| 
 Có thể không ngoa khi nói rằng 
						chuột là một trong những con vật hi sinh nhiều nhất cho 
						loài người.  Hàng ngày có hàng triệu người được cứu sống 
						bằng những thuốc đã được phát triển và thử nghiệm trên 
						chuột.  Nếu không có sự hi sinh của chuột, chưa chắc con 
						người có tuổi thọ và cuộc sống thoải mái như ngày nay. 
		 
 Có 
		lẽ hai chữ “hi sinh” chưa nói hết những sự thật đằng sau những thí 
		nghiệm y khoa liên quan đến chuột.  Muốn biết hóa chất 3-MCPD có khả 
		năng gây ung thư?  Muốn tìm hiểu xem phơi nhiễm phóng xạ có phải là 
		nguyên nhân của ung thư?  Làm sao để biết một dây thần kinh có ảnh hưởng 
		đến xương?  Giải pháp đơn giản nhất và nhanh nhất để giải đáp các câu 
		hỏi trên là làm thí nghiệm trên chuột.  Chuột được nhốt trong chuồng 
		nhỏ, cho uống hóa chất (nếu không chịu uống thì sẽ bị tiêm trực tiếp vào 
		mạch máu), chuột được cho phơi nhiễm phóng xạ (nếu cố tránh thì nhà 
		nghiên cứu có cách làm cho chuột không cách nào tránh khỏi những tia 
		độc), chuột được đem ra giải phẫu cắt dây thần kinh, v.v…  Và, sau một 
		thời gian theo dõi chuột được cho … hi sinh (một mĩ từ thay cho từ 
		“giết”), cơ thể sẽ được giải phẫu và các cơ phận sẽ được đem đi đo lường 
		và phân tích.  Kết quả phân tích, nếu may mắn thành công, sẽ được sử 
		dụng để phát triển thành một thuốc mới hay một thuật điều trị mới; nếu 
		không thì sẽ bị rơi vào quên lãng.   
		Trên thế giới hàng ngày có khoảng 70 ngàn con chuột được hi sinh cho 
		nghiên cứu y khoa, nhằm tìm hiểu cơ chế của bệnh tật và phát triển thuốc 
		mới để điều trị bệnh và mưu cầu hạnh phúc cho con người.  Lí do chính để 
		sử dụng chuột cho nghiên cứu y khoa là vì chuột và con người là hai sinh 
		vật có quan hệ … anh em họ.  Hai sinh vật này xuất thân từ một tổ tiên 
		và tách ra thành chuột và người khoảng 75 triệu năm trước đây.  Dù đã 
		qua một thời gian tiến hóa dài như thế, hai sinh vật này vẫn còn mang 
		nhiều đặc điểm sinh học giống nhau.  Qua giải mã và so sánh bộ gien của 
		chuột và bộ gien của con người, chúng ta biết rằng gien của hai sinh vật 
		này giống nhau đến 99%.  Thật vậy, trong số khoảng 30.000 gien, con 
		người và chuột chỉ khác nhau có 300 gien!  Với 
		một sự tương đồng sinh học như thế, chúng ta có lẽ không ngạc nhiên khi 
		rất nhiều kết quả thí nghiệm trên chuột có giá trị thực tiễn cho con 
		người.  Thật vậy, đã có rất nhiều (hàng ngàn) thuốc được sử dụng điều 
		trị bệnh tật cho con người từng được thí nghiệm trên chuột.  Ngoài ra, 
		những tri thức y học về bệnh mà chúng ta có được ngày nay cũng nhờ vào 
		những kết quả thí nghiệm trên chuột.  Khó mà liệt kê hết những thành tựu 
		từ nghiên cứu chuột đã đem lại lợi ích cho con người trong một bài ngắn, 
		nhưng có thể nói gọn rằng nếu không có thí nghiệm trên chuột chưa chắc 
		con người có thể sống thọ như ngày nay.  Tuy 
		nhiên, không phải thuốc nào thí nghiệm thành công trên chuột cũng đều có 
		thể đem lại lợi ích cho con người.  Một vài “sự cố y khoa” gần đây cho 
		thấy sự nguy hiểm của ứng dụng kết quả nghiên cứu trên chuột cho con 
		người.  Thuốc thay thế hormone (HRT) một thời được xem là “thần dược” và 
		được hàng chục triệu phụ nữ khắp thế giới sử dụng vì kết quả thí nghiệm 
		trên chuột và khỉ cho thấy thuốc có khả năng giảm nguy cơ bệnh tim mạch 
		và tai biến mạch máu não, nhưng khi sử dụng trên con người thuốc lại làm
		tăng nguy cơ hai bệnh này.  Tháng 8 năm 2003 Tập san Lancet 
		ước tính rằng chỉ tính riêng ở Anh HRT đã gây ra khoảng 20.000 trường 
		hợp ung thư vú trong vòng 10 năm qua, đó là chưa tính đến hàng ngàn 
		trường hợp bệnh tim và tai biến.  
		Thuốc Vioxx trước đây được sử dụng cho việc điều trị bệnh viêm khớp 
		xương (nay đã rút khỏi thị trường) từng được thử nghiệm và thấy có kết 
		quả tốt trên chuột, nhưng khi đem áp dụng cho con người thì gây ra nhiều 
		sự cố nghiêm trọng.  Có người ước tính [hơi quá đáng] rằng chỉ rêing ở 
		Mĩ Vioxx đã làm cho 140.000 bệnh nhân bị tai biến mạch máu não và nhồi 
		máu cơ tim.  Một quan chức trong cơ quan FDA của Mĩ (cơ quan quản lí 
		thuốc và thực phẩm) cũng than rằng sự cố Vioxx là “một thảm họa lớn nhất 
		trong lịch sử về an toàn thuốc trên thế giới”.  
		Ngược lại, một số thuốc được sử dụng thành công trên con người nhưng 
		chưa bao giờ thành công trên chuột hay thú vật.  Penicillin, một thuốc 
		trụ sinh đem lại lợi ích vĩ đại cho con người, bị trì hoản đến hơn 10 
		năm vì các kết quả từ thí nghiệm trên thỏ không cho ra kết quả khả 
		quan.  Nếu penicillin mà thử nghiệm trên heo thì chắc thuốc này chẳng 
		bao giờ đến tay người, bởi vì penicillin rất độc hại cho heo.  Alexander 
		Fleming, người khám phá penicillin, từng nói: “Thật là may mắn vì vào 
		thập niên 1940s chúng tôi không phải thử nghiệm penicillin trên thú vật; 
		nếu thử nghiệm trên thú vật thì tôi nghĩ thuốc sẽ chẳng bao giờ được 
		công nhận và bộ môn kháng sinh học sẽ chẳng bao giờ thành sự thật”. 
		Trong một phân tích tổng hợp gần đây, các nhà nghiên cứu kết luận rằng 
		nhiều nghiên cứu cơ bản trên chuột và thú vật nói chung không thể áp 
		dụng cho con người được vì khả năng tiên lượng từ các nghiên cứu như thế 
		không tốt hơn việc ném một đồng xu!  Hàng trăm thuốc dùng cho điều trị 
		tai biến mạch máu não (như Cerestat, MaxiPost, Zendra, Lotrafiban, 
		gavestinel, nimodipine, clomethiazole) từng được xem là có hiệu quả và 
		an toàn trên chuột, nhưng khi sử dụng cho người thì thất bại.  Trong số 
		22 thuốc đã được chứng minh là an toàn và có hiệu quả trị bệnh chấn 
		thương dây thần kinh ở chuột, nhưng tất cả đều vô dụng cho con người. 
		 
		Trước những vấn đề trên, càng ngày càng có nhiều người đặt vấn đề khoa 
		học và đạo đức có nên thí nghiệm y khoa trên chuột (hay nói chung là thú 
		vật) nữa hay không.  Thật ra, vấn đề sử dụng chuột làm thí nghiệm y khoa 
		đã đã và đang gây ra nhiều tranh cãi về đạo đức khoa học và đạo đức xã 
		hội từ lâu.   
		Triết gia người Hi Lạp Aristotle lí giải rằng thú vật và con người tuy 
		giống nhau về mặt cấu trúc cơ thể, nhưng con người là một động vật có lí 
		trí và do đó có quyền sử dụng thú vật như là một phương tiện.  Một trong 
		những triết gia có ảnh hưởng rất lớn đến đạo Công giáo là thánh Thomas 
		Aquinas (1225-1274) tuyên bố rằng chỉ có con người là động vật có lí trí 
		và có linh hồn.  Tất cả các động vật không phải con người chỉ đơn thuần 
		là đối tượng, không có cá tính, không có lí trí, và không có quyền, 
		không có đạo đức.  Thánh Aquinas còn tuyên bố rằng các động vật không 
		phải con người chỉ tồn tại cho nhu cầu của con người mà thôi.  Một số 
		bài viết của thánh Thomas Aquinas được xem là đạo văn và đạo ý tưởng của 
		Aristotle.   
		Nhưng quan điểm trên của Aristotle và thánh Aquinas sai.  Ngày nay, qua 
		nghiên cứu khoa học, chúng ta biết rằng thú vật cũng có cảm giác và tri 
		giác (New Scientist, 28/6/1997;  Nature 3/7/1997).  Do đó 
		ở Âu châu, người ta đã thay đổi nhận thức về thú vật và có một định 
		nghĩa mới về “animal” (kể cả chuột, dĩ nhiên) như là những “sentient 
		beings”, tức là những sinh vật có tri giác (chứ không phải là định nghĩa 
		trước đây như là những loại hàng hóa hay sản phẩm nông nghiệp).  
		Thật ra, phát hiện về thú vật có tri giác chẳng phải là điều gì mới đối 
		với triết học Đông phương.  Phật giáo từ xưa đã xem tất cả các sự sống 
		hay tồn tại đều có tri giác và đều tiến hóa đến một tri giác cao hơn.  
		Phật giáo còn quan niệm rất thực tế rằng tất cả sự sống, kể cả thú vật 
		và thực vật, tồn tại qua những tương tác với nhau.  Do đó, Phật giáo đề 
		ra triết lí sống không chỉ bao dung với chính mình mà còn đối với những 
		sinh vật khác và thế giới quanh mình.  Thể hiện cho triết lí này là 5 
		giới luật, và trong đó có giới luật số 1 là không làm đau khổ hay giết 
		thú vật (không chém giết hay sát hại mọi chúng sinh; không trộm cắp; 
		không tà dâm; không nói dối; và không uống rượu và các chất làm say 
		người).  Có 
		lẽ xuất phát từ tư tưởng thú vật là một sinh vật vô tri hay một công cụ 
		nằm trong tay con người, nên việc thí nghiệm trên thú vật được tiến hành 
		rất phổ biến ở phương Tây.  Aristotle từng làm thí nghiệm trên thú vật 
		để tìm hiểu về cơ chế bệnh tật.  Nhưng thí nghiệm y khoa trên thú vật 
		chỉ thật sự hợp thức hóa vào thập niên 1960s.  Sau thảm nạn thalidomide 
		vào 1956 đến đầu thập niên1960s, mà theo đó hàng vạn trẻ em ở Âu châu 
		sinh ra với dị tật nghiêm trọng do các bà mẹ sử dụng thuốc chống 
		thalidomide trong khi có thai, việc thí nghiệm y khoa trên chuột được 
		hợp pháp hóa ở Anh.  Năm 1961, chính phủ Anh ban hành đạo luật cho phép 
		các nhà nghiên cứu thí nghiệm các thuốc trên chuột và động vật trước khi 
		sử dụng cho người.  Tuy 
		nhiên ngay từ khi đạo luật ra đời, các nhà nghiên cứu đã lên tiếng phản 
		đối, vì họ cho rằng chuột khác với người, và kết quả thí nghiệm trên 
		chuột chưa hẳn có thể áp dụng cho con người.  Tháng 9 năm 1962 tập san
		The Lancet bình luận rằng y học đang đối đầu với một sự thật là 
		ngay cả những thử nghiệm cực kì cẩn thận về tác động của một thuốc mới 
		trên thú vật có thể không cho chúng ta biết gì về ảnh hưởng ở con 
		người.  Một phân tích cách đây 2 năm cho thấy trong số 114 thuốc nghiên 
		cứu thành công trên chuột, chỉ có 6 nghiên cứu là có thể áp dụng thành 
		công cho mgười.  Mới đây, một giám đốc Viện ung thư Mĩ (National Cancer 
		Institute) chua chát than rằng “Lịch sử của nghiên cứu ung thư là lịch 
		sử của điều trị ung thư trên chuột.  Chúng ta đã điều trị chuột qua 
		nhiều thập niên, và chỉ có thể nói một cách đơn giản rằng các thuật điều 
		trị đó không có hiệu quả ở con người”.               Công bằng 
		mà nói, thí nghiệm trên chuột đã đem lại nhiều thành công trong công 
		cuộc chinh phục bệnh tật cho con người, nhưng ngay cả thành công, con 
		người cũng đã trả cái giá khá đắt cho những thành công đó.  Phần lớn, 
		nếu không muốn nói là tất cả, các thuốc phát triển nhờ vào thí nghiệm 
		trên chuột và ứng dụng thành công trên con người, hiệu quả của thuốc 
		cũng chỉ được ghi nhận ở khoảng 50% bệnh nhân, phần còn lại hoặc là 
		không có hiệu quả hoặc là xảy ra “sự cố”, kể cả biến chứng.  Trong khi 
		thuốc cứu hàn triệu bệnh nhân mỗi ngày trên thế giới, thì cũng có hàng 
		vạn bệnh nhân bị thương tật vĩnh viễn thậm chí tử vong vì các sự cố y 
		khoa do thuốc gây ra.   Về 
		phương diện đạo đức, vẫn còn những lấn cấn về những thí nghiệm vô dụng 
		trên chuột và sự tàn nhẫn của con người đối với chuột trong phòng thí 
		nghiệm.  Hàng triệu chuột bị hi sinh cho những mục tiêu nghiên cứu vô 
		nghĩa và phi khoa học.  Đã có quá nhiều thí nghiệm trên chuột tuy thành 
		công nhưng khi ứng dụng trên người thì hoàn toàn thất bại và gây khá 
		nhiều thiệt hại và tổn thương cho con người.  Cứ mỗi nghiên cứu thành 
		công mà công chúng biết, có đến cả vạn nghiên cứu thất bại mà công chúng 
		chẳng bao giờ biết.  Do đó, đứng trên phương diện đạo đức, thí nghiệm 
		trên chuột đang đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng và cấp thiết.               Nhưng con 
		người cần mưu cầu hạnh phúc và mong muốn chinh phục bệnh tật, nên có lẽ 
		trong tương lai thí nghiệm trên chuột vẫn còn tiếp tục.  Có hướng nào 
		ra?  Trong cuốn sách “Chúng ta sẽ làm gì nếu không thí nghiệm trên thú 
		vật?  Y học cho thế kỉ 21” (What Will We Do if We Don’t Experiment on 
		Animals? Medical Research for the Twenty-First Century, 2006), hai tác 
		giả  Jean Swingle Greek và C. Ray Greek đề nghị một mặt ngưng ngay những 
		thử nghiệm không có hiệu quả trên thú vật; mặt khác, dựa vào các phương 
		pháp chẩn đoán mới nhất để tập trung vào con người thay vì thú vật, kể 
		cả nghiên cứu trong ống nghiệm (in vitro tests) trên các tế bào 
		và mô của con người, mô phỏng bằng máy tính về hệ thống nội tiết của con 
		người ở mức độ phân tử, và phân tích gien.  Ngoài ra, các phương pháp 
		truyền thống như dịch tễ học và giảo nghiệm tử thi cũng có thể là những 
		cách làm có ích.               Nói tóm 
		lại, chuột đã hi sinh rất nhiều cho sự tồn tại của con người, nhưng thay 
		vì được cám ơn, trớ trêu thay con người đã đối xử quá tồi tệ với các con 
		vật này.  Năm nay là năm Tý, và đây là thời gian lí tưởng để chúng ta 
		nghiêng mình kính cẩn cám ơn con vật từng có thời là anh em họ của chúng 
		ta.    
 Những bài cùng tác giả:  
 
			Bàn về nguồn gốc con người hiện đại (Nguyễn văn Tuấn)Bưởi không gây ung thư vú (Nguyễn văn Tuấn)
 Bảo tồn môi sinh (Nguyễn văn Tuấn)
 Chất béo không ảnh hưởng.. (Nguyễn văn Tuấn)
 Giải Nobel Y học (Nguyễn văn Tuấn)
 Giải Nobel Y học: GS Mario R. Capecchi (Nguyễn văn Tuấn)
 Học vị tiến sĩ và học hàm ở các đại học Úc và Mĩ (Nguyễn văn Tuấn)
 Nhân năm Tý bàn chuyện  (Nguyễn văn Tuấn)
 Những ngộ nhận về học vị tiến sĩ tại VN (Nguyễn Văn Tuấn)
 Quản lí dự án nghiên cứu khoa học (Nguyễn văn Tuấn)
 Vấn đề tác giả một bài báo khoa học (Nguyễn văn Tuấn)
 
 |