Tuần qua, một số báo ở Mĩ và Anh chạy một bản tin đầy tính giật gân “Grapefruit linked to breast cancer” (Bưởi có liên hệ với ung thư vú) và một số báo chí trong nước dịch in lại. Nếu câu chuyện chỉ dừng ở đó thì không có gì phải bàn thêm, nhưng ở đây những bản tin như thế đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng kinh tế của một bộ phận nông dân Việt Nam. Giá bưởi ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 10.000-16.000đ/kg xuống còn chỉ 8.000đ/kg, thậm chí 1000đ/kg. Nhiều nông dân đang điêu đứng với sự giảm giá do thông tin trên. Đây là trường hợp khoa học hại dân. Do đó, cần phải thảo luận nghiêm chỉnh vấn đề. Tôi tin rằng báo chí Tây phương hiểu không đúng dữ liệu khoa học cho nên mới gây nên nhầm lẫn nghiêm trọng. Nói một cách ngắn gọn, tôi cho rằng chưa có nghiên cứu nào chứng minh rằng ăn bưởi là nguyên nhân gây ung thư vú. Xin nhắc lại để nhấn mạnh: chưa có bằng chứng nào cho thấy ăn bưởi có liên hệ đến ung thư vú. Thật ra, ngược lại, nhiều bằng chứng khoa học cho thấy ăn bưởi có lợi ích cho sức khỏe.
Trong các loại trái cây, bưởi là một loại hoa quả có nhiều giá trị y học, vì giàu dung lượng sinh tố C, A, B1 và B2. Một vài nghiên cứu cơ bản cho thấy bưởi có khả năng ức chế lượng cholesterol trong máu và làm giảm lượng đường trong máu. Ngoài ra, vỏ và lá bưởi còn được sử dụng để điều trị ho, đờm trong cuống phổi, nói chung là những ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe. Người viết bài này có thể trình bày hàng chục nghiên cứu liên quan đến tác dụng của bưởi, nhưng vài nghiên cứu mới nhất tưởng cũng có thể làm cơ sở cho các phát biểu trên [1-3].
Tác dụng của bưởi còn nhiều và khó liệt kê hết ra trong bài viết ngắn này, nhưng bao nhiêu đó cũng để thấy bưởi không “có tội” như người ta đang gán ghép cho nó. Tuy nhiên, cũng như bất cứ thực vật nào, bưởi cũng có những phản ứng phụ cần lưu ý. Bởi vì bưởi hàm chứa lượng flavonoid naringin, và hoạt chất này có thể can thiệp vào sự kích hoạt của enzyme CYP3A trong gan (enzyme này được sản sinh bởi cơ thể chúng ta nhằm mục đích phân hóa một số hóa dược, nhất là những loại thuốc điều trị cholesterol và cao huyết áp). Nếu bệnh nhân vừa các uống thuốc này và vừa ăn buởi thì các flavonoid naringin sẽ ngăn chận sự chuyển hóa của thuốc, làm cho thuốc không chuyển hóa được, và hóa dược tồn đọng trong cơ thể, gây độc hại cho chơ thể [4-6].
Tuần qua, một nhóm nhà nghiên cứu thuộc Đại học Nam California và Đại học Hawaii công bố một công trình nghiên cứu, mà trong đó họ kết luận rằng phụ nữ sau mãn kinh ăn bưởi có thể gia tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú (nguyên văn: “Grapefruit intake may increase the risk of breast cancer among postmenopausal women”) [7]. Đáng lẽ họ phải viết cụ thể hơn rằng mối liên hệ (mà họ cho rằng vừa phát hiện đó) chỉ tồn tại ở phụ nữ sống ở Mĩ (cụ thể là bang California và Hawaii), chứ không phải phụ nữ người Á châu hay người Việt Nam.
Từ một nghiên cứu như thế, giới báo chí Tây phương chạy nhiều cái tít giật gân như “Grapefruit may increase your risk of breast cancer” (Bưởi làm tăng nguy cơ ung thư vú), “Grapefruit linked to breast cancer” (Bưởi có liên hệ với ung thư vú), thậm chí “Eating grapefruit can increase breast cancer risk by a third” (Ăn bưởi có thể tăng nguy cơ ung thứ một phần ba), v.v… Những bản tin này gây hoang mang không ít người trong cộng đồng, đến nổi Hội đồng Ung thư Anh phải ra một thông báo để trấn an người dân. Bản thông cáo của Hội đồng Ung thư Anh viết rằng những phát hiện về mối liên hệ giữa bưởi và ung thư vú chưa xác định. Thật ra, theo tôi, phải viết chính xác hơn là: chưa có mối liên hệ giữa bưởi và ung thư vú.
Để hiểu câu phát biểu trên của tôi, cần phải xem qua số liệu mà họ công bố trong bài báo khoa học một cách khách quan và có hệ thống. Trong công trình nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu theo dõi 46.080 phụ nữ sau mãn kinh (tức trên 48 tuổi) trong thời gian 1993 đến tháng 12 năm 2002. Họ thu thập số liệu về thói quen ăn uống của các phụ nữ này lúc ban đầu. Đối với bưởi các nhà nghiên cứu hỏi: “trong vòng 1 năm qua chị ăn uống bao nhiêu bưởi?” Trong thời gian 9 năm sau đó họ liên kết với cơ sở dữ liệu về ung thư của bang California và Hawaii để biết ai trong số này bị ung thư vú. Kết quả cho thấy như sau (Bảng 1):
Bảng 1. Tỉ lệ phát sinh ung thư vú phân theo nhóm ăn bưởi và không ăn bưởi
Thói quen ăn bưởi |
Số trường hợp ung thư vú |
Số đối tượng không ung thư vú |
Tổng số |
Tỉ lệ phát sinh ung thư vú |
Không ăn uống bưởi |
794 |
22409 |
23203 |
3,4% |
Có ăn uống bưởi |
863 |
22014 |
22877 |
3,8% |
Nguồn: xem tài liệu tham khảo số 7.
Như
thấy trong bảng trên, có đến 50% các phụ nữ báo cáo rằng
họ từng ăn bưởi (hay uống nước bưởi) trong vòng 1 năm
qua (tức là năm 1993). Trong số 22.877 phụ nữ từng ăn
uống bưởi, có 863 người bị ung thư vú sau đó, và tỉ lệ
là 3,8%. Trong số 23.203 phụ nữ nói rằng họ không ăn
uống bưởi trong vòng 1 năm qua, có 794 người mắc bệnh
ung thư vú, và tỉ lệ phát sinh là 3,4%. Như vậy, nhóm
ăn bưởi có tỉ lệ ung thư vú cao hơn nhóm không ăn bưởi
là 0,4% (3,8% trừ cho 3,4%). Trong y học, một khác biệt
chỉ có 0,4% không thể xem là có ý nghĩa lâm sàng được.
(Chú ý rằng phần lớn báo chí đều tường thuật rằng ăn
bưởi tăng nguy cơ ung thư vú 30%. Nhưng thông tin này
quá sai, vì như tôi vừa trình bày, mức độ tăng chỉ 0,4%
mà thôi.)
Đó là
phần kết quả. Nhưng kết quả đó có đáng tin cậy hay
không còn là một vấn đề quan trọng khác. Nghiên cứu này
có nhiều vấn đề về phương pháp mà theo tôi có thể làm
cho kết quả rất khó diễn dịch. Ở đây tôi chỉ nói đến 4
vấn đề nổi cộm sau đây:
Thứ
nhất là vấn đề số liệu về ăn uống bưởi. Một câu hỏi rất
đơn giản như vừa trình bày rất khó mà nói là chính xác
được. Nên nhớ rằng các đối tượng tương đối cao tuổi
(tuổi trung bình là 62), vấn đề “hồi tưởng” lại 12 tháng
trước ăn uống bao nhiêu gram bưởi không phải là chuyện
dễ dàng. Vả lại, số liệu về ăn uống bưởi chỉ là một
loại “số liệu cắt ngang” (cross-sectional figure), nó
chỉ cung cấp thông tin tại một thời điểm, chứ không phải
xuyên suốt thời gian theo dõi. Nói cách khác, các nhà
nghiên cứu không biết (và không thể biết) là có bao
nhiêu đối tượng thay đổi thói quen ăn bưởi trong thời
gian từ 1993 đến 2002 (thời gian mà họ theo dõi ai bị
ung thư vú). Có bao nhiêu người không ăn bưởi trong
thời gian 1992 nhưng sau đó lại ăn bưởi, hay có bao
nhiêu người ăn bưởi trong năm 1992 nhưng sau đó không ăn
bưởi hay giảm thói liều lượng ăn bưởi? Không có những
con số này, không thể nói rằng ăn bưởi có liên quan đến
ung thư vú.
Thứ
hai là vấn đề chẩn đoán ung thư vú. Trong công trình
này, các nhà nghiên cứu không trực tiếp chẩn đoán ung
thư vú; họ chỉ dựa vào số liệu hành chính từ các cơ quan
y tế chuyên về ung thư thuộc bang California và Hawaii.
Ai làm nghiên cứu y khoa ở các nước Âu Mĩ đều biết rằng
cơ sở dữ liệu của các cơ quan y tế này nổi tiếng là
không chính xác. Có nhiều trường hợp bệnh nhân mắc ung
thư nhưng không bao giờ báo cáo cho cơ quan y tế biết.
Do đó, không ngạc nhiên khi trong vòng 9 năm mà tỉ lệ
phát sinh ung thư vú chỉ 3,6% (tức trung bình 0,4% mỗi
năm). Cần biết rằng trong độ tuổi này, tỉ lệ phát sinh
ung thư vú thường khoảng 1% mỗi năm, chứ không thể quá
thấp như trong công trình nghiên cứu này.
Chẩn
đoán ung thư vú không đơn giản. Mỗi vú có khoảng 15 đến
20 “khu vực”, gọi là thùy (lobe); mỗi thùy được chia
thành nhiều vùng nhỏ, gọi là tiểu thùy (lobules). Thùy
và tiểu thùy liên kết với nhau bằng những ống dẫn nhỏ
(ducts). Dựa vào cấu trúc này, ung thư vú được phân
thành nhiều loại khác nhau, chủ yếu là: ung thư ống dẫn
sữa có giới hạn (ductal carcinoma in situ hay còn gọi là
DCIS), ung thư ống dẫn sữa lan rộng (invasive ductal
cancer), ung thư miu-xin (mucinous carcinoma, một dạng
bướu ác tính), và ung thư tiểu thùy lan rộng (invasive
lobular carcinoma, một dạng ung thư thường hiện diện
trong hai đầu ống dẫn sữa hay trong các tiểu thùy). Một
số chuyên gia không xem DCIS là ung thư vú. Trong công
trình nghiên cứu này, chúng ta không biết bệnh nhân
thuộc loại ung thư nào. Do đó, số liệu về ung thư vú
rất khó tin được.
Thứ ba
là vấn đề các yếu tố trung gian. Ung thư vú có nhiều
nguyên nhân và nhiều yếu tố nguy cơ. Trong các yếu tố
nguy cơ đã được chứng minh nhiều lần có liên hệ với ung
thư vú là sử dụng thuốc thay thế hormone (HRT), tuổi có
kinh, sắc dân, và hút thuốc lá. Các yếu tố này có thể
tương tác với nhóm người ăn (hay không ăn) bưởi. Thật
ra, trong phân tích mối tương tác giữa HRT và thói quen
ăn bưởi, các nhà nghiên cứu không phát hiện mối liên hệ
có ý nghĩa nào giữa ăn bưởi và ung thư vú trong ba nhóm
phụ nữ chưa bao giờ sử dụng HRT, đã từng sử dụng HRT và
đang sử dụng HRT.
Nhưng
họ không phân tích mối tương tác giữa ăn bưởi và tuổi có
kinh lần đầu hay sắc tộc. Nếu những người ăn bưởi cũng
chính là những người có kinh sớm hay là những người
thuộc sắc tộc gốc Á châu, thì kết quả mà các nhà nghiên
cứu thu thập được không phản ảnh ảnh hưởng của bưởi mà
chính là của các yếu tố lâm sàng và nhân trắc vừa kể.
Rất tiếc là các nhà nghiên cứu không tìm cách phân tích
vấn đề này cho có hệ thống. Ngay cả phương pháp phân
tích thống kê của họ quá đơn giản và không thích hợp cho
một vấn đề phức tạp.
Thứ tư là vấn đề thống kê và xác suất. Trong
nghiên cứu khoa học, cứ mỗi lần nhà nghiên cứu kiểm định
một giả thuyết họ phải chấp nhận một sai lầm 5%, và đúng
là 95%. Trong trường hợp của nghiên cứu bưởi, điều này
có nghĩa là nếu bưởi thật sự không có liên hệ gì với ung
thư thì xác suất mà phương pháp kiểm định thống kê cho
ra kết quả có ý nghĩa (significant) là 5%, hay nói theo
ngôn ngữ chẩn đoán đó là tỉ lệ dương tính giả 5%. Nếu
nhà khoa học kiểm định 2 giả thuyết thì xác suất mà họ
sẽ “phát hiện” một giả thuyết có ý nghĩa thống kê là (1
– 0,95 x 0,95) = 0,0975 (gần 10%). Nhưng trong nghiên
cứu này, các nhà nghiên cứu kiểm định đến 30 giả thuyết
liên quan đến bưởi, do đó xác suất mà họ phát hiện một
mối liên hệ có ý nghĩa thống kê là (1 – 0.9530) =
0.785. Nói cách khác, trong 30 lần kiểm định giả
thuyết, xác suất mà họ có thể phát hiện ít nhất là một
mối liên hệ [hoàn toàn ngẫu nhiên chứ chẳng phải sinh
học gì cả] là 78,5.
Để khắc phục tình trạng so sánh đa giả
thuyết này (multiple comparisons), các nhà thống kê đề
nghị lấy một chuẩn mực thấp hơn 5% để tuyên bố “có ý
nghĩa thống kê”. Chuẩn mực này tùy thuộc vào số lần
kiểm định giả thuyết. Trong trường hợp nghiên cứu này,
trị số P để nhà nghiên cứu có quyền phát biểu có ý nghĩa
thống kê là 0,05 / 30 = 0,0017 (chứ không phải 0,05).
Tức là một mối liên hệ trong nghiên cứu phải có trị số P
thấp hơn 0,0017 thì nhà nghiên cứu mới có thể phát biểu
về ý nghĩa thống kê. Nhưng điểm qua hai bảng số liệu 2
và 3 trong bài báo, tôi không thấy bất cứ phân tích và
so sánh nào đạt được chuẩn mực này (<0,0017) cả. Điều
này rất quan trọng, vì nó cho chúng ta biết tất cả các
mối liên hệ hay so sánh mà nhà nghiên cứu trình bày
trong bài báo đều không có ý nghĩa thống kê. Nói cụ thể
hơn, không có bằng chứng thống kê nào cho thấy bưởi có
liên hệ đến ung thư vú.
Sau
cùng, một điều quan trọng cần phải nhấn mạnh ở đây là
nghiên cứu này không cho phép bất cứ ai phát biểu gì về
mối liên hệ nhân quả giữa bưởi và ung thư vú. Bởi vì
đây là một công trình khoa học theo mô hình nghiên cứu
quan sát (observational study) chứ không phải nghiên cứu
lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized clinical
trial), cho nên kết quả chỉ có giá trị khoa học trung
bình và chỉ gợi ý, chứ không thể nói bưởi là nguyên nhân
gây ung thư vú. Ngoài ra, như tôi vừa trình bày những
vấn đề về phương pháp rất nghiêm trọng không thể kết
luận gì về kết quả này.
Nói về những sai lầm của các nghiên cứu quan
sát, tưởng cần nhắc lại một sai lầm mang tính kinh điển
trong y khoa: đó là công trình nghiên cứu của Cameron và
Pauling (Tiến sĩ Linus Pauling là người từng chiếm giải
Nobel hóa học năm 1954 và giải Nobel hòa bình năm 1962
do chống lại vụ thử nghiệm vũ khí nguyên tử]. Năm 1976,
Cameron và Pauling công bố một nghiên cứu về mối vitamin
C và ung thư, mà theo đó họ kết luận rằng bổ sung
vitamin C cho các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối có
thể kéo dài thời gian sống đến 4 lần so với nhóm không
dùng vitamin C [8]. Nhưng sau đó, một công trình nghiên
cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (một mô hình nghiên
cứu mang tính tiêu chuẩn vàng trong y khoa) ở Mayo
Clinic hoàn toàn bác bỏ kết quả của Cameron và Pauling:
bổ sung vitamin C không kéo dài thời gian sống các bệnh
nhân ung thư giai đoạn cuối [9]. Tại sao Cameron và
Pauling sai lầm nghiêm trọng như thế? Câu trả lời là họ
dựa vào mô hình nghiên cứu quan sát và dù cẩn thận trong
việc chọn nhóm, nhưng họ không chọn một cách ngẫu nhiên
để quân bình các yếu tố trung gian. Đây là một sai lầm
thuộc vào loại kinh điển trong nghiên cứu y khoa thường
được đem ra làm ví dụ cho sinh viên.
Nói
tóm lại, các vấn đề trên đây cho thấy kết quả của công
trình nghiên cứu này không có giá trị khoa học cao, và
cũng không đáng tin cậy. Nếu kết quả của công trình
nghiên cứu này gợi một ý nào đó, thì tôi cho rằng ý đó
là ăn bưởi không có liên hệ gì với ung thư vú.
Cần nói thêm rằng một nghiên cứu khác do các
nhà khoa học thuộc Đại học Chicago (công bố chỉ 1 tuần
sau nghiên cứu của Đại học Nam California) cho thấy bưởi
có tác dụng phòng chống ung thư. Trong nghiên cứu này,
các bác sĩ cho biết các bệnh nhân dùng thuốc lapatinib
(một loại thuốc dùng điều trị ung thư vú) cùng với bưởi
có lợi ích gấp 5 lần so với bệnh nhân chỉ dùng thuốc.
Họ giải thích rằng nước bưởi có tác dụng gia tăng chuyển
hóa thuốc trong cơ thể. Năm 1997, một nhóm khoa học
thuộc Đại học Western Ontario (Canada) công bố kết quả
cho thấy nước cam và nước bưởi có khả năng ức chế sự
tăng trưởng của các tế bào ung thư vú và giảm LDL
cholesterol (tức loại cholesterol xấu) trong máu
[10-11]. Các nhà nghiên cứu tin tưởng rằng “vũ khí”
phòng chống ung thư vú nằm trong tầm tay của chúng ta:
trái bưởi và cam!
Để nhắc lại và nhấn mạnh một lần nữa: bưởi
không gây ung thư vú. Ngược lại, nếu ăn bưởi điều độ và
tránh can thiệp với thuốc, bưởi có lợi cho sức khỏe.
Viết
thêm:
[1]
Viết xong bài này, tôi được biết Thủ tướng Chính phủ vừa
yêu “cầu làm rõ và xử lý nghiêm cơ quan báo chí, ban
biên tập và phóng viên đã viết, đăng thông tin sai sự
thật nêu trên, báo cáo Thủ tướng trước ngày 15-9”. Tôi e
rằng giới báo chí và phóng viên trong nước hoàn là nạn
nhân của những bản tin báo chí Tây phương mà họ dịch và
đăng, chứ họ không phải là thủ phạm trong việc này.
[2]
Tôi thấy một vài đồng nghiệp trong nước phát biểu rằng
bưởi mà họ nghiên cứu không liên quan gì đến bưởi Việt
Nam, vì bưởi Việt Nam là trái lớn (pomelo), thuộc nhóm
trái cây có tên khoa học là citrus maxima. Tôi e rằng
điều này không chính xác, vì trong nghiên cứu mà tôi đề
cập, các nhà nghiên cứu xem xét cả hai loại bưởi lớn và
bưởi nhỏ (grapefruit, thuộc nhóm citrus paradisi).
[3] Để
phản nghiệm kết quả của nghiên cứu bên Mĩ, có thể thực
hiện một nghiên cứu đơn giản, không tốn kém gì nhiều.
Bạn nào có ý định này có thể liên lạc tôi để biết thêm
chi tiết.
Email của tôi là
t.nguyen@garvan.org.au.
Tài liệu
tham khảo:
[1]
Gorinstein S, Caspi A, Libman I, Lerner HT, Huang D,
Leontowicz H, Leontowicz M, Tashma Z, Katrich E, Feng S,
Trakhtenberg S. Red grapefruit positively influences
serum triglyceride level in patients suffering from
coronary atherosclerosis: studies in vitro and in
humans. J Agric Food Chem. 2006 Mar 8;54(5):1887-92
[2]
Reshef N, Hayari Y, Goren C, Boaz M, Madar Z, Knobler H.
Antihypertensive effect of sweetie fruit in patients
with stage I hypertension. Am J Hypertens. 2005
Oct;18(10):1360-3.
[3]
Folts JD. Potential health benefits from the flavonoids
in grape products on vascular disease. Adv Exp Med Biol.
2002;505:95-111.
[4] de
Castro WV, Mertens-Talcott S, Derendorf H, Butterweck V.
Grapefruit juice-drug interactions: Grapefruit juice and
its components inhibit P-glycoprotein (ABCB1) mediated
transport of talinolol in Caco-2 cells. J Pharm Sci.
2007 May 31;96(10):2808-2817
[5]
Bressler R. Grapefruit juice and drug interactions.
Exploring mechanisms of this interaction and potential
toxicity for certain drugs. Geriatrics. 2006
Nov;61(11):12-8.
[6]
Mertens-Talcott SU, Zadezensky I, De Castro WV,
Derendorf H, Butterweck V. Grapefruit-drug interactions:
can interactions with drugs be avoided? J Clin
Pharmacol. 2006 Dec;46(12):1390-416.
[7]
Monroe KR, Murphy SP, Kolonel LN, Pike MC. Prospective
study of grapefruit intake and risk of breast cancer in
postmenopausal women: the Multiethnic Cohort Study. Br J
Cancer. 2007 Jul 31;97(3):440-5. Epub 2007 Jul 10.
[8]
Cameron E, Pauling L. Supplemental ascorbate in the
supportive treatment of cancer: Prolongation of survival
times in terminal human cancer. Proc Natl Acad Sci U S
A. 1976 Oct;73(10):3685-9.
[9]
Moertel CG, Fleming TR, Creagan ET, Rubin J, O'Connell
MJ, Ames MM. High-dose vitamin C versus placebo in the
treatment of patients with advanced cancer who have had
no prior chemotherapy. A randomized double-blind
comparison. N Engl J Med. 1985 Jan 17;312(3):137-41.
[10]
So FV, Guthrie N, Chambers AF, Moussa M, Carroll KK.
Inhibition of human breast cancer cell proliferation and
delay of mammary tumorigenesis by flavonoids and citrus
juices. Nutr Cancer. 1996;26(2):167-81.
[11]
Guthrie N, Carroll KK. Inhibition of mammary cancer by
citrus flavonoids. Adv Exp Med Biol. 1998;439:227-36.
Những bài cùng tác giả:
Bàn về nguồn gốc con người hiện đại (Nguyễn văn Tuấn) Bưởi không gây ung thư vú (Nguyễn văn Tuấn) Bảo tồn môi sinh (Nguyễn văn Tuấn) Chất béo không ảnh hưởng.. (Nguyễn văn Tuấn) Giải Nobel Y học (Nguyễn văn Tuấn) Giải Nobel Y học: GS Mario R. Capecchi (Nguyễn văn Tuấn) Học vị tiến sĩ và học hàm ở các đại học Úc và Mĩ (Nguyễn văn Tuấn) Nhân năm Tý bàn chuyện (Nguyễn văn Tuấn) Những ngộ nhận về học vị tiến sĩ tại VN (Nguyễn Văn Tuấn) Quản lí dự án nghiên cứu khoa học (Nguyễn văn Tuấn) Vấn đề tác giả một bài báo khoa học (Nguyễn văn Tuấn)
|