| 
  
						Phần 1   
  
						Đối với sinh viên và giới khoa bảng, bằng 
						cấp đại học hay học vị vừa là cứu cánh vừa là phương 
						tiện.  Là sinh viên đang miệt mài trong các trường đại 
						học hay cao đẳng, mục tiêu và cũng là ước mơ thực tế 
						nhất là được tốt nghiệp, được cấp mảnh giấy có ghi tên 
						mình kèm theo một cụm từ phản ánh tầm cỡ học lực mà mình 
						mới hoàn tất.  Vì thế, bằng cấp là một phần thưởng cho 
						sự học tập, một bằng chứng về khả năng chuyên môn.  
		 
						Bằng cấp, đặc biệt là ở bậc đại học, rất phức 
						tạp và ... phong phú.  Chỉ riêng ở Mĩ, các đại học Mĩ 
						hàng năm cấp hơn 3000 loại bằng cấp khác nhau!  Hàng 
						năm, Mĩ cấp khoảng 1,14 triệu học vị cử nhân, 420 ngàn 
						thạc sĩ và 18 ngàn tiến sĩ.  Với một số lượng bằng cấp 
						khổng lồ và đa dạng như thế, chẳng trách nhiều người 
						trong chúng ta rất dễ bị nhầm lẫn về tên gọi của chúng.  
						Cộng thêm vào đó là những quảng cáo của nhiều người trên 
						các phương tiện đại chúng báo chí Việt ngữ, hoặc vô tình 
						hoặc cố ý, làm cho học vị tiến sĩ chẳng khác gì một loại 
						học vị vàng thau lẫn lộn.   
						Bài viết này sẽ trình bày một cách khái quát hệ thống 
						bằng cấp và chức vụ khoa bảng ở một vài nước Tây phương 
						mà người viết đã có kinh nghiệm làm việc thực tế hay có 
						tìm hiểu, với hi vọng là sẽ làm, hay góp phần làm, sáng 
						tỏ được vài thắc mắc thầm kín mà tôi tin là nhiều sinh 
						viên và học sinh đã và đang có.  Cố nhiên, vì tôi được 
						đào tạo hay làm việc khoa học trong hệ thống giáo dục Úc 
						và Mĩ, những bằng cấp của các nước này sẽ được bàn kĩ 
						hơn những bằng cấp ở các nước khác.  Qua bài viết này, 
						tôi hi vọng bạn đọc sẽ bổ sung thêm hệ thống bằng cấp ở 
						các nước Âu châu cho hoàn chỉnh và đầy đủ hơn.  
						  
 Ngược dòng lịch sử  
						Có thể nói phần lớn hệ thống tổ chức giáo dục đại 
						học và hệ thống học vị đại học trên thế giới ngày nay 
						được hình thành theo mô hình giáo dục đại học của bốn 
						nước Đức, Pháp, Anh, và Mĩ.  Các nước này có ảnh hưởng 
						lớn đến nền giáo dục hiện đại ở các nước khác trên thế 
						giới, kể cả Việt Nam, hoặc qua các chính phủ thuộc địa, 
						chinh phục bằng quân sự và kinh tế, hoặc qua truyền 
						giáo. 
						  Học vị tiến sĩ xuất phát từ hai trường Đại học 
						Paris ở Pháp (thành lập vào năm 1170) và Đại học Bologna 
						ở Ý (thành lập vào khoảng 1158), lúc đó hai trung tâm 
						giáo dục hàng đầu ở Âu châu.  Theo bộ luật La Mã (Roman 
						Law), vào thời Trung cổ, mỗi ngành nghề có quyền thành 
						lập một hiệp hội gọi là Collegium, và hiệp hội 
						này bầu ra những người có danh hiệu là Magistrates (tạm 
						dịch là Thầy).  Vào thời kì này, người được nhận 
						vào làm công việc phụ giảng được gọi là Bachalari.  
						Vào cuối thế kỷ 13, Đại học Paris thay đổi học vị này 
						thành Baccalauréat.  Lúc bấy giờ, học vị 
						Baccalaureate hay Bachelor là học vị duy nhất 
						được cấp cho những thí sinh đã (i) thi đỗ một khóa thi 
						do các các Thầy đặt ra; và (ii) đã hoàn tất một 
						chương trình học 4 năm về ngữ pháp (grammar), tu từ học 
						(rhetoric) và lôgíc học.  Sau khi hoàn tất văn bằng 
						Bachelor, thí sinh có thể theo học tiếp chương trình
						Master hay Doctor.  Và sau khi đã xong 
						chương trình học Master hay Doctor (khoảng 
						8 năm học), một hội đồng giám khảo sẽ duyệt xét thí sinh 
						để kết nạp vào tổ chức được gọi là Universitas of 
						Doctors (1).  Thành viên của tổ chức này cũng là một 
						"chứng chỉ" được hành nghề giảng dạy đại học. 
						 Lúc bấy giờ, những chức danh như Master, 
						Doctor và Professor có cùng nghĩa và tương 
						đương về giai cấp: hành nghề dạy học.  Vào thế kỷ 13, 
						những người dạy học tại Trường Đại học Bologna, lúc đó 
						là trung tâm về luật pháp ở Âu châu, được gọi là 
						Doctor.  Trong khi đó, ở Đại học Paris, là trung tâm 
						về văn học nghệ thuật, những người dạy học được gọi là
						Master.  Do đó, các nhà khoa bảng thuộc các bộ 
						môn văn hóa nghệ thuật thường được gọi là Master of 
						Arts (M.A), trong khi các đồng nghiệp của họ trong 
						các bộ môn triết lí, thần học, y học, và luật được gọi 
						là Doctor of Philosophy (Ph.D).    
						Vào cùng thời, Anh quốc thành lập hai đại học 
						Oxford (thành lập vào khoảng 1249) và Cambridge (thành 
						lập vào khoảng 1209).  Tuy mô phỏng theo hệ thống tổ 
						chức của đại học Paris, hai trường này xem học vị 
						Doctor cao hơn Master.   
						Ở Mĩ, Đại học Harvard được thành lập vào năm 1636, 
						với cơ cấu tổ chức được mô phỏng hoàn toàn theo hệ thống 
						đại học ở Anh và Đức.  Lúc đó, văn bằng Baccalaureate
						là văn bằng duy nhất được cấp cho sinh viên tốt 
						nghiệp.  Sau đó vài năm, văn bằng Bachelor of Arts
						(B.A) được cấp cho những sinh viên đã hoàn tất 4 năm 
						học và qua một kì thi tốt nghiệp.  Năm 1851, Đại học 
						Harvard cho mở thêm chương trình học Bachelor of 
						Science (B.S).  Một năm sau đó (1852), Đại học Yale 
						cho ra đời chương trình học 3 năm dẫn đến học vị 
						Bachelor of Philosophy (B. Phil).  Đầu thế kỷ 19, bốn sinh viên của Mĩ là Edward 
						Everett, George Ticknor, George Bancroft và Joseph Green 
						Cogswell được cử sang học tại trường Đại học Gottingen 
						(Đức), và sau khi trở về Mĩ họ trở thành giáo sư tại Đại 
						học Harvard.  Bốn người này đã có nhiều ảnh hưởng lớn 
						trong việc hình thành một hệ thống giáo dục sau đại học 
						tại Mĩ (và Everett sau này được bổ nhiệm làm hiệu trưởng 
						Đại học Harvard).  Năm 1853, Đại học Michigan ra đời, 
						với cơ cấu tổ chức theo mô hình của Đức, đã quyết định 
						đưa vào chương trình Master of Arts (M.A).  Sau 
						đó 7 năm, Đại học Yale (thành lập năm 1701) bắt đầu cấp 
						học vị Doctor of Philosophy.  Nhưng hệ thống sau 
						đại học thực sự mang tính “Mĩ” chỉ khởi đầu khi hai Đại 
						học John Hopkins (thành lập vào năm 1876) và Chicago 
						(thành lập vào năm 1890), với chủ trương chỉ dạy chương 
						trình sau đại học.   
						  Ngày nay, ở nước ta sau một thời gian thảo 
						luận, học vị Ph.D được dịch là tiến sĩ và học vị 
						Masters là thạc sĩ.  Tuy cách dịch này đôi khi 
						cũng gây ra tranh cãi và nhầm lẫn, nhưng theo thời gian, 
						có lẽ nhiều người đã chấp nhận với cách gọi hai học vị 
						đó.  
						   
						Hệ thống bằng cấp đại học  
						 Nói một cách khái quát, sau 5 năm ở bậc tiểu 
						học và 7 năm ở bậc trung học, học sinh có khả năng hay 
						thích theo đuổi tiếp sự nghiệp học hành có thể ghi danh 
						hay thi vào các trường cao đẳng hay đại học để học 
						thêm.  Dù có sự khác biệt về quy mô, tổ chức, quy định, 
						và tiêu chuẩn giữa các quốc gia, nhưng nói chung hệ 
						thống giáo dục cao đẳng và đại học có thể chia làm ba 
						hình thức chính mà tôi tạm đặt tên là: cao đẳng, đại 
						học, và sau đại học.   
						  Ở bậc "cao đẳng" (có khi được dịch là
						đại học cộng đồng) gồm các trường và cơ sở có 
						chương trình huấn luyện thực tiễn, nhắm vào mục đích đào 
						tạo thợ hay cán sự có tay nghề cao, hay chuyên viên kĩ 
						thuật lành nghề.  Các chương trình này thường kéo dài 
						trong vòng 2 tới 3 năm.  Chương trình dạy học ở các 
						trường này đã bị nhiều nhà giáo dục chỉ trích gay gắt là 
						quá thực tế và thiếu tiêu chuẩn khoa bảng.  Tuy vậy, các 
						trường này cũng được sự ủng hộ của nhiều người vì nó đem 
						lại cơ hội cho những học sinh không đủ điều kiện hay khả 
						năng hay theo đuổi các chương trình ở bậc đại học.  Hệ 
						thống giáo dục cao đẳng của Mĩ đã được một số nước như 
						Úc, Gia Nã Đại, Nhật và Phi Luật Tân mô phỏng theo.  Ở 
						Mĩ, các trường đảm nhận các chương trình huấn luyện hệ 
						cao đẳng thường được gọi là "Community College" (hay còn 
						được gọi là "Junior College") (2), và ở Úc, các trường 
						này thường được gọi là "Technical College".   
						  Cao hơn hệ cao đẳng là hệ thống giáo dục 
						đại học (Undergraduate university education) nhằm 
						mục tiêu đào tạo các chuyên viên có trình độ lí thuyết 
						căn bản tương đối cao trong mọi lĩnh vực như  công nghệ 
						- kĩ thuật, y khoa, kinh tế, luật, nghệ thật, v.v.  Tùy 
						theo môn học, để theo học các chương trình này, học sinh 
						thường phải tiêu ra từ 3 đến 6 năm.   
						  Sau cùng là chương trình giáo dục sau đại 
						học nhắm vào mục tiêu đào tạo những nhà khoa học và 
						kĩ thuật có trình độ chuyên môn vừa chuyên sâu vừa cao, 
						và những giáo sư, những nhà nghiên cứu tương lai cho các 
						trường đại học hay cơ sở nghiên cứu.  Trong các chương 
						trình sau đại học này, học sinh phải vừa học tập, vừa 
						nghiên cứu từ  2 năm đến 10 năm, tùy theo ngành nghề 
						chuyên môn.   
						  Ở đây cũng cần đề cập đến vấn đề tên gọi của 
						các trung tâm đào tạo.  Phần đông các trung tâm huấn 
						luyện bậc đại học và sau đại học thường có tên 
						University (đại học).  Tuy nhiên, một số trường danh 
						tiếng, do truyền thống và di sản lịch sử để lại, vẫn duy 
						trì những tên gọi cũ như College (chẳng hạn như
						Darmouth College, Mĩ), Institute (như 
						Massachusetts Institute of Technology, Mĩ), hay thậm 
						chí School (như London School of Economics, 
						Anh).    
						  Vấn đề tên gọi trở nên khá rắc rối khi chữ 
						 College được dùng để gọi một phân khoa trong đại 
						học và thậm chí một trường trung học.  Thật vậy, trong 
						một số (không nhỏ) các trường đại học ở Mĩ, Anh và Úc, 
						một số phân khoa được gọi là College (thay vì 
						Faculty).  Các trường đại học lớn và lâu đời như 
						Oxford và Cambridge (Anh) có nhiều trường Colleges 
						như là những phân khoa chuyên môn trong hệ thống tổ chức 
						nội bộ.  Ở Anh, một số trường tuy đào tạo chương trình 
						đại học, nhưng không có quyền cấp bằng, được gọi là 
						"University College" (2).   
						  Ở Anh và Úc, một số trường trung học tư thục 
						(như Eton và Winchester) cũng có tên là College!  
						Điều này đã gây ra một hiểu lầm sự khác biệt giữa 
						College là một trường trung học và College là một trường 
						đại học trên mặt báo gần đây ở trong nước (3).   
						  Càng phức tạp hơn, khi chữ College còn 
						dùng để chỉ một số hội đoàn chuyên môn (phần lớn là y 
						khoa), như College of Surgeons, College of 
						Radiologists, College of Physicians, v.v...  
						Tuy các hội đoàn này không chính thức cấp văn bằng, 
						nhưng là những tổ chức đào tạo và chứng nhận trình độ kĩ 
						năng nghề nghiệp.  Những đoàn thể này hoàn toàn độc lập 
						với các trường đại học, nhưng thí sinh muốn trở thành 
						thành viên của các trường này đều phải trải qua một kì 
						thi tuyển rất khó khăn và có tính cạnh tranh rất cao. Hệ thống bằng cấp bậc cao đẳng và đại học Ở mỗi bậc cao đẳng, đại học và sau đại học, có 
						nhiều bằng cấp khác nhau được cấp cho các học sinh tốt 
						nghiệp hay đã đạt được một số tiêu chuẩn được đề ra 
						trong một số ngành nghề.  Ở hệ thống cao đẳng 
						("Community College"), sau hai năm học và đủ điểm tốt 
						nghiệp, học sinh được cấp văn bằng Associate (4), 
						như Associate in Arts, Associate in Applied 
						Science, Associate in Business Adminstration, 
						v.v...  
						Ở hệ thống đại học, văn bằng Bachelor (tức Cử 
						nhân) thường được cấp cho học sinh sau khi đã hoàn 
						tất chương trình học.  Hai bằng Bachelor of Arts 
						(B.A.) và Bachelor of Science (B.S. ở Mĩ hay 
						B.Sc. ở Anh và Úc) vẫn là hai bằng cấp thông dụng nhất 
						(5).  Ngoài hai văn bằng chung này ra, còn có nhiều văn 
						bằng với những tên rất cụ thể như Bachelor of 
						Engineering (Cử nhân Kĩ thuật), Bachelor of 
						Architecture (Cử nhân Kiến trúc), Bachelor of 
						Medicine (Cử nhân Y khoa), Bachelor of Nursing
						(Cử nhân Điều dưỡng), Bachelor of Economics 
						(Cử nhân Kinh tế), Bachelor of Jurisprudence (Cử 
						nhân Luật học), v.v…  Ngày nay, với đà tiến bộ về khoa 
						học và kĩ thuật trong thời gian gần đây, đã có hơn 600 
						loại bằng cử nhân trong các môn học khác nhau được cấp 
						bởi các trường đại học ở Mĩ! 
						Hệ thống bằng cấp bậc sau đại học 
						Ở hệ thống cao đẳng và đại học, hệ thống văn bằng khá 
						đơn giản, nhưng ở bậc hậu đại học thì hệ thống văn bằng 
						rất phức tạp và có sự khác nhau giữa các quốc gia, không 
						những về tên gọi, danh xưng, mà còn ở tiêu chuẩn và 
						phương cách đào tạo.  
						•  Graduate Diploma  
						  Đây là một loại văn bằng chỉ phổ biến ở các 
						đại học Anh và Úc hay một số nước còn chịu ảnh hưởng hệ 
						thống giáo dục của Anh.  Như tên gọi của văn bằng ám chỉ 
						(Diploma có gốc Hy Lạp, Diplous, có nghĩa 
						là "gấp đôi"), Graduate Diploma (6) là một văn 
						bằng học thêm.  Thực vậy, Graduate Diploma thường dành 
						cho (i) những người muốn theo học các môn học mà không 
						cùng môn học ở bậc cử nhân mà họ đã có (chẳng hạn như 
						sinh viên đã có bằng cử nhân về toán, nhưng muốn theo 
						học hậu đại học nghành quản lí); và (ii) những người 
						không đủ khả năng hay điều kiện học bậc Master.  
						Thời gian học Graduate Diploma thường từ 1 tới 2 năm.  
						Sinh viên không cần làm luận án tốt nghiệp.  Ngày nay, 
						với sự cạnh tranh giữa các trường đại học càng ngày càng 
						gay gắt, số lượng sinh viên theo học Graduate Diploma ít 
						đi dần, vì phần đông họ tìm cách học chương trình 
						Master.  Thật ra, khoảng phân nửa các môn học của chương 
						trình Graduate Diploma là nằm trong chương trình học 
						Master. 
						 
						•  Master – thạc sĩ   
						  Danh từ Master  có gốc từ tiếng Anh cổ,
						Maegester; và chữ này tự nó được vay mượn từ 
						tiếng Pháp cổ, Maistre,  có nghĩa là Thầy.  
						Cũng như ở bậc cử nhân, hai văn bằng Master of 
						Science (M.Sc. hay M.S.) và Master of Arts 
						(M.A.) là hai văn bằng thông dụng nhất ở bậc hậu đại 
						học.  Tuy nhiên cũng có những văn bằng chuyên môn cho 
						các ngành chuyên môn khác như kinh tế (Master of 
						Economics), luật (Master of Law), kĩ thuật (Master 
						of Engineering), v.v...  Riêng tại Mĩ, có khoảng 500 
						văn bằng Masters khác nhau!  Theo thống kê ở Mĩ, vào đầu 
						thế kỷ 20, các trường đại học Mĩ đã cấp 1015 văn bằng 
						master; cho đến năm 1960, con số này tăng lên khoảng 141 
						ngàn, và đến năm 1998, khoảng 420 ngàn.    
						  Chương trình học Master, cũng giống như chương 
						trình Graduate Diploma, là nhằm vào mục tiêu đào tạo 
						những chuyên viên kĩ thuật cho các cơ quan chính phủ và 
						công ti kĩ nghệ.  Sau khi tốt nghiệp, những người này 
						phải có một khả năng chuyên môn vừa sâu, vừa vững vàng, 
						có thể đáp ứng cho nhu cầu thực tế của một cơ quan hay 
						công ti.  Chương trình Master thường dành cho những sinh 
						viên đã có bằng cử nhân cùng nghành.  Tuy nhiên, tùy 
						theo trường hợp cá nhân và kinh nghiệm, các sinh viên 
						cũng có thể theo học các nghành chuyên môn khác với văn 
						bằng căn bản cử nhân mà họ đã có.  Ngày nay, sinh viên 
						trong các nghành khoa học thuần túy cũng có thể được 
						nhận vào học bên các nghành kinh tế hay xã hội học.  
						Chương trình Master thường kéo dài từ 1 tới 2 năm.  
						Nhưng cũng có trường dạy M.B.A. (Master of Business 
						Administration) trong vòng 1 năm, với một chương 
						trình học rất nặng và đòi hỏi sinh viên phải học ngày 
						học đêm. 
						 						•  Doctorate – tiến sĩ   
						  Chương trình học Doctorate (7) là nhằm mục 
						đích đào tạo những nhà khoa học chuyên nghiệp 
						(professional scientists), những chuyên viên nghiên cứu 
						cao cấp cho các công ti kĩ nghệ và các cơ quan nghiên 
						cứu thuộc chính phủ.  Những người này đóng vai trò then 
						chốt cho nền khoa học của một nước và là nguồn cung cấp 
						nhân lực giảng dạy cho các trường đại học.  Thời gian 
						học (thật ra nghiên cứu thì đúng hơn) thông thường từ 3 
						tới 6 năm.  Trong thời gian nghiên cứu, sinh viên phải 
						công bố ít nhất là 3 bài báo khoa học trên các tạp chí 
						có peer-review (tức hệ thống bình duyệt) để có 
						thể viết và bảo vệ luận án.  Luận án thường được 3 giáo 
						sư hay nhà khoa học có uy tín (trong đó ít nhất là 1 
						người phải từ nước ngoài) duyệt xét và phê chuẩn.  Thời 
						gian duyệt xét luận án có thể từ 6 tháng tới 1 năm. 
						 
						Nói chung ở các nước Tây phương như Mĩ, Canada, Úc, và 
						Anh quốc, văn bằng tiến sĩ là văn bằng cao nhất trong hệ 
						thống giáo dục hậu đại học.  Tuy nhiên, có vài khác biệt 
						về tên gọi các văn bằng doctorate này giữa các nước, và 
						nếu không để ý, sẽ gây ra những hiểu lầm đáng tiếc.  
						Ở các nước như Anh và Úc, có ba dạng tiến sĩ riêng biệt: 
						Ph.D  cho tất cả các nghành (kể cả y khoa), M.D (Doctor 
						of Medicine) dành riêng cho y khoa, và D.Sc (Doctor of 
						Science) cho tất cả các ngành khoa học.  Ở các nước này, 
						học vị D.Sc, trên lí thuyết, được xem cao hơn học vị 
						Ph.D và M.D, vì một trong những điều kiện được theo học 
						D.Sc là thí sinh phải có học vị Ph.D hay M.D ít nhất là 
						10 năm và đã có đóng góp lớn trong nghiên cứu khoa học 
						trên trường quốc tế.    
						  Không nên nhầm lẫn giữa văn bằng D.Sc của 
						Úc/Anh và của Mĩ.  Ở Mĩ, văn bằng cao nhất là Ph.D hay 
						tương đương.  Những văn bằng tương đương Ph.D ở Mĩ 
						thường gặp là D.Sc (còn được viết tắt là Sc.D), Ed.D. 
						(Doctor of Education, Tiến sĩ Giáo dục), Dr.P.H (Doctor 
						of Public Health, Tiến sĩ Y tế Công cộng), Dr.Eng 
						(Doctor of Engineering, Tiến sĩ Kĩ thuật).  Một số 
						trường, chẳng hạn như Trường Đại học Harvard, học vị 
						doctorate của nghành Y tế Công cộng (Public Health) là 
						D.Sc., trong khi đó ở các trường khác lại gọi là Dr.P.H 
						hay Ph.D.  Tương tự, ở Trường Đại học Boston, những học 
						sinh tốt nghiệp doctorate ngành sư phạm được gọi là 
						Ed.D., nhưng phần lớn ở các trường khác thì lại được gọi 
						là Ph.D.  Văn bằng Ph.D. cũng được cấp cho các học sinh 
						trong các ngành kĩ thuật, nhưng có trường ở Mĩ lại gọi 
						là Dr.Eng!  Vì thế văn bằng D.Sc của Mĩ không tương 
						đương với bằng D.Sc của Úc hay Anh Quốc.  
												
						•  Tiến sĩ và Bác sĩ  Tiếng Việt ta phân biệt Tiến sĩ và Bác sĩ; nhưng trong 
						tiếng Anh, những người có học vị Ph.D, D.Sc và M.D đều 
						được gọi là Doctor.  Tuy nhiên, có sự khác biệt 
						giữa văn bằng M.D của Úc/Anh và M.D của Mĩ.  Không giống 
						như ở Mĩ, nơi mà y khoa được dạy như một chương trình 
						sau đại học ("Graduate study", tức sau khi sinh viên đã 
						xong chương trình Cử nhân); ở Úc và Anh, các sinh viên 
						học y khoa được tuyển thẳng từ các trường trung học, và 
						do đó, chương trình y khoa được xem là bậc đại học 
						("Undergraduate"), mặc dù thời gian huấn luyện tương 
						đương.  Trong khi các sinh viên y khoa ở Mĩ ra trường 
						với văn bằng M.D (Doctor of Medicine, Tiến sĩ Y khoa), 
						các đồng nghiệp của họ ở Úc tốt nghiệp với hai bằng cử 
						nhân M.B và B.S (Bachelor of Medicine và Bachelor of 
						Surgery, Cử nhân Y khoa và Cử nhân Giải phẫu).  Cần được 
						nói thêm là mặc dù văn bằng là cử nhân, nhưng danh xưng 
						của họ là Doctor (Bác sĩ).   
						  Ở Úc, các bác sĩ đã có văn bằng M.B và B.S có 
						thể ghi danh theo học tiếp chương trình Ph.D hay M.D.  
						Chương trình Ph.D có mục đích đào tạo các bác sĩ thành 
						những nhà khoa học chuyên nghiệp, có khả năng nghiên cứu 
						độc lập.  Chương trình M.D có mục đích đào tạo các bác 
						sĩ thành những chuyên gia lâm sàng (clinical science) 
						hơn là khoa học cơ bản (basic science).  Chương trình 
						học M.D thông thường là 2 cho tới 3 năm (ngắn hạn hơn 
						thời gian học Ph.D khoảng một hoặc hai năm).  Do đó, văn 
						bằng M.D của Úc và Anh không có cùng nghĩa với văn bằng 
						M.D của Mĩ.  
						 
						•  Post-doctorate – “Hậu tiến sĩ”  
						  Khi học sinh hoàn tất chương trình tiến sĩ, 
						thí sinh còn phải trải qua một giai đoạn “thực tập” 
						thông thường kéo dài khoảng 1 tới 5 năm.  Người nghiên 
						cứu trong giai đoạn này thường được gọi là 
						“Post-doctoral fellow” (tạm dịch là “nghiên cứu sinh hậu 
						tiến sĩ”).  Thực ra, trong giai đoạn này, thí sinh không 
						được cấp văn bằng gì cả, vì đây là giai đoạn mà nghiên 
						cứu sinh phải làm việc dưới sự hướng dẫn của một giáo sư 
						kinh nghiệm, và qua đó dần dần tự mình phát triển một 
						chương trình nghiên cứu của riêng mình.  Đây cũng là 
						thời gian mà nghiên cứu sinh có cơ hội để “trưởng thành” 
						một nhà nghiên cứu độc lập.  Vì thế, “Postdoctoral 
						fellow” không phải là một văn bằng, và không nên hiểu 
						như là một “tiến sĩ cao cấp” (8).
						     Phần 2  Hệ thống học hàm 						  
Học vị là những văn bằng được cấp bởi các cơ 
						sở giáo dục cho sinh viên sau khi đã hoàn tất một chương 
						trình học.  Học hàm là những chức vụ khoa bảng hoặc do 
						các trường đại học đề bạt hoặc do chính phủ trao tặng 
						cho những người giảng dạy hay nghiên cứu khoa học.  Nói 
						đến “Học hàm” ở đây là nói đến chức giáo sư (Professor), 
						phó giáo sư (Associate Professor), giáo sư dự khuyết 
						(Assistant Professor), giảng sư (Lecturer và Senior 
						Lecturer), và các chức danh trong các viện nghiên cứu 
						khoa học như Fellow, Senior Fellow, Principal Fellow
						và Scientist.    
						  Trong các trường đại học Tây phương, người ta 
						phân biệt ba cấp nhân viên giảng dạy mà tôi tạm gọi 
						[theo chức năng và trình độ] là: tập sự, trung cấp, và 
						cao cấp.  Ở bậc tập sự gồm các chức vụ như Teaching 
						Assistant, Tutor. Proctor, v.v...  Những nhân viên 
						này có trách nhiệm làm phụ giảng, chấm bài thi, giám thị 
						trong phòng thí nghiệm, v.v…
						   
						Ở bậc trung cấp gồm những nhân viên khoa bảng mang học 
						hàm như Lecturer (ở Anh và Úc), Maitre Assistant 
						(Pháp) và Assistant Professor (Mĩ) (9).  Những 
						nhân viên này là những người đang ở bước đầu trong nấc 
						thang sự nghiệp khoa bảng, có nhiệm vụ trực tiếp giảng 
						dạy sinh viên và làm nghiên cứu hoặc độc lập, hoặc dưới 
						sự chỉ đạo của các giáo sư thâm niên.  
						 
						Trên trung cấp một bậc là những nhân viên khoa bảng mang 
						học hàm Reader, Fellow hay Senior Lecturer 
						(ở Anh và Úc), Maitre de Conférence (Pháp) và 
						Associate Professor (Úc và Mĩ) (10).  Những người 
						này là những nhà khoa bảng đang ở trong thời kỳ "quá độ" 
						để chuẩn bị được đề bạt lên một chức vụ khoa bảng cao 
						nhất trong hệ thống học hàm đại học.  Trong đại đa số, 
						họ cũng là những nhà nghiên cứu độc lập và có ít nhiều 
						uy tín trong chuyên môn.  
						Sau cùng là các chức danh khoa bảng cao cấp nhất như 
						Professor (ở Mĩ, Anh, và Úc, Pháp) hay Senior 
						Fellow (Anh và Úc) (11).  Họ là những nhà khoa bảng 
						kinh nghiệm lâu năm và quá trình nghiên cứu có uy tín 
						trên trường quốc tế.   
						  Tiêu chuẩn để được đề bạt vào các chức vụ này 
						thường dựa vào ba cống hiến chính: nghiên cứu, giảng 
						dạy, và phục vụ cộng đồng.  Về nghiên cứu, mức độ cống 
						hiến cho kiến thức nhân loại được "đo lường" bằng số 
						lượng và chất lượng các bằng sáng chế (patents) hay các 
						bài báo khoa học (papers) được công bố trong các tạp chí 
						khoa học chuyên môn (12).  Tùy theo trường đại học, một 
						Assistant Professor phải có ít nhất là 5 bài báo khoa 
						học; một Associate Professor thường phải có tối thiểu là 
						30 bài báo khoa học; và một Professor phải có tối thiểu 
						là 50 (thường là 100) bài báo khoa học.
						 
						
						Học hàm “kết hợp”  
						  Ngoài các học hàm được phong hay đề bạt một 
						cách nghiêm chỉnh dựa trên thành thích hoạt động khoa 
						học và giảng dạy, trong một số ngành như y khoa, kinh 
						tế, và kĩ thuật, một số học hàm được trao tặng dựa vào 
						sự quan hệ của người được trao và trường đại học.  Trong 
						các bệnh viện, một số bác sĩ chuyên khoa cao cấp, tuy 
						không làm nghiên cứu khoa học và chưa từng công bố công 
						trình khoa học nào, có thể được bổ nhiệm chức vụ 
						Lecturer, Assistant Professor, Associate Professor hay 
						thậm chí Professor trong các trường Y.  Tương tự, một số 
						chuyên viên nghiên cứu khoa học trong các công ti kĩ 
						nghệ, tuy không giảng dạy, nhưng cũng được trao tặng các 
						chức vụ khoa bảng trên.  
						 
						Những “nhà khoa bảng” này không được trường đại học trả 
						lương, và không phải là nhân viên chính thức của 
						trường.  Nhưng khi họ công bố các bài báo khoa học thì 
						trường có quyền kể những bài báo đó như tài sản tri thức 
						của nhà trường!  Tuy nhiên, bù lại, họ được phép dùng 
						những danh xưng khoa bảng của trường trong các văn bản 
						liên quan đến hoạt động khoa học.  Những học hàm này 
						thường có chữ “Conjoint” hay “Adjunct” phía trước danh 
						xưng “Professor” hay “Associate Professor” để phân biệt 
						với những học hàm “thật”.  Việc dùng những danh xưng 
						này, trên lí thuyết, thường được các trường đại học kiểm 
						tra rất gắt gao; nhưng trong thực tế, nhiều người được 
						trao những học hàm này thường lờ đi!   
						hàm danh dự
						 Hầu như tất cả các trường đại học ở các nước Tây 
						phương đều có những kế hoạch để biểu dương tên tuổi và 
						danh tiếng của trường mình đến với thế giới bên ngoài.  
						Để đạt được mục tiêu này, các trường đại học thường dùng 
						chính sách cấp học vị và học hàm danh dự cho những nhân 
						vật quan trọng trong cộng đồng.  Những học vị và học hàm 
						danh dự được trao tặng thường là những văn bằng và chức 
						vụ cao nhất trong đại học: “Tiến sĩ” (Honorary Doctor) 
						hay “Giáo sư” (Honorary Professor).  Người được trao 
						tặng không nhất thiết phải là cựu sinh viên hay cựu nhân 
						viên của trường, cũng không cần phải có quá trình học 
						vấn nào, mà có thể là một nhà hoạt động chính trị, nhà 
						hoạt động xã hội, một nghệ sĩ, nhà báo, công chức … có 
						tiếng tăm.  Ở Úc, cựu Thủ tướng Paul J. Keating, người 
						có trình độ học vấn cấp phổ thông trung học, sau khi rời 
						chính trường, được Trường Đại học New South Wales trao 
						tặng học hàm “Honorary Professor”, để ghi nhận đóng góp 
						của ông trong nỗ lực đem tên tuổi nước Úc vào thị trường 
						kinh tế Á châu.  
						Những học vị và học hàm danh dự, vì thế, có tính ngoại 
						giao, “hữu nghị”, hơn là những chứng chỉ khoa bảng.  Do 
						đó, trong thực tế, phần đông những người Tây phương được 
						trao học vị và học hàm danh dự ít khi nào dùng nó như là 
						một thành tích hoạt động khoa bảng hay trình độ học vấn; 
						tuy nhiên, một số đồng hương người Việt lại hay thích ký 
						tên mình kèm theo những danh xưng danh dự nơi công cộng.
						 
						Ngoài các học hàm "hữu nghị" này, nhiều trường đại học 
						còn phong chức "Emeritus Professor" (cựu giáo sư) cho 
						các giáo sư đã nghỉ hưu, nhưng vẫn còn gắn bó với trường 
						đại học.  Danh hiệu này thường được trao tặng cho các 
						giáo sư có đóng góp lớn cho khoa học, cho trường và đã 
						làm việc tại trường trong một thời gian dài.  
						Vài chức vụ trong các hội đoàn chuyên môn  
						  Một số ngành nghề chuyên môn như y khoa và kĩ 
						thuật thường được tổ chức khá chặt chẽ, mà trong đó 
						trình độ chuyên môn và đẳng cấp thâm niên được phân chia 
						tương đối rõ ràng.  Theo cơ cấu tổ chức này, những người 
						hành nghề phải là hội viên của một hiệp hội chuyên 
						ngành.  Hiệp hội này có chức năng đề ra những tiêu chuẩn 
						và qui tắc hành nghề, kiểm tra trình độ chuyên môn của 
						hội viên, và quản lí nhân sự trong tổ chức.  Theo định 
						kì, thường là hàng năm, các hiệp hội chuyên môn này tổ 
						chức một kì thi tuyển để kết nạp hội viên.  Chẳng hạn 
						như ở Úc và Anh, các bác sĩ muốn hành nghề chuyên khoa, 
						ngoài việc thực tập một thời gian (khoảng 5 năm), còn 
						phải qua một kì thi tuyển vào một hội đoàn chuyên môn 
						như "Royal College of Surgeons" (dành cho các bác sĩ 
						giải phẫu), "Royal College of Radiologists" (dành cho 
						các bác sĩ chuyên khoa quang tuyến học), v.v...  Sau khi 
						thi đỗ, thí sinh sẽ được cấp chứng chỉ hành nghề.  Những 
						chứng chỉ này thường có chữ "Fellow" phía trước, như 
						"Fellow of the Royal College of Surgeons" hay (FRCS).  
						Tuy mang danh hiệu Fellow, nhưng cấp bậc thì 
						không tương đương với các chức danh khoa bảng trong các 
						viện nghiên cứu.  Giới kĩ sư ở Mĩ cũng có những hiệp hội 
						tương tự như trong ngành y khoa, nhưng cách thức thu nạp 
						hội viên và tên gọi của họ khác ngành y khoa.    
						  Tuy nhiên, trong các ngành nghề khác, có rất 
						nhiều hiệp hội chuyên môn hoạt động một cách bán thương 
						mại, và hình thức tổ chức không chặt chẽ như trong ngành 
						y khoa và kĩ thuật.  Phần đông những hiệp hội này mở cửa 
						đón nhận tất cả các hội viên, không phân biệt trình độ 
						học vấn và khả năng chuyên môn, ngay cả sinh viên cũng 
						có thể gia nhập, và không phải qua một kì thi tuyển 
						nào.  Hội viên phải đóng hội phí mỗi năm.  Hội viên 
						thường được gọi là "Member", thay vì "Fellow" như các 
						hiệp hội nghiêm túc.  Do đó, là hội viên của những hội 
						này không có nghĩa là một bằng chứng về khả năng chuyên 
						môn hay thành tích hoạt động khoa học.   
						  Ngoài các hiệp hội chuyên môn, còn có những 
						hội đoàn bách khoa, mà trong đó thành viên là tất cả các 
						nhà khoa học hoạt động trong mọi lĩnh vực khác nhau.  
						Những hiệp hội này thường có tên "Academy", chẳng hạn 
						như "The National Academy of Sciences of the United 
						States of America" (tức Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia 
						Hoa Kỳ).  Không giống như Liên Xô cũ (nơi mà Viện Hàn 
						Lâm Khoa Học Moscow là một trung tâm nghiên cứu), ở các 
						nước Tây phương như Mĩ, Anh và Úc, viện hàn lâm không 
						phải là một viện nghiên cứu, cũng không phải là tập hợp 
						các viện nghiên cứu, mà là một đoàn thể hay tổ chức tư 
						nhân bất vụ lợi, có chức năng chính là: (i) cố vấn cho 
						chính phủ các chính sách liên quan tới khoa học và kĩ 
						thuật; và (ii) giáo dục và cổ động quần chúng về khoa 
						học và vai trò của khoa học trong xã hội.  
						 
						Đối với phần đông quần chúng, cụm từ  "viện hàn lâm" 
						đồng nghĩa với nơi tập trung của những bộ óc siêu việt, 
						những con người thông thái nhất của một quốc gia.  Nhưng 
						trong thực tế ở các nước có nền khoa học tiến bộ cao như 
						Mĩ thì điều này chỉ đúng một phần, vì như nói trên, Viện 
						Hàn lâm Khoa học chỉ là một đoàn thể, là một cơ quan đại 
						diện [có thể là cao nhất] cho các nhà khoa học.  Hội 
						viên của hàn lâm viện thường do đồng nghiệp tiến cử và 
						bình bầu.  Do đó, có nhiều nhà khoa học có thực tài, 
						nhưng không được tiến cử, nên không bao giờ là thành 
						viên của hàn lâm viện!  Trong số khoảng 350 nhà khoa học 
						và xã hội Mĩ đoạt giải Nobel, chỉ có 170 người là thành 
						viên của Viện này.  Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa 
						Kì có khoảng 1900 thành viên; trong đó có khoảng 300 là 
						người mang quốc tịch và ở nước ngoài [Mĩ].  Theo tiêu 
						chuẩn chung, họ phải là những nhà khoa học ưu tú trong 
						lĩnh vực chuyên môn, nhưng do tính cách bình bầu, nên nó 
						cũng lộ ra vài vấn đề liên quan đến việc thiên vị và bè 
						phái.  Đã có nhiều người cho rằng Viện này là một câu 
						lạc bộ kín ("close club"), nơi mà chỉ có các nhà khoa 
						học quen biết với nhau qua giao thiệp xã giao, hơn là 
						một cơ quan đại diện chân chính cho các nhà khoa học.  
						Điểm qua danh sách của 1900 thành viên thuộc Viện này, 
						người ta có thể tìm thấy tên của nhiều nhà khoa học 
						thường hay xuất hiện trên các hệ thống truyền thông đại 
						chúng hay có nhiều hoạt động xã hội và chính trị như 
						Albert Einstein, James Watson, v.v.  Thành ra, nhiều nhà 
						khoa học lớn, những người tự coi họ là làm khoa học loại 
						"thứ thiệt", những người không thích hư danh hay ồn ào 
						trên các hệ thống truyền thông, thì không thích có mặt 
						trong Viện này.  Nhà vật lí học lừng danh Richard 
						Feynman, cũng như nhiều nhà khoa học danh tiếng khác, 
						không phải là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc 
						gia Hoa Kì.  Chưa có một khoa học Việt Nam hay gốc Việt 
						nào có chân trong Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học Hoa Kì.
						 
						Vài nhận xét chung   
						  Người không quen với hệ thống khoa bảng và 
						bằng cấp có thể sẽ thấy chóng mặt với những tên gọi 
						những học vị và học hàm trên đây, và sẽ đặt câu hỏi là 
						người được cấp những văn bằng này phải đạt những tiêu 
						chuẩn gì.  Thực ra, đứng trên bình diện quốc gia, không 
						có tiêu chuẩn nhất quán giữa các trường đại học trong 
						việc cấp những văn bằng này.  Mỗi trường đại học có 
						những tiêu chuẩn riêng.  Có khi mỗi thí sinh cũng được 
						xét theo từng trường hợp riêng biệt.  Có sinh viên ra 
						trường tiến sĩ chỉ trong vòng sau 3 hay thậm chí 2 năm 
						theo học, nhưng cũng có sinh viên phải miệt mài cả tám 
						năm để lấy mảnh bằng Tiến sĩ.  Cũng có những trường hợp 
						hiếm hoi khi sinh viên theo học chương trình Tiến sĩ, 
						nhưng khi ra trường chỉ được thẩm định và cấp bằng Cao 
						học.  Lại có người nghiên cứu cả mười năm, nhưng chẳng 
						viết được luận án gì! 
						 
						Đôi khi, tự những học vị Ph.D, M.S, B.S nó bao hàm một 
						nội dung rộng đến mức ... chẳng có nghĩa gì cụ thể.  
						Trên lí thuyết, văn bằng Ph.D là học vị cao nhất ở Mĩ và 
						Úc; tuy nhiên, cũng có nhiều "loại" Ph.D với nhiều chất 
						lượng khác nhau.  Có nhiều người có văn bằng Ph.D, nhưng 
						độ hiểu sâu và kiến thức chưa chắc đã hơn một người có 
						học vị Cử nhân, thậm chí Tú tài, thời Pháp thuộc ở Việt 
						Nam.   
						Ngoài ra, ở Mĩ còn có tệ nạn "nhà máy văn bằng" (diploma 
						mills) hoạt động hoặc dưới hình thức dạy học hàm thụ, 
						hoặc qua hệ thống dạy học từ xa với sự trợ giúp của máy 
						vi tính và mạng internet.  Phần lớn những trường này 
						thực chất chỉ là những văn phòng nhỏ tại nhà, thậm chí 
						chỉ là nhà để xe hay nhà bếp, nhưng họ lại tự gắn cho họ 
						những cái tên "lập lờ đánh lận con đen" (mà nếu công 
						chúng không để ý kĩ có thể lẫn lộn với những trường danh 
						tiếng của Mĩ) như "Harbard University", "Universitas 
						Harvardiana", "Atlanta Southern University", v.v.  Mục 
						đích duy nhất của các sơ sở thương mại này là bán bằng 
						cấp với giá từ 3000 tới 5000 đô-la Mĩ.  Có "trường" còn 
						bán tới 500 bằng tiến sĩ hàng tháng!  Do đó, một học vị, 
						nếu không "đi kèm" với một trường đại học nghiêm chỉnh 
						được công nhận, cũng có thể không có giá trị khoa bảng 
						gì.   
						Tiêu chuẩn và phẩm chất học hàm thường mang tính địa 
						phương; tức là cũng có sự khác nhau giữa các thời điểm, 
						giữa các nước, và thậm chí giữa các trường đại học trong 
						cùng một nước.  Một vị Professor ở Mĩ có thể chỉ được 
						xem tương đương với một Associate Professor ở Pháp hay 
						Anh, và ngược lại.  Tương tự, một Assistant Professor ở 
						một trường danh tiếng tại Mĩ có thể trở thành Professor 
						ở Nhật, Hồng Kông hay Singapore.  
						Thời điểm cũng là một yếu tố quan trọng.  Vài mươi năm 
						trước đây, ở các nước như Anh, Úc, Pháp, Đức và Nga, mỗi 
						Ban chuyên môn (Department) trong một trường đại học chỉ 
						có một người duy nhất mang học hàm "Professor", những 
						người còn lại chỉ là "Associate Professor" hay 
						"Lecturer".  Những vị người mang hàm "Professor" thời đó 
						được phép dùng danh hiệu này suốt đời, dù họ chuyển từ 
						trường đại học này sang trường đại học khác.  Học hàm 
						"Professor", do đó, cực kì cao quí ở các nước này trong 
						thời gian trước đây.  Nhưng ở một góc độ khác, có thể 
						nói vấn-đề-một-Professor này cũng là nguyên nhân làm cho 
						nhiều nhà khoa bảng ở các nước trên chuyển sang Mĩ 
						nghiên cứu và giảng dạy, vì ở Mĩ, một Ban có thể có 
						nhiều (thậm chí hàng trăm) người mang hàm "Professor".  
						Các nhà khoa bảng trẻ ở Mĩ không phải chờ đến lúc lục 
						tuần để được phong hàm "Professor"!  Tuy nhiên, để chống 
						lại dòng "chảy chất sám" này, ngày nay, ở các nước như 
						Anh, Đức và Úc, học hàm "Professor" đã được "Mĩ hoá", và 
						mỗi Ban có thể có nhiều người mang học hàm "Professor".  
						Các nhà khoa bảng trẻ do đó có cơ hội mang học hàm này 
						hơn trước.   
						Vì học hàm "Professor" bị Mĩ hóa, ngày nay, có quá nhiều 
						Professor và phân biệt ai giỏi, ai dở là một việc làm 
						cực kì khó khăn vì trong nhiều trường hợp, học hàm này 
						không còn phản ảnh trung thực khả năng chuyên môn của 
						nhà khoa bảng nữa.  Thực vậy, nhiều giáo sư ở các trường 
						đại học lớn ở Mĩ và Úc cũng có thể "dốt" (huống hồ chi 
						là học trò Ph.D!)  Ngược lại, cũng có vô số người không 
						có học hàm "Giáo sư" nhưng lại cực kì giỏi.  Cũng có 
						nhiều nhà khoa bảng có hàng trăm bài báo khoa học và 
						trên phương diện chuyên môn, còn danh tiếng hơn nhiều 
						Professors khác, nhưng họ chỉ giữ chức Assistant 
						Professor, thậm chí không có học hàm nào!  Thành ra, 
						trong hoạt động khoa học, bằng cấp và danh xưng là những 
						điều không được đặt nặng.  Thực ra, đối với phần lớn các 
						nhà khoa học chân chính, những học hàm và danh xưng hoàn 
						toàn vô nghĩa, ngoài việc gây ấn tượng và "lấy le" với 
						những người dân thường hay những nhà chính trị thiếu 
						hiểu biết về hoạt động khoa học.   
						  Xuất phát từ truyền thống lâu đời, người Việt 
						Nam ta trọng giới khoa bảng và những người có bằng cấp 
						cao.  Nhưng sự trọng bằng cấp của số đông dân chúng đã 
						sinh ra tệ nạn khệnh khạng bằng cấp trong giới có học 
						hay có chút chữ nghĩa.  Ngày nay, chỉ cần mở một tờ báo 
						Việt, người ta sẽ phải chóng mặt về những bằng cấp và 
						danh xưng của các vị cử nhân, luật sư, kĩ sư, tiến sĩ, 
						giáo sư, này nọ.  Cố nhiên, một số bằng cấp và học hàm 
						này là thật, do chính đương sự đạt được trong quá trình 
						học tập và nghiên cứu, nhưng cũng có một số không ít là 
						những bằng cấp được chuyển ngữ một cách bịp bợm, nhằm 
						lòe đồng hương, hay thậm chí một số học vị và học hàm 
						"dỏm".  Thực vậy, có lẽ do nhu cầu kinh tế hay môt lí do 
						nào đó, người có bằng cấp, do vô tình hay cố ý, cũng đã 
						đôi khi lạm dụng bằng cấp của mình và danh xưng.  Nhiều 
						trường hợp, người ta quảng cáo là "Giáo sư" một đại học 
						nào đó, nhưng lại cố tình lờ đi thực chất học hàm đó chỉ 
						là một chức "Conjoint" hay danh dự.  Có trường hợp người 
						ta quảng cáo là "Fellow" của một đoàn thể chuyên môn về 
						giải phẫu, nhưng trên thực tế họ chỉ là "Member"!   
						Cuối cùng, một điều khá phổ biến trong những người có 
						bằng cấp là họ thường hay nghĩ rằng học vị và học hàm 
						của họ là ưu việt hơn bằng cấp của người khác, trường 
						đại học hay cao đẳng và các giáo sư mà họ theo học là 
						danh tiếng hơn, tốt hơn, giỏi hơn, v.v... những nơi khác 
						và giáo sư khác.  Điều này không những chỉ thấy ở giữa 
						cá nhân, mà còn giữa các quốc gia.  Dù không nói ra cụ 
						thể, nhưng chất lượng bằng cấp thường được đánh giá một 
						cách chung chung dựa vào nền khoa học kĩ thuật của một 
						nước hơn là dựa vào khả năng của người có bằng cấp.  
						Chính vì thế mà những nước đã phát triển như Mĩ, Anh, 
						Úc, Pháp, v.v… không chịu công nhận bằng cấp từ các nước 
						nghèo hơn như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, v.v… Lí do 
						không công nhận bằng cấp nước ngoài thường được núp dưới 
						danh nghĩa “tiêu chuẩn”, tức là theo họ, những chuyên 
						viên được đào tạo trong các nước đang phát triển có tiêu 
						chuẩn thấp hay không đạt tiêu chuẩn mà họ đưa ra.   
						Thật là khôi hài và ấu trĩ nếu người Úc cho rằng kĩ sư 
						của họ tài giỏi hơn kĩ sư người Đức, hay bác sĩ của họ 
						được đào tạo kĩ hơn các bác sĩ người Mĩ hay Pháp, hay 
						các nhà toán học của Úc khá hơn các nhà toán học Việt 
						Nam hay Ấn Độ.  Ấy thế mà đó là những nguyên nhân mà họ 
						đưa ra để không chịu công nhận bằng cấp của các nước 
						ngoài Úc!  Nhưng xét cho cùng, ngoài một vài lí do chính 
						đáng, sự không-công-nhận bằng cấp nước ngoài cũng là một 
						cách phô trương thanh thế của họ, những nước giàu có, và 
						bảo vệ thị trường lao động cho sinh viên người bản xứ, 
						chứ chẳng liên quan gì đến tiêu chuẩn và phẩm chất đào 
						tạo.  Mục đích thực và chính của việc học hành là để mở mang 
						trí tuệ, trau giồi kiến thức, rèn luyện nhân cách, và 
						làm người hữu ích cho xã hội.  Bằng cấp và chức vụ khoa 
						bảng không phải dùng để đo những kết quả trên, mà chỉ là 
						những phân chia đẳng cấp khoa bảng rất tương đối.  Bằng 
						cấp, dù là học vị cao nhất như tiến sĩ, chỉ là một bước 
						đầu trong hoạt động khoa học, và tự nó không nói lên 
						được khả năng chuyên môn của nhà khoa học.  Tương tự, 
						một học hàm cao nhất như giáo sư cũng không phản ánh 
						chính xác được mức độ đóng góp vào kho tàng tri thức của 
						nhân loại.  Người trí thức chân chính chỉ nghĩ đến những 
						đóng góp có giá trị nhằm đem lại phúc lợi thực sự cho 
						nhân loại, và không bao giờ phụ thuộc vào học vị, học 
						hàm hay các danh xưng phù phiếm để gây ảnh hưởng trong 
						cộng đồng.  	   
 Ghi chú:
 
						[1]  Thực ra, Universitas of Doctors chỉ là một 
						hiệp hội (Guild) của những "Thầy".  Theo tiếng Latin, 
						chữ Doctorem cũng có nghĩa là "Thầy".   
						[2]  Tuy nhiên, trong những năm gần đây các trường này 
						đều trở thành đại học chính thức.  Chẳng hạn như trường 
						"University College of Bristol" tuy thành lập từ năm 
						1876, nhưng mãi đến năm 1909 mới được công nhận là "The 
						University of Bristol"!   
						[3]  Ở Việt Nam còn xảy ra một sự ngộ nhận hết sức "tai 
						hại" trên báo chí về một em học sinh người Việt Nam, 17 
						tuổi, đỗ đầu ở một trường trung học tư thục ở Anh; nhưng 
						có lẽ vì nhầm lẫn trường "college" mà em theo học là 
						"đại học", nên nhà báo đã vội viết bài ca ngợi em là một 
						"thần đồng tốt nghiệp đại học năm 17 tuổi"!   
						[4]  Tôi không biết tiếng Việt ta có danh từ nào để dịch 
						văn bằng "Associate".  Có người đề nghị dùng "Chứng chỉ" 
						để dịch chữ này; tuy nhiên "Chứng chỉ" có lẽ chính xác 
						hơn với "Certificate".  Tôi đề nghị dùng cụm từ "Cử nhân 
						dự khuyết" cho văn bằng "Associate".   
						[5]  Hai văn bằng Bachelor of Science (B.Sc. hay B.S.) 
						và Bachelor of Arts (B.A.) thường được dịch là "Cử nhân 
						Khoa học" và "Cử nhân Văn chương".  Tuy nhiên, hai văn 
						bằng này rất bao quát.  Một sinh viên theo học môn Tâm 
						lí học (Psychology) có thể tốt nghiệp với văn bằng B.A. 
						nếu bộ môn này chịu sự quản lí của phân khoa Văn chương 
						(Faculty of Arts), hoặc B.Sc. nếu bộ môn Tâm lí học chịu 
						sự quản lí của phân khoa Khoa học (Faculty of Science). 
						 
						[6]  Dựa vào tính cách đào tạo và chương trình học, tôi 
						đề nghị dùng cụm từ "Cao học dự khuyết" cho văn bằng 
						"Graduate Diploma".   
						[7]  "Doctorate" là một danh từ chung dùng để chỉ học vị 
						"Tiến sĩ".  Chữ “Tiến sĩ” có lẽ được xuất phát từ chữ 
						Hán mà tiếng Anh phiên âm là “Chin-shih” (và tiếng Anh 
						dịch là “Doctor”).  Hình như văn bằng này được cấp lần 
						đầu tiên vào năm 1313 (dưới triều đại nhà Tống); vào năm 
						này, một cuộc thi tuyển đặt dưới sự chủ tọa của vua được 
						tổ chức.  Qua kết quả của kỳ thi này, có 300 thí sinh 
						được cấp danh hiệu Chin-shih; trong số này, có 75 người 
						gốc Mông Cổ, 75 người quê quán ở miền Nam Trung Quốc, 75 
						người quê quán ở miền Bắc Trung Quốc, và 75 người có 
						quốc tịch ngoại quốc.   
						[8]  Trong một bài báo gần đây ở trong nước, một nhà 
						giáo dục đề nghị dùng cụm từ "Tiến sĩ cao cấp" để gọi 
						các thí sinh này!   
						[9]  Trong các đại học Anh và Úc, không có chức vụ 
						Assistant Professor, và những chức vụ như Lecturer và 
						Senior Lecturer được xem là tương đương hay cao hơn với 
						Assistant Professor của Mĩ.  Tuy được gọi là "Assistant 
						Professor", nhưng những giáo sư này không phải là phụ tá 
						(assistant) cho các giáo sư cao hơn, mà là một giáo sư 
						hoàn toàn độc lập.  Vì thế, các học hàm ở bậc này có lẽ 
						nên dịch sang tiếng Việt là "Giảng sư".   
						[10]  Trong một vài trường đại học theo hệ thống của Anh 
						Quốc, học hàm "Reader" được xem là tương đương với 
						"Associate Professor".  Ở trong nước, Associate 
						Professor được dịch là "Phó Giáo sư".    
						[11]  Học hàm "Professor" thường được dịch là "Giáo 
						sư".  Đây là một học hàm cao nhất trong đại học.  Tuy 
						nhiên, cũng có trường đại học ở Mĩ phong học hàm 
						"University Professor" (thường được xem là cao hơn cả 
						"Professor") cho các giáo sư có thành tích nghiên cứu 
						khoa học xuất sắc và có đóng góp lớn cho trường.   
						[12]  Các bài báo này thường phải qua một giai đoạn 
						"kiểm duyệt" tương đối gắt gao (thường từ 6 tháng đến 
						một năm) trước khi được chấp nhận cho xuất bản.  Người 
						kiểm duyệt thường là đồng nghiệp làm cùng ngành, nhưng 
						đương sự (người có bài báo được duyệt xét) không biết họ 
						là ai.  Các tạp chí có chất lượng cao chỉ nhận công bố 
						khoảng 1 tới 20% các bài báo khoa học được gửi tới tòa 
						soạn.  Vì thế, nhá khoa học nào có nhiều công trình được 
						công bố trên các tờ tạp chí có uy tín thường để nể trọng 
						trong ngành nghề của mình, và có cơ hội được thăng tiến 
						trong nấc thang khoa bảng
						   Nguồn 
						https://nguyenvantuan.chuyenluan.net
   Bài góp ý của tác giả Nguyễn Xuân Thiện
 						Người Việt Nam thường gọi "doctor" là "bác sĩ" để chỉ 
thầy thuốc, hoặc "tiến sĩ" để chỉ một học vị cao nhất ở đại học. "Bác sĩ" là một 
nghề nghiệp, trong khi đó "tiến sĩ" là một học vị. Trong tiếng Anh cũng vậy, câu 
nói "I am a doctor" có ý nghĩa hoàn toàn khác với "I have a doctor's degree".
						 
						Ở Mỹ chữ "Ph.D." (viết tắt của “Doctor of Philosophy”), 
có nghĩa tương đương với chữ "tiến sĩ" của Việt Nam, là học vị cao nhất ở đại 
học. Một vài tiêu chuẩn tối thiểu của nó là phải có công trình nghiên cứu mang 
tính cách học thuật, có tính cách độc sáng (originality), thể hiện dưới hình 
thức một luận án trước khi đưọc cấp học vị này. Loại "doctor" này ở Mỹ gọi là 
"academic doctorate degree" để phân biệt với các loại "doctor" trong "doctor of 
medicine", "doctor of pharmacy" v.v... thuộc nhóm "first professional degree" 
("học vị chuyên nghiệp cấp một").
 						 
						Nói một cách chi tiết hơn, "first professional degree" ở 
Mỹ chủ yếu gồm có:- Doctor of Audiology (Au.D.)
 - Doctor of Chiropractic ( D.C.)
 - Doctor of Dental Surgery (D.D.S.), Doctor of Dental 
Medicine (D.M.D)
 - Doctor of Medicine (M.D.)
 - Doctor of Occupational Therapy (D.O.T.)
 - Doctor of Optometry (O.D.)
 - Doctor of Osteopathic Medicine (D.O.)
 - Pharmacy Doctor (Pharm.D.)
 - Doctor of Physical Therapy (D.P.T.)
 - Doctor of Podiatric Medicine (D.P.M.)
 - Doctor of Veterinary Medicine (D.V.M.)
 - Juris Doctor (J.D.)
 
						Đăc điểm của loại "doctor" trong "first professional 
degree" là:
 
						- phần lớn liên hệ đến nghề y và một cái bên luật 						- không đào tạo trực tiếp ngay sau cấp trung học (như ở 
nhiều nước khác), mà là phải học qua từ 2 đến 4 năm (ngành gì cũng được ) ở đại 
học. Sau đó học 3, 4 năm (thông thường là 4 năm) ở trường chuyên nghiệp 
(professional school) - không cần có luận án có tính cách nghiên cứu độc sáng 
để được cấp "doctor".
						 
						Hiểu như vậy những chữ "doctor of medicine", "pharmacy 
doctor" ở Mỹ nên dịch là "y sư", "dược sư" thì đúng hơn dịch là "tiến sĩ y 
khoa", "tiến sĩ dược khoa".
 	Ở đây chữ "doctor" nên hiểu theo nghĩa của tiếng Latin, 
nghĩa là "thầy" (tiếng Hán gọi là "sư", như trong chữ "giáo sư"). Ở Việt Nam 
ngày xưa người ta cũng quen dùng chữ thầy”, tỷ dụ “thầy giáo”, “thầy thuốc”, 
"thầy kiện" để chỉ những người làm trong một số nghề mà người ta kính trọng.
						 
						Nhân tiện để tham khảo xin đưa thêm thí dụ về trường 
hợp ngành y ở Nhật. 
						Ở Nhật, người ta vào thẳng trường y sau khi học xong 
trung học. Sau 6 năm thì được tốt nghiệp với văn bằng cử nhân y khoa (igakushi) 
do các đại học cấp. Tuy vậy, để có tư cách hành nghề bác sĩ (license) thì phải 
qua kỳ thi của nhà nước, gọi là "kokka ishi shiken" (thi bằng “y sư quốc gia”). 
Muốn có học vị tiến sĩ y khoa thì lại khác: phải tiếp tục nghiên cứu thêm 4 năm 
nữa ở đại học. Ở Nhật, người ta phân biệt rất rõ chữ "bác sĩ" (ishi) - 
một loại nghề nghiệp, với chữ "tiến sĩ" (hakase) - một loại học vị-, chứ không 
dùng chung một chữ ”doctor” như ở nhiều nước khác.
						 
						
						  
						
						Xin mời đọc Trang Nguyễn Văn Tuấn
						 https://vietsciences.free.fr/   
 Những bài cùng tác giả:  
 
			Bàn về nguồn gốc con người hiện đại (Nguyễn văn Tuấn)Bưởi không gây ung thư vú (Nguyễn văn Tuấn)
 Bảo tồn môi sinh (Nguyễn văn Tuấn)
 Chất béo không ảnh hưởng.. (Nguyễn văn Tuấn)
 Giải Nobel Y học (Nguyễn văn Tuấn)
 Giải Nobel Y học: GS Mario R. Capecchi (Nguyễn văn Tuấn)
 Học vị tiến sĩ và học hàm ở các đại học Úc và Mĩ (Nguyễn văn Tuấn)
 Nhân năm Tý bàn chuyện  (Nguyễn văn Tuấn)
 Những ngộ nhận về học vị tiến sĩ tại VN (Nguyễn Văn Tuấn)
 Quản lí dự án nghiên cứu khoa học (Nguyễn văn Tuấn)
 Vấn đề tác giả một bài báo khoa học (Nguyễn văn Tuấn)
 
   |