xấu vạn niên đối với tuyệt đại đa số người dân Việt Nam, đều
là người Công giáo. Nhưng có điều họ không ý thức được rằng, phục hồi
tinh thần Ngô Đình Diệm có nghĩa là phục hồi tinh thần “tam đại Việt
gian” của dòng họ Ngô Đình, như giáo sư sử học Nguyễn Mạnh Quang đã chứng
minh rõ ràng trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư, Tập I.
Họ áp dụng sách lược của Giáo hội: “Tốt mã khoe ra, xấu xa đậy lại”,
nhưng thời buổi này làm sao họ có thể che đậy được những sự xấu xa của
Công giáo. Vatican và tư cách của Giáo hoàng đã bị đưa lên bàn mổ và
người ta đã tìm thấy trong đó những tế bào ung thư. Hãy đọc “The
Vatican Mafia” http://www.bibliotecapleyades.net/vatican/vatican_mafia01.htm của
Đức Ông Rafael Rodríguez
Guillén. Hãy đọc “The Vatican Assassins” của Eric
Jon Phelps trên TheSpectrumNews.com Website.
Ông
Lữ Giang cho rằng những hoạt động của ông Diệm không liên kết gì với
Công giáo. Nhưng sự thật thì những hoạt động của Ngô Đình Diệm có liên
kết với Công giáo hay không? Chúng ta hãy đọc vài tài liệu điển hình.
1.
Hãy đọc Frances Fitgerald (Winner of the Pulitzer Prize, Winner of the
National Book Award, Winner of the Bancroft Prize For History) trong "Fire
In The Lake" Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139:
Cái
chất công giáo của Diệm, không hề mở mắt hắn đến với những ý tưởng
mới, mà chỉ thuyết phục hắn là cai trị bằng nghi lễ và huấn thị
đạo đức là có thể thành công, mà nó có vẻ như vậy trong các làng
mạc ở miền Bắc và Trung sống trong cái vỏ bằng sắt và điều khiển
bởi các linh mục.
Cái
mà hắn ta không ý thức được là cái kiểu cai trị thiển cận như vậy
của các giáo xứ có thể thực hiện chỉ vì người Pháp đã bảo vệ họ
và tổ chức nền hành chánh quốc gia. Do đó, tham vọng của hắn phục hồi
xã hội cổ xưa giống như là của những tên thực dân Pháp, coi mình như
cha người ta, đã chống những chương trình cải cách của những giới chức
hành chánh nơi thành thị – sự khác biệt là trong khi người Pháp giữ
lãnh vực hiện đại cho riêng họ thì Diệm không nhận ra được sự quan
trọng của vấn đề hiện đại hóa. Đối với hắn, thế giới hiện đại là Sài-Gòn,
cái thị trấn ký sinh trùng đó đã trở nên béo mập bởi máu của thôn quê
và lợi lộc của Tây phương...
Những
ký giả như Robert Shaplen đã chỉ trích Diệm như làm cho những nông
dân xa lánh vì những biện pháp đàn áp của hắn.
Một
số đông những giới chức và ký giả, kể cả những người có nhiều kinh
nghiệm và có khuynh hướng chính trị khác nhau như Douglas Pike, Chester
Bowles, và chuyên gia chống nổi loạn người Anh, Robert Thompson, đều
coi Diệm như là kẻ thù của chương trình chống Cộng.
Trong
tất cả những năm cầm quyền, Ngô Đình Diệm chỉ có một đồng minh ở
thôn quê, đó là những người Công giáo, đặc biệt nhất là những người
di cư từ ngoài Bắc vào. Ngay từ đầu, Diệm dùng trong bộ máy hành
chánh phần lớn là những người Công giáo, và thiên vị các làng Công
giáo đối với phần còn lại của quốc gia. Những giới chức của Diệm,
làm việc chặt chẽ với các linh mục, đem phần lớn viện trợ Mỹ cho các
làng Công giáo, và phần lớn những nông sản. Chúng cho những
người Công giáo quyền khai thác lâm sản và độc quyền sản xuất loại
hàng hóa nông sản mới do các kỹ thuật gia Mỹ đưa vào giúp. “Theo
đạo có gạo mà ăn” là một câu tục ngữ khi xưa của người Việt Nam dưới
thời Pháp thuộc. Dưới thời Diệm người dân Việt đã phải theo cái lệnh
này. Đặc biệt ở miền Trung, hàng ngàn người, trong vài trường hợp hầu
như toàn thể khu định cư, theo đạo để tránh những dịch vụ cỏ vê của
chính phủ, hoặc để tránh biện pháp tái định cư trong vài vùng rừng
rú hay sình lầy gian khổ – để giúp những người Công giáo lân cận. Nuôi
người Công giáo trong sự tổn hại của phần còn lại của dân chúng, lẽ
dĩ nhiên, là một chính sách thiển cận, nhưng Diệm không thấy một đường
lối nào khác, và Mỹ cũng không đề nghị cho Diệm một đường lối nào
khác.
(Diem's
Catholicism, far from opening him up to new ideas, only persuaded him
that government by ritual and moral instruction could work, as indeed
it seemed to in the ironclad, priest-ridden villages of the north and
center.
What
he did not realize was that such parochial governments could operate
merely because the French protected them and organized the administration
of the country. His ambition to restore the old society therefore resembled
that of the paternalistic French colons who had opposed the reformist
programs of the metropolitan administrators - the difference being that
while the French wished to keep the modern sector for themselves, Diem
did not recognize its importance. For him, the modern world was Saigon,
that parasite city that fattened from the blood of the countryside and
the lucre of the West.
...Journalists,
such as Robert Shaplen, criticized Diem for alienating the peasants by
his oppressive measures.
..A
host of officials and journalists, including such experienced and politically
diverse men as Douglas Pike, Chester Bowles, and the British counterinsurgency
expert, Sir Robert Thompson saw Diem as the enemy of the anti-Communist
project.
...In
all the years of his reign Ngo Dinh Diem found only one ally in the countryside,
and that was the Catholics, most particularly the northern refugees.
From the beginning he staffed his administration heavily with Catholics
and favored the Catholic villages over all the rest. The Diemist officials,
working closely with the priests, saw to it that the Catholic villages
took the bulk of US relief aid, the bulk of agricultural credit.
They
gave the Catholics the right to take lumber from the national reserves
and monopoly rights over the production of the new cash crops introduced
by the American aid technicians. "Turn Catholic and have rice
to eat", went the old Vietnamese saying under the French regime.
Under Diem the South Vietnamese continued to follow the injunction. In
Central Vietnam particularly, thousands of people, in some cases virtually
whole settlements, turned Catholics so as to escape the government corvés
or to avoid resettlement - for the benefit of their Catholic neighbors
- into some hardship zone of jungle and swamp. To feed the Catholics
at the expense of the rest of the population was, of course, a shortsighted
policy, but Diem saw no alternative, and the Americans offered him none.)
2.
Hãy đọc Bernard Newman trong "Background to Vietnam" ,
Signet Books, New York 1965, p. 117:
...Ngày
tháng qua, cách cai trị của Diệm càng ngày càng trở nên không thể chịu
được, và tới năm 1963 hắn là một nhà độc tài hoàn toàn, chỉ nghe những
thân nhân trong gia đình. Hắn hoàn toàn xa lạ với quần chúng. Người
ta phàn nàn là hắn đã trao những chức vụ tốt nhất cho người Công giáo:
nhưng những người Công giáo là “người ngoại quốc” – những người di
cư từ ngoài Bắc vào. Sự bất mãn đưa đến phong trào chính trị của Phật
Giáo.”
...With
the passing months Diem's attitude became more intolerable, and by 1963
he was the complete dictator, seeking advice only from his immediate
relatives. He was completely aloof from the common people. It was complained
that he gave all the best posts and showed all the favor to Catholics:
but the Catholics were "foreigners" - refugees from the North
Vietnam. The resentment brought about the rise of a Buddhist political
movement.)
3.
Hãy đọc Loren Baritz trong "Backfire: Vietnam - The Myths That
Made Us Fight, the Illusions That Help Us Lose, The Legacy That Haunts
Us Today", Ballantine Books, New York 1985, pp. 83-85:
Công
giáo Việt Nam phát triển do chính sách kỳ thị Phật Giáo một cách có
hệ thống của Ngô Đình Diệm. Người Công giáo được dùng trong các dịch
vụ dân sự, trong khi những người Công giáo sống trong những làng mạc
thường không bắt buộc phải làm những công việc nặng nhọc làm đường
xá và những việc công cộng. Không giống như những Chùa Phật Giáo, nhà
thờ Công giáo được đặc quyền sở hữu tài sản đất đai, cũng như trong
thời Pháp thuộc. Với thời gian, sự kỳ thị đối với tuyệt đại đa số dân
chúng này đưa đến những phản đối chính trị chống Diệm của những nhà
sư Phật Giáo.
(The
Catholic Vietnamese thrived under Diem's systematic discrimination against
the Buddhists. The Catholics were preferred in the civil service, while
those who lived in the villages were not always required to do the hard
labor of building roads and other public works. The Catholic Church,
unlike the Buddhist Pagodas, had special rights to acquire and own property,
as had been the case under the French. In time, this discrimination against
the vast majority of the country would lead to politically lethal protests
against Diem by the Buddhist bonzes.)
4.
Hãy đọc Neil Sheehan trong "A Bright Shining Lie",
Vintage Books, New York 1989, p. 143:
Link: http://en.wikipedia.org/wiki/A_Bright_Shining_Lie
Lansdale
để cho những tiên kiến của mình đưa tới những giả định sai lầm... Lansdale
nghĩ rằng những người Công giáo di cư từ miền Bắc là những người yêu
nước đã “chiến đấu giành lại sự tự do của đất nước từ người Pháp”.
Hắn không nhìn thấy sự sai lầm nào trong vấn đề Mỹ chỉ tin cậy vào
sự trợ giúp đặc biệt của người Công Giáo. Hắn không nhìn thấy vấn đề
có một người Công Giáo làm tổng thống của cái mà hắn quan niệm là “Việt
Nam Tự Do” là không thích hợp.
Công
giáo Rô Ma là một thiểu số có nhiều tỳ vết ở Việt Nam. Lansdale
lo việc phân biệt giữa người Mỹ và những tên “thực dân” Pháp. Điều
hắn làm là đưa ra sự phân biệt tuy chẳng có gì khác nhau.. Chỉ dựa
vào người Công giáo giúp đỡ, và bằng cách đặt một người Công Giáo
lên cầm quyền ở Saigon, hắn ta đã chứng tỏ là Mỹ đã nhảy vào thay
thế người Pháp. Những người Việt Nam theo đạo Công giáo đã được
người Pháp sử dụng như là một đạo quân thứ 5 để xâm nhập Việt Nam
trước thời thuộc địa và những người Công Giáo đã được Pháp tưởng
thưởng cho sự hợp tác của họ với những tên thực dân Pháp. Người
Công Giáo thường bị coi như là thuộc một tôn giáo”ngoại lai”, “không
phải là Việt Nam”. Với sự ra đi của người Pháp, hiển nhiên là người
Công Giáo phải tìm một một ngoại bang khác để bảo vệ họ. Họ nói với
Lansdale những gì mà họ cho rằng Landale muốn nghe...
Trong
sự hướng dẫn Diệm của Lansdale đến thành công bằng cách diệt các giáo
phái dựa trên lý thuyết Diệm là Magsaysay để lập một chính phủ tập
trung quyền lực mới, không bao giờ Lansdale lại nghĩ rằng Diệm bắt
đầu chính sách cai trị của mình bằng cách loại bỏ những người chống
Cộng hữu hiệu nhất ở miền Nam.
Dòng
họ Ngô Đình tiến tới sự áp đặt trên miền Nam Việt Nam cái tôn giáo
Công giáo ngoại lai của họ, đảng Công giáo bảo thủ từ ngoài Bắc vào
và từ vùng quê hương của họ ở miền Trung. Diệm và gia đình bổ
nhiệm những sĩ quan chỉ huy đơn vị, những nhân viên hành chánh và
cảnh sát bằng những người Công giáo, từ miền Bắc và từ miền Trung,
quê hương của Diệm. Diệm và gia đình hắn bổ nhiệm những người Công
giáo vào cấp chỉ huy quân đoàn, hành chánh và cảnh sát. Nông dân
ở miền đồng bằng sông Cửu Long thấy mình bị cai trị bởi những tỉnh
trưởng, hạt trưởng, bởi những viên chức hành chánh ngoại lai và thường
là cao ngạo và tham nhũng...
(Lansdale
let his preconceptions lead him to false assumptions...Lansdale thought
the Catholic refugees from the North were Vietnamese patriots who had "fought
for their country's freedom from the French"..He saw nothing wrong
with the US singling out these Catholics for special assistance. He saw
nothing inappropriate about having a Catholic as president of what he
perceived to be a "Free Vietnam"
Roman
Catholics were a tainted minority in Vietnam. Lansdale was anxious to
draw a distinction between Americans and French "colonialists." What
he did was to make the distinction one without a difference...By singling
out the Catholics for help, and by putting a Catholic in office in Saigon,
he announced that the US was stepping in to replace the French. Vietnamese
converts to Catholicism had been used by the French as a fifth column
to penetrate precolonial Vietnam and then had been rewarded by the colonizer
for their collaboration. They were popularly regarded as a foreign-inspired, "un-Vietnamese" religious
sect. With the French leaving, the Catholics were naturally seeking another
foreign protector. They told Lansdale what they sensed he wanted to hear.
...As
Lansdale guided Diem to success in crushing the sects on the theory that
Diem was the Magsaysay to form a new and central government, it would
never have occured to Lansdale that Diem was beginning his rule by eliminating
the most effective OPPONENTS of the Communists in the South.
...The
Ngo Dinhs proceeded to impose on South Vietnam what amounted to their
own alien sect of Catholics, Northern Tories, and Central Vietnamese
from their home region. Diem and his family filled the officer corps
of the army and the civil administration and the police with Catholics,
Northerners, and Central Vietnamese they trusted. The peasants of the
Mekong delta found themselves being governed by province and district
chiefs, and by civil servants on the province and district administrative
staffs, who were outsiders and usually haughty and corrupt men.)
5.
Hãy đọc Richard J. Barnet trong " Intervention and Revolution",
A Meridian Book, New York 1972, pp. 233-235:
“Khuyến
cáo rằng “nếu bầu cử được tổ chức ngày nay (1956) thì tuyệt đại đa
số dân Việt sẽ bầu cho Cộng sản,” Cherne tuyên bố rằng uy tín của Mỹ
ở Á Châu tùy thuộc vào sự ngăn chận cuộc bầu cử này. Phương pháp giải
quyết là củng cố lớp người Công giáo ở miền Nam Việt Nam, chỉ có những
người này mới có lý do thuộc về lý tưởng chống Cộng. Nhà văn Công giáo
người Anh, Graham Greene, đã mô tả việc Mỹ sử dụng giáo hội Công giáo
trong cuộc chiến tranh lạnh ở Việt Nam như sau:
Chính
cái ý hệ Công giáo đã làm cho chế độ của Diệm sụp đổ, vì sự sùng
tín của ông ta đã bị các cố vấn Hoa Kỳ khai thác cho đến khi giáo
hội Công giáo ở Việt Nam ở trong cơ nguy cùng chung số phận bất thiện
cảm của người dân Việt đối với Mỹ...Những khoản tiền to lớn được
dùng để tổ chức những cuộc đón tiếp quan khách ngoại quốc và tạo
nên ý niệm giáo hội Công giáo là của Tây phương và là đồng minh của
Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh. Trong những trường hợp hiếm hoi
mà Diệm đi kinh lý những vùng trước đây bị Việt Minh chiếm, bao giờ
cũng có một linh mục ở bên cạnh, và thường là một linh mục Mỹ...
Điều
quan tâm chính của chính quyền Diệm là sự an toàn của chính quyền.
Chính quyền Diệm sợ rằng cuộc bầu cử dự định tổ chức vào tháng 7, 1956
đưa đến sự thắng lợi của Hồ Chí Minh và chấm dứt quyền lực của những
chính trị gia không Cộng sản.
Những
ước tính của cơ quan tình báo quốc gia CIA, soạn trong tháng 2, 1957,
mô tả chế độ Diệm như sau:
Chế
độ Diệm phản ánh ý nghĩ của Diệm. Một bộ mặt chính quyền đại diện cho
dân được duy trì, nhưng thực chất chính quyền là độc tài. Quyền lập
pháp của quốc hội bị hạn chế gắt gao; quyền tư pháp chưa phát triển
và tùy thuộc quyền hành pháp; và những nhân viên trong ngành hành pháp
không gì hơn là những tay sai của Diệm. Không có một tổ chức đối lập
nào, dù trung thành hay không, được phép thành lập, và mọi chỉ trích
chính quyền đều bị đàn áp...Quyền lực và trách nhiệm tập trung nơi
Diệm và một nhóm nhỏ gồm có những thân nhân của Diệm, những người quan
trọng nhất là Nhu và Cẩn.”
Chế
độ độc tài của Diệm, dựa trên một mạng lưới mật vụ, tòa án quân sự,
và công chức tham nhũng, tuyên bố không những chiến đấu chống Cộng
mà cho tới năm 1957 Cộng sản vẫn chưa có hoạt động gì, mà còn chống
bất cứ nhóm nào không chắc là trung thành với Diệm. Thật vậy, nhiều
người không-Cộng-sản vào tù hơn là người Cộng sản.
Sự
chuyên chế của Diệm, sự thiên vị trơ trẽn của hắn đối với những người
Công giáo tị nạn từ ngoài Bắc vào so với phần còn lại của dân chúng,
và sự bạo hành của hắn đối với mọi người không đồng quan niệm chính
trị với hắn đã tạo nên một sự liên kết chống hắn mà hắn rất sợ.”
(Warning
that "if the elections were held today the overwhelming majority
of Vietnamese would vote Communist," Cherne declared that American
prestige in Asia was dependent upon preventing that result. The answer
was to strengthen the Catholic faction in South Vietnam, who alone among
Vietnamese had ideological reasons to be against the communists. The
British Catholic writer Graham Greene has described the American use
of the Catholic Church in fighting the Cold War in Vietnam:
It
is a Catholicism which has helped to ruin the government of Mr. Diem,
for his genuine piety...has been exploited by his American advisors until
the Church is in danger of sharing the unpopularity of the US...Great
sums are spent on organized demonstration for the visitors, and an impression
is given that the Catholic Church is occidental and an ally of the US
in the cold war. On the rare occasions when Mr. Diem has visited the
areas formerly held by the Viet Minh, there has been a priest at his
side, and usually an American one.
...The
major interest of the Diem government was its own security. It feared
that the elections scheduled for July, 1956, would spell a victory for
Ho Chi Minh and the end of power for noncommunist politicians....
The
CIA national intelligence estimates prepared in February, 1957, described
the Diem regime in these words:
Diem's
regime reflects his idea. A facade of representative government is maintained,
but the government is in fact essentially authoritarian. The legislative
powers of the National Assembly are strictly circumscribed; the judiciary
is underdeveloped and subordinate to the executive; and the members of
the executive branch are little more than the personal agents of Diem.
No organized opposition, loyal or otherwise, is tolerated, and critics
of the regime are often repressed...The exercice of power and responsibility
is limited to Diem and a very small circle mainly composed of his relatives,
the most important being Nhu and Can.
...Diem's
dictatorship, supported with a network of informers, military tribunals,
and corrupt functionaries, declared war not only on the communists, who
until 1957 were quiescent, but also against any group whose personal
loyalty was not assured. Indeed, more non-communists than communists
ended up in Diem's jails.
...Diem's
despotism, his shameless favoring of Catholic refugees from the North
over the rest of the population, and his persecution of all political
dissidents produced the coalition against him that he dreaded.)
6.
Hãy đọc Avro Manhattan trong "Vietnam: Why Did We Go?",
Chick Publication, California 1984, pp. 56 & 89:
“Tổng
thống Ngô Đình Diệm của Nam Việt Nam là một ngưòi theo đạo Công giáo
cai trị Nam Việt Nam bằng một bàn tay sắt. Hắn ta thật tình tin rằng
Cộng sản là ác và giáo hội Công giáo là duy nhất. Hắn đã được hồng
y Spellman và giáo hoàng Pius XII trồng và cái ghế tổng thống. Hắn
đã biến cải ngôi vị tổng thống thành một nhà độc tài Công giáo, tàn
nhẫn nghiền nát những đối lập chính trị và tôn giáo. Nhiều nhà sư Phật
giáo tự thiêu để phản đối những sự bạo hành tôn giáo của hắn. Sự bạo
hành kỳ thị đối với người phi- Công giáo, đặc biệt là các Phật tử,
đã gây nên sự rối loạn trong chính phủ và trong quân đội thì quân nhân
đào ngũ hàng loạt. Điều này đưa đến sự can thiệp quân sự của Mỹ.
Trong
chính sách khủng bố này hắn được sự phụ giúp của hai người anh em Công
giáo, người đứng đầu mật vụ (Ngô đình Nhu) và tổng giám mục ở Huế (Ngô
đình Thục).
Người
ta ghi nhận rằng, và những con số sau đây tuy không được chính quyền
chính thức khẳng định nhưng có thể coi là đáng tin cậy, là trong thời
gian kinh hoàng từ 1955 đến 1960 – ít nhất là có 24000 người bị thương,
80000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275000 người bị cầm tù, thẩm vấn
hoặc với tra tấn hoặc không, và khoảng 500000 bị đưa đi các trại tập
trung. Đây chỉ là những con số ước tính bảo thủ, khiêm nhường.
Đặt
quyền lợi quốc gia ra đàng sau để đẩy mạnh quyền lợi tôn giáo của
hắn, kết quả là tên độc tài Diệm đã đưa đất nước xuống vực thẳm.”
(President
Ngo Dinh Diem of South Vietnam was a practicing Catholic who ruled South
Vietnam with an iron fist. He was a genuine believer in the evil of Communism
and the uniqueness of the Catholic Church. He had originally been "planted" into
the presidency by Cardinal Spellman and Pope Pius XII. He transformed
the presidency into a virtual Catholic dictatorship, ruthlessly crushing
his religious and political opponents. Buddhist monks committed suicida
by fire, burning themselves alive in protest against his religious persecutions.
His discriminatory persecution of non-Catholics, PARTICULARLY BUDDHISTS,
caused the disruption of the government and mass desertions in the army.
This eventually led to US intervention in South Vietnam.
In
this terrorization he was aided by his two Catholic brothers, the Chief
of the Secret Police and the Archbishop of Hue.
...It
has been reckoned, and the figures although lacking any official confirmation
are considered to be concretly reliable, that during this period of terror
- that is from 1955 to 1960 - at least 24,000 were wounded, 80,000 people
were executed or otherwise murdered, 275,000 had been detained, interrogated
with or without torture, and about 500,000 were sent to concentration
or detention camps. This is a conservative estimate.
...With
the result that by relegating the interest of his country to the background,
so as to further the interests of his religion, dictator Diem finally
brought his land into the abyss.)
LG: Chiến
thuật thứ hai của phe chống ông Diệm đã được chúng tôi cảnh cáo nhiều
lần trên các diễn đàn Internet: Chiến thuật của nhóm này là đưa ra
những sự kiện hay vấn đề vớ vẫn để cho những người thiếu bản lãnh "tức
khí" nhảy ra tranh luận. Khi nói vấn đề này chưa xong, chúng lại
bày ra chuyện khác, đưa "đối phương" vào "mê hồn trận," kéo
dài trận chiến ra vô tận. Có những vấn để trả lời dứt khoát rồi, chúng
lôi ra lại!
TCN:
Chúng ta thấy, Lữ Giang chuyên viết bậy, đưa ra những điều mà không bao
giờ có bằng cớ chứng minh. Khi ông ta viết rằng, những người chống Diệm
“đưa ra những sự kiện hay vấn đề vớ vẫn” thì ít ra ông ta phải
đưa ra vài thí dụ những sự kiện nào hay vấn đề nào mà ông ta cho là vớ
vẩn. Đã là sự kiện, nghĩa là fact, thì không thể gọi là vớ vẩn được,
mà chỉ có thể hoặc đúng sự thật hoặc không đúng, và phải có bằng chứng
thuyết phục. Và Lữ Giang cũng không vạch rõ những vấn đề đã được trả
lời dứt khoát là những vấn đề nào và trả lời dứt khoát như thế nào. Lữ
Giang biết rằng những người đồng đạo của mình không có đầu óc, cho nên
ông ta đánh hỏa mù, chỉ dựng đứng lên những điều với mục đích làm cho
họ hả hê, vì thấy ông ta bênh ông Diệm và chống đối những người mà ông
ta cho là “chống Diệm”. Nhưng đối với người ngoài thì ai cũng thấy rõ
mánh mưu “tiểu xảo viết lách” bất lương của Lữ Giang là viết vu
vơ, đưa ra những khẳng định vô căn cứ và vô trách nhiệm mà không bao
giờ dẫn chứng để chứng minh những điều mình viết.
LG: Một
thí dụ cụ thể là những điểm chính nói về Phật Giáo theo Cộng Sản trong
cuốn "Biến Động Miền Trung" của
Liên Thành đều đúng cả, chỉ có một vài chi tiết sai, nên chúng cứ dựa
vào mấy chi tiết đó để "chọi
đá đường rầy xe lửa" liên tục, không bao giờ ngừng
nghỉ. Dĩ nhiên là chúng không bao giờ dám sờ tới những điểm chính.
Nhưng càng chọi, Liên Thành bán sách càng mạnh. Tôi nghe nói đã bán
trên 50.000 cuốn rồi!
TCN:
Số sách bán ra không bảo đảm giá trị của cuốn sách. Thí dụ: cuốn Thánh
Kinh của Ki Tô Giáo đã xuất bản với nhiều thứ tiếng và bán ra cả tỷ cuốn.
Nhưng chỉ để cho dân ngu đọc, vì giá trị của cuốn Thánh Kinh là bao nhiêu
mà dân Hồng Kông liệt kê là loại dâm thư và vô đạo đức, phải gói kín
và cấm bán cho vị thành niên dưới 18 tuổi, và bà Ruth Hermence Green,
một tín đồ Ki Tô, đòi phải bán dấu dưới quầy hàng như các loại sách X.
Trong
cuốn "Những vị Thần cuối cùng của Huyền Thoại: GiaVê và Giêsu" ("Mythology's
Last Gods: Yahweh and Jesus", p. 16), Tiến sĩ William Harwood, một
tín đồ Ca-Tô đã tỉnh ngộ đã viết:
"Người
ta đã khám phá ra rằng, từng quyển một trong Thánh Kinh đều chứa những
sai lầm về sự kiện, những phỏng đoán không chính xác, những kỹ thuật
làm hợp lý hóa, những điều tiên tri về những sự việc đã xảy ra, ghép
với những điều tiên tri về tương lai đã được chứng tỏ là không chính
xác, và không còn sai lầm gì nữa là chứa những lời nói láo cố ý. Nếu
sự khám phá này được phổ biến tới đại chúng thì cái huyền thoại Do
Thái - KiTô đã bị quật nhào bởi một cơn gió lốc khó có hi vọng phục
hồi.
(One
by one the various books of the bible were discovered to contain errors
of fact; inaccurate guesses; rationalizations; prophecies ex-post-facto,
usually combined with prophecies of the future that proved inaccurate;
and unmistakable, deliberate lies. Had this discovery been allowed to
reach general public, Judeo-Christian mythology would have suffered a
blow from which it could not have hoped to recover.)
Cũng
vì vậy mà Ira Cardiff, một khoa học gia, đã đưa ra nhận xét sau đây:
"Hầu
như không có ai thực sự đọc cuốn Thánh kinh. Cá nhân mà tôi nói đến
ở trên (một tín đồ thông thường) chắc chắn là có một cuốn Thánh kinh,
có thể là cuốn sách duy nhất mà họ có, nhưng họ không bao giờ đọc nó
- đừng nói là đọc cả cuốn.
Nếu
một người thông minh đọc cả cuốn Thánh kinh với một óc phê phán thì
chắc chắn họ sẽ vứt bỏ nó đi."
(Virtually
no one really reads the Bible. The above mentioned individual doubtless
has a Bible, perhaps the only book he owns, but he never reads it - much
less reads all of it.
If
an intelligent man should critically read it all, he would certainly
reject it.)
Vậy
số lượng sách của Liên Thành bán ra mà Lữ Giang quảng cáo có thể nói
lên điều gì? Có những ai đọc và đọc giả đã phán xét cuốn sách đó như
thế nào? Không biết ông Lữ Giang đã đọc những bài phê bình cuốn “Biến
Động Miền Trung” của Liên Thành của Bảo Quốc Kiếm, Trần Kiêm Đoàn
v.v… chưa? Tôi đã đọc cuốn này và thấy kiến thức của tác giả về lịch
sử không có gì đáng nói và đáng để phê bình, cho nên tôi đã chẳng buồn
ngó đến ông ta. Mà làm sao mà Liên Thành viết đúng cho được. Và dù cho
Liên Thành có chụp mũ vu vơ là Phật Giáo theo Cộng sản, một điều hoang
tưởng của những người Công giáo để chạy tội cho tập thể Công giáo dưới
thời Ngô Đình Diệm, thì Phật Giáo cũng chẳng quan tâm. Vì lịch sử ghi
rõ rằng: Cộng sản cứu nước, còn Công giáo thì bán nước. Cộng
sản đã đánh đuổi được thực dân Pháp và rồi thống nhất đất nước. Còn Công
giáo thì làm tay sai cho Pháp để đưa nước nhà vào vòng nô lệ, và khi
Pháp về Pháp thì lại đi làm tay sai cho quân xâm lăng Mỹ.
Vậy
thì, nếu Phật Giáo có theo CS như Liên Thành viết bậy thì cũng có sao
đâu. Theo tổ chức yêu nước, có công với đất nước hơn hay là theo tổ chức
nô lệ ngoại bang hơn. Mấy người chống Phật Giáo nhưng mấy người hơi ngu,
tưởng rằng cái mũ Cộng sản ngày nay vẫn còn giá trị như dưới thời Ngô
Đình Diệm, đưa ra để gây thù hận tôn giáo nhưng không nhận thức được
rằng, các người chỉ có khoảng 5% theo Công giáo, còn hơn 80% dân Việt
Nam theo Phật Giáo. Mấy người cho rằng vu vạ cho Phật Giáo theo Cộng
sản láo lếu như trên là 80% người theo Phật Giáo sẽ bỏ đạo hết để đi
theo Công giáo hay sao? Đó chính là sự ngu xuẩn của mấy người không nhìn
vào thực tế và không biết thức thời.
Tiện
đây tôi cũng muốn có vài lời về cuốn “Biến Động Miền Trung”
của Liên Thành. Chúng ta chỉ cần đọc đoạn đầu của cuốn sách đó để thấy
trình độ hiểu biết của Liên Thành là như thế nào.
Liên
Thành viết:
Kể
từ 30/4/1975 đến nay, trong tâm khảm của tất cả nguời Việt Nam đều
không nguôi câu hỏi: “ Tại sao Miền Nam lại thua?” “Tại sao cái đúng
lại thua cái sai, tại sao cái ác lại thắng cái thiện?”. Câu hỏi này,
không những đối với nguời Việt ở miền nam, mà còn là câu hỏi cho cả
thế hệ thanh niên lớn lên sau chiến tranh trong cả nuớc. Và mãi mãi
sẽ là câu hỏi đau thương cho lịch sử Việt muôn đời sau. Và ngay cả
với người Hoa Kỳ và sử sách Hoa Kỳ. Các chính trị gia, thuộc phía chấp
nhận chiến tranh, luôn lấy cuộc chiến VN, cùng những di hại khủng khiếp
của chế độ CS, như là một bài học đau thương, để nhắc nhỡ lương tâm
Hoa Kỳ, và kêu gọi sự kiên nhẫn của nguời Mỹ trong cuộc chiến chống
khủng bố, mà sẽ hứa hẹn tiếp diến rất lâu dài. Ngược lại, phía phản
chiến, hay đúng ra là những kẻ chủ bại, dùng VN như một ví dụ để biện
hộ cho quan điểm nguời Mỹ nên bỏ mặc các quốc gia mà họ đang cùng tham
chiến chống khủng bố, vì cuối cùng là sẽ sa lầy như VN, sẽ thất bại
như VN v.v… Vấn đề chiến tranh ý thức hệ tại VN đã và đang được nhìn
lại. Ngoài một số nhà nghiên cứu VN, những sử gia trẻ tuổi Mỹ, với
đầy đủ tài liệu đã đuợc giải mật, nghiên cứu công phu tỉ mĩ, lý luận
sắc bén, dẫn chứng cụ thể, họ đã và đang đặt lại vấn đề, một cách hết
sức nghiêm túc, sâu sắc, và khoa học. Kết quả là gì? Một kết luận thật
đau đớn: Chúng ta, Việt Nam Cộng Hòa, và Hoa Kỳ lẽ ra đã thắng cuộc
chiến chống lại chủ nghĩa Cộng Sản tại VN !
TCN:
Viết ngu như vậy mà cũng viết được thì thật là tài. “Tất cả người Việt
Nam” là gồm người Việt Nam trên toàn quốc, không phải là một thiểu số
cuồng tín ở hải ngoại. Người ngoài Bắc biết rõ tại sao miền Nam thua.
Đa số người miền Nam cũng biết tại sao miền Nam thua. Câu hỏi của Liên
Thành “Tại sao Miền Nam lại thua” không bao giờ có thể là “câu hỏi
đau thương cho lịch sử Việt muôn đời sau”. Chỉ có những người không
biết gì về lịch sử cận đại của Việt Nam nên ngày nay mới còn đặt câu
hỏi đó. Miền Nam thua là chuyện tất nhiên phải đến, vì đó là chuyện thuận
với lòng dân, hợp với ý của đa số người dân Việt, Nam cũng như Bắc. Không
có người dân, Nam cũng như Bắc, thì làm sao miền Bắc thắng. Tại sao miền
Nam lại thua? Đây này:
Giáo
sư Mortimer T. Cohen viết trong cuốn From Prologue To Epilogue In
Vietnam, Publisher Retriever Bookshop, N.Y., 1979, trang 208:
Trong
21 năm bị lôi cuốn vào Đông Dương, Chính Phủ Mỹ đã đưa ra những “lý
do” về những hành động của mình. Những lý do này vô giá trị. Lý do
duy nhất mà Mỹ vào Đông Dương là để ngăn chận vùng này khỏi rơi vào
tay Cộng Sản bằng một cuộc bầu cử, một cuộc cách mạng nội bộ... Và
đó cũng đủ là lý do.
Thêm
nhiều lý do. Và thêm nhiều lý do nữa. Chúng mọc lên như măng tháng
5. Trước khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, những lý do có thể chứa
đầy một cuốn sách. Không lý do nào hợp lý.
(During
the course of its 21 years of involvement in Indochina, the United States
Government offfered “reasons” for its actions. These reasons were worthless.
The only reason for the American being in Indochina was to prevent the
area from going Communist by an election, by an internal revolution...
And this was reason enough...
More
reasons. And more reasons. They sprouted like asparagus in May. Before
the Indochina War came to an end, a book could have filled with reasons.
None of them were valid.)
Còn
nữa, cuốn sách Việt Nam: Sự Khủng Khoảng của Lương Tri (Vietnam:
Crisis of Conscience, Association Press, N.Y., 1967) viết bởi ba giới
chức tôn giáo: Mục sư Tin Lành Robert McAfee Brown, Giáo sư Tôn Giáo
Học, đại học Stanford; Linh mục Michael Novak, Giáo sư về Nhân Bản Học,
đại học Stanford; và Tu sĩ Do Thái Abraham J. Heschel, giáo sư về đạo
đức và huyền nhiệm Do Thái tại trường Thần Học Do Thái ở Mỹ, mở đầu bằng
câu:
Những
trang sách sau đây xuất sinh từ sự cùng quan tâm của chúng tôi rằng:
quốc gia của chúng ta (Mỹ) bị lôi cuốn vào cuộc xung đột ở Việt Nam
mà chúng tôi thấy không thể nào biện minh được trong ánh sáng
thông điệp của các nhà tiên tri hay của Phúc Âm của Giê-su ở Nazareth.
(The
pages that follow grow out of our shared concern that our nation is embroiled
in a conflict in Vietnam which we find it impossible to justify, in the
light of either the message of the prophets or the gospel of Jesus of
Nazareth.)
Trong
cuốn sách này, Mục sư Tin Lành Robert McAffee Brown viết, p. 67:
Ngay
cả quyền hiện diện của chúng ta ở đó (Việt Nam) cũng bị chất vấn, trong
ánh sáng của luật quốc tế, bởi những người có địa vị cao trong chính
phủ của chúng ta, trong đó có các Thượng Nghị Sĩ Morse, Church, Gore,
và Gruening. Nhưng ngay cả khi có quyền, bản chất những gì chúng ta
đang làm ở Việt Nam cũng phải lên án.
(Our
very right to be there is questioned, in the light of international law,
by men highly placed in our government, among them Senators Morse, Church,
Gore, and Gruening. But even if there is a clearcut “right”, the nature
of what we are doing in Vietnam must be increasingly condemned.)
Nếu
không có lý do nào chính đáng và cũng không thể nào biện minh được thì
chúng ta chỉ có một cách giải thích. Đó là thực chất cuộc can thiệp của
Mỹ vào Việt Nam là một cuộc xâm lăng mà Mỹ đã xử dụng “luật rừng” và
“cường quyền thắng công lý”, những hành động mà Mỹ đang áp dụng ở Iraq,
Afghanistan, Syria, Libya và ở nhiều quốc gia khác trước đây. Thật vậy:
Daniel
Ellsberg viết trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon
Papers, Viking, 2002, p.255:
Không
làm gì có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có một cuộc
xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ..
Dùng
ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc
chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp-Mỹ, sau đến toàn là Mỹ. Trong cả hai
trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải
là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh –
chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia,
hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ.
Cuộc
chiến đó không có gì là “nội chiến”, sau 1956 hay 1960, như nó đã không
từng là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của Pháp được Mỹ ủng
hộ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn toàn được trang bị và
trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết
định về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền lợi của mình
– thì không phải là một cuộc nội chiến.
Bảo
rằng chúng ta “xía vào” cái gọi là “đích thực là một cuộc nội chiến”,
như hầu hết các tác giả Mỹ, và ngay cả những người có khuynh hướng
tự do chỉ trích cuộc chiến cho rằng như vậy cho đến ngày nay, đơn giản
chỉ là che dấu một sự thực đau lòng hơn, và cũng chỉ là một huyền thoại
như là luận điệu chính thức về một “cuộc xâm lăng từ miền Bắc”.
Theo
tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng
ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lăng của
Mỹ.
[There
had been no First and Second Indochina Wars, just one continuous conflict
for almost a quarter of century.
In
practical terms, on one side, it had been an American war almost from
its beginning: at first French-American, eventually wholly American.
In both cases it was a struggle of Vietnamese – not all of them but enough
to persist – against American policy and American financing, proxies,
technicians, firepower, and finally, troops and pilots.
It
was no more a “civil war” after 1955 or 1960 than it had been during
the US-supported French at colonial reconquest. A war in which one side
was entirely equipped and paid by a foreign power – which dictated the
nature of the local regime in its own interest – was not a civil war.
To say that we had “interfered” in what is “really a civil war”, as most
American writers and even liberal critics of the war do to this day,
simply screened a more painful reality and was as much a myth as the
earlier official one of “agression from the North”. In terms of the UN
Charter and our own avowed ideals, it was a war of foreign agression,
American aggression.]
Tại
sao Daniel Ellsberg lại có thể viết như vậy. Vì Ellsberg là viên chức
trong chính quyền Mỹ, đã từng đọc được những tài liệu mật nhất của Mỹ
và biết rõ nhất về thực chất cuộc chiến ở Việt Nam. Chính ông là người
đã tiết lộ Tài Liệu Ngũ Giác Đài. Và ông viết đoạn trên năm 2002 chứ
không phải là trong thời kỳ “phản chiến” sôi nổi trên đất Mỹ. Nếu chúng
ta đã đọc một số những sách viết về cuộc chiến Việt Nam, viết sau 1975,
của các học giả và cựu quân nhân Mỹ, thì chúng ta sẽ thấy rằng đa số
đồng ý với Daniel Ellsberg về điểm này.
Có
lẽ chúng ta cũng nên biết thêm một tài liệu khác về bản chất của cuộc
chiến ở Việt Nam cách đây trên 35 năm. Trong cuốn Chiến Tranh Việt
Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War and American Culture, Columbia
University Press, New York, 1991), hai giáo sư đại học Iowa John Carlos
Rowe và Rick Berg viết, trang 28-29:
Daniel Ellsburg,
link: http://en.wikipedia.org/wiki/Daniel_Ellsberg
Cho
tới năm 1982 – sau nhiều năm tuyên truyền liên tục mà hầu như không
có tiếng nói chống đối nào được phép đến với đại chúng – trên 70% dân
chúng vẫn coi cuộc chiến (ở Việt Nam) “căn bản là sai lầm và phi đạo
đức”, chứ không chỉ là “một lỗi lầm.”
Tưởng
cũng nên nhớ lại vài sự kiện. Mỹ đã dính sâu vào nỗ lực của Pháp
để tái chiếm thuộc địa cũ của họ, biết rằng kẻ thù là phong trào quốc
gia của Việt Nam. Số tử vong vào khoảng nửa triệu. Khi Pháp rút
lui, Mỹ lập tức hiến thân vào việc phá hoại Hiệp Định Genève năm 1954, dựng
lên ở miền Nam một chế độ khủng bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ
khoảng 70000 “Việt Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà từ 1959
được sự ủng hộ của nửa miền Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genève
mà Mỹ phá ngầm. Trong những năm 1961-62, Tổng thống Kennedy phát động
cuộc tấn công thẳng vào vùng quê Nam Việt Nam với những cuộc thả bom
trải rộng, thuốc khai quang trong một chương trình được thiết kế để
lùa hàng triệu người dân vào những trại (ấp chiến lược?) nơi đây họ
được bảo vệ bởi những lính gác, giây thép gai, khỏi quân du kích
mà Mỹ thừa nhận rằng được dân ủng hộ.
Mỹ
khẳng định là đã được mời đến, nhưng như tờ London Economist đã nhận
định chính xác, “một kẻ xâm lăng là một kẻ xâm lăng trừ phi được
mời bởi một chính phủ hợp pháp.” Mỹ chưa bao giờ coi những tay
sai mình dựng lên là có quyền hợp pháp như vậy, và thật ra Mỹ
thường thay đổi những chính phủ này khi họ không có đủ thích thú
trước sự tấn công của Mỹ hay tìm kiếm một sự dàn xếp trung lập được
mọi phía ủng hộ nhưng bị coi là nguy hiểm cho những kẻ xâm lăng,
vì như vậy là phá ngầm căn bản cuộc chiến của Mỹ chống Nam Việt Nam. Nói
ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm
ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân lọại
trên khắp Đông Dương.
(As
late as 1982 – after years of unremitting propaganda with virtually no
dissenting voice permitted expression to a large audience – over 70%
of the general population (but far fewer “opinion leaders”) still regarded
the war as “fundamentally wrong and immoral,’ not merely “a mistake”..
It
is worth recalling a few facts. The US was deeply committed to the French
effort to reconquer their former colony, recognizing throughout that
the enemy was the nationalist movement of Vietnam. The death toll was
about half a million. When France withdrew, the US dedicated itself at
once to subverting the 1954 Geneva settlement, installing in the south
a terrorist regime that killed perhaps 70000 “Viet Cong” by 1961, evoking
resistance which, from 1959, was supported from the northern half of
the country temporarily divided by the Geneva settlement that the US
had undermined. In 1961-1962, President Kennedy launched a direct attack
against rural South Vietnam with large-scale bombing and defoliation
as part of a program designed to drive millions of people to camps where
they would be “protected” by armed guards and barbed wire from the guerillas
whom, the US conceded, they were willinggly supporting. The US maintained
that it was invited in, but as the London Economist accurately observed,
“an invader is an invader unless invited in by a government with a claim
to legitimacy.” The US never regarded the clients it installed as having
any such claim, and in fact it regularly replaced them when they failed
to exhibit sufficient enthusiam for the American attack or sought to
implement the neutralist settlement that was advocated on all sides and
was considered the prime danger by the aggressors, since it would undermine
the basis for their war against South Vietnam. In short, the US invaded
South Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression
with numerous and quite appalling crimes against humanity throughout
Indochina.)
Tại
sao miền Nam lại thua? Sau đây là vài đoạn điển hình trong cuốn The
Pentagon Papers, tài liệu của Ngũ Giác Đài, hiển nhiên không phải
thuộc loại phản chiến hay thiên Cộng:
Link: http://www.nytimes.com/interactive/us/2011_PENTAGON_PAPERS.html?ref=pentagonpapers
Tài
liệu Ngũ Giác Đài nói, tình báo Mỹ ước tính trong thập niên 1950 là chiến
tranh phát khởi phần lớn là do sự nổi giậy ở miền Nam để chống chế
độ tham nhũng và càng ngày càng đàn áp dân chúng của Ngô Đình Diệm .
Tài
liệu Ngũ Giác Đài nói về những năm 1956-1959, khi mà cuộc nổi giậy
bắt đầu, hầu hết những người đứng lên cầm vũ khí là những người Việt
miền Nam và những nguyên nhân họ chiến đấu không có cách nào có thể
bảo đó là do kế hoạch tính toán trước ở Bắc Việt.
Chỉ
có rất ít bằng chứng là Bắc Việt đã chỉ đạo, hoặc có khả năng để chỉ
đạo, những sự bạo động ở miền Nam (3 tháng cuối 1957: 75 viên chức
địa phương bị ám sát. Ngày 22 tháng 10, 1957, 13 người Mỹ bị thương
trong 3 cuộc nổ bom ở Saigon)
Từ
năm 1954 đến năm 1958 Bắc Việt tập trung vào sự phát triển nội bộ,
hiển nhiên là hi vọng vào một cuộc thống nhất đất nước hoặc qua cuộc
bầu cử theo như Hiệp Định Genève hoặc là kết quả của sự sụp đổ đương
nhiên của chế độ Diệm yếu ớt. Cộng sản để lại ở miền Nam một bộ phận
nòng cốt khi họ đi tập kết ra Bắc năm 1954 sau cuộc chiến với Pháp
chấm dứt, nhưng những cán bộ được lệnh chỉ được “tranh đấu chính trị” [để
sửa soạn kiếm phiếu trong cuộc bầu cử mà Bắc Việt hi vọng, và điều
này không vi phạm hiệp định Genève].
Tháng
5, 1959, các nhà lãnh đạo Bắc Việt quyết định nắm quyền cuộc nổi giậy
càng ngày càng lớn mạnh ở miền Nam.
Tài
liệu Ngũ Giác Đài nói, cả tình báo Mỹ và các tù binh Việt Cộng đều
cho sự thành công nhanh chóng của Việt Cộng sau 1959 là do những sai
lầm của Diệm.
Tài
liệu Ngũ Giác Đài mô tả trạng thái tâm lý của Ngô Đình Diệm như là
của một “Đại Phán Quan Tây Ban Nha”).
(American
Intelligence estimates during the 1950s show, The Pentagon account says,
that the war began largely as a rebellion in the South against the increasingly
oppressive and corrupt regime of Ngo Dinh Diem.
“Most
of those who took up arms were South Vietnamese and the causes for which
they fought were by no means contrived in North Vietnam,” the Pentagon
account says of the years from 1956 to 1959, when the insurgency began.
There
is only sparse evidence that North Vietnam was directing, or was capable
of directing, that violence (Last quarter of 1957: 75 local assassinated
or kidnapped. On October 22, 1957, 13 Americans were wounded in three
bombings in Saigon)
From
1954 to 1958 North Vietnam concentrated on its internal development,
apparently hoping to achieve reunification either through the election
provided for in the Geneva settlement or through the natural collapse
of the weak Diem regime. The Communist left behind a skeletal apparatus
in the South when they regrouped to North Vietnam in 1954 after the war
with the French ended, but the cadre members were ordered to engage only
in “political struggle.”
North
Vietnam’s leaders formally decided in May, 1959, to take control of the
growing insurgency.
The
Pentagon account says that both American intelligence and Vietcong prisoners
attributed the Vietcong’s rapid success after 1959 to the Diem’s mistakes.
Diem’s
mentality is described in the account as like that of a “Spanish Inquisitor”.)
Vậy
theo Liên Thành thì cái gì là cái đúng và cái gì là cái sai? Căn cứ vào
đâu để mà quyết đoán như vậy. Mỹ xâm lăng miền Nam là cái đúng? Cộng
sản thống nhất đất nước là cái sai? Cái gì là cái ác, và cái gì là cái
thiện? Theo tiêu chuẩn nào? Cộng sản ác? Còn Mỹ, Diệm thì thiện? Cộng
sản ác thì tại sao người dân lại theo để đi đến chiến thắng cuối cùng.
Mỹ, Diệm thiện với thảm bom, vùng oanh kích tự do, chiến dịch Phụng Hoàng,
thuốc khai quang và lính Mỹ cuồng sát người dân vô tội mà tại sao người
dân Việt Nam lại không ủng hộ cái thiện đó để bị thua? Chuyện bậy bạ
hoang đường lố bịch và ngu xuẩn như vậy mà Liên Thành cũng viết lên được.
Câu
cuối trong đoạn trích dẫn của Liên Thành không gì khác hơn là dựa vào
cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar mà những người ngày nay
còn tiếp tục suy tôn “Ngô Tổng Thống” và cho rằng sự xâm lăng của Mỹ
vào Việt Nam là chính đáng, thí dụ như Minh Võ và Tôn Thất Thiện, đã
coi như một “thánh thư” để biện minh cho luận cứ “Đáng lẽ chúng ta đã
thắng”. Trong thực tế, và trong giới trí thức Mỹ, cuốn “Triumph Forsaken”
của Mark Moyar là một cuốn sách của một trí thức hạng ba, đồng đẳng với
những trí thức Công giáo như Lữ Giang, Tôn Thất Thiện v.v..., không có
giá trị trong lãnh vực học thuật. Đã có rất nhiều phê bình tiêu cực về
cuốn sách trên của Mark Moyar, giới điểm sách cũng không buồn điểm cuốn
sách đó, và trên http://sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts003.php tôi
đã phê bình chi tiết cuốn “Triumph Forsaken” của Mark Moyar
.
Sau
đây là vài phê bình điển hình: Trước hết là một đoạn trên movies.go.com:
Cuốn
sách này (Triumph Forsaken của Mark Moyar) không gì hơn là “rác
rưởi xét lại” một cách phi lý thái quá. Cái khá duy nhất của
Moyar là đi hái những sự kiện lặt vặt cũ kỹ trong văn khố để dẫn chứng
cho những lý luận tức cười của anh ta. Cho rằng sự nổi giậy
của Phật Giáo vào năm 1963 chỉ là sản phẩm của sự kích động của cộng
sản thì thật là ngớ ngẩn, lố bịch. [Điều này cũng
chứng minh rằng bài Sư Chính Trị …của Mark Moyar thực sự vô giá trị,
vì đây cũng là luận điệu chụp mũ ngớ ngẩn, vô liêm sỉ của thế lực đen] Ngay
từ lúc đầu của chế độ, Diệm không làm gì khác hơn là gây sự nứt rạn
trầm trọng giữa khối Phật Giáo đa số và cái nhóm Công giáo của hắn
ta. Hắn ta đã hái những gì mà hắn đã gieo hạt.
Những
lời kể lể dài dòng buồn bã vô nghĩa tiếp tục bất tận [trong
cuốn sách]. Điều duy nhất mà cuốn sách này cung cấp là niềm an
ủi cho những kẻ than vãn rên rỉ là “bị đâm sau lưng” và không thể chấp
nhận là chúng ta đã bị một quốc gia hạng ba đá đít [ra khỏi đất
nước của họ].
[Movies.go.com:
This
book is nothing but preposterous “revisionist trash”. The only thing
Moyar's good at is cherry picking archival factoids to substantiate his
laughable arguments. To assert that the '63 Buddhist uprising was solely
the product of communist agitation is ludicrous. From the very begining
of his regime Diem did nothing but aggravate the fisssures between the
Buddhist majority and his Catholic constituency. He reaped what he sowed.
..The
litany of absurdities goes on and on. The only thing this book does is
provide solace for the "stab-in-the-back" whiners who cannot
accept the fact that we got our butts kicked by a third rate country.]
Mặt
khác, phê bình cuốn "Phoenix and the Birds of Prey: The CIA's
Secret Campaign to Destroy the Viet Cong." của Mark Moyar,
Ralph McGehee, một viên chức cao cấp trong CIA, đã trực tiếp tham dự
Chiến Dịch Phụng Hoàng, phụ trách vùng Gia Định, đã phê bình Mark Moyar
là bỏ qua những chi tiết quan trọng như sau:
Sự
mô tả [của Mark Moyar] thời kỳ từ 1945 đến 1955 đã không nói đến vai
trò lớn lao của Mỹ giúp Pháp để tái lập chế độ thuộc địa ở Việt Nam. [Mỹ
đã giúp trên 80% quân phí cho Pháp. TCN] Những điều ông ta [Mark
Moyar] viết về sự “sáng tạo” nên Nam Việt Nam, vào giữa thập niên
1950, hầu như không nhắc gì tới vai trò quyết định của Mỹ để tạo nên
cuộc di cư vào miền Nam của những người Công Giáo ở Bắc Việt và dựng
lên chính quyền Ngô Đình Diệm. [Xin đọc bài “Vài Nét
Về Cụ Diệm” để biết rõ Ngô Đình Diệm đã được bưng về Việt
Nam như thế nào.]
…
Cuốn sách [của Mark Moyar] viết
những điều khẳng định về sự trung thành của người dân Nam Việt Nam (như
sau): “Tôi khám phá ra rằng [khi tôi chưa sinh ra hoặc còn
đang mặc tã ở Mỹ. Mark Moyar sinh năm 1971. TCN] là đa số các dân
làng [ở vùng nông thôn] thực sự ưa chuộng chính quyền Saigon
hơn là Việt Cộng trong những năm cuối cùng của cuộc chiến.” Khẳng
định này chứng tỏ Mark Moyar không biết gì đến những thực tế của cuộc
chiến [McGehee là nhân chứng ở Việt Nam] – và
chúng ta có thể bác bỏ từng điểm một nhưng phải mất quá nhiều thời
gian.
[From:
Ralph McGehee <rmcgehee@igc.apc.org>
Date:
Thu, 22 Jan 1998
Review
and Commentary by Ralph McGehee
Mark
Moyar's book, "Phoenix and the Birds of Prey: The CIA's Secret Campaign
to Destroy the Viet Cong." Annapolis, MD: Naval Institute Press,
1997.
The
description of the period from 1945 to 1955 generally ignores the massive
U.S. role assisting the French to re-colonize Vietnam. His coverage of
the creation South Vietnam, in the mid-1950s, barely mentions the overriding
role played by the United States in generating the migration of the North
Vietnamese Roman Catholic Vietnamese to South Vietnam and in creating
the government of Ngo Dinh Diem.
The
book makes sweeping statements on the loyalties of the South Vietnamese "I
discovered that the majority of villagers actually favored the Saigon
government over the Viet Cong during the latter years of the war." This
ignores the realities of the war -- and a point by point rebuttal is
warranted but would take too much time.]
Chỉ
bẳng vào đoạn phê bình trên của Ralph McGehee chúng ta cũng có thể thấy
rõ Mark Moyar có phải là một sử gia chân chính hay không, và đoạn trên
cũng đã có tác dụng vứt vào sọt rác những điều Mark Moyar viết trong
hai cuốn “Triumph Forsaken” và "Phoenix and the Birds
of Prey: The CIA's Secret Campaign to Destroy the Viet Cong."
Để
chạy tội cho đảng Cần Lao Nhân Vị alias cơ quan Mật Vụ của Ngô Đình Nhu,
Lữ Giang viết:
LG: Việc
thành lập Đảng Cần Lao
Chuyện
lập Đảng Cần Lao cũng rắc rối không kém gì chuyện truất phế Bảo Đại…
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ muốn chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập tại miền
Nam một chế độ độc đảng theo khuôn mẫu của Trung Hoa Quốc Dân Đảng
của Tưởng Giới Thạch. Tướng Lansdale đã nói rất rõ: “Đảng Cần Lao không
phải là ý kiến của nhà Ngô; “trước tiên nó được đề xướng bởi Bộ Ngoại
Giao Hoa Kỳ” để loại bỏ cộng sản ra khỏi đất nước.”
(The
CLP was not their idea; it "was originally promoted by the U.S.
State Department" to rid the country of communists).
[United
States-Vietnam Relations, 1945 – 1967, Book 11, tr. 1 – 12.]
Nhưng
viết như vậy thì Lữ Giang hơi ngu, tưởng là biện hộ cho sự thành lập
đảng Cần Lao nhưng thực sự chỉ chứng tỏ là chính quyền Ngô Đình Diệm
là một chính quyền tay sai, Mỹ muốn thế nào thì phải làm thế, kể
cả tổ chức một đảng ác ôn côn đồ như đảng Cần Lao Nhân vị mà cái thuyết
Nhân Vị chỉ là “một pha trộn lộn xộn của những sắc lệnh của giáo
hoàng và kinh tế mẫu giáo” như Bernard Newman viết trong "Background
to Vietnam" , Signet Books, New York 1965, p. 117:
Một
chuyên gia Mỹ được mời đến để cố vấn cho hệ thống thuế má địa phương
mô tả thuyết Nhân Vị như là “một pha trộn lộn xộn của những sắc
lệnh của giáo hoàng và kinh tế mẫu giáo, tổ hợp với một sự nghi
ngờ những tư nhân thương gia, một sự e ngại đầu tư ngoại quốc, và một
quan niệm là không thể thành đạt được gì nhiều ở Việt Nam nếu không
có sự kiểm soát của chính phủ.”
[An
American expert who was called in to advise on the local system of taxation
described Personalism as "a confused mélange of papal encyclicals
and kindergarten economics, combined with a suspicion of private businessmen,
a fear of foreign capital, and an attitude that little could be accomplished
in Vietnam without direct government control."]
Nhưng
thực ra thì đảng Cần Lao đã được tổ chức với mục đích rất ác ôn côn đồ
và ngu xuẩn, bắt nguồn từ sự cuồng tín vào Tà Đạo Công Giáo. Chúng ta
hãy đọc trên:
http://www.buinhuhung.com/TT_ND_Diem/So_Do_To_Chuc_Dang_Can_Lao_Nhan_Vi.htm
Ðảng
Cần Lao Nhân Vị đã khai hoa nở nhụy từ khoảng năm 1946 với sự căm thù
CS của giáo dân Bùi Chu-Phát Diệm. Sau cuộc Khởi Nghĩa mùa Thu năm
1945, một số lực lượng quốc gia và giáo phái đã chiếm được một vài
vùng và đã tổ chức tại những vùng nầy một thứ chính quyền địa phương
tự trị mà mãi nhiều năm sau Việt Minh ( Cộng Sản ) mới thanh toán xong.
Bùi Chu -Phát Diệm là vùng chịu ảnh hưởng mạnh của TCG [2]
Ngày
2 tháng 9 năm 1954, Nghị Ðịnh số 116-bNV/CT cho phép Ðảng CLNVD được
hoạt động hợp pháp; nghị định nầy được ký bởi ông Bộ Trưởng Bộ Nội
vụ, Nguyễn Ngọc Thơ [3] Lời thề giai đoạn của ÐCLNV ở miền Trung khi
chưa có các tướng lãnh tham gia : Tam chống tam vâng. Tam chống là chống
cộng sản, chống Phật gíao và chống các đảng phái quốc gia. Tam
vâng là vâng lời các Cha, vâng lời Cậu Ngô Ðình Cẩn và vâng lời Tổng
Thống [2, 4].
Lời
thề giai đoạn có các tướng lãnh tham gia : Trung thành với Công giáo.
[2, 4]
Chiến
lược của ÐCLNV là sử dụng Phật tử để tiêu diệt Phật giáo; họ đặt Ông
Nguyễn Ngọc Thơ làm Bộ Trưởng BNV và Phó Tổng Thống Nền Ðệ Nhất VNCH
để làm vì mà thôi, hay các PT nhẹ dạ trong thời Ðệ Nhị VNCH, và ngày
nay họ cũng sử dụng những tay sai Phật tử nhẹ dạ hay có tham vọng chính
trị trong CÐVNHN để tiếp tục đánh phá Phật giáo.
Chúng
ta hãy đọc tiếp Lữ Giang. Sau đây là một đoạn của Lữ Giang viết về một
thách đố với tôi và Nguyễn Mạnh Quang:
LG: Năm
nay, tạp chí Đất Mẹ của ông Nguyễn Phi Thọ ở Houston, đã mời phe chống
ông Diệm và Thiên Chúa Giáo như Trần Chung Ngọc, Nguyễn Mạnh Quang,
Võ Văn Sáu, Lê Nguyên Long, Lê Xuân Nhuận, v,v., đến Houston dự một
buổi tranh luận về một số đề tài mà các ông ấy nêu lên. Tạp chí Đất
Mẹ cam đoan sẽ đài thọ vé máy bay và nơi ăn chốn ở đàng hoàng cho những
người được mời, nhưng không ai dám nhận lời.
TCN:
Như tôi đã nói, chúng tôi không ở phe chống một xác chết hay chống Thiên
Chúa Giáo mà chính ông Diệm đã chống ông Diệm và chính Thiên Chúa Giáo
đã chống Thiên Chúa Giáo. Lịch sử đã chứng tỏ rất rõ ràng như vậy. Và
ngày nay, chính sự phá sản tâm linh và đạo đức của Thiên Chúa Giáo đã
chống Thiên Chúa Giáo. Ông Lữ Giang có tin hay không?
Này
nhé ! Giáo hội Công
Giáo có một lịch sử tàn bạo đẫm máu và vô đạo đức như lịch sử đã viết
rõ về những cuộc gọi là “thánh chiến”, những tòa hình án xử dị giáo,
những cuộc săn lùng phù thủy, mang về tra tấn với những hình cụ khủng
khiếp nhất rồi mang đi thiêu sống, làm cho cả trăm triệu người gồm già,
trẻ lớn bé các phái nam nữ vô tội chết vì sự cuồng tín của Công Giáo
v…v… đến độ không còn che đậy dấu diếm được nữa nên Giáo hoàng John Paul
II cùng bô tham mưu của ông ta phải chính thức lến tiếng xưng thú 7 núi
tội ác của Công giáo đối với nhân loại?
Mặt
khác, chính những triều đại dâm loạn, loạn luân, giết người
của một số không ít Giáo hoàng, tự nhận là đại diện của Chúa trên trần;
chính định chế độc tài buôn thần bán thánh của Công giáo; chính sự
kiện Vatican dính líu đến những vụ rửa tiền, buôn bán ma túy, vũ khí
và liên hệ với tổ chức Mafia; chính sự liên kết của Giáo hội với các
chế độ thực dân để đi truyền đạo ở các nước nghèo yếu; chính nền tảng
đạo đức suy sụp của giới chăn chiên lại, điển hình là các vụ đồi bại
như Linh mục alias “Chúa thứ hai” cưỡng bức tình dục một số nữ tu trong
27 quốc gia trên thế giới, rồi cưỡng bức một số đi phá thai; chính
vì một số không nhỏ Linh mục ở trên thế giới mà nguyên trên nước Mỹ
đã có hơn 5000 “Chúa thứ hai” cưỡng bức tình dục trẻ em và nữ tín đồ,
đến độ Giáo hội phải bỏ ra trên 2 tỷ đô-la để bồi thường cho các nạn
nhân tình dục của các Linh mục loạn dâm và ấu dâm v…v… đã là những
gì chống Thiên Chúa Giáo hơn gì hết. Cho nên ngày nay Thiên Chúa Giáo
đang suy thoái trầm trọng ở phương trời Âu Mỹ. Đó là những sự kiện
lịch sử mà những tín đồ ngu muội lạc hậu như các ông không dám thừa
nhận trong khi cả thế giới đã biết rõ. Vậy các ông dù cố gắng đến đâu,
tạo nên cuộc chiến một chiều để hạ thấp các tôn giáo khác, nhất là
Phật Giáo, cũng không thể thay đổi được những sự thật lịch sử.. Và
các ông càng xuyên tạc lịch sử bao nhiêu thì càng làm cho bộ mặt ô
nhục của Công giáo càng rõ nét bấy nhiêu. Vì ngày nay người ta đâu
có để cho các ông tự tung tự tác múa gậy vườn hoang, đây là điều mà
các ông không đủ khả năng để nhận ra.
Ông
Lữ Giang cho rằng tôi và Gs Nguyễn Mạnh Quang, tôi không biết những người
khác là ai nên không dám nói thay họ, không dám nhận lời đến Houston
để tranh luận với đám con chiên thuộc Tạp Chí Đất Mẹ. Ông có thể tin
là chúng tôi sẽ hạ mình để đi tranh luận với bọn côn đồ văn hóa và cuồng
tín tôn giáo hay sao. Sao không thấy bất cứ một người nào trong Tạp
Chí Đất Mẹ viết bài phản biện những bài viết của tôi và Gs Nguyễn Mạnh
Quang trên Internet mà trên đó có biết bao nhiêu người sẽ đọc. Những
con chiên cuồng tín ngu đần với đầu óc của con chiên thì làm gì có khả
năng để mà phản biện. Ông Lữ Giang đã có bao giờ phản biện hoặc xảo biện,
nếu có thể, những bài tôi phê bình ông chưa, đừng nói đến các con chiên
tầm thường vô tên tuổi. Nếu có một cuộc tranh luận ở Houston thì sẽ có
bao nhiêu người tham dự và thuộc những thành phần nào, hay đa số chỉ
là dân đầu trâu mặt ngựa cuồng tín vô khả năng, chỉ biết vu khống và
chửi bậy làm phương châm đối thoại, hay mang thói hành hung côn đồ ra
tranh luận.. Đọc chuyện bịa đặt bậy bạ của Nguyễn Phi Thọ ở Tạp Chí Đất
Mẹ là đủ thấy tư cách hạ tiện và giáo dục cặn bã của ông ta ở mức nào.
Đoàn lữ hành qua đường thấy chó sủa thì đứng sủa lại hay thản nhiên tiếp
tục đi? La caravane passe có phải không. Đọc giả sẽ thấy chúng tôi sẽ
tiếp tục bước đi trên con đường đã chọn để mở mang sự hiểu biết của đại
chúng về Thiên Chúa Giáo.
Tôi
có thể đến Houston lúc nào cũng được, và tôi sẽ tự bỏ tiền ra mua vé
máy bay, không cần đến đồng tiền của bọn người nô lệ Vatican, và để thăm
bạn bè như tôi đã nhiều lần đến đó chứ không phải đến để dây với hủi.
Nhưng trước hết, tôi muốn ông Lữ Giang, Nguyễn Phi Thọ và Tạp Chí Đất
Mẹ, hay bất cứ người Công giáo nào, hãy trả lời cho những câu hỏi mà
tôi đã đặt ra cho tập thể Ca-tô Giáo nhiều lần nhưng cho tới nay chưa
có ai chịu trả lời:
Tại
sao một giáo hội mà Ca-tô Rô-ma Giáo tự nhận là do chính Chúa thành
lập, thường tự xưng là "thánh thiện", là "ánh sáng của
nhân loại", là quán quân về "công bằng và bác ái", luôn
luôn được "thánh linh hướng dẫn" v...v... lại có thể có một
lịch sử tàn bạo đẫm máu và vô đạo đức như lịch sử đã viết rõ về những
cuộc gọi là “thánh chiến”, những tòa hình án xử dị giáo, những cuộc
săn lùng phù thủy, mang về tra tấn với những hình cụ khủng khiếp nhất
rồi mang đi thiêu sống, làm cho cả trăm triệu người gồm già, trẻ lớn
bé các phái nam nữ vô tội chết vì sự cuồng tín của Ca-tô Rô-ma Giáo?
Tại sao trong giáo hội Ca-tô lại có những triều đại dâm loạn loạn luân,
giết người của một số không ít Giáo hoàng, tự nhận là đại diện của
Chúa trên trần? Tại sao Giáo hội do Chúa thành lập lại biến thành một
định chế độc tài buôn thần bán thánh? Tại sao Vatican lại dính líu
đến những vụ rửa tiền, buôn bán ma túy, vũ khí và liên hệ với tổ chức
Mafia?
Tại
sao Giáo hội lại liên kết của với các chế độ thực dân để đi truyền
đạo ở các nước nghèo yếu? Tại sao đạo đức của giới chăn chiên lại suy
sụp, điển hình là các vụ đồi bại như Linh mục alias “Chúa thứ hai”
cưỡng bức tình dục một số nữ tu trong 27 quốc gia trên thế giới, rồi
cưỡng bức một số đi phá thai? Tại sao một số không nhỏ Linh mục trên
thế giới mà nguyên trong nước Mỹ, đã có hơn 5000 “Chúa thứ hai” cưỡng
bức tình dục trẻ em và nữ tín đồ, đến độ Giáo hội phải bỏ ra trên 2
tỷ đô-la để bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các Linh mục loạn
dâm và ấu dâm? Tại sao
cho tới ngày nay mà những người Ca-tô Việt Nam ngu ngơ vẫn luôn luôn
mở miệng ra là ca tụng Ca-tô Rô-ma Giáo là một “hội thánh” và lên án
vô thần, làm như vô thần đồng nghĩa với vô đạo đức, vô tôn giáo, trong
khi, xét theo lịch sử, chính cái tôn giáo của họ, Ca-tô Rô-ma Giáo,
là vô đạo đức và vô tôn giáo vào bậc nhất thiên hạ, trong khi các đạo
khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị khoác lên mình cái nhãn hiệu vô
thần, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương
hại nào cho con người trong quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm,
từ trước Ki Tô Giáo hơn 500 năm?
Và
hãy cho tôi biết những điều tôi viết trong bài “Vài Nét Về Cụ Diệm”
về ai đã đưa Ngô Đình Diệm về Nam Việt Nam cầm quyền với 20 nhận định
về Ngô Đình Diệm của một số trí thức ngoại quốc có tên tuổi: ký giả,
chính trị gia, giáo sư đại học, nhà quân sự, bậc lãnh đạo tôn giáo v…v…
là đúng hay sai: http://sachhiem.net/TCN/TCNls/TCNls06.php
Trước
khi tìm cách trả lời những câu hỏi này, xin hãy đọc những đề mục sau
đây để biết rõ nội dung mà phản biện, nếu có thể:
NĂM
CHƯƠNG LỊCH SỬ TỘI ÁC CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO:
Phần
Dẫn Nhập:
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=56
Núi
tội ác thứ nhất: Ngăn
chận sự tiến bộ trí thức của nhân loại:
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=55
Núi
tội ác thứ 2: Những cuộc Thập Tự Chinh:
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=52 http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=51
Núi
tội ác thứ ba: Những tòa hình ánh xử dị giáo:
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=361 http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=360
Núi
tội ác thứ 4: Hơn 300 năm săn lùng, tra tấn và thiêu sống phù thủy:
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=490; http://giaodiemonline.com/2007/feb/hacsu4.htm
Núi
tội ác thứ năm: Gây hận thù và bách hại người Do Thái:
http://giaodiemonline.com/2007/07/cghacsu5.htm
Lịch
sử Giáo Hoàng:
http://giaodiemonline.com/2007/06/duccha.htm
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN20.php
Vấn
nạn Linh mục loạn dâm:
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN97.php
Tôi
ước mong ông Lữ Giang cũng như các bậc chăn chiên và các con chiên trí
thức Việt Nam trong Giáo hội Ca-tô Rô-ma hãy trả lời trước thế giới và
trước quốc dân Việt Nam những câu hỏi trên. Tại sao và tại sao ?? Câu
trả lời của quý vị hi vọng có thể làm cho tuyệt đại đa số người dân Việt
Nam đỡ đi phần nào những thắc mắc về cái đạo cao quý, thánh thiện của
quý vị, và nếu nghe suôi tai, chúng tôi sẽ bớt chống Công giáo cho quý
vị vui lòng.. Chừng nào mà quý vị không chịu trả lời thì chúng tôi
sẽ tiếp tục cuộc hành trình trên con đường mà quý vị cho là “chống Thiên
Chúa Giáo”. Xin quý vị nhớ kỹ cho một điều. Những hành động ác
ôn của Ca-tô Giáo có thể nói phần lớn là do ảnh hưởng của những lời dạy
trong cuốn Thánh Kinh. Trong Phật Giáo có thể có những cá nhân cũng
làm ác hay không có đạo đức, nhưng trong Kinh điển Phật Giáo không
có chỗ nào dạy họ làm như vậy. Con người sinh ra ở đâu cũng vậy,
có người bản tính ác, có người bản tính thiện, nhưng cái ác của người
Ca-tô phần lớn là vì niềm tin tôn giáo của họ. Điều răn đầu tiên trong
Cựu Ước là “Ngươi không được thờ thần nào khác” và luật của
Thiên Chúa trong Cựu Ước là tín đồ của ông ta phải giết những người không
thờ phượng Thiên Chúa của họ, phải phá hủy tượng thần, bàn thờ, đền đài
miếu mạo của những người theo tôn giáo khác:
Phục
truyền 13: 15: Các ngươi phải dùng kiếm tận diệt tất cả dân chúng
trong thành (vì họ đi thờ thần khác), phá hủy hoàn toàn tất cả những
gì trong đó, và cả mọi súc vật trong đó.
Phục
Truyền 20: 16-17: Nhưng đối
với những thị trấn của các dân tộc mà Thiên Chúa cho các ngươi thừa
hưởng, các ngươi không được để cho một sinh vật có hơi thở nào được
sống sót. Mà các ngươi phải tận diệt các dân Hittite, Amorite, Canaanite,
Perizzite, Hivite và Jebusite như Thiên Chúa đã ban lệnh cho các ngươi.
Joshua
10: 40: Vậy Joshua chinh phục
mọi miền đất, miền núi, đồi giốc cũng như miền đồng bằng phía Nam,
tiêu diệt các Vua ở các nơi này, tận diệt mọi sinh vật có hơi thở,
theo đúng lệnh của Thiên Chúa của Do Thái.
1
Samuel 15: 2-3: Ta sẽ trừng
phạt dân Amalek và phá hủy tất cả những gì chúng có và giết hết không
chừa ai: đàn ông, đàn bà, con trẻ, con nít mới sinh, bò, cừu, lạc đà
và lừa của chúng.
dù
những người đó là thân thuộc như bố, mẹ hay anh, chị, em, con cái của
mình:
Phục
truyền 13: 6-10: Nếu anh em ngươi, con trai hay con gái ngươi,
vợ ngươi hay bạn ngươi, khuyến dụ ngươi đi thờ các thần khác, thần
của các nước lân bang hay xa xôi.., thì ngươi phải giết nó đi, trước
hết là đích thân tay ngươi phải ném đá để cho nó chết, rồi sau mới
đến tay của dân chúng. [Nếu luật này cũng được áp dụng đối với
các tôn giáo khác thì mọi nhà truyền giáo Ki Tô, từ Alexandre de Rhodes
cho tới Puginier v..v…, và các nhà truyền đạo Tin Lành trên thế giới
đều phải bị ném đá cho chết đi. Nhưng mừng thay, chẳng có đạo nào ở
Á Đông lại ác ôn như đạo Thiên Chúa].
Và
lịch sử Ca-tô Giáo đã chứng tỏ Ca-tô Giáo đã theo sát những lời dạy này.
Gần đây những tín đồ Ca-tô cuồng tín ở Phi Châu vẫn đi thiêu sống một
số người mà họ cho là phù thủy, điều mà Giáo hội Ca-tô đã làm đối với
nhiều ngàn người trong thời Trung Cổ. Vậy làm sao mà chúng tôi không
thể đưa ra những sự thật về Thiên Chúa Giáo.
Các
người muốn thờ cha con một Thiên Chúa của Do Thái là quyền của các người,
nhưng trong cuốn “The God Delusion”, ấn bản 2008, tác giả Richard
Dawkins đã đưa ra tới 16 nhận định về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo như sau,
trang 51:
Không
cần phải bàn cãi gì nữa, Thiên Chúa trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa
đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và
hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công,
có tính đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung;
một kẻ hay trả thù; một kẻ khát máu diệt dân tộc khác;
một kẻ ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị
chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy
cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm
thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích
thú trong sự đau đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic],
là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường.
[The
God of the Old Testament is arguably the most unpleasant character in
all fiction: jealous and proud of it; a petty, unjust, unforgiving control-freak;
a vindictive, bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic,
racist, infanticidal, genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal,
sadomasochistic, capriciously malevolent bully.]
Tôi
đã chứng minh nhận định của tác giả là đúng, dựa trên những gì viết trong
chính cuốn Thánh Kinh: http://giaodiemonline.com/2009/03/god.htm ,
và với một Thiên Chúa như vậy chúng tôi có quyền không tin, và theo tiêu
chuẩn đạo đức xã hội ngày nay thì chúng tôi cần phải lên án một Thiên
Chúa như vậy. Và đây là quyền tự do suy tư của chúng tôi. Xin nhớ rằng
chúng tôi không tin là vì chúng tôi có đầy đủ lý do để không tin, chứ
không thể nhắm mắt mù quáng tin bướng tin càn. Còn các người tin sao
thì là quyền của các người. Nhưng chúng tôi cũng dành quyền đưa ra những
sự thật về một Thiên Chúa ở trong Thánh Kinh trước quần chúng và những
sự thật này không liên hệ gì đến “chống” hay “bênh”.
LG: Lý
do thứ tư: Có sự tiếp tay của Đảng CSVN.
Nhóm
chống ông Diệm còn được nhà cầm quyền CSVN ở trong nước tiếp tay rất
đắc lực. Cho đến nay Đảng CSVN vẫn còn cay cú về chuyện chế độ Ngô
Đình Diệm đã quét sạch gần như toàn bộ hệ thống nằm vùng và tình báo
của họ. Chỉ từ tháng 7–1955 đến tháng 2–1956, mật vụ của ông Diệm đã
thanh toán được 93.362 đảng viên và cán bộ nằm vùng được để lại. Lê
Duẩn phải bỏ chạy ra Bắc. Hai tên trùm điệp báo và quân báo là Mười
Hương và Lê Câu bị tóm gọn, các cơ sở từ Quảng Trị đến Cà Mau bị phá
vỡ, v.v. Do đó, các văn công Việt Cộng đã được lệnh viết rất nhiều
bài mô tả chế độc Ngô Đình Diệm là ác ôn, gia đình trị. Nhóm Phật Giáo
tiếp tay cho họ dĩ nhiên được hoan nghêng và yểm trợ tích cực.
TCN:
Đây chính là nguyên nhân làm cho chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Ông Lữ
Giang không ngờ rằng, viết như trên là ông đã thú nhận một sự kiện lịch
sử. Chúng ta hãy đọc:
Ở
đây, tôi chỉ đưa ra vài nét chính qua những nhận định của Giáo sư Mortimer
T. Cohen trong cuốn From Prologue To Epilogue In Vietnam, trang
240, 41, 61:
Diệm
là một người Công Giáo thuộc thời Trung Cổ - ông ta đúng, mọi người
khác đều sai. Chân lý (Phúc Âm) có quyền ưu tiên, những sự sai lầm
không có. Và, biết rõ bản chất bất ổn định của quyền cai trị của ông
ta, ông ta bị ám ảnh bởi ý tưởng là người nào phê bình bất cứ điều
gì về chế độ của ông ta cũng là những kẻ thù thâm căn cố đế.
Ông
ta là thánh Dominique (Người
được Giáo Hội Công Giáo giao cho nhiệm vụ phát động những Tòa Án Xử
Dị Giáo (The Inquisition) trong thời Trung Cổ).
Tháng
5 1955, ông ta mở chiến dịch Tố Cộng. Hiệp Định Genève đặc biệt
cấm không được trả thù chính trị.
Do
đó, Diệm đã khởi sự những sự thù nghịch. Chính hắn, bằng chính
sách tấn công tiêu diệt Việt Minh, đã khởi sự cuộc chiến ở miền Nam. Và
chúng ta cần nhấn mạnh là, hắn ta hành động như vậy không phải là để
trả đũa bất cứ sự khiêu khích nào của Việt Minh, nhưng từ sự thúc đẩy
là phải tiêu diệt Cộng đỏ - tinh thần của một tên Công Giáo thời Trung
Cổ đi săn lùng kẻ lạc đạo...
(Diem
was a medieval Catholic – he was right, the others were wrong. Truth
has privileges, error đoes not have. And, well aware of the precarious
nature of his rule, he was obsessed with the idea that all who criticized
anything about his regime were inveterated enemies.
He
was St. Dominick.
June
of ’55 he opened an “Anti-Communist Denunciation Program”. The Geneva
Accord specifically forbade political reprisals.
Thus,
Diem began the hostilities. It was he, who by his assault on the Vietminh,
began the fighting in the South. And, it must be emphasized, that he
did this not in response in any Vietminh provocations, but out of his
compulsion to exterminate the Reds – the spirit of the Medieval Catholic
heretic-hunter.)
Và
đây là một tài liệu khác về sự kiện mà Lữ Giang khoe là “chế
độ Ngô Đình Diệm đã quét sạch gần như toàn bộ hệ thống nằm vùng và tình
báo của CS”:
Trong
cuốn "The
Political Economy of Human Rights. Vol I" by
Noam Chomsky and Edward S. Herman, Black Rose Books, Canada 1979, pp.
302-303, chúng ta có thể đọc:
“Joseph
Buttinger, một cố vấn của Diệm lúc đầu và là người đã bày tỏ sự ủng
hộ Diệm nồng nhiệt nhất trong thập niên 1950, khẳng định gọi Diệm là
phát xít thì không thích hợp vì, tuy chế độ Diệm có tất cả những sự
xấu xa của chế độ phát xít, Diệm thiếu cơ sở quần chúng mà Hitler và
Mussolini đã có thể tập hợp được.
..Theo
Jeffrey Race, một cựu cố vấn quân sự Mỹ cho Nam Việt Nam có rất nhiều
tài liệu về lịch sử Việt Nam cận đại, chính quyền Diệm đã khủng
bố người dân nhiều hơn là phong trào cách mạng [của
Việt Minh] nhiều –
thí dụ, thủ tiêu các cựu kháng chiến quân Việt Minh, bắn pháo binh
vào những “làng cộng sản” [Đây
là làng của người Lương để ép họ vào Công giáo] và bắt bớ những
người “có thiện cảm với cộng sản”. Cũng
chính vì những chiến thuật đó mà lực lượng của phong trào cách mạng
càng ngày càng gia tằng ở Long An từ 1960 đến 1963.
..Sử
gia của Ngũ Giác Đài viết về “bệnh gần như hoang tưởng của Diệm lo
lắng về vấn đề an ninh,” đưa đến những chính sách “khủng bố toàn
diện nông dân Việt Nam, và làm suy giảm trầm trọng sự ủng hộ chế độ
của quần chúng.”
Sự
dùng bạo lực quá mức và trả thù những người cựu kháng chiến của Diệm
là sự vi phạm trắng trợn Hiệp Định Genève (Khoản 14c), cũng như
là sự từ chối không thi hành điều khoản tổng tuyển cử trên toàn quốc
(vào tháng 7, 1956) của Diệm. Lý do chính mà Diệm từ chối không thi
hành điều khoản này vào những năm 1955-56 (tổ chức và tổng tuyển
cử trên toàn quốc) thật là hiển nhiên: viên quan lại ly hương
nhập cảng từ Mỹ vào chỉ có một sự ủng hộ tối thiểu của quần chúng
và ít có hi vọng thắng trong một cuộc tổng tuyển cử... Diệm
là mẫu người điển hình của một tên bạo chúa phát xít, dùng khủng
bố để bù đắp cho sự thiếu hụt sự ủng hộ của quần chúng..”
(Joseph
Buttinger, an early advisor to Diem and one of his most outspoken advocates
in the 1950s, contends that the designation "fascist" is innapropriate
for Diem because, although his regime had most of the vicious characteristics
of fascisme, he lacked the mass base that a Hitler or Mussolini could
muster.
...According
to Jeffrey Race, a former US Army advisor in South Vietnam who had access
to extensive documentation on recent Vietnamese history, ..the government
terrorized far more than did the revolutionary movement - for example,
by liquidations of former Vietminh, by artillery and ground attacks on "communist
villages" and by roundups of "communist sympathizers".
Yet it was just these tactics that led to the constantly increasing strength
of the revolutionary movement in Long An from 1960 to 1963.
...The
Pentagon historian refers to "Diem's nearly paranoid preoccupation
with security," which led to policies that "thoroughly terrified
the Vietnames peasants, and detracted significantly from the regime's
popularity."
...Diem's
extensive use of violence and reprisals against former Resistance fighters
was in direct violation of the Geneva Accords (Article 14c), as was his
refusal to abide by the election proviso. The main reason for Diem's
refuse to abide by this mode of settlement in 1955-56 was quite evident:
the expatriate mandarin imported from the US had minimal popular support
and little hope for winning in a free election...Diem was a typical subfascist
tyrant, compensating for lack of indigenous support with extra doses
of terror..)
Đây
mới là những sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm ngu xuẩn, ác ôn, gia đình
trị, khiến cho người dân miền Nam oán ghét chế độ này và ghi
lại trong lịch sử chứ chẳng cần đến những bài của các văn công Việt Cộng [những
bài nào, không thấy Lữ Giang nêu ra] với sự tiếp tay của nhóm Phật Giáo
(sic).
LG: Cuốn
“Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” của nhóm Đỗ Mậu và cuốn “Giáo Sĩ Thừa
Sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam” của Cao Huy Thuần
đã được nhà cầm quyền CSVN cho in lại và phổ biến rộng rãi trong nước,
một số được đưa ra hãi ngoại. Mới đây, các cơ quan truyền thông hải
ngoại đã phát hiện: Bùi Hồng Quang, một trong những người chủ trương tạp
chí Giao Điểm, đã được Cục An Ninh Xã Hội thuộc Tổng
Cục An Ninh ở trong nước cho phép in tạp chí Giao Điểm ở trong nước
và cấp Giấy phép mang số 1020/A41(P4) ngày 20.12.2007 cho đưa ra nước
ngoài với mục đích được ghi rõ là “tuyên truyền vận động đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước ta”.
TCN:
Ở đây chúng ta thấy hiện rõ sự lưu manh và bất lương trí thức của Lữ
Giang. Trước hết, vấn đề là những tài liệu trong cuốn “Việt Nam Máu
Lửa Quê Hương Tôi” và cuốn “Giáo Sĩ Thừa Sai và chính sách thuộc
địa của Pháp tại Việt Nam” đúng hay sai chứ không phải là vấn đề
nhà cầm quyền CSVN cho in lại. In lại những cuốn sách nghiên cứu nghiêm
chỉnh về cuộc chiến ở Việt Nam hay về Thiên Chúa Giáo là cần thiết để
cho người dân biết rõ hơn về những chủ đề nay. Đó là việc làm chính đáng
của chính quyền. Việt Nam cũng đã dịch và xuất bản nhiều cuốn khác chứ
không chỉ hai cuốn trên. Chính quyền CSVN còn chưa dám cho in lại mấy
chục cuốn sách của Giao Điểm, vì còn sợ bóng sợ gió Công giáo, hay vì
giới hữu trách bị Công giáo mua chuộc. Thứ đến, Hồng Quang là một bút
hiệu . Trong bài “Trận Chiến Đáng Buồn” trước đây, Lữ Giang
đã đưa ra vụ việc về Hồng Quang in báo Giao Điểm ở trong nước, và ông
ta đã viết rõ đó là số báo số 65, đưa ra nước ngoài
với mục đích được ghi rõ là “tuyên truyền vận động đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước ta”. Trong Giấy phép trên không có chỗ nào
ghi mục đích trên như Lữ Giang phịa ra. Tôi đã phê bình bài “Trận
Chiến Đáng Buồn” của Lữ Giang, xin đọc: http://www.sachhiem.us/l7840i-v7850n-lagrave-l7918-giang.html và
đưa lên Mục Lục những bài trong số báo Giao Điểm 65, trong đó tuyệt
đối không có một bài nào có thể dùng, xa hay gần, để cái mà Lữ Giang
gọi là “tuyên truyền vận động đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước ta”. Cái mũ CS đã hết thời từ lâu rồi mà Lữ Giang
vẫn đem cái mửng đó ra một cách ti tiện bất kể liêm sỉ. Trong
bài “Cuộc chiến về Sự Thật” này, Lữ Giang không dám để rõ là
Giao Điểm số 65, số báo duy nhất in ở trong nước,
mà chỉ viết một cách lắt léo là: “cho phép in tạp chí Giao Điểm ở
trong nước” làm như tất cả hơn 60 số báo Giao Điểm đều được phép
in ở trong nước. Lữ Giang tưởng mình là thông minh, đưa ra thủ đoạn vặt
rất hạ cấp này mong lừa được thiên hạ, nhưng chẳng qua mắt được ai.
Tại
sao Lữ Giang lại nhắm vào Hồng Quang, một trong những sáng lập viên Giao
Điểm? Vì Giao Điểm là tổ chức đầu tiên của người Việt ở hải ngoại hô
hào việc từ thiện cứu giúp người dân bị nạn lũ lụt trong nước. Giao Điểm
cũng là tổ chức mang về cả tấn thuốc men để giúp người dân nghèo trong
nước. Và nhất là, vì Giao Điểm đã đi tiên phong trong chiến dịch giải
hoặc Ki Tô Giáo và đã tạo được sự ủng hộ sâu rộng trong giới trí thức..
Qua Giao Điểm, bộ mặt thực dân hạ cấp của Alexandre de Rhodes và bộ mặt
Việt gian Công giáo của Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Ký v..v… đã bị phơi
bày dù những người Công giáo vẫn ra công đánh bóng những nhân vật này
bất kể sự thật.. Nhiều websites đã đăng lên những bài của Giao Điểm và
Sách Hiếm. Nhiều giới trẻ, khi đối thoại với người Công giáo cũng đã
dùng tài liệu của Giao Điểm và Sách hiếm. Người dân ngày nay, kể cả giới
trẻ, không còn e dè như trước, mà viết ra thẳng thừng về những hiểm họa
của Ki Tô Giáo, về những sai trái và những điều tàn bạo, dâm loạn không
thể đọc được trong Thánh Kinh, và những tội ác của Giáo hội Ca-tô Rô-ma
đối với nhân loại. Mấy người không có cách nào chống đỡ trước những sự
thật được phơi bầy, nên chỉ còn dùng được hạ sách là chụp mũ vu vơ để
gây thù hận, nhưng sách lược này còn lại bao nhiêu giá trị ngoài những
công đồng con chiên?
Đến
đây tôi nghĩ tôi có thể ngưng được rồi vì chừng đó cũng đủ để cho chúng
ta thấy rõ con người Lữ Giang thuộc loại nào, tư cách của ông ta ra sao.
Hơn nữa, những đoạn sau của Lữ Giang quanh đi quẩn lại cũng chỉ là những
điều láo lếu vô căn cứ, không đáng để tôi phí thêm thời giờ. Trước khi
chấm dứt tôi muốn có vài lời kết luận:
Kết
Luận:
Trước
sách lược “Công giáo hóa miền Nam” ngu xuẩn, bạo tàn, hại dân, hại
nước của chính quyền Ngô Đình Diệm, tay sai của Vatican và Mỹ, Phật
Giáo Việt Nam không còn có thể chọn lựa con đường nào khác ngoài con
đường tranh đấu, không riêng gì cho Phật Giáo mà còn cho cả dân tộc.
Những bằng chứng tràn ngập về tính cách bạo tàn, kỳ thị tôn giáo của
chính quyền Ngô Đình Diệm, đã chứng minh một cách hùng hồn là cuộc
tranh đấu của Phật Giáo cách đây trên 40 năm ở miền Nam Việt Nam là
có chính nghĩa, hợp với lòng dân.
Thật
vậy, tuy Phật Giáo phát động phong trào chống chế độ Ngô Đình Diệm nhưng
lòng dân oán ghét chế độ bạo tàn phi dân chủ này đã âm ỉ từ lâu, như
một số tài liệu nhỏ trích dẫn ở trên đã chứng tỏ. Chúng ta không nên
quên là ông Diệm đã bị ám sát hụt tại Ban Mê Thuột ngay từ năm 1957,
ngày 21 tháng 5. Rồi đến cuộc đảo chánh thất bại của lực lượng nhảy dù
ngày 11 tháng 11, 1960, vụ dội bom dinh độc lập của 2 sĩ quan VNCH ngày
27 tháng 2, 1962. Và sự kiện là, trong cuộc tranh đấu Phật Giáo 1963,
không phải chỉ có Phật tử mới tham gia tranh đấu mà gồm đủ mọi thành
phần dân tộc, từ các em học sinh trung học của các trường Võ Trường Toản,
Trưng Vương cho đến các sinh viên đại học khoa học, đại học sư phạm,
các giới sĩ, nông, công, thương, kể cả những người Công giáo tiến bộ
gồm một số linh mục và tín đồ Công giáo.
Phật
Giáo là tôn giáo hòa bình. Những bậc tôn đức trong cuộc tranh đấu Phật
Giáo 1963 không chủ trương lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm bằng bạo
động. Nhưng không ai có thể phủ nhận là cuộc tranh đấu này đã góp phần
lớn lao đưa đến sự cáo chung của chế độ Công giáo trị, gia đình trị Ngô
Đình Diệm vào ngày 1 tháng 11, 1963. Ý thức được lòng dân, chính quân
đội Việt Nam, chỉ huy bởi nhiều tướng lãnh, trước đã theo và ủng hộ ông
Diệm, đã đứng lên làm tròn sứ mạng dẹp bỏ một chế độ Công giáo độc tài,
phi dân tộc, phi tổ quốc. Như đã từng nhiều lần có công với dân tộc trong
nhiệm vụ bảo vệ, giữ nước, cuộc tranh đấu 1963 của Phật Giáo ở miền Nam
cũng đã góp được nhiều công to lớn cho dân tộc. Ngoài việc đưa đến sự
chấm dứt một chế độ ác ôn đã mất đi lòng dân, chính yếu là cuộc tranh
đấu của Phật Giáo đã thành công trong việc bảo vệ được nền văn hóa truyền
thống và tôn giáo dân tộc, tôn giáo dân tộc ở đây phải được hiểu theo
nghĩa tôn giáo của tuyệt đại đa số người dân trong nước, ngăn chận được
hiểm họa của Công Giáo trong toan tính đưa toàn dân Việt Nam xuống hàng
súc vật (con chiên), cúi đầu tuân phục một định chế có thủ phủ đặt tại
Vatican mà lịch sử đen tối ô nhục của nó cũng như của các bậc lãnh đạo
trong đó đã không còn là một vấn đề xa lạ đối với thế giới ngày nay.
Trần
Chung Ngọc Grayslake, Illinois
48 năm sau ngày 1/11/63
*
* *
Giới thiệu: Các
weblink Tuyển tập chế độ Ngô Đình Diệm: Xem
/ Readable at weblink (ebook) :
http://www.flipsnack.com/flips/c33803916259f88486f5a81b6q234793 (Ch. 1,2,3)
http://www.flipsnack.com/flips/f3001390cb110ec8e6610754dq239543 (Ch.4)
http://www.flipsnack.com/flips/dcfbd37c20c4c98096c2980f0q244768 (Ch.5,6)
http://www.flipsnack.com/flips/cc1355ef8e7c1ca2866412dafq249013 (Ch.7)
http://www.flipsnack.com/flips/2977fd813bf0078c54e61cb7fq249233 (Ch.8-End)
Các bài đối thoại cùng tác giả
▪
“ Sản Phẩm Trí Tuệ” của Nguyễn Anh Tuấn -
Trần Chung Ngọc
▪
“Sản Phẩm Trí Tuệ” Mới Của Nguyễn Anh Tuấn Về “Giáo H -
Trần Chung Ngọc
▪
“Tự Do Tín Ngưỡng” của Minh Võ -
Trần Chung Ngọc
▪
Ai Dám Tấn Công Đạo Chúa ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chiến Tranh ... Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ -
Trần Chung Ngọc
▪
Chu Tất Tiến: Here We Go Again -
Trần Chung Ngọc
▪
Chung Quanh Một Cuộc Tranh Luận Hào Hứng -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - “Cha Chung” là ai? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Các Vấn Nạn Cần Giải Quyết -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Căn Bản Đức Tin -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Kết Luận -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Lợi Ích ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Comments On John Paul II's Crossing the Threshold of Hope -
Trần Chung Ngọc
▪
Eh! Lữ Giang, alias Tú Gàn, Here we go again! -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Nguyễn Văn Lục -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Tú Gàn -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ Về Tiến Sĩ Nguyễn Học Tập -
Trần Chung Ngọc
▪
Một Trí Thức Không Biết Ngượng -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Bài “Niềm Tin ...” Của Trần Thị Hồng Sương -1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Mấy Câu Trả Lời của Ông Mục Sư NQM -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 ▪
>>>