Phần 1

Đối với sinh viên và giới khoa bảng, bằng
cấp đại học hay học vị vừa là cứu cánh vừa là phương
tiện. Là sinh viên đang miệt mài trong các trường đại
học hay cao đẳng, mục tiêu và cũng là ước mơ thực tế
nhất là được tốt nghiệp, được cấp mảnh giấy có ghi tên
mình kèm theo một cụm từ phản ánh tầm cỡ học lực mà mình
mới hoàn tất. Vì thế, bằng cấp là một phần thưởng cho
sự học tập, một bằng chứng về khả năng chuyên môn.
Bằng cấp, đặc biệt là ở bậc đại học, rất phức
tạp và ... phong phú. Chỉ riêng ở Mĩ, các đại học Mĩ
hàng năm cấp hơn 3000 loại bằng cấp khác nhau! Hàng
năm, Mĩ cấp khoảng 1,14 triệu học vị cử nhân, 420 ngàn
thạc sĩ và 18 ngàn tiến sĩ. Với một số lượng bằng cấp
khổng lồ và đa dạng như thế, chẳng trách nhiều người
trong chúng ta rất dễ bị nhầm lẫn về tên gọi của chúng.
Cộng thêm vào đó là những quảng cáo của nhiều người trên
các phương tiện đại chúng báo chí Việt ngữ, hoặc vô tình
hoặc cố ý, làm cho học vị tiến sĩ chẳng khác gì một loại
học vị vàng thau lẫn lộn.
Bài viết này sẽ trình bày một cách khái quát hệ thống
bằng cấp và chức vụ khoa bảng ở một vài nước Tây phương
mà người viết đã có kinh nghiệm làm việc thực tế hay có
tìm hiểu, với hi vọng là sẽ làm, hay góp phần làm, sáng
tỏ được vài thắc mắc thầm kín mà tôi tin là nhiều sinh
viên và học sinh đã và đang có. Cố nhiên, vì tôi được
đào tạo hay làm việc khoa học trong hệ thống giáo dục Úc
và Mĩ, những bằng cấp của các nước này sẽ được bàn kĩ
hơn những bằng cấp ở các nước khác. Qua bài viết này,
tôi hi vọng bạn đọc sẽ bổ sung thêm hệ thống bằng cấp ở
các nước Âu châu cho hoàn chỉnh và đầy đủ hơn.

Ngược dòng lịch sử
Có thể nói phần lớn hệ thống tổ chức giáo dục đại
học và hệ thống học vị đại học trên thế giới ngày nay
được hình thành theo mô hình giáo dục đại học của bốn
nước Đức, Pháp, Anh, và Mĩ. Các nước này có ảnh hưởng
lớn đến nền giáo dục hiện đại ở các nước khác trên thế
giới, kể cả Việt Nam, hoặc qua các chính phủ thuộc địa,
chinh phục bằng quân sự và kinh tế, hoặc qua truyền
giáo.
Học vị tiến sĩ xuất phát từ hai trường Đại học
Paris ở Pháp (thành lập vào năm 1170) và Đại học Bologna
ở Ý (thành lập vào khoảng 1158), lúc đó hai trung tâm
giáo dục hàng đầu ở Âu châu. Theo bộ luật La Mã (Roman
Law), vào thời Trung cổ, mỗi ngành nghề có quyền thành
lập một hiệp hội gọi là Collegium, và hiệp hội
này bầu ra những người có danh hiệu là Magistrates (tạm
dịch là Thầy). Vào thời kì này, người được nhận
vào làm công việc phụ giảng được gọi là Bachalari.
Vào cuối thế kỷ 13, Đại học Paris thay đổi học vị này
thành Baccalauréat. Lúc bấy giờ, học vị
Baccalaureate hay Bachelor là học vị duy nhất
được cấp cho những thí sinh đã (i) thi đỗ một khóa thi
do các các Thầy đặt ra; và (ii) đã hoàn tất một
chương trình học 4 năm về ngữ pháp (grammar), tu từ học
(rhetoric) và lôgíc học. Sau khi hoàn tất văn bằng
Bachelor, thí sinh có thể theo học tiếp chương trình
Master hay Doctor. Và sau khi đã xong
chương trình học Master hay Doctor (khoảng
8 năm học), một hội đồng giám khảo sẽ duyệt xét thí sinh
để kết nạp vào tổ chức được gọi là Universitas of
Doctors (1). Thành viên của tổ chức này cũng là một
"chứng chỉ" được hành nghề giảng dạy đại học.
Lúc bấy giờ, những chức danh như Master,
Doctor và Professor có cùng nghĩa và tương
đương về giai cấp: hành nghề dạy học. Vào thế kỷ 13,
những người dạy học tại Trường Đại học Bologna, lúc đó
là trung tâm về luật pháp ở Âu châu, được gọi là
Doctor. Trong khi đó, ở Đại học Paris, là trung tâm
về văn học nghệ thuật, những người dạy học được gọi là
Master. Do đó, các nhà khoa bảng thuộc các bộ
môn văn hóa nghệ thuật thường được gọi là Master of
Arts (M.A), trong khi các đồng nghiệp của họ trong
các bộ môn triết lí, thần học, y học, và luật được gọi
là Doctor of Philosophy (Ph.D).
Vào cùng thời, Anh quốc thành lập hai đại học
Oxford (thành lập vào khoảng 1249) và Cambridge (thành
lập vào khoảng 1209). Tuy mô phỏng theo hệ thống tổ
chức của đại học Paris, hai trường này xem học vị
Doctor cao hơn Master.
Ở Mĩ, Đại học Harvard được thành lập vào năm 1636,
với cơ cấu tổ chức được mô phỏng hoàn toàn theo hệ thống
đại học ở Anh và Đức. Lúc đó, văn bằng Baccalaureate
là văn bằng duy nhất được cấp cho sinh viên tốt
nghiệp. Sau đó vài năm, văn bằng Bachelor of Arts
(B.A) được cấp cho những sinh viên đã hoàn tất 4 năm
học và qua một kì thi tốt nghiệp. Năm 1851, Đại học
Harvard cho mở thêm chương trình học Bachelor of
Science (B.S). Một năm sau đó (1852), Đại học Yale
cho ra đời chương trình học 3 năm dẫn đến học vị
Bachelor of Philosophy (B. Phil).
Đầu thế kỷ 19, bốn sinh viên của Mĩ là Edward
Everett, George Ticknor, George Bancroft và Joseph Green
Cogswell được cử sang học tại trường Đại học Gottingen
(Đức), và sau khi trở về Mĩ họ trở thành giáo sư tại Đại
học Harvard. Bốn người này đã có nhiều ảnh hưởng lớn
trong việc hình thành một hệ thống giáo dục sau đại học
tại Mĩ (và Everett sau này được bổ nhiệm làm hiệu trưởng
Đại học Harvard). Năm 1853, Đại học Michigan ra đời,
với cơ cấu tổ chức theo mô hình của Đức, đã quyết định
đưa vào chương trình Master of Arts (M.A). Sau
đó 7 năm, Đại học Yale (thành lập năm 1701) bắt đầu cấp
học vị Doctor of Philosophy. Nhưng hệ thống sau
đại học thực sự mang tính “Mĩ” chỉ khởi đầu khi hai Đại
học John Hopkins (thành lập vào năm 1876) và Chicago
(thành lập vào năm 1890), với chủ trương chỉ dạy chương
trình sau đại học.
Ngày nay, ở nước ta sau một thời gian thảo
luận, học vị Ph.D được dịch là tiến sĩ và học vị
Masters là thạc sĩ. Tuy cách dịch này đôi khi
cũng gây ra tranh cãi và nhầm lẫn, nhưng theo thời gian,
có lẽ nhiều người đã chấp nhận với cách gọi hai học vị
đó.
Hệ thống bằng cấp đại học
Nói một cách khái quát, sau 5 năm ở bậc tiểu
học và 7 năm ở bậc trung học, học sinh có khả năng hay
thích theo đuổi tiếp sự nghiệp học hành có thể ghi danh
hay thi vào các trường cao đẳng hay đại học để học
thêm. Dù có sự khác biệt về quy mô, tổ chức, quy định,
và tiêu chuẩn giữa các quốc gia, nhưng nói chung hệ
thống giáo dục cao đẳng và đại học có thể chia làm ba
hình thức chính mà tôi tạm đặt tên là: cao đẳng, đại
học, và sau đại học.
Ở bậc "cao đẳng" (có khi được dịch là
đại học cộng đồng) gồm các trường và cơ sở có
chương trình huấn luyện thực tiễn, nhắm vào mục đích đào
tạo thợ hay cán sự có tay nghề cao, hay chuyên viên kĩ
thuật lành nghề. Các chương trình này thường kéo dài
trong vòng 2 tới 3 năm. Chương trình dạy học ở các
trường này đã bị nhiều nhà giáo dục chỉ trích gay gắt là
quá thực tế và thiếu tiêu chuẩn khoa bảng. Tuy vậy, các
trường này cũng được sự ủng hộ của nhiều người vì nó đem
lại cơ hội cho những học sinh không đủ điều kiện hay khả
năng hay theo đuổi các chương trình ở bậc đại học. Hệ
thống giáo dục cao đẳng của Mĩ đã được một số nước như
Úc, Gia Nã Đại, Nhật và Phi Luật Tân mô phỏng theo. Ở
Mĩ, các trường đảm nhận các chương trình huấn luyện hệ
cao đẳng thường được gọi là "Community College" (hay còn
được gọi là "Junior College") (2), và ở Úc, các trường
này thường được gọi là "Technical College".
Cao hơn hệ cao đẳng là hệ thống giáo dục
đại học (Undergraduate university education) nhằm
mục tiêu đào tạo các chuyên viên có trình độ lí thuyết
căn bản tương đối cao trong mọi lĩnh vực như công nghệ
- kĩ thuật, y khoa, kinh tế, luật, nghệ thật, v.v. Tùy
theo môn học, để theo học các chương trình này, học sinh
thường phải tiêu ra từ 3 đến 6 năm.
Sau cùng là chương trình giáo dục sau đại
học nhắm vào mục tiêu đào tạo những nhà khoa học và
kĩ thuật có trình độ chuyên môn vừa chuyên sâu vừa cao,
và những giáo sư, những nhà nghiên cứu tương lai cho các
trường đại học hay cơ sở nghiên cứu. Trong các chương
trình sau đại học này, học sinh phải vừa học tập, vừa
nghiên cứu từ 2 năm đến 10 năm, tùy theo ngành nghề
chuyên môn.
Ở đây cũng cần đề cập đến vấn đề tên gọi của
các trung tâm đào tạo. Phần đông các trung tâm huấn
luyện bậc đại học và sau đại học thường có tên
University (đại học). Tuy nhiên, một số trường danh
tiếng, do truyền thống và di sản lịch sử để lại, vẫn duy
trì những tên gọi cũ như College (chẳng hạn như
Darmouth College, Mĩ), Institute (như
Massachusetts Institute of Technology, Mĩ), hay thậm
chí School (như London School of Economics,
Anh).
Vấn đề tên gọi trở nên khá rắc rối khi chữ
College được dùng để gọi một phân khoa trong đại
học và thậm chí một trường trung học. Thật vậy, trong
một số (không nhỏ) các trường đại học ở Mĩ, Anh và Úc,
một số phân khoa được gọi là College (thay vì
Faculty). Các trường đại học lớn và lâu đời như
Oxford và Cambridge (Anh) có nhiều trường Colleges
như là những phân khoa chuyên môn trong hệ thống tổ chức
nội bộ. Ở Anh, một số trường tuy đào tạo chương trình
đại học, nhưng không có quyền cấp bằng, được gọi là
"University College" (2).
Ở Anh và Úc, một số trường trung học tư thục
(như Eton và Winchester) cũng có tên là College!
Điều này đã gây ra một hiểu lầm sự khác biệt giữa
College là một trường trung học và College là một trường
đại học trên mặt báo gần đây ở trong nước (3).
Càng phức tạp hơn, khi chữ College còn
dùng để chỉ một số hội đoàn chuyên môn (phần lớn là y
khoa), như College of Surgeons, College of
Radiologists, College of Physicians, v.v...
Tuy các hội đoàn này không chính thức cấp văn bằng,
nhưng là những tổ chức đào tạo và chứng nhận trình độ kĩ
năng nghề nghiệp. Những đoàn thể này hoàn toàn độc lập
với các trường đại học, nhưng thí sinh muốn trở thành
thành viên của các trường này đều phải trải qua một kì
thi tuyển rất khó khăn và có tính cạnh tranh rất cao.
Hệ thống bằng cấp bậc cao đẳng và đại học
Ở mỗi bậc cao đẳng, đại học và sau đại học, có
nhiều bằng cấp khác nhau được cấp cho các học sinh tốt
nghiệp hay đã đạt được một số tiêu chuẩn được đề ra
trong một số ngành nghề. Ở hệ thống cao đẳng
("Community College"), sau hai năm học và đủ điểm tốt
nghiệp, học sinh được cấp văn bằng Associate (4),
như Associate in Arts, Associate in Applied
Science, Associate in Business Adminstration,
v.v...
Ở hệ thống đại học, văn bằng Bachelor (tức Cử
nhân) thường được cấp cho học sinh sau khi đã hoàn
tất chương trình học. Hai bằng Bachelor of Arts
(B.A.) và Bachelor of Science (B.S. ở Mĩ hay
B.Sc. ở Anh và Úc) vẫn là hai bằng cấp thông dụng nhất
(5). Ngoài hai văn bằng chung này ra, còn có nhiều văn
bằng với những tên rất cụ thể như Bachelor of
Engineering (Cử nhân Kĩ thuật), Bachelor of
Architecture (Cử nhân Kiến trúc), Bachelor of
Medicine (Cử nhân Y khoa), Bachelor of Nursing
(Cử nhân Điều dưỡng), Bachelor of Economics
(Cử nhân Kinh tế), Bachelor of Jurisprudence (Cử
nhân Luật học), v.v… Ngày nay, với đà tiến bộ về khoa
học và kĩ thuật trong thời gian gần đây, đã có hơn 600
loại bằng cử nhân trong các môn học khác nhau được cấp
bởi các trường đại học ở Mĩ!
Hệ thống bằng cấp bậc sau đại học
Ở hệ thống cao đẳng và đại học, hệ thống văn bằng khá
đơn giản, nhưng ở bậc hậu đại học thì hệ thống văn bằng
rất phức tạp và có sự khác nhau giữa các quốc gia, không
những về tên gọi, danh xưng, mà còn ở tiêu chuẩn và
phương cách đào tạo.
• Graduate Diploma
Đây là một loại văn bằng chỉ phổ biến ở các
đại học Anh và Úc hay một số nước còn chịu ảnh hưởng hệ
thống giáo dục của Anh. Như tên gọi của văn bằng ám chỉ
(Diploma có gốc Hy Lạp, Diplous, có nghĩa
là "gấp đôi"), Graduate Diploma (6) là một văn
bằng học thêm. Thực vậy, Graduate Diploma thường dành
cho (i) những người muốn theo học các môn học mà không
cùng môn học ở bậc cử nhân mà họ đã có (chẳng hạn như
sinh viên đã có bằng cử nhân về toán, nhưng muốn theo
học hậu đại học nghành quản lí); và (ii) những người
không đủ khả năng hay điều kiện học bậc Master.
Thời gian học Graduate Diploma thường từ 1 tới 2 năm.
Sinh viên không cần làm luận án tốt nghiệp. Ngày nay,
với sự cạnh tranh giữa các trường đại học càng ngày càng
gay gắt, số lượng sinh viên theo học Graduate Diploma ít
đi dần, vì phần đông họ tìm cách học chương trình
Master. Thật ra, khoảng phân nửa các môn học của chương
trình Graduate Diploma là nằm trong chương trình học
Master.
• Master – thạc sĩ
Danh từ Master có gốc từ tiếng Anh cổ,
Maegester; và chữ này tự nó được vay mượn từ
tiếng Pháp cổ, Maistre, có nghĩa là Thầy.
Cũng như ở bậc cử nhân, hai văn bằng Master of
Science (M.Sc. hay M.S.) và Master of Arts
(M.A.) là hai văn bằng thông dụng nhất ở bậc hậu đại
học. Tuy nhiên cũng có những văn bằng chuyên môn cho
các ngành chuyên môn khác như kinh tế (Master of
Economics), luật (Master of Law), kĩ thuật (Master
of Engineering), v.v... Riêng tại Mĩ, có khoảng 500
văn bằng Masters khác nhau! Theo thống kê ở Mĩ, vào đầu
thế kỷ 20, các trường đại học Mĩ đã cấp 1015 văn bằng
master; cho đến năm 1960, con số này tăng lên khoảng 141
ngàn, và đến năm 1998, khoảng 420 ngàn.
Chương trình học Master, cũng giống như chương
trình Graduate Diploma, là nhằm vào mục tiêu đào tạo
những chuyên viên kĩ thuật cho các cơ quan chính phủ và
công ti kĩ nghệ. Sau khi tốt nghiệp, những người này
phải có một khả năng chuyên môn vừa sâu, vừa vững vàng,
có thể đáp ứng cho nhu cầu thực tế của một cơ quan hay
công ti. Chương trình Master thường dành cho những sinh
viên đã có bằng cử nhân cùng nghành. Tuy nhiên, tùy
theo trường hợp cá nhân và kinh nghiệm, các sinh viên
cũng có thể theo học các nghành chuyên môn khác với văn
bằng căn bản cử nhân mà họ đã có. Ngày nay, sinh viên
trong các nghành khoa học thuần túy cũng có thể được
nhận vào học bên các nghành kinh tế hay xã hội học.
Chương trình Master thường kéo dài từ 1 tới 2 năm.
Nhưng cũng có trường dạy M.B.A. (Master of Business
Administration) trong vòng 1 năm, với một chương
trình học rất nặng và đòi hỏi sinh viên phải học ngày
học đêm.
• Doctorate – tiến sĩ
Chương trình học Doctorate (7) là nhằm mục
đích đào tạo những nhà khoa học chuyên nghiệp
(professional scientists), những chuyên viên nghiên cứu
cao cấp cho các công ti kĩ nghệ và các cơ quan nghiên
cứu thuộc chính phủ. Những người này đóng vai trò then
chốt cho nền khoa học của một nước và là nguồn cung cấp
nhân lực giảng dạy cho các trường đại học. Thời gian
học (thật ra nghiên cứu thì đúng hơn) thông thường từ 3
tới 6 năm. Trong thời gian nghiên cứu, sinh viên phải
công bố ít nhất là 3 bài báo khoa học trên các tạp chí
có peer-review (tức hệ thống bình duyệt) để có
thể viết và bảo vệ luận án. Luận án thường được 3 giáo
sư hay nhà khoa học có uy tín (trong đó ít nhất là 1
người phải từ nước ngoài) duyệt xét và phê chuẩn. Thời
gian duyệt xét luận án có thể từ 6 tháng tới 1 năm.
Nói chung ở các nước Tây phương như Mĩ, Canada, Úc, và
Anh quốc, văn bằng tiến sĩ là văn bằng cao nhất trong hệ
thống giáo dục hậu đại học. Tuy nhiên, có vài khác biệt
về tên gọi các văn bằng doctorate này giữa các nước, và
nếu không để ý, sẽ gây ra những hiểu lầm đáng tiếc.
Ở các nước như Anh và Úc, có ba dạng tiến sĩ riêng biệt:
Ph.D cho tất cả các nghành (kể cả y khoa), M.D (Doctor
of Medicine) dành riêng cho y khoa, và D.Sc (Doctor of
Science) cho tất cả các ngành khoa học. Ở các nước này,
học vị D.Sc, trên lí thuyết, được xem cao hơn học vị
Ph.D và M.D, vì một trong những điều kiện được theo học
D.Sc là thí sinh phải có học vị Ph.D hay M.D ít nhất là
10 năm và đã có đóng góp lớn trong nghiên cứu khoa học
trên trường quốc tế.
Không nên nhầm lẫn giữa văn bằng D.Sc của
Úc/Anh và của Mĩ. Ở Mĩ, văn bằng cao nhất là Ph.D hay
tương đương. Những văn bằng tương đương Ph.D ở Mĩ
thường gặp là D.Sc (còn được viết tắt là Sc.D), Ed.D.
(Doctor of Education, Tiến sĩ Giáo dục), Dr.P.H (Doctor
of Public Health, Tiến sĩ Y tế Công cộng), Dr.Eng
(Doctor of Engineering, Tiến sĩ Kĩ thuật). Một số
trường, chẳng hạn như Trường Đại học Harvard, học vị
doctorate của nghành Y tế Công cộng (Public Health) là
D.Sc., trong khi đó ở các trường khác lại gọi là Dr.P.H
hay Ph.D. Tương tự, ở Trường Đại học Boston, những học
sinh tốt nghiệp doctorate ngành sư phạm được gọi là
Ed.D., nhưng phần lớn ở các trường khác thì lại được gọi
là Ph.D. Văn bằng Ph.D. cũng được cấp cho các học sinh
trong các ngành kĩ thuật, nhưng có trường ở Mĩ lại gọi
là Dr.Eng! Vì thế văn bằng D.Sc của Mĩ không tương
đương với bằng D.Sc của Úc hay Anh Quốc.
• Tiến sĩ và Bác sĩ Tiếng Việt ta phân biệt Tiến sĩ và Bác sĩ; nhưng trong
tiếng Anh, những người có học vị Ph.D, D.Sc và M.D đều
được gọi là Doctor. Tuy nhiên, có sự khác biệt
giữa văn bằng M.D của Úc/Anh và M.D của Mĩ. Không giống
như ở Mĩ, nơi mà y khoa được dạy như một chương trình
sau đại học ("Graduate study", tức sau khi sinh viên đã
xong chương trình Cử nhân); ở Úc và Anh, các sinh viên
học y khoa được tuyển thẳng từ các trường trung học, và
do đó, chương trình y khoa được xem là bậc đại học
("Undergraduate"), mặc dù thời gian huấn luyện tương
đương. Trong khi các sinh viên y khoa ở Mĩ ra trường
với văn bằng M.D (Doctor of Medicine, Tiến sĩ Y khoa),
các đồng nghiệp của họ ở Úc tốt nghiệp với hai bằng cử
nhân M.B và B.S (Bachelor of Medicine và Bachelor of
Surgery, Cử nhân Y khoa và Cử nhân Giải phẫu). Cần được
nói thêm là mặc dù văn bằng là cử nhân, nhưng danh xưng
của họ là Doctor (Bác sĩ).
Ở Úc, các bác sĩ đã có văn bằng M.B và B.S có
thể ghi danh theo học tiếp chương trình Ph.D hay M.D.
Chương trình Ph.D có mục đích đào tạo các bác sĩ thành
những nhà khoa học chuyên nghiệp, có khả năng nghiên cứu
độc lập. Chương trình M.D có mục đích đào tạo các bác
sĩ thành những chuyên gia lâm sàng (clinical science)
hơn là khoa học cơ bản (basic science). Chương trình
học M.D thông thường là 2 cho tới 3 năm (ngắn hạn hơn
thời gian học Ph.D khoảng một hoặc hai năm). Do đó, văn
bằng M.D của Úc và Anh không có cùng nghĩa với văn bằng
M.D của Mĩ.
• Post-doctorate – “Hậu tiến sĩ”
Khi học sinh hoàn tất chương trình tiến sĩ,
thí sinh còn phải trải qua một giai đoạn “thực tập”
thông thường kéo dài khoảng 1 tới 5 năm. Người nghiên
cứu trong giai đoạn này thường được gọi là
“Post-doctoral fellow” (tạm dịch là “nghiên cứu sinh hậu
tiến sĩ”). Thực ra, trong giai đoạn này, thí sinh không
được cấp văn bằng gì cả, vì đây là giai đoạn mà nghiên
cứu sinh phải làm việc dưới sự hướng dẫn của một giáo sư
kinh nghiệm, và qua đó dần dần tự mình phát triển một
chương trình nghiên cứu của riêng mình. Đây cũng là
thời gian mà nghiên cứu sinh có cơ hội để “trưởng thành”
một nhà nghiên cứu độc lập. Vì thế, “Postdoctoral
fellow” không phải là một văn bằng, và không nên hiểu
như là một “tiến sĩ cao cấp” (8).
Phần 2
Hệ thống học hàm
Học vị là những văn bằng được cấp bởi các cơ
sở giáo dục cho sinh viên sau khi đã hoàn tất một chương
trình học. Học hàm là những chức vụ khoa bảng hoặc do
các trường đại học đề bạt hoặc do chính phủ trao tặng
cho những người giảng dạy hay nghiên cứu khoa học. Nói
đến “Học hàm” ở đây là nói đến chức giáo sư (Professor),
phó giáo sư (Associate Professor), giáo sư dự khuyết
(Assistant Professor), giảng sư (Lecturer và Senior
Lecturer), và các chức danh trong các viện nghiên cứu
khoa học như Fellow, Senior Fellow, Principal Fellow
và Scientist.
Trong các trường đại học Tây phương, người ta
phân biệt ba cấp nhân viên giảng dạy mà tôi tạm gọi
[theo chức năng và trình độ] là: tập sự, trung cấp, và
cao cấp. Ở bậc tập sự gồm các chức vụ như Teaching
Assistant, Tutor. Proctor, v.v... Những nhân viên
này có trách nhiệm làm phụ giảng, chấm bài thi, giám thị
trong phòng thí nghiệm, v.v…
Ở bậc trung cấp gồm những nhân viên khoa bảng mang học
hàm như Lecturer (ở Anh và Úc), Maitre Assistant
(Pháp) và Assistant Professor (Mĩ) (9). Những
nhân viên này là những người đang ở bước đầu trong nấc
thang sự nghiệp khoa bảng, có nhiệm vụ trực tiếp giảng
dạy sinh viên và làm nghiên cứu hoặc độc lập, hoặc dưới
sự chỉ đạo của các giáo sư thâm niên.
Trên trung cấp một bậc là những nhân viên khoa bảng mang
học hàm Reader, Fellow hay Senior Lecturer
(ở Anh và Úc), Maitre de Conférence (Pháp) và
Associate Professor (Úc và Mĩ) (10). Những người
này là những nhà khoa bảng đang ở trong thời kỳ "quá độ"
để chuẩn bị được đề bạt lên một chức vụ khoa bảng cao
nhất trong hệ thống học hàm đại học. Trong đại đa số,
họ cũng là những nhà nghiên cứu độc lập và có ít nhiều
uy tín trong chuyên môn.
Sau cùng là các chức danh khoa bảng cao cấp nhất như
Professor (ở Mĩ, Anh, và Úc, Pháp) hay Senior
Fellow (Anh và Úc) (11). Họ là những nhà khoa bảng
kinh nghiệm lâu năm và quá trình nghiên cứu có uy tín
trên trường quốc tế.
Tiêu chuẩn để được đề bạt vào các chức vụ này
thường dựa vào ba cống hiến chính: nghiên cứu, giảng
dạy, và phục vụ cộng đồng. Về nghiên cứu, mức độ cống
hiến cho kiến thức nhân loại được "đo lường" bằng số
lượng và chất lượng các bằng sáng chế (patents) hay các
bài báo khoa học (papers) được công bố trong các tạp chí
khoa học chuyên môn (12). Tùy theo trường đại học, một
Assistant Professor phải có ít nhất là 5 bài báo khoa
học; một Associate Professor thường phải có tối thiểu là
30 bài báo khoa học; và một Professor phải có tối thiểu
là 50 (thường là 100) bài báo khoa học.
Học hàm “kết hợp”
Ngoài các học hàm được phong hay đề bạt một
cách nghiêm chỉnh dựa trên thành thích hoạt động khoa
học và giảng dạy, trong một số ngành như y khoa, kinh
tế, và kĩ thuật, một số học hàm được trao tặng dựa vào
sự quan hệ của người được trao và trường đại học. Trong
các bệnh viện, một số bác sĩ chuyên khoa cao cấp, tuy
không làm nghiên cứu khoa học và chưa từng công bố công
trình khoa học nào, có thể được bổ nhiệm chức vụ
Lecturer, Assistant Professor, Associate Professor hay
thậm chí Professor trong các trường Y. Tương tự, một số
chuyên viên nghiên cứu khoa học trong các công ti kĩ
nghệ, tuy không giảng dạy, nhưng cũng được trao tặng các
chức vụ khoa bảng trên.
Những “nhà khoa bảng” này không được trường đại học trả
lương, và không phải là nhân viên chính thức của
trường. Nhưng khi họ công bố các bài báo khoa học thì
trường có quyền kể những bài báo đó như tài sản tri thức
của nhà trường! Tuy nhiên, bù lại, họ được phép dùng
những danh xưng khoa bảng của trường trong các văn bản
liên quan đến hoạt động khoa học. Những học hàm này
thường có chữ “Conjoint” hay “Adjunct” phía trước danh
xưng “Professor” hay “Associate Professor” để phân biệt
với những học hàm “thật”. Việc dùng những danh xưng
này, trên lí thuyết, thường được các trường đại học kiểm
tra rất gắt gao; nhưng trong thực tế, nhiều người được
trao những học hàm này thường lờ đi!
hàm danh dự
Hầu như tất cả các trường đại học ở các nước Tây
phương đều có những kế hoạch để biểu dương tên tuổi và
danh tiếng của trường mình đến với thế giới bên ngoài.
Để đạt được mục tiêu này, các trường đại học thường dùng
chính sách cấp học vị và học hàm danh dự cho những nhân
vật quan trọng trong cộng đồng. Những học vị và học hàm
danh dự được trao tặng thường là những văn bằng và chức
vụ cao nhất trong đại học: “Tiến sĩ” (Honorary Doctor)
hay “Giáo sư” (Honorary Professor). Người được trao
tặng không nhất thiết phải là cựu sinh viên hay cựu nhân
viên của trường, cũng không cần phải có quá trình học
vấn nào, mà có thể là một nhà hoạt động chính trị, nhà
hoạt động xã hội, một nghệ sĩ, nhà báo, công chức … có
tiếng tăm. Ở Úc, cựu Thủ tướng Paul J. Keating, người
có trình độ học vấn cấp phổ thông trung học, sau khi rời
chính trường, được Trường Đại học New South Wales trao
tặng học hàm “Honorary Professor”, để ghi nhận đóng góp
của ông trong nỗ lực đem tên tuổi nước Úc vào thị trường
kinh tế Á châu.
Những học vị và học hàm danh dự, vì thế, có tính ngoại
giao, “hữu nghị”, hơn là những chứng chỉ khoa bảng. Do
đó, trong thực tế, phần đông những người Tây phương được
trao học vị và học hàm danh dự ít khi nào dùng nó như là
một thành tích hoạt động khoa bảng hay trình độ học vấn;
tuy nhiên, một số đồng hương người Việt lại hay thích ký
tên mình kèm theo những danh xưng danh dự nơi công cộng.
Ngoài các học hàm "hữu nghị" này, nhiều trường đại học
còn phong chức "Emeritus Professor" (cựu giáo sư) cho
các giáo sư đã nghỉ hưu, nhưng vẫn còn gắn bó với trường
đại học. Danh hiệu này thường được trao tặng cho các
giáo sư có đóng góp lớn cho khoa học, cho trường và đã
làm việc tại trường trong một thời gian dài.
Vài chức vụ trong các hội đoàn chuyên môn
Một số ngành nghề chuyên môn như y khoa và kĩ
thuật thường được tổ chức khá chặt chẽ, mà trong đó
trình độ chuyên môn và đẳng cấp thâm niên được phân chia
tương đối rõ ràng. Theo cơ cấu tổ chức này, những người
hành nghề phải là hội viên của một hiệp hội chuyên
ngành. Hiệp hội này có chức năng đề ra những tiêu chuẩn
và qui tắc hành nghề, kiểm tra trình độ chuyên môn của
hội viên, và quản lí nhân sự trong tổ chức. Theo định
kì, thường là hàng năm, các hiệp hội chuyên môn này tổ
chức một kì thi tuyển để kết nạp hội viên. Chẳng hạn
như ở Úc và Anh, các bác sĩ muốn hành nghề chuyên khoa,
ngoài việc thực tập một thời gian (khoảng 5 năm), còn
phải qua một kì thi tuyển vào một hội đoàn chuyên môn
như "Royal College of Surgeons" (dành cho các bác sĩ
giải phẫu), "Royal College of Radiologists" (dành cho
các bác sĩ chuyên khoa quang tuyến học), v.v... Sau khi
thi đỗ, thí sinh sẽ được cấp chứng chỉ hành nghề. Những
chứng chỉ này thường có chữ "Fellow" phía trước, như
"Fellow of the Royal College of Surgeons" hay (FRCS).
Tuy mang danh hiệu Fellow, nhưng cấp bậc thì
không tương đương với các chức danh khoa bảng trong các
viện nghiên cứu. Giới kĩ sư ở Mĩ cũng có những hiệp hội
tương tự như trong ngành y khoa, nhưng cách thức thu nạp
hội viên và tên gọi của họ khác ngành y khoa.
Tuy nhiên, trong các ngành nghề khác, có rất
nhiều hiệp hội chuyên môn hoạt động một cách bán thương
mại, và hình thức tổ chức không chặt chẽ như trong ngành
y khoa và kĩ thuật. Phần đông những hiệp hội này mở cửa
đón nhận tất cả các hội viên, không phân biệt trình độ
học vấn và khả năng chuyên môn, ngay cả sinh viên cũng
có thể gia nhập, và không phải qua một kì thi tuyển
nào. Hội viên phải đóng hội phí mỗi năm. Hội viên
thường được gọi là "Member", thay vì "Fellow" như các
hiệp hội nghiêm túc. Do đó, là hội viên của những hội
này không có nghĩa là một bằng chứng về khả năng chuyên
môn hay thành tích hoạt động khoa học.
Ngoài các hiệp hội chuyên môn, còn có những
hội đoàn bách khoa, mà trong đó thành viên là tất cả các
nhà khoa học hoạt động trong mọi lĩnh vực khác nhau.
Những hiệp hội này thường có tên "Academy", chẳng hạn
như "The National Academy of Sciences of the United
States of America" (tức Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia
Hoa Kỳ). Không giống như Liên Xô cũ (nơi mà Viện Hàn
Lâm Khoa Học Moscow là một trung tâm nghiên cứu), ở các
nước Tây phương như Mĩ, Anh và Úc, viện hàn lâm không
phải là một viện nghiên cứu, cũng không phải là tập hợp
các viện nghiên cứu, mà là một đoàn thể hay tổ chức tư
nhân bất vụ lợi, có chức năng chính là: (i) cố vấn cho
chính phủ các chính sách liên quan tới khoa học và kĩ
thuật; và (ii) giáo dục và cổ động quần chúng về khoa
học và vai trò của khoa học trong xã hội.
Đối với phần đông quần chúng, cụm từ "viện hàn lâm"
đồng nghĩa với nơi tập trung của những bộ óc siêu việt,
những con người thông thái nhất của một quốc gia. Nhưng
trong thực tế ở các nước có nền khoa học tiến bộ cao như
Mĩ thì điều này chỉ đúng một phần, vì như nói trên, Viện
Hàn lâm Khoa học chỉ là một đoàn thể, là một cơ quan đại
diện [có thể là cao nhất] cho các nhà khoa học. Hội
viên của hàn lâm viện thường do đồng nghiệp tiến cử và
bình bầu. Do đó, có nhiều nhà khoa học có thực tài,
nhưng không được tiến cử, nên không bao giờ là thành
viên của hàn lâm viện! Trong số khoảng 350 nhà khoa học
và xã hội Mĩ đoạt giải Nobel, chỉ có 170 người là thành
viên của Viện này. Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa
Kì có khoảng 1900 thành viên; trong đó có khoảng 300 là
người mang quốc tịch và ở nước ngoài [Mĩ]. Theo tiêu
chuẩn chung, họ phải là những nhà khoa học ưu tú trong
lĩnh vực chuyên môn, nhưng do tính cách bình bầu, nên nó
cũng lộ ra vài vấn đề liên quan đến việc thiên vị và bè
phái. Đã có nhiều người cho rằng Viện này là một câu
lạc bộ kín ("close club"), nơi mà chỉ có các nhà khoa
học quen biết với nhau qua giao thiệp xã giao, hơn là
một cơ quan đại diện chân chính cho các nhà khoa học.
Điểm qua danh sách của 1900 thành viên thuộc Viện này,
người ta có thể tìm thấy tên của nhiều nhà khoa học
thường hay xuất hiện trên các hệ thống truyền thông đại
chúng hay có nhiều hoạt động xã hội và chính trị như
Albert Einstein, James Watson, v.v. Thành ra, nhiều nhà
khoa học lớn, những người tự coi họ là làm khoa học loại
"thứ thiệt", những người không thích hư danh hay ồn ào
trên các hệ thống truyền thông, thì không thích có mặt
trong Viện này. Nhà vật lí học lừng danh Richard
Feynman, cũng như nhiều nhà khoa học danh tiếng khác,
không phải là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc
gia Hoa Kì. Chưa có một khoa học Việt Nam hay gốc Việt
nào có chân trong Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học Hoa Kì.
Vài nhận xét chung
Người không quen với hệ thống khoa bảng và
bằng cấp có thể sẽ thấy chóng mặt với những tên gọi
những học vị và học hàm trên đây, và sẽ đặt câu hỏi là
người được cấp những văn bằng này phải đạt những tiêu
chuẩn gì. Thực ra, đứng trên bình diện quốc gia, không
có tiêu chuẩn nhất quán giữa các trường đại học trong
việc cấp những văn bằng này. Mỗi trường đại học có
những tiêu chuẩn riêng. Có khi mỗi thí sinh cũng được
xét theo từng trường hợp riêng biệt. Có sinh viên ra
trường tiến sĩ chỉ trong vòng sau 3 hay thậm chí 2 năm
theo học, nhưng cũng có sinh viên phải miệt mài cả tám
năm để lấy mảnh bằng Tiến sĩ. Cũng có những trường hợp
hiếm hoi khi sinh viên theo học chương trình Tiến sĩ,
nhưng khi ra trường chỉ được thẩm định và cấp bằng Cao
học. Lại có người nghiên cứu cả mười năm, nhưng chẳng
viết được luận án gì!
Đôi khi, tự những học vị Ph.D, M.S, B.S nó bao hàm một
nội dung rộng đến mức ... chẳng có nghĩa gì cụ thể.
Trên lí thuyết, văn bằng Ph.D là học vị cao nhất ở Mĩ và
Úc; tuy nhiên, cũng có nhiều "loại" Ph.D với nhiều chất
lượng khác nhau. Có nhiều người có văn bằng Ph.D, nhưng
độ hiểu sâu và kiến thức chưa chắc đã hơn một người có
học vị Cử nhân, thậm chí Tú tài, thời Pháp thuộc ở Việt
Nam.
Ngoài ra, ở Mĩ còn có tệ nạn "nhà máy văn bằng" (diploma
mills) hoạt động hoặc dưới hình thức dạy học hàm thụ,
hoặc qua hệ thống dạy học từ xa với sự trợ giúp của máy
vi tính và mạng internet. Phần lớn những trường này
thực chất chỉ là những văn phòng nhỏ tại nhà, thậm chí
chỉ là nhà để xe hay nhà bếp, nhưng họ lại tự gắn cho họ
những cái tên "lập lờ đánh lận con đen" (mà nếu công
chúng không để ý kĩ có thể lẫn lộn với những trường danh
tiếng của Mĩ) như "Harbard University", "Universitas
Harvardiana", "Atlanta Southern University", v.v. Mục
đích duy nhất của các sơ sở thương mại này là bán bằng
cấp với giá từ 3000 tới 5000 đô-la Mĩ. Có "trường" còn
bán tới 500 bằng tiến sĩ hàng tháng! Do đó, một học vị,
nếu không "đi kèm" với một trường đại học nghiêm chỉnh
được công nhận, cũng có thể không có giá trị khoa bảng
gì.
Tiêu chuẩn và phẩm chất học hàm thường mang tính địa
phương; tức là cũng có sự khác nhau giữa các thời điểm,
giữa các nước, và thậm chí giữa các trường đại học trong
cùng một nước. Một vị Professor ở Mĩ có thể chỉ được
xem tương đương với một Associate Professor ở Pháp hay
Anh, và ngược lại. Tương tự, một Assistant Professor ở
một trường danh tiếng tại Mĩ có thể trở thành Professor
ở Nhật, Hồng Kông hay Singapore.
Thời điểm cũng là một yếu tố quan trọng. Vài mươi năm
trước đây, ở các nước như Anh, Úc, Pháp, Đức và Nga, mỗi
Ban chuyên môn (Department) trong một trường đại học chỉ
có một người duy nhất mang học hàm "Professor", những
người còn lại chỉ là "Associate Professor" hay
"Lecturer". Những vị người mang hàm "Professor" thời đó
được phép dùng danh hiệu này suốt đời, dù họ chuyển từ
trường đại học này sang trường đại học khác. Học hàm
"Professor", do đó, cực kì cao quí ở các nước này trong
thời gian trước đây. Nhưng ở một góc độ khác, có thể
nói vấn-đề-một-Professor này cũng là nguyên nhân làm cho
nhiều nhà khoa bảng ở các nước trên chuyển sang Mĩ
nghiên cứu và giảng dạy, vì ở Mĩ, một Ban có thể có
nhiều (thậm chí hàng trăm) người mang hàm "Professor".
Các nhà khoa bảng trẻ ở Mĩ không phải chờ đến lúc lục
tuần để được phong hàm "Professor"! Tuy nhiên, để chống
lại dòng "chảy chất sám" này, ngày nay, ở các nước như
Anh, Đức và Úc, học hàm "Professor" đã được "Mĩ hoá", và
mỗi Ban có thể có nhiều người mang học hàm "Professor".
Các nhà khoa bảng trẻ do đó có cơ hội mang học hàm này
hơn trước.
Vì học hàm "Professor" bị Mĩ hóa, ngày nay, có quá nhiều
Professor và phân biệt ai giỏi, ai dở là một việc làm
cực kì khó khăn vì trong nhiều trường hợp, học hàm này
không còn phản ảnh trung thực khả năng chuyên môn của
nhà khoa bảng nữa. Thực vậy, nhiều giáo sư ở các trường
đại học lớn ở Mĩ và Úc cũng có thể "dốt" (huống hồ chi
là học trò Ph.D!) Ngược lại, cũng có vô số người không
có học hàm "Giáo sư" nhưng lại cực kì giỏi. Cũng có
nhiều nhà khoa bảng có hàng trăm bài báo khoa học và
trên phương diện chuyên môn, còn danh tiếng hơn nhiều
Professors khác, nhưng họ chỉ giữ chức Assistant
Professor, thậm chí không có học hàm nào! Thành ra,
trong hoạt động khoa học, bằng cấp và danh xưng là những
điều không được đặt nặng. Thực ra, đối với phần lớn các
nhà khoa học chân chính, những học hàm và danh xưng hoàn
toàn vô nghĩa, ngoài việc gây ấn tượng và "lấy le" với
những người dân thường hay những nhà chính trị thiếu
hiểu biết về hoạt động khoa học.
Xuất phát từ truyền thống lâu đời, người Việt
Nam ta trọng giới khoa bảng và những người có bằng cấp
cao. Nhưng sự trọng bằng cấp của số đông dân chúng đã
sinh ra tệ nạn khệnh khạng bằng cấp trong giới có học
hay có chút chữ nghĩa. Ngày nay, chỉ cần mở một tờ báo
Việt, người ta sẽ phải chóng mặt về những bằng cấp và
danh xưng của các vị cử nhân, luật sư, kĩ sư, tiến sĩ,
giáo sư, này nọ. Cố nhiên, một số bằng cấp và học hàm
này là thật, do chính đương sự đạt được trong quá trình
học tập và nghiên cứu, nhưng cũng có một số không ít là
những bằng cấp được chuyển ngữ một cách bịp bợm, nhằm
lòe đồng hương, hay thậm chí một số học vị và học hàm
"dỏm". Thực vậy, có lẽ do nhu cầu kinh tế hay môt lí do
nào đó, người có bằng cấp, do vô tình hay cố ý, cũng đã
đôi khi lạm dụng bằng cấp của mình và danh xưng. Nhiều
trường hợp, người ta quảng cáo là "Giáo sư" một đại học
nào đó, nhưng lại cố tình lờ đi thực chất học hàm đó chỉ
là một chức "Conjoint" hay danh dự. Có trường hợp người
ta quảng cáo là "Fellow" của một đoàn thể chuyên môn về
giải phẫu, nhưng trên thực tế họ chỉ là "Member"!
Cuối cùng, một điều khá phổ biến trong những người có
bằng cấp là họ thường hay nghĩ rằng học vị và học hàm
của họ là ưu việt hơn bằng cấp của người khác, trường
đại học hay cao đẳng và các giáo sư mà họ theo học là
danh tiếng hơn, tốt hơn, giỏi hơn, v.v... những nơi khác
và giáo sư khác. Điều này không những chỉ thấy ở giữa
cá nhân, mà còn giữa các quốc gia. Dù không nói ra cụ
thể, nhưng chất lượng bằng cấp thường được đánh giá một
cách chung chung dựa vào nền khoa học kĩ thuật của một
nước hơn là dựa vào khả năng của người có bằng cấp.
Chính vì thế mà những nước đã phát triển như Mĩ, Anh,
Úc, Pháp, v.v… không chịu công nhận bằng cấp từ các nước
nghèo hơn như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, v.v… Lí do
không công nhận bằng cấp nước ngoài thường được núp dưới
danh nghĩa “tiêu chuẩn”, tức là theo họ, những chuyên
viên được đào tạo trong các nước đang phát triển có tiêu
chuẩn thấp hay không đạt tiêu chuẩn mà họ đưa ra.
Thật là khôi hài và ấu trĩ nếu người Úc cho rằng kĩ sư
của họ tài giỏi hơn kĩ sư người Đức, hay bác sĩ của họ
được đào tạo kĩ hơn các bác sĩ người Mĩ hay Pháp, hay
các nhà toán học của Úc khá hơn các nhà toán học Việt
Nam hay Ấn Độ. Ấy thế mà đó là những nguyên nhân mà họ
đưa ra để không chịu công nhận bằng cấp của các nước
ngoài Úc! Nhưng xét cho cùng, ngoài một vài lí do chính
đáng, sự không-công-nhận bằng cấp nước ngoài cũng là một
cách phô trương thanh thế của họ, những nước giàu có, và
bảo vệ thị trường lao động cho sinh viên người bản xứ,
chứ chẳng liên quan gì đến tiêu chuẩn và phẩm chất đào
tạo.
Mục đích thực và chính của việc học hành là để mở mang
trí tuệ, trau giồi kiến thức, rèn luyện nhân cách, và
làm người hữu ích cho xã hội. Bằng cấp và chức vụ khoa
bảng không phải dùng để đo những kết quả trên, mà chỉ là
những phân chia đẳng cấp khoa bảng rất tương đối. Bằng
cấp, dù là học vị cao nhất như tiến sĩ, chỉ là một bước
đầu trong hoạt động khoa học, và tự nó không nói lên
được khả năng chuyên môn của nhà khoa học. Tương tự,
một học hàm cao nhất như giáo sư cũng không phản ánh
chính xác được mức độ đóng góp vào kho tàng tri thức của
nhân loại. Người trí thức chân chính chỉ nghĩ đến những
đóng góp có giá trị nhằm đem lại phúc lợi thực sự cho
nhân loại, và không bao giờ phụ thuộc vào học vị, học
hàm hay các danh xưng phù phiếm để gây ảnh hưởng trong
cộng đồng.
Ghi chú:
[1] Thực ra, Universitas of Doctors chỉ là một
hiệp hội (Guild) của những "Thầy". Theo tiếng Latin,
chữ Doctorem cũng có nghĩa là "Thầy".
[2] Tuy nhiên, trong những năm gần đây các trường này
đều trở thành đại học chính thức. Chẳng hạn như trường
"University College of Bristol" tuy thành lập từ năm
1876, nhưng mãi đến năm 1909 mới được công nhận là "The
University of Bristol"!
[3] Ở Việt Nam còn xảy ra một sự ngộ nhận hết sức "tai
hại" trên báo chí về một em học sinh người Việt Nam, 17
tuổi, đỗ đầu ở một trường trung học tư thục ở Anh; nhưng
có lẽ vì nhầm lẫn trường "college" mà em theo học là
"đại học", nên nhà báo đã vội viết bài ca ngợi em là một
"thần đồng tốt nghiệp đại học năm 17 tuổi"!
[4] Tôi không biết tiếng Việt ta có danh từ nào để dịch
văn bằng "Associate". Có người đề nghị dùng "Chứng chỉ"
để dịch chữ này; tuy nhiên "Chứng chỉ" có lẽ chính xác
hơn với "Certificate". Tôi đề nghị dùng cụm từ "Cử nhân
dự khuyết" cho văn bằng "Associate".
[5] Hai văn bằng Bachelor of Science (B.Sc. hay B.S.)
và Bachelor of Arts (B.A.) thường được dịch là "Cử nhân
Khoa học" và "Cử nhân Văn chương". Tuy nhiên, hai văn
bằng này rất bao quát. Một sinh viên theo học môn Tâm
lí học (Psychology) có thể tốt nghiệp với văn bằng B.A.
nếu bộ môn này chịu sự quản lí của phân khoa Văn chương
(Faculty of Arts), hoặc B.Sc. nếu bộ môn Tâm lí học chịu
sự quản lí của phân khoa Khoa học (Faculty of Science).
[6] Dựa vào tính cách đào tạo và chương trình học, tôi
đề nghị dùng cụm từ "Cao học dự khuyết" cho văn bằng
"Graduate Diploma".
[7] "Doctorate" là một danh từ chung dùng để chỉ học vị
"Tiến sĩ". Chữ “Tiến sĩ” có lẽ được xuất phát từ chữ
Hán mà tiếng Anh phiên âm là “Chin-shih” (và tiếng Anh
dịch là “Doctor”). Hình như văn bằng này được cấp lần
đầu tiên vào năm 1313 (dưới triều đại nhà Tống); vào năm
này, một cuộc thi tuyển đặt dưới sự chủ tọa của vua được
tổ chức. Qua kết quả của kỳ thi này, có 300 thí sinh
được cấp danh hiệu Chin-shih; trong số này, có 75 người
gốc Mông Cổ, 75 người quê quán ở miền Nam Trung Quốc, 75
người quê quán ở miền Bắc Trung Quốc, và 75 người có
quốc tịch ngoại quốc.
[8] Trong một bài báo gần đây ở trong nước, một nhà
giáo dục đề nghị dùng cụm từ "Tiến sĩ cao cấp" để gọi
các thí sinh này!
[9] Trong các đại học Anh và Úc, không có chức vụ
Assistant Professor, và những chức vụ như Lecturer và
Senior Lecturer được xem là tương đương hay cao hơn với
Assistant Professor của Mĩ. Tuy được gọi là "Assistant
Professor", nhưng những giáo sư này không phải là phụ tá
(assistant) cho các giáo sư cao hơn, mà là một giáo sư
hoàn toàn độc lập. Vì thế, các học hàm ở bậc này có lẽ
nên dịch sang tiếng Việt là "Giảng sư".
[10] Trong một vài trường đại học theo hệ thống của Anh
Quốc, học hàm "Reader" được xem là tương đương với
"Associate Professor". Ở trong nước, Associate
Professor được dịch là "Phó Giáo sư".
[11] Học hàm "Professor" thường được dịch là "Giáo
sư". Đây là một học hàm cao nhất trong đại học. Tuy
nhiên, cũng có trường đại học ở Mĩ phong học hàm
"University Professor" (thường được xem là cao hơn cả
"Professor") cho các giáo sư có thành tích nghiên cứu
khoa học xuất sắc và có đóng góp lớn cho trường.
[12] Các bài báo này thường phải qua một giai đoạn
"kiểm duyệt" tương đối gắt gao (thường từ 6 tháng đến
một năm) trước khi được chấp nhận cho xuất bản. Người
kiểm duyệt thường là đồng nghiệp làm cùng ngành, nhưng
đương sự (người có bài báo được duyệt xét) không biết họ
là ai. Các tạp chí có chất lượng cao chỉ nhận công bố
khoảng 1 tới 20% các bài báo khoa học được gửi tới tòa
soạn. Vì thế, nhá khoa học nào có nhiều công trình được
công bố trên các tờ tạp chí có uy tín thường để nể trọng
trong ngành nghề của mình, và có cơ hội được thăng tiến
trong nấc thang khoa bảng
Nguồn
https://nguyenvantuan.chuyenluan.net
Bài góp ý của tác giả Nguyễn Xuân Thiện
Người Việt Nam thường gọi "doctor" là "bác sĩ" để chỉ
thầy thuốc, hoặc "tiến sĩ" để chỉ một học vị cao nhất ở đại học. "Bác sĩ" là một
nghề nghiệp, trong khi đó "tiến sĩ" là một học vị. Trong tiếng Anh cũng vậy, câu
nói "I am a doctor" có ý nghĩa hoàn toàn khác với "I have a doctor's degree".
Ở Mỹ chữ "Ph.D." (viết tắt của “Doctor of Philosophy”),
có nghĩa tương đương với chữ "tiến sĩ" của Việt Nam, là học vị cao nhất ở đại
học. Một vài tiêu chuẩn tối thiểu của nó là phải có công trình nghiên cứu mang
tính cách học thuật, có tính cách độc sáng (originality), thể hiện dưới hình
thức một luận án trước khi đưọc cấp học vị này. Loại "doctor" này ở Mỹ gọi là
"academic doctorate degree" để phân biệt với các loại "doctor" trong "doctor of
medicine", "doctor of pharmacy" v.v... thuộc nhóm "first professional degree"
("học vị chuyên nghiệp cấp một").
Nói một cách chi tiết hơn, "first professional degree" ở
Mỹ chủ yếu gồm có:
- Doctor of Audiology (Au.D.)
- Doctor of Chiropractic ( D.C.)
- Doctor of Dental Surgery (D.D.S.), Doctor of Dental
Medicine (D.M.D)
- Doctor of Medicine (M.D.)
- Doctor of Occupational Therapy (D.O.T.)
- Doctor of Optometry (O.D.)
- Doctor of Osteopathic Medicine (D.O.)
- Pharmacy Doctor (Pharm.D.)
- Doctor of Physical Therapy (D.P.T.)
- Doctor of Podiatric Medicine (D.P.M.)
- Doctor of Veterinary Medicine (D.V.M.)
- Juris Doctor (J.D.)
Đăc điểm của loại "doctor" trong "first professional
degree" là:
- phần lớn liên hệ đến nghề y và một cái bên luật - không đào tạo trực tiếp ngay sau cấp trung học (như ở
nhiều nước khác), mà là phải học qua từ 2 đến 4 năm (ngành gì cũng được ) ở đại
học. Sau đó học 3, 4 năm (thông thường là 4 năm) ở trường chuyên nghiệp
(professional school) - không cần có luận án có tính cách nghiên cứu độc sáng
để được cấp "doctor".
Hiểu như vậy những chữ "doctor of medicine", "pharmacy
doctor" ở Mỹ nên dịch là "y sư", "dược sư" thì đúng hơn dịch là "tiến sĩ y
khoa", "tiến sĩ dược khoa".
Ở đây chữ "doctor" nên hiểu theo nghĩa của tiếng Latin,
nghĩa là "thầy" (tiếng Hán gọi là "sư", như trong chữ "giáo sư"). Ở Việt Nam
ngày xưa người ta cũng quen dùng chữ thầy”, tỷ dụ “thầy giáo”, “thầy thuốc”,
"thầy kiện" để chỉ những người làm trong một số nghề mà người ta kính trọng.
Nhân tiện để tham khảo xin đưa thêm thí dụ về trường
hợp ngành y ở Nhật.
Ở Nhật, người ta vào thẳng trường y sau khi học xong
trung học. Sau 6 năm thì được tốt nghiệp với văn bằng cử nhân y khoa (igakushi)
do các đại học cấp. Tuy vậy, để có tư cách hành nghề bác sĩ (license) thì phải
qua kỳ thi của nhà nước, gọi là "kokka ishi shiken" (thi bằng “y sư quốc gia”).
Muốn có học vị tiến sĩ y khoa thì lại khác: phải tiếp tục nghiên cứu thêm 4 năm
nữa ở đại học. Ở Nhật, người ta phân biệt rất rõ chữ "bác sĩ" (ishi) -
một loại nghề nghiệp, với chữ "tiến sĩ" (hakase) - một loại học vị-, chứ không
dùng chung một chữ ”doctor” như ở nhiều nước khác.
Xin mời đọc Trang Nguyễn Văn Tuấn
https://vietsciences.free.fr/
Những bài cùng tác giả:
Bàn về nguồn gốc con người hiện đại (Nguyễn văn Tuấn) Bưởi không gây ung thư vú (Nguyễn văn Tuấn) Bảo tồn môi sinh (Nguyễn văn Tuấn) Chất béo không ảnh hưởng.. (Nguyễn văn Tuấn) Giải Nobel Y học (Nguyễn văn Tuấn) Giải Nobel Y học: GS Mario R. Capecchi (Nguyễn văn Tuấn) Học vị tiến sĩ và học hàm ở các đại học Úc và Mĩ (Nguyễn văn Tuấn) Nhân năm Tý bàn chuyện (Nguyễn văn Tuấn) Những ngộ nhận về học vị tiến sĩ tại VN (Nguyễn Văn Tuấn) Quản lí dự án nghiên cứu khoa học (Nguyễn văn Tuấn) Vấn đề tác giả một bài báo khoa học (Nguyễn văn Tuấn)
|