| 
		
 
						 Nói đến môi sinh là chúng ta nghĩ ngay đến những bad 
						news, những bản tin xấu. Các nhà sinh vật học bảo 
						rằng chúng ta đang ở vào thời kì hủy diệt lần thứ 7, và 
						lần này nguyên nhân và lỗi lầm là của chính chúng ta, 
						con người. Con người săn bắt một số động vật như voi cổ
						mammoth, chim cưu dodo, chim bồ câu ... 
						đến nổi chúng trở nên tuyệt chủng. Nhưng săn bắt không 
						phải là nguyên nhân duy nhất. Sự hủy hoại lớn nhất mà 
						con người phải chịu trách nhiệm là sự tiêu hủy môi 
						trường sống mà các loài vật khác phụ thuộc vào để tồn 
						tại: Đó là nạn phá rừng nhiệt đới. 
						 
						Rừng là một tài nguyên quan trọng của trái đất. Rừng 
						chứa khoảng phân nửa các loài vật thế giới, đóng vai trò 
						cái hồ chứa carbon dioxide, và cung cấp các nguyên liệu 
						từ gỗ đến trái cây, động vật và thuốc men. Song, mỗi 
						năm có khoảng 170.000 km2 rừng nhiệt đới bị 
						hủy diệt. Một vài nước tiêu hủy khoảng 5% rừng mỗi 
						năm. Các nước khác thì thay thế rừng tự nhiên bằng rừng 
						nhân tạo, tức là trồng cây bạch đàn – cung cấp gỗ và làm 
						hầm cho carbon dioxide, nhưng không thể cung cấp như 
						rừng tự nhiên. Trong khi rừng bị tiêu hủy thì thú vật 
						cũng dần dần biến mất – chết đi. Biểu tượng của Tổ chức 
						WWF (World Wide Fund for Nature) là con gấu Panda, bởi 
						vì ngày nay trên thế giới chỉ còn trên dưới 1000 con, 
						phần lớn là ở Trung Quốc. Nhóm lớn nhất còn sống sót 
						chỉ khoảng 70 con. Nếu tốc độ phá hủy rừng tre hiện tại 
						tiếp tục thì chỉ cần 10 năm nữa là chúng ta không còn 
						nhìn thấy một con gấu Panda nào.  
						 
						Rừng và “cư dân” rừng không phải là những nạn nhân duy 
						nhất. Phân nửa vùng đầm lầy cũng đã bị hủy diệt trong 
						vòng 100 năm qua. Khoảng 2/3 vùng biển san hô đã bị con 
						người làm biến mất, 80% đất trồng cỏ đang bị xuống cấp, 
						50% muối đầm lầy và rừng đước hoặc bị tiêu hủy, hoặc bị 
						thay đổi, 2% đất liền đang có nguy cơ trở thành sa mạc, 
						và nước ngầm đang bị xuống cấp ở mọi nơi. Các rặng núi 
						như Hi Mã đến Andes và Alps đang bị xuống cấp làm thay 
						đổi thủy triều. Khai thác biển cũng làm cho nguồn tài 
						nguyên này càng ngày càng cạn kiệt. Vì những tàn phá 
						này, khoảng 20% các loài vật sống trong nước ngọt bị 
						chết mất hay đang bị diệt chủng. Nếu tỉ lệ hủy diệt như 
						hiện nay không dừng lại, phân nửa các loài vật sẽ không 
						còn có mặt trên trái đất vào cuối thế kỉ 21.  
						 
						Dĩ nhiên, chúng ta có thể nhảy đầm với những con số 
						thống kê như thế để thấy thảm cảnh do chính con người 
						gây nên. Nhưng những thống kê đó là những có số thô, và 
						dựa vào những giả định quan trọng là những loài vật mà 
						chúng ta chưa biết cũng bị tiêu diệt theo cùng một tốc 
						độ như hiện nay. Giả định này có thể đúng, nhưng cũng 
						có thể sai. Ngoài ra, cần phải kể đến phản ứng của 
						chúng ta: Chúng ta than vãn cái chết của chim cưu, 
						nhưng chúng ta không thương tiếc những con vi khuẩn gây 
						ra bệnh đậu mùa. Nhưng những tiên đoán do khoa học bảo 
						tồn môi sinh thường mang tính khẳng định, không nhân 
						nhượng. Nếu chúng ta khoanh tay đứng nhìn, con cháu 
						chúng ta sẽ thừa hưởng một thế giới với ít sự sống hơn 
						và môi trường sẽ tồi tệ hơn. Toàn 
						cầu hóa chiến tranh 
						Người ta thường nói đi nói lại rằng con người đang hủy 
						hoại trái đất và vấn đề này gây ảnh hưởng đến tất cả 
						chúng ta. Có đúng thế không? Ngay cả một biến cố hạt 
						nhân nguyên tử cũng không hủy hoại trái đất. Sự đa dạng 
						sinh vật sẽ nổi lên từ những đống tro, cũng như chúng đã 
						từng nổi lên sau các lần hủy diệt trước đây. Hệ thống 
						môi sinh cũng sẽ tiến hóa. Trái đất sẽ tiếp tục vận 
						hành cho đến khi nào mặt trời có thể nuốt ngụm trái đất 
						trong vòng 5 tỉ năm. Hoạt động của chúng ta không giết 
						chết trái đất, nhưng làm thay đổi trái đất. Câu hỏi cần 
						đặt ra là sự thay đổi đó làm cho cuộc sống tốt hơn hay 
						tồi tệ hơn – hay không có gì thay đổi. Nói cho cùng, 
						biến cố 65 triệu năm trước đây làm cho trái đất tốt hơn, 
						tồi hơn, hay chỉ là một sự va chạm? Trên phương diện 
						khoa học, chúng ta không thể nào giả định một cách mù 
						quáng rằng bảo tồn môi sinh là một điều tốt; trước hết, 
						chúng ta cần phải có bằng chứng về một lợi ích phổ quát 
						từ việc cứu sống trái đất từ Cuộc hủy diệt lần thứ bảy.
						 
						 
						Nếu có một phát hiện khoa học nào làm cho con người đoàn 
						kết lại thì đó là khám phá về mối đe dọa bị diệt chủng. 
						Nhưng ngạc nhiên thay, những lí giải khoa học để cứu thế 
						giới, cứu trái đất khỏi thảm họa chẳng gây ra ấn tượng 
						cho bất cứ ai. Ngược lại, ở vài nơi, nó là nguồn gốc 
						của sự xung đột ý kiến giữa các quốc gia. Trong cuộc 
						họp thượng đỉnh về trái đất ở Rio de Janeiro vào năm 
						1992, mục đích chính là nhằm lèo lái trái đất qua những 
						cơn phong ba, trở ngại, mà giới khoa học từng tiên đoán; 
						ấy thế mà sau cùng, Hội nghị chỉ cho thấy một sự chia rẽ 
						trầm trọng giữa các quốc gia, chẳng ai đồng ý với một 
						giải pháp chung cả. Sự chia rẽ này vẫn còn tồn tại và 
						chưa có dấu hiệu gì nó sẽ biến đi trong một tương lai 
						gần, bất kể các nhà khoa học tiên đoán ra sao.  
						 
						Nguyên do chính cho tình trạng chia rẽ này là áp lực bảo 
						tồn môi sinh mà các nước đã phát triển (chủ yếu là thế 
						giới phương Tây và Bắc Mĩ) dồn xuống các quốc gia đang 
						phát triển, chủ yếu là ở Á châu, Phi châu, và Nam Mĩ. 
						Tại sao? Tại vì phần lớn những đa dạng sinh học hiện 
						đang nằm trong các nước đang phát triển, đặc biệt là ở Á 
						châu, Phi châu, và Châu Mĩ Latin. Các nước nghèo này 
						xem áp lực của các nước giàu có là một hành động chính 
						trị, mang tính phá hoại, và đạo đức giả. Các nước nghèo 
						cho rằng cái khoa học bảo tồn môi sinh không những rất 
						yếu mà còn có khuynh hướng chính trị: bảo tồn môi sinh 
						chỉ là một phương tiện chính trị (cũng giống như các 
						phương tiện khác như “nhân quyền” chẳng hạn) để các nước 
						Tây phương sai khiến các nước nghèo.  
						 
						Một bất đồng ý kiến lớn khác giữa hai thế giới là vấn đề 
						nóng toàn cầu (global warming). Các nhà khoa học thuộc 
						các nước đã phát triển lí giải rằng hiện tượng nóng toàn 
						cầu là một thực tế. Mặc dù khoa học đằng sau lí giải 
						này rất mong manh, nhưng họ đã thành công thuyết phục 
						chính phủ các nước đã phát triển và công chúng rằng họ 
						nói đúng. Từ đó, các nước đã phát triển đang ra sức nêu 
						vấn đề chung mà theo họ các quốc gia trên thế giới phải 
						cùng nhau chung lưng giải quyết. Giải quyết bằng cách 
						nào? Các nước đang phát triển phải ngưng phá rừng, phải 
						giảm thiểu các hoạt động sản xuất kĩ nghệ (tức giảm phun 
						khói ra bầu trời), phải quét dọn carbon dioxide do kĩ 
						nghệ sản xuất thải ra. Ngược lại, các quốc gia đang 
						phát triển cho rằng cái khoa học đằng sau hiện tượng 
						nóng toàn cầu còn quá mong manh; nhưng họ còn quan niệm 
						rằng nếu những tiên đoán của giới khoa học là đúng thì 
						vấn đề là do các nước đã phát triển gây ra, chịu lấy hậu 
						quả; vậy họ (các nước đã phát triển) phải tự mình mà 
						giải quyết lấy, chứ chẳng ăn nhằm gì đến thế giới đang 
						phát triển. 
						 
						Các nước đã phát triển muốn duy trì sự đa dạng môi sinh 
						(để ngăn chận cuộc Hủy diệt thứ Bảy), và ý muốn này chỉ 
						có thể thực hiện thành công nếu các nước đang phát triển 
						phải vâng lời họ, làm theo những gì mà các nước Tây 
						phương nói. Và đây cũng là một bất đồng quan điểm giữa 
						hai thế giới đã phát triển và đang phát triển. Các nước 
						đang phát triển không mấy ấn tượng với quan điểm này; họ 
						muốn có quyền như các nước đã phát triển đã từng hưởng, 
						tức là quyền được phát triển kinh tế, khai thác tài 
						nguyên thiên nhiên theo cách thức mà họ nghĩ là tốt nhất 
						cho dân chúng của họ. Rừng 
						xưa xanh lá  
						 Có một vài khác biệt giữa những gì mà các 
						nhà khoa học tính toán là cần thiết để chống lại tình 
						trạng nóng toàn cầu và vấn đề đa dạng môi sinh. Để 
						chống lại tình trạng nóng toàn cầu, các nước nghèo phải 
						chịu ảnh hưởng nhiều hơn các nước giàu có. Những khai 
						thác rừng phải ngưng lại ngay bây giờ trong các nước 
						đang phát triển. Còn vấn đề bảo vệ sự đa dạng môi sinh, 
						các nhà môi trường học cho biết từ các bở biển 
						California (Mĩ) đến các rừng nhiệt đới ở Phi châu, chỉ 
						có 1.4% diện tích là nhà của 1/3 các loài vật cần bảo 
						vệ. Như vậy, các nước đang phát triển phải đứng ra gánh 
						vác vấn đề này?  
						 Do đó, lí do để bảo vệ một số nhỏ loài vật 
						như thế rất yếu ớt. Cây cối và thú vật từng sống một 
						cách nguy hiểm khi môi trường sống của chúng trở nên quá 
						rời rạc. Thông thường, chúng không cần những khoảnh đất 
						rộng lớn để tự duy trì và cần những vòng đai xanh để đi 
						lại. Nếu một loài vật bị chết vì thiếu đất sống, các 
						loài vật khác cũng chịu chung số phận. Khi loài vật bị 
						tuyệt chủng, 30 loài vật khác cũng tuyệt chủng theo, vì 
						không có môi trường sống. Nếu một động vật bị tuyệt 
						chủng, thì nhiều dã thú khác cũng chết theo vì chúng 
						không còn nguồn thực phẩm. 
						 Giới khoa học môi trường khẳng định rằng 
						tình trạng nóng toàn cầu và tuyệt chủng chỉ có thể ngăn 
						chận được nếu như các nước đang phát triển phải có hành 
						động tích cực: dành ra một khoản rừng tự nhiên rộng lớn 
						ngay từ bây giờ, và cấm không cho con người đến gần khu 
						rừng này. Chỉ bằng cách này thì thế giới mới có thể 
						quét sạch được carbon dioxide; chỉ bằng cách này thì các 
						cây cỏ quí và thú vật hiếm mới có môi trường để tồn 
						tại.  
						Thoạt đầu nghe qua thì cũng có lí, song xét kĩ thì cách 
						lí luận này cũng có vấn đề. Mức độ đa dạng môi sinh, 
						một phần lớn, tập trung vào các nước nghèo, bởi vì những 
						nơi này có khí hậu lí tưởng (nhiệt đới) để các loài vật 
						sinh sôi nẩy nở. Thực ra, các nước đã phát triển đã 
						từng có một lịch sử hủy diệt môi sinh lâu dài. Rất lâu 
						dài. Họ từng khai thác một cách không mệt mỏi tài 
						nguyên thiên nhiên, lấy nguyên liệu, khai khẩn đất để 
						sống, trồng trọt, xây dựng thành phố và phát triển kĩ 
						nghệ. Chính nhờ vào phá rừng, các nước Tây phương có 
						địa vị kinh tế ngày nay. Kĩ nghệ hóa và của cải quốc 
						gia mà họ có ngày nay là do phá rừng, ô nhiễm sông ngòi, 
						và biển mà họ từng tiến hành trong mấy thế kỉ trước.
						 
						 Rừng không phải lúc nào cũng rậm rạp. Hai 
						mươi ngàn năm về trước, giữa thời đại băng giá, Âu châu 
						và Bắc Mĩ bị bao phủ bằng tuyết, chứ không phải cây 
						cối. Lúc đó, chỉ có vùng nhiệt đới Á châu là ít chịu 
						ảnh hưởng. Ngay cả vùng Amazon (Nam Mĩ) cũng chỉ thưa 
						thớt chút ít diện tích rừng, chứ không phải rậm rạp với 
						những rừng gỗ sồi như ngày nay. Nhưng khi thế giới ra 
						khỏi thời băng giá (khoảng 10 ngàn năm về trước) rừng 
						bắt đầu bành trướng và bao trùm gần 60% diện tích trái 
						đất. Kể từ đó, con người phá rừng để trồng trọt và chăn 
						nuôi, sinh sống, diện tích rừng bắt đầu thu nhỏ lại. 
						Ngày nay, rừng chỉ bao phủ khoảng 25% diện tích trái 
						đất, và phần lớn diện tích rừng bị phá đã từng xảy ra ở 
						thế giới đã phát triển, những nước đang lớn tiếng yêu 
						cầu thế giới đang phát triển phải ngưng phá rừng! 
						 Phần lớn những đợt phá rừng diễn ra vài trăm 
						năm trước thế kỉ 20. Kể từ đó, quá trình phá rừng đã 
						được giảm dần, hay ngưng hẳn. Nhờ vào các chương trình 
						tái phát triển rừng, các nước Âu châu và Bắc Mĩ có thể 
						khoe khoang rằng họ đã chấm dứt thiên niên kỉ thứ hai 
						với nhiều cây cối hơn 100 năm trước. Những rừng mới 
						này, thực ra, chỉ là những rừng ma đã hiện diện từ cuối 
						thiên niên kỉ thứ nhất. Người Mĩ đã tiêu diệt hoàn toàn 
						loài chim bồ câu “passenger”; người Anh đã từng làm cho 
						loài chó sói và gấu tuyệt chủng trước khi Trung Quốc bắt 
						đầu đe dọa đến các chú gấu Panda. So với mức độ phá 
						rừng của các nước đã phát triển đã từng hủy hoại, mức độ 
						hủy hoại rừng trong các nước đang phát triển chẳng thấm 
						vào đâu.  
						 Nhưng sự hủy hoại sự sống trong thế giới đã 
						phát triển vẫn chưa chấm dứt. Dung lượng biển Aral, một 
						vùng nước ngọt khổng lồ ở Trung Á, đã giảm một nửa so 
						với 50 năm trước đây. Các nhà kế hoạch Nga từng tuyên 
						bố (1987) rằng “Cứ để cho biển Aral chết một cách đẹp 
						đẽ, vì nó hết sức vô dụng”. Kể từ thập niên 1960s, Anh 
						đã xây thêm nhiều vùng đất mới mà diện tích bằng cả xứ 
						Wales. Ở Mĩ, trong các bang như Ohio chẳng hạn, khai 
						khẩn đất / rừng phát triển gấp 5 lần so với phát triển 
						dân số. Chỉ có Nhật là không phát triển đất đai thêm, 
						còn trong các nước đã phát triển khác thì nhịp độ khai 
						thác đất đai vẫn còn đang diễn ra. 
						 Kể từ 1981, diện tích đất đai dành cho trồng 
						trọt giảm khoảng 7%. Gần đây, do cải tiến năng suất 
						nông nghiệp, sự giảm sút diện tích rừng có vẻ chậm hơn. 
						Nhưng tăng năng suất cũng có giới hạn, và trong tương 
						lai, có thể nạn phá rừng sẽ có chiều hướng gia tăng. 
						 Phá hoại luôn luôn dễ hơn là khôi phục. 
						Ngay cả trong các nước đã phát triển, việc ngăn chận nạn 
						phá rừng là một công việc rất khó khăn và tốn kém. Khó 
						khăn ở đây là xuất phát từ sự va chạm giữa lợi ích 
						thương mại và bảo tồn môi sinh. Chẳng hạn như ở Mĩ, 
						chính phủ phải vất vả với việc khôi phục một khu rừng 
						gần 11,700 km2 ở Florida, vì có sự xung đột 
						giữa kĩ nghệ du lịch và bảo tồn môi sinh. Trong thế kỉ 
						qua, người dân đào kênh, làm thay đổi thủy triều, phát 
						triển đô thị và nông nghiệp, và trong quá trình này, con 
						người làm cho hệ thống sinh hóa gần như bị hủy diệt. 
						Gần 70% các sinh vật trong khu vực hoặc đã biến mất 
						dạng, hoặc đang ở trong tình trạng nguy hiểm. Với hệ 
						thống cung cấp nước cho Florida và một kĩ nghệ du lịch 
						14 tỉ hàng năm có nguy cơ sụp đổ nếu muốn khôi phục con 
						sông. Do đó, chính phủ vẫn chưa quyết tâm ...  
						 Thành ra, không ai ngạc nhiên khi các nước 
						đang phát triển, các nước nghèo hơn không mấy ấn tượng 
						trước những áp lực từ các nước giàu có ở Tây phương. 
						Các nước nghèo xem rừng là tài nguyên của họ, họ có 
						quyền khai thác để giúp nền kinh tế nghèo nàn của họ 
						phát triển, để nâng cao đời sống kinh tế cho người dân. 
						Và điều này có nghĩa là họ phải bán gỗ, và tận dụng đất 
						đai cho trồng trọt. Các quốc gia đang phát triển hoàn 
						toàn có lí do khi họ đề nghị rằng nếu muốn giảm tình 
						trạng nóng toàn cầu, thì các nước đã phát triển nên 
						ngưng phun khói trước, và nên khôi phục lại những thửa 
						rừng mà họ đã phá hủy trước đây. Hãy để cho các nước 
						giàu có này chịu áp lực. Tại sao lại làm áp lực cho các 
						nước nghèo?  Nhân 
						mãn và bể dâu 
						 Một trong những lí do con người hủy hoại 
						rừng là để tự nuôi sống con người và làm nhà cho dân số 
						đang càng ngày càng gia tăng. Dân số càng nhiều, việc 
						phá rừng càng cao. Đó là xu hướng mà các nước Âu châu 
						từng kinh qua, và các nước đang phát triển đang gặp 
						phải. Dân số thế giới gia tăng một cách liên tục kể từ 
						khi hành trình tiến hóa con người bắt đấu. Đà gia tăng 
						dân số đạt đỉnh cao nhất vào năm 1965, với tỉ lệ 2.5% 
						mỗi năm. Nhưng sau đó, tỉ lệ này giảm xuống dần và nay 
						chỉ còn khoảng 1.3% / năm, và vẫn còn đang giảm nhanh. 
						Theo dự đoán của các nhà dân số học, dân số thế giới sẽ 
						lên đến 10 tỉ vào năm 2050 (hiện nay là 6 tỉ), và có lẽ 
						sẽ đến mức 11 tỉ vào cuối thiên niên kỉ thứ ba. Đây là 
						một tin mừng, nhưng những con số này còn có nghĩa là thế 
						giới phải tìm cách nuôi thêm một vài tỉ miệng ăn, phải 
						tìm đất cho họ sống và làm việc trong vài trăm năm sắp 
						đến. 
						 Chỉ 200 năm trước đây, tỉ lệ sinh sản giữa 
						hai thế giới [đã phát triển và đang phát triển] không 
						khác nhau bấy nhiêu: mỗi phụ nữ sinh khoảng 7 con. Đến 
						thế kỉ 18 trong các nước Âu châu, tỉ lệ này giảm xuống 
						và đến nay chỉ còn 2 hay ít hơn cho mỗi phụ nữ. Tuy 
						nhiên, trong thế giới đang phát triển tỉ lệ này vẫn chưa 
						thay đổi bao nhiêu, nhất là ở các nước Hồi giáo và Ả 
						Rập. Hiện nay, phụ nữ Á châu và châu Mĩ Latin trung 
						bình sinh khoảng 2-3 con, nhưng trong thế giới Hồi giáo, 
						tỉ lệ này là 7 con! Sự khác biệt này đưa đến vấn đề mất 
						thăng bằng trong nông nghiệp. Chẳng hạn như vào thập 
						niên 1950s, dân số Âu châu cao gấp 3 lần dân số Phi 
						châu; ngày nay, hai lục địa này có cùng dân số; nhưng 
						đến 2050, phi châu sẽ có dân số cao gấp 3 lần dân số Âu 
						châu. Hiện nay, trong tổng số gia tăng dân số hàng năm, 
						96% là ở trong các nước đang phát triển. Thành ra, áp 
						lực để tìm đất sống và thực phẩm rất khẩn thiết trong 
						thế giới đang phát triển.  
						 Bởi vì dân số gia tăng quá nhanh trong thế 
						giới đang phát triển, giới khoa học bảo tồn môi sinh đặt 
						vấn đề kế hoạch hóa gia đình lên ưu tiên hàng đầu trong 
						các nước nghèo. Cái giả định đằng sau của chiều hướng 
						này là tỉ lệ sinh sản trong các nước đang phát triển và 
						các nước đã phát triển khác nhau là do giáo dục (kế 
						hoạch hóa gia đình, kiểm soát sinh sản). Do đó, một 
						bước quan trọng đầu tiên là cải tiến trình độ giáo dục 
						trong các nước nghèo. Tất nhiên, có một sự ngạo mạn 
						đằng sau cái chiến lược này – các nước Tây phương tự 
						khen ngợi mình rằng học cao hiểu rộng và có khả năng tự 
						kiềm chế sinh sản – nhưng trong thực tế, giáo dục không 
						phải là yếu tố quan trọng. Tỉ lệ sinh sản trong các 
						nước đã phát triển giảm trước khi có mối quan tâm về 
						nhân mãn. 
						 Sự khác biệt về tỉ lệ sinh sản giữa các quốc 
						gia Âu châu không liên quan gì đến ngừa thai. Tây Ban 
						Nha có tỉ lệ sinh sản thấp nhất nhưng cũng ít dùng các 
						phương pháp ngừa thai nhất. Ở Nhật cũng thế. Yếu tố 
						làm cho tỉ lệ sinh sản giảm có lẽ là tuổi thọ trung bình 
						của người dân. 
						 Mối tương quan giữa tỉ lệ sinh sản và tuổi 
						thọ trung bình rất cao. Xuyên suốt lịch sử con người, 
						phụ nữ sinh sản số lượng con cái sao cho hai hay ba 
						người con sống sót đến tuổi trưởng thành. Trong môi 
						trường mà xác suất sống sót cao, phụ nữ ít sinh con hơn 
						trung bình. Đầu thế kỉ 20, lúc đó chưa có kĩ thuật ngừa 
						thai, phụ nữ trong các xã hội sống bằng nghề săn bắt, 
						nơi mà trẻ em có xác suất sống sót khá cao, phụ nữ chỉ 
						sinh trung bình 3 đến 4 con. Nhưng nếu họ cảm thấy cơ 
						hội sống còn không cao, họ sẽ sinh nhiều con như trong 
						các nước đang phát triển hiện nay, hay trong các xã hội 
						Âu châu thời thế kỉ 17 và 18.  
						 Hội nghị dân số năm 1994 ở Cairo kết luận 
						rằng phương pháp ngừa thai tốt nhất là một nền kinh tế 
						thịnh vượng và xã hội an toàn. Trong các xã hội hiện 
						đại, xác suất sống sót tùy thuộc vào sự thịnh vượng. 
						Ngay cả các nước như Anh, trẻ em sinh ra trong các gia 
						đình lao động có tỉ lệ chết trước khi trưởng thành cao 
						gấp 2 lần so với các trẻ em sinh ra trong các gia đình 
						giàu có. Những con số này cho thấy nếu xác suất tử vong 
						trước khi trưởng thành trong các dân số thuộc các quốc 
						gia đang phát triển chưa giảm, tỉ lệ sinh sản cũng sẽ 
						còn tăng cao như hiện nay. Do đó, cái ưu tiên hàng đầu 
						trong các quốc gia này là phát triển kinh tế.  Ăn xài 
						quá mức  
						 Không chỉ làm áp lực giảm dân số trong thế 
						giới đang phát triển, các nước đã phát triển còn tìm 
						cách khuyên các nước nghèo giảm sản xuất kĩ nghệ. Giữa 
						năm 1990 và 1995, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Dương và Ba Tây 
						tăng lượng xuất carbon dioxide 20%; Thổ Nhĩ Kì, Nam Hàn 
						và Mễ Tây Cơ tăng trên dưới 20% vào năm 2010. Các nước 
						đã phát triển khoe với thế giới rằng họ đã giảm lượng 
						thải carbon dioxide và sử dụng năng lượng một cách hữu 
						hiệu hơn.  
						Nhưng thế giới đang phát triển suy nghĩ khác: đó là vấn 
						đề tiêu thụ quá mức trong thế giới đã phát triển. Có 
						thể nhìn và hiểu vấn đề như sau: dân số trong các nước 
						đã phát triển chỉ chiếm 20% dân số thế giới, nhưng họ 
						lại tiêu thụ 80% tài nguyên thế giới và sản xuất 80% ô 
						nhiễm trên thế giới. Chỉ riêng mức độ tiêu thụ điện ở 
						New York đã cao hơn mức độ tiêu thụ cả lục địa châu phi 
						cộng lại. Một người Mĩ trung bình “cống hiến” vào “hiệu 
						ứng nhà kính” (greenhouse effect) cao gấp 8 lần 
						so với người Trung Quốc, và 20 lần so với người Ấn Độ. 
						Trong tương lai, 9 trong 10 trẻ em sinh ra sẽ ở các 
						nước đang phát triển, nhưng 9 trẻ em đó vẫn tiêu thụ 
						không bằng một phần ba tài nguyên thế giới mà một em bé 
						ở các nước đã phát triển tiêu thụ. Tiêu thụ quá mức, 
						do đó, là một vấn đề lớn, lớn hơn cả chính sách môi sinh 
						của các nước đã phát triển. Thành ra, vấn đề không phải 
						là các nước đang phát triển phải bảo vệ môi sinh mà là 
						các nước đã phát triển phải giảm tiêu thụ. 
						 Nếu sự đe dọa tình trạng nóng toàn cầu là có 
						thật và quan trọng, các nước trong thế giới đang phát 
						triển có thể thay đổi thái độ. Nhưng hai mối đe dọa mà 
						các nhà khoa học Tây phương tiên đoán – phá rừng và vấn 
						đề mất đất đai cho trồng trọt vì mực nước biển dâng cao 
						– không có tính thuyết phục cao. Sự mất mát các vùng 
						đất trồng trọt ven biển có lẽ không có ảnh hưởng gì so 
						với so với tình trạng mất rừng. Các nghiên cứu trong 
						thập niên 19902 cho thấy diện tích sa mạc không tăng 
						trong thế kỉ 20. Lượng cát gia tăng rồi sụt trước sự 
						thay đổi lượng mưa, nhưng sự thay đổi này không dính 
						dáng gì đến hiện tượng nóng toàn cầu. Thành ra, các 
						nước trong thế giới đang phát triển nghĩ rằng vấn đề 
						được các nước đã phát triển đặt ra là vì động cơ chính 
						trị chứ không phải khoa học. 
						 Năm 1992, Mĩ không kí kết vào Hiệp ước Rio 
						giảm lượng carbon dioxide. Tám năm sau tại Hague, Mĩ 
						vẫn từ chối kí vào hiệp ước. Như vậy, theo các nước 
						đang phát triển, thế giới Tây phương đã hành xử một cách 
						đạo đức giả: nói một đằng làm một nẻo.  
						Trước mắt, với một nền kinh tế phát triển cao và an sinh 
						xã hội khá cao, các nước đã phát triển có thời gian suy 
						nghĩ và quan tâm đến tương lai, mà thực ra là mối đe dọa 
						đến sự thịnh vượng của họ. Trong khi đó, với tình trạng 
						kinh tế nghèo nàn và nên an sinh xã hội còn thấp, mối 
						quan tâm hàng đầu của các nước đang phát triển là phát 
						triển kinh tế. Sự khác biệt này làm cho các nước đã 
						phát triển chê thế giới đang phát triển là không biết 
						suy nghĩ xa, không có kế hoạch phát triển lâu dài. Các 
						nước đang phát triển phản hồi rằng kế hoạch phát triển 
						lâu dài là một cái gì xa xí đối với họ. Dân chúng trong 
						các nước nghèo sẽ tìm mọi cách để tận dụng môi trường tự 
						nhiên để sống sót, bất kể hậu quả môi trường tương lai 
						ra sao. Làm sao họ có thể nghĩ đến chuyện sinh thái và 
						môi sinh cho con cháu đời sau khi mà cuộc sống của chính 
						họ đang bị đe dọa – ngày hôm nay.  
						 
						 Do đó, thái độ của các nước đang phát triển 
						trước tình trạng nóng toàn cầu rất đơn giản: Nếu các 
						nước đã phát triển muốn các nước nghèo trong thế giới 
						đang phát triển làm sạch carbon dioxide trong tương lai 
						thì họ phải trả công. Người dân sống trong các nước 
						nghèo phải đấu tranh cho miếng ăn từng ngày, chắc chắn 
						sẽ không ấn tượng với thế giới đã phát triển trong nỗ 
						lực tiêu ra hàng trăm triệu đô la để cứu những con voi 
						hay các loài hoa lan hiếm, ngoại trừ họ cảm thấy có lợi 
						ích trực tiếp và thiết thực cho một nỗ lực như thế.  
						 Du 
						lịch xanh  
						 Có thể nói cái lí do mà thế giới đã phát 
						triển kêu gọi bảo vệ môi sinh mang tính tình cảm hơn là 
						khoa học. “Chúng ta cần phải bảo tồn môi sinh để cho 
						con cháu chúng ta thừa hưởng sau này” – đó là khẩu hiệu, 
						là tiếng nói trên đầu môi của những người trong thế giới 
						đã phát triển. Nói một cách khác, theo họ, nếu chúng ta 
						tiếp tục phá hủy môi sinh như hiện nay, thì chỉ vài thế 
						hệ nữa con cháu chúng ta sẽ không còn thấy hổ, voi, hay 
						gấu trắng.  
						 Vấn đề chính của cách lí giải này là trong 
						thực tế, những người có kinh nghiệm sờ và thấy những con 
						vật này là những người thuộc giai cấp thượng lưu trong 
						xã hội. Nó không phải là một lợi ích phổ thông cho mọi 
						người. Có bao nhiêu người nông dân Việt Nam trực tiếp 
						nhìn thấy và sờ được gấu trắng ? Chỉ có người có điều 
						kiện đi đây đi đó trên thế giới mới có lí do để quan tâm 
						đến những sinh thực vật hiếm như thế. Phần lớn dân số, 
						ngay cả trong thế giới đã phát triển, chẳng biết và cũng 
						chẳng cần biết hay quan tâm. Phần lớn dân chúng chẳng 
						đi đâu ra khỏi nhà; những gì mà họ biết về thế giới loài 
						vật cũng chỉ qua màn ảnh ti-vi hay các tạp chí với hình 
						ảnh màu mè. Và trong thế giới đang phát triển, sự sống 
						hiện tại và tương lai còn quan trọng hơn những quan tâm 
						viễn vong. Tại sao các nước nghèo phải dành ra những 
						khoảnh đất để cho các nước giàu có thưởng ngoạn? Ai sẽ 
						trả cho cái đặc lợi, đặc quyền này?  
						 Hiện nay, hàng năm có khoảng 600 triệu du 
						khách, tức tương đương với 1/5 dân số trên thế giới. 
						Nhưng phần đông du khách này chẳng có quan tâm gì đến 
						sinh hóa; họ đi tìm mặt trời để làm cho làn da của họ 
						sạm nắng; họ đi tắm biển chơi với cát; họ đi thưởng thức 
						những nền văn hóa khác; hay đi thăm thân nhân bè bạn. 
						rất ít người chịu khó lặn lội vào rừng sâu để cho đỉa 
						vắt cắn hay đối diện với rắn độc trong các khu rừng 
						nhiệt đới. Mặc dù vậy, phải công bằng mà nói rằng trong 
						những người du lịch, cũng có một bộ ohận du lịch xanh, 
						những người sẵn sàng hi sinh tiện nghi đời sống hiện đại 
						để kinh nghiệm qua môi trường nhiệt đới. Nhưng họ chỉ 
						là một nhóm nhỏ, có thể chỉ 1% hay ít hơn trong đội quân 
						du khách hàng năm. Và với số lượng còn quá nhỏ như thế 
						thì làm sao họ có thể trả tiền cho các nước nghèo duy 
						trì rừng. Thực ra, du lịch xanh có thể phá rừng và môi 
						sinh, và có thể đem lại tác hại một cách vô ý thức. 
						Thành ra, du lịch xanh, tuy là một giải pháp hấp dẫn, 
						nhưng trong thực tế, sẽ chẳng đem lại lợi ích gì cho 
						việc duy trì môi sinh. Thực 
						phẩm và thuốc men  
						 Khoa học cho chúng ta một lí do đầy thuyết 
						phục để bảo vệ môi sinh, đó là bảo tồn nguồn dược liệu 
						và thực phẩm cho con người. Rừng nhiệt đới không chỉ là 
						nguồn thực phẩm mà còn là nguồn nguyên liệu để sản xuất 
						dược phẩm chưa được khai thác đến nới đến chốn. Nếu 
						chúng bị hủy diệt, con người coi như bị cướp đi những 
						thuốc men quan trọng. Nhưng sự thành công trong việc 
						bảo tồn môi sinh còn tùy thuộc vào tài chính và sự cảm 
						thông giữa thế giới đã phát triển và thế giới đang phát 
						triển. 
						 Một phần tư dược phẩm hiện nay chúng ta đang 
						dùng được chế biến từ thực vật. Trong các nước đã phát 
						triển, các công ti sản xuất dược phẩm từng tìm cách giảm 
						sự lệ thuộc vào thực vật, nhưng ngày nay, họ đang tìm 
						cách khai thác nguồn cây cỏ trong rừng để sản xuất 
						thuốc. Cây cỏ nhiệt đới rất giàu chất thuốc, chủ yếu là 
						alkaloid, có lẽ là chất mà cây cỏ sản sinh để chống lại 
						bệnh tật và côn trùng. Do đó, những cây cỏ như thế có 
						thể chế biến và dùng vào việc điều trị bệnh tật cho con 
						người. Một loại cây leo có tên là Samoan và Cameroon có 
						khả năng trị HIV, con vi khuẩn gây ra bệnh AIDS hiện 
						nay. Ngoài ra, nọc rắn vùng Amazon từng được chế biến 
						làm thuốc chữa bệnh cao máu. Viện nghiên cứu Ung thư Mĩ 
						(American National Cancer Institute) phát hiện khoảng 
						3000 loại cây cỏ hàm chứa hóa chất chống lại ung thư, và 
						70% các cây cỏ này nằm trong các khu rừng nhiệt đới 
						thuộc nước đang phát triển.  
						 Nhiều công ti dược phẩm thế giới có lí do để 
						tiếc rẻ khi thấy một kho tàng tri thức y học truyền 
						thống bị các Tây thực dân Tây phương hủy diệt. Ở Ba 
						Tây, tính từ 1900, thực dân Tây phương đã tiêu hủy hơn 
						90 bộ lạc với những nét văn hóa đặc thù. Những tri thức 
						y học cổ truyền của họ cũng theo nhau biến mất. Ngày 
						nay, các nước Tây phương đang dụ dỗ những người mà họ 
						từng cho là “lang băm”, những người trưởng bộ lạc để hệ 
						thống hóa tri thứcy học từ cây cỏ.  
						 Nhiều dược phẩm mà chúng ta dùng ngày nay 
						từng được các bộ lạc sử dụng trước đó cả trăm năm. 
						Thuốc Quinine (chống sốt rét), Curare (thuốc làm bớt 
						căng thẳng bắp thịt), Vincristine (chữa trị ung thư bạch 
						cầu) là những ví dụ tiêu biểu, nhưng còn hàng ngàn loại 
						thuốc khác đang chờ phát hiện. Ở Amazon, dân địa phương 
						trị chứng nhiễm nấm độc (fungal infection) bằng một loại 
						nhựa cây, và họ phân biệt hơn 250 loại bệnh lị cho mỗi 
						trị liệu. Ở Nicaragua, thử nghiệm lâm sàng cho thấy 
						Camomile có khả năng chống bệnh ỉa chảy, một căn bệnh 
						làm chết nhiều người trong các nước đang phát triển. 
						Danh sách này còn kéo dài ... 
						 Nhưng ai là người sở hữu chủ những loài cây 
						cỏ này? Đây là một câu hỏi đã từng gây ra tranh luận và 
						xung đột giữa hai thế giới đã phát triển và đang phát 
						triển. Phần lớn phương tiện kĩ thuật, và phần lớn những 
						công ti sản xuất dược phẩm trên thế giới nằm trong các 
						nước đã phát triển. Các nước này lí giải rằng các cây 
						cỏ là di sản của toàn cầu mà họ có quyền khai thác. Các 
						nước đang phát triển, nơi mà các cây cỏ này có mặt, cho 
						rằng đó là nguồn tài nguyên địa phương và họ có quyền 
						khai thác, và nếu nước ngoài muốn khai thác thì họ phải 
						trả lệ phí. Họ cho rằng cái gọi “di sản thế giới” chỉ 
						là một cách nói hoa mĩ để các nước giàu có bóc lột các 
						nước nghèo.  
						 Ghi nhận quan tâm này của các nước đang phát 
						triển, một số công ti dược Tây phương cho thiết lập văn 
						phòng đại diện tại các nước đang phát triển ở Nam Mĩ, 
						Nam Dương, và Phi châu, với vai trò trung gian, tức là 
						làm môi giới giữa người mua và người bán các loài cây cỏ 
						dược tính. Qua cách làm việc này, cây cỏ từ Ghana, Mã 
						Lai, Thái Lan, Trung Quốc đã có mặt ở Âu châu và Mĩ. 
						Các công ti dược Tây phương rà soát xem cây cỏ nào có 
						thể dùng cho chế biến, và khi cây cỏ có khả năng dược 
						tính, các nước chủ nhà sẽ được tiền phát minh. Nhưng 
						trong số 10 ngàn cây cỏ, chỉ có 1 là có thể trở thành 
						dược phẩm. Vì thế, các công ti này phải tìm cách giảm 
						chi phí. Mặt khác, các nước đang phát triển lo ngại 
						rằng các công ti dược Tây phương sẽ thừa cơ hội mà lùng 
						soát rừng của họ để tìm dược liệu và họ sẽ không còn tài 
						nguyên để hưởng tiền phát minh nữa! 
						 Và lo ngại này cũng có cơ sở. Ở Nigeria, 
						loại đậu bò (cow-pea) có khả năng đề kháng côn trùng. 
						Một viện nghiên cứu Anh nghiên cứu loại đậu này và khám 
						phá một phân tử có khả năng can thiệo vào hệ thống nội 
						tiết của côn trùng. Thế là Viện này cho lập một công ti 
						thương mại, đăng kí bản quyền khám phá. Sau này khi họ 
						tìm thấy một loại đậu bò tương tự ở California, họ bèn 
						đóng cửa công ti ở Nigeria và dùng đậu ở California để 
						sản xuất thuốc.   Các hình thức bảo tồn môi sinh hiện nay có vẻ 
						còn quá gượng ép, nhưng về lâu về dài, chắc chắn sẽ có 
						nhiều chương trình thực tế hơn, bởi vì các nước Tây 
						phương sẽ không đạt được những gì mà họ mong muốn. Diện 
						tích rừng nhiệt đới chắc chắn sẽ giảm theo thời gian, và 
						không còn bao trùm trái đất rộng lớn như trước kia nữa. 
						Du lịch xanh sẽ phát triển, nhưng sẽ không bao giờ đủ để 
						duy trì hệ thống sinh thái như các nước Tây phương mơ 
						tưởng. Và, một khi các công ti dược Tây phương đã tàn 
						trữ đầy đủ cây cỏ dược liệu, và đã hệ thống hóa các tri 
						thức y khoa cổ truyền, họ sẽ không còn nhu cầu phải duy 
						trì rừng nhiệt đới ở các nước đang phát triển. Tìm ra 
						một phương án tối ưu để nâng cao thu nhập, giảm tỉ lệ 
						sinh sản trong thế giới đang phát triển là những điều mà 
						khoa học có thể làm được, ngoại trừ việc hoàn thiện công 
						nghệ tạo sinh vô tính và các công nghệ khác có thể ngăn 
						chận cuộc hủy diệt thứ Bảy trên toàn cầu. 
 Những bài cùng tác giả:  
 
			Bàn về nguồn gốc con người hiện đại (Nguyễn văn Tuấn)Bưởi không gây ung thư vú (Nguyễn văn Tuấn)
 Bảo tồn môi sinh (Nguyễn văn Tuấn)
 Chất béo không ảnh hưởng.. (Nguyễn văn Tuấn)
 Giải Nobel Y học (Nguyễn văn Tuấn)
 Giải Nobel Y học: GS Mario R. Capecchi (Nguyễn văn Tuấn)
 Học vị tiến sĩ và học hàm ở các đại học Úc và Mĩ (Nguyễn văn Tuấn)
 Nhân năm Tý bàn chuyện  (Nguyễn văn Tuấn)
 Những ngộ nhận về học vị tiến sĩ tại VN (Nguyễn Văn Tuấn)
 Quản lí dự án nghiên cứu khoa học (Nguyễn văn Tuấn)
 Vấn đề tác giả một bài báo khoa học (Nguyễn văn Tuấn)
 
 |