|  | đăng 27 tháng 9, 2009 | 
 
Hai tuần qua, dù 
												bận đi công tác ở bên Mĩ, tôi 
												vẫn thỉnh thoảng vào mạng đọc 
												báo để theo dõi tình hình trong 
												nước, và thấy nhiều sự kiện mà 
												tôi rất muốn bình luận nhưng vì 
												quá bận rộn nên đành “lực bất 
												tòng tâm” do không có thì giờ. 
												Hôm nay, việc phó hội cũng đã 
												xong xuôi, nên lại có thì giờ để 
												góp nhặt vài lời để gọi là “mua 
												vui cũng được một vài trống 
												canh”.
Hôm nọ, đọc một 
												tin rất lạ mà thoạt đầu tôi mỉm 
												cười một mình vì nghĩ rằng phóng 
												viên có trí tưởng tượng phong 
												phú quá: đó là bản tin cho biết 
												“Hà Nội mong 100% cán bộ 
												Thành ủy ‘quản’ là tiến sĩ”. 
												Nhưng tôi nghĩ sai: phóng viên 
												tường thật hoàn toàn chính xác 
												về chủ trương của chính quyền và 
												đảng ủy Hà Nội, vì hôm sau có 
												một quan chức của Sở nội vụ Hà 
												Nội lí giải rằng cần phải “Có 
												bằng tiến sĩ mới đột phá tư duy”. 
												Vị quan chức này, với danh xưng 
												tiến sĩ, chính là tác giả của “Chiến 
												lược cán bộ, công chức khối 
												chính quyền thành phố”.
Nếu xem chủ 
												trương nâng cấp 100% cán bộ diện 
												thành ủy có bằng tiến sĩ thì quả 
												thật ông tiến sĩ này có tư duy 
												đột phá. Nhưng chữ “đột phá” ở đây phải 
												hiểu là phá hoại cái ý nghĩa của 
												học vị tiến sĩ một cách đột ngột. 
												Để hiểu cách diễn giải đó, thiết 
												tưởng tôi có nhiệm vụ giải thích 
												mục tiêu và ý nghĩa của học vị 
												tiến sĩ.
Học tiến 
												sĩ để làm gì? 
Học vị tiến 
												sĩ thường dành cho những người 
												muốn theo đuổi sự nghiệp nghiên 
												cứu khoa học. Để dấn thân 
												vào sự nghiệp nghiên cứu khoa 
												học, học vị tiến sĩ là một “giấy 
												thông hành” quốc tế, cũng giống 
												như muốn hành nghề kĩ sư thì 
												phải có bằng kĩ sư. Cố nhiên 
												cũng có một số người tham gia 
												nghiên cứu khoa học dù họ không 
												có học vị tiến sĩ, nhưng đây là 
												những trường hợp ngoại lệ. Do 
												đó, trong quá trình đào tạo tiến 
												sĩ, nghiên cứu sinh phải làm 
												quen với những kĩ năng cơ bản 
												như phát hiện vấn đề, cách đặt 
												giả thuyết, thiết kế nghiên cứu, 
												thu thập dữ liệu (kể cả đo 
												lường), phân tích và diễn giải 
												kết quả nghiên cứu, v.v. Đây là 
												những kĩ năng mà bất cứ một 
												nghiên cứu sinh tiến sĩ nào cũng 
												phải có sau khi xong chương 
												trình đào tạo.
Do đó, để có được 
												học vị tiến sĩ, thí sinh phải 
												làm nghiên cứu khoa học một cách 
												nghiêm chỉnh. Hai chữ “nghiêm 
												chỉnh” ở đây rất quan trọng 
												trong trường hợp Việt Nam, bởi 
												vì rất rất nhiều nghiên cứu khoa 
												học ở trong nước chẳng những 
												không nghiêm chỉnh mà còn phạm 
												quá nhiều sai sót. Điều này cũng 
												có nghĩa là nếu muốn theo đuổi 
												sự nghiệp quản trị kinh doanh, 
												quản trị hành chính, thì học vị 
												tiến sĩ không cần thiết, và thí 
												sinh không nên tốn thì giờ để 
												đạt được học vị này.
Học vị tiến 
												sĩ dành cho những người muốn 
												theo đuổi sự nghiệp khoa bảng. 
												Học vị tiến sĩ là một “chứng từ” 
												để theo đuổi sự nghiệp khoa bảng 
												(academic career). “Khoa bảng” ở 
												đây được hiểu là giảng dạy đại 
												học và nghiên cứu khoa học. Cố 
												nhiên, ở nhiều đại học phương 
												Tây, vẫn có người có thể trở 
												thành giáo sư dù không có học vị 
												tiến sĩ, nhưng cơ hội tiến thân 
												trong các nấc thang khoa bảng 
												ngày nay cho những cá nhân như 
												thế không mấy cao. Nhiều trường 
												đại học lớn trên thế giới đòi 
												hỏi các giảng viên và giáo sư 
												hay các nhà nghiên cứu phải có 
												học vị tiến sĩ. Tại sao? Tại vì 
												họ muốn đảm bảo trường đại học 
												có đầy đủ chuyên gia để giảng 
												dạy các môn học cấp cao và bắt 
												buộc các chuyên gia này phải làm 
												nghiên cứu khoa học. Phần lớn 
												giáo sư đại học có học vị tiến 
												sĩ, nhưng không phải ai có bằng 
												tiến sĩ đều có thể trở thành 
												giáo sư.
Do đó, nếu thí 
												sinh muốn theo đuổi sự nghiệp 
												quản trị doanh nghiệp, kĩ nghệ 
												và khoa học (như muốn làm giám 
												đốc doanh nghiệp, giám đốc các 
												cơ sở khoa học) hay các chức vụ 
												hành chính, hay các chức vụ mang 
												tính quản lí trong hệ thống 
												chính phủ thì thí sinh không nên 
												theo học chương trình tiến sĩ, 
												mà nên theo học chương trình 
												thạc sĩ quản trị kinh doanh hay 
												quản trị hành chính (MBA – 
												Master of Business 
												Administration) . Tôi biết ngày 
												nay có đại học đưa ra chương 
												trình huấn luyện Tiến sĩ quản 
												trị hành chính (Doctor of 
												Business Administration) , nhưng 
												mục tiêu vẫn là đào tạo nhà 
												nghiên cứu và giáo sư. Xin nhắc 
												lại: cốt lõi của học vị tiến sĩ, 
												và cũng là khía cạnh dùng để 
												phân biệt học vị tiến sĩ với các 
												học vị đại học khác, là nghiên 
												cứu khoa học, không phải quản 
												trị.
Những ngộ 
												nhận về tiến sĩ 
Do đó, chủ trương 
												hướng tiến sĩ hóa cán bộ hành 
												chính thể hiện một sự hiểu lầm 
												về mục tiêu đào tạo tiến sĩ. Chủ 
												trương này sẽ dẫn đến tình trạng 
												có nhiều người tìm cách theo học 
												để lấy được một học vị tiến sĩ, 
												nhưng động cơ của việc theo học 
												thì lại quá sai lầm. Những sai 
												lầm về động cơ theo học tiến sĩ, 
												theo tôi, có thể tóm lược trong 
												những ngộ nhận phổ biến sau đây:
Ngộ nhận 1: 
												nhiều người hiểu lầm rằng học vị 
												tiến sĩ sẽ tự động đem lại uy 
												danh cho cá nhân. Hầu hết 
												các thí sinh đã đạt được văn 
												bằng tiến sĩ đều cảm thấy tự hào 
												về nỗ lực và kết quả của việc 
												phấn đấu trong học hành nghiên 
												cứu. Tuy nhiên, thí sinh phải 
												hiểu rằng một khi tốt nghiệp 
												tiến sĩ, thí sinh có thể làm 
												việc với nhiều nhà khoa học khác 
												cũng có bằng tiến sĩ. Học vị 
												tiến sĩ mới chỉ là bước đầu vào 
												nghiên cứu khoa học, là một minh 
												chứng rằng người có bằng đó 
												“trưởng thành” trong khoa học, 
												chứ nó (văn bằng tiến sĩ) chẳng 
												đem lại uy danh cho người có học 
												vị nếu người đó không có công 
												trình nghiên cứu nào có giá trị.
Ngộ nhận 2: ý 
												kiến của một cá nhân được nâng 
												cao chỉ vì cá nhân đó có văn 
												bằng tiến sĩ. Nhiều người 
												tin rằng một khi họ có văn bằng 
												tiến sĩ trong tay, công chúng sẽ 
												tự nhiên kính trọng ý kiến của 
												họ. Nhưng niềm tin này chỉ là 
												hoang tưởng. Người có học vị 
												tiến sĩ có thể am hiểu và uyên 
												bác về một lĩnh vực chuyên môn 
												hẹp nào đó, nhưng không phải là 
												chuyên gia của mọi vấn đề khác. 
												Sự kính trọng phải được chứng 
												minh qua hành động và bản lĩnh 
												của người phát biểu, chứ không 
												tự động mà có được qua danh xưng 
												“tiến sĩ”.
Ngộ nhận 3: 
												học vị tiến sĩ là mục tiêu sau 
												cùng trong học hành, nghiên cứu.
												Học vị tiến sĩ chuẩn bị thí 
												sinh vào sự nghiệp nghiên cứu. 
												Nếu thí sinh chỉ muốn có mảnh 
												giấy để treo trên tường thì 
												không nên theo đuổi học vị tiến 
												sĩ. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ, 
												thí sinh có cơ hội để so sánh 
												thành quả của mình với các nhà 
												khoa học khác. Thí sinh sẽ nhận 
												thức rằng cái được “tính sổ” 
												không phải là danh xưng hay học 
												vị tiến sĩ, mà là nghiên cứu 
												khoa học do chính thí sinh tiến 
												hành và hoàn tất.
Ngộ nhận 4: 
												học tiến sĩ để gây ấn tượng 
												trong gia đình và bạn bè. 
												Người thân trong gia đình và bạn 
												bè thí sinh có lẽ rất hồ hởi và 
												tự hào khi thí sinh vào học 
												chương trình tiến sĩ, bởi vì họ 
												nghĩ thí sinh sẽ trở thành một 
												ông nghè, một “doctor” trong 
												tương lai. Nhưng văn bằng tiến 
												sĩ chỉ là giấy thông hành cho 
												nghiên cứu, chứ không phải để 
												lấy le với người thân, bạn bè 
												hay với xã hội. Không phải lúc 
												nào cũng đòi người khác phải gọi 
												mình là ông / bà “tiến sĩ”.
Ngộ nhận 5: 
												học vị tiến sĩ là cái cớ để thử 
												trí thông minh. Nhiều người 
												nghĩ rằng học tiến sĩ là một 
												thách thức và họ muốn chơi trò 
												thách thức xem tri thức của mình 
												cỡ nào. Rất tiếc, quan điểm này 
												sai, bởi vì chương trình huấn 
												luyện tiến sĩ không phải để thí 
												sinh cân não hay để thử khả năng 
												tri thức. Ngoại trừ thí sinh 
												dành trọn thì giờ và dấn thân 
												vào học hành để đỗ đạt, thí sinh 
												sẽ không thể nào có được văn 
												bằng tiến sĩ chỉ vì mình “thông 
												minh”. Như nói trên, thí sinh 
												phải làm việc nhiều giờ trong 
												ngày, phải có khi thức đêm trong 
												phòng thí nghiệm hay thư viện, 
												phải chuẩn bị đương đầu với 
												những thất bại, phải chuẩn bị 
												động não để học cái mới và suy 
												nghĩ cái mới.
Ngộ nhận 6: 
												học tiến sĩ để kiếm nhiều tiền. 
												Thí sinh tốt nghiệp tiến sĩ thực 
												ra không có lương bổng cao hơn 
												các thí sinh với bằng cử nhân 
												hay người công nhân bình thường 
												trong hãng xưởng. Xin nhắc lại: 
												học tiến sĩ là để trở thành nhà 
												nghiên cứu, nhà khoa học, và cái 
												quan tâm đầu tiên của nhà khoa 
												học là sự thật, chứ không phải 
												sự giàu có về tiền bạc. Tất 
												nhiên, có nhiều khi sự thật và 
												khám phá cũng đem lại một nguồn 
												tài chính lớn cho nhà nghiên 
												cứu. Nhưng nói chung, đó không 
												phải là mục tiêu để theo học 
												tiến sĩ.
Ngộ nhận 7: 
												học tiến sĩ là một lựa chọn tốt 
												nhất. Cống hiến cho xã hội 
												có nhiều cách và cuộc đời có 
												nhiều lựa chọn, và học vị tiến 
												sĩ chỉ là một trong số hàng trăm 
												lựa chọn đó. Có lẽ nhiều người 
												sẽ ngạc nhiên khi đọc phát biểu 
												này, nhưng đó là một thực tế. 
												Thật vậy, đối với nhiều thí 
												sinh, học vị tiến sĩ có thể là 
												một lựa chọn sai lầm! Thí sinh 
												phải tự hỏi mình muốn làm người 
												lãnh đạo trong những người có 
												văn bằng thạc sĩ, hay là làm một 
												nhà nghiên cứu tầm thường. Thí 
												sinh phải biết và quyết định 
												mình muốn gì, và nghề nghiệp nào 
												sẽ kích khích mình nhiều nhất 
												hay đem lại hạnh phúc cho mình 
												nhất.
Đột phá 
												tư duy ?
Quay lại câu nói 
												bất hủ (“Có bằng tiến sĩ mới đột 
												phá tư duy”), tôi muốn trích lại 
												lời thuật của Gs Đặng Phong 
												(trong trang blog của Huy Đức) 
												như sau: “Một lần, ông Viện 
												trưởng Viện Hàn lâm Khoa học 
												Liên Xô đến thăm xí nghiệp đánh 
												cá Vũng Tàu-Côn Đảo, một điển 
												hình đổi mới lúc đó. Xí nghiệp 
												này khi sắp bị phá sản đành phải 
												mời một ông chăn vịt vốn là 
												người thạo nghề đánh cá hồi 
												trước 1975 làm giám đốc. Ông đòi 
												được toàn quyền ‘khoán’ cho xã 
												viên và xí nghiệp trở nên làm ăn 
												rất hiệu quả.” Gs Đặng 
												Phong kể tiếp: “Sau khi thăm 
												và hỏi chuyện ở Xí nghiệp, ông 
												Viện trưởng Viện Hàn Lâm Liên Xô 
												hỏi các cán bộ ở trường Quản Lý 
												Trung Ương: ‘Các anh có biết bí 
												quyết thành công của ông giám 
												đốc là gì không?’ Và, ông Viện 
												trưởng đáp: ‘Đồng chí ấy thành 
												công vì đồng chí ấy chưa được 
												học qua lý luận’. Đổi mới trong 
												giai đoạn ấy chủ yếu đều bắt đầu 
												từ những nhà lãnh đạo địa phương 
												chưa qua các trường lớp chính 
												quy lý luận.”
Câu chuyện đơn 
												giản trên cho thấy không phải có 
												bằng tiến sĩ mới có tư duy đột 
												phá. Thật ra, những gì gọi là 
												“đột phá” đều phần lớn xuất phát 
												từ những người không bị ràng 
												buộc bởi những lí thuyết, không 
												có bằng cấp đại học (chứ chưa 
												nói đến học vị tiến sĩ). Cứ nhìn 
												lại lịch sử phát triển kinh tế ở 
												các nước phương Tây thì rõ: có 
												bao nhiêu nhà lãnh đạo chính trị 
												có bằng tiến sĩ đâu. Ở nước Úc 
												tôi đang định cư, cựu thủ tướng 
												Paul Keating được xem là một thủ 
												tướng tài ba, một người có tầm 
												nhìn xa và đột phá trong chính 
												sách ngoại giao cũng như kinh 
												tế. Ông Keating được xem là một 
												thủ tướng giỏi, không phải vì 
												ông có bằng cấp cao, mà vì ông 
												biết dùng người có tài. Thật 
												vậy, ông Keating thậm chí chưa 
												tốt nghiệp trung học, nhưng 
												người cố vấn và viết diễn văn 
												cho ông là một chuyên gia có 
												bằng tiến sĩ. Dưới “trướng” của 
												Keating cũng là những cố vấn 
												giỏi, nhưng chỉ có một số rất ít 
												trong nhóm cố vấn này có bằng 
												tiến sĩ.
Do đó, xin đừng 
												sùng bái văn bằng tiến sĩ như là 
												một chứng từ cho sự đột phá tư 
												duy. Thật ra, ngược lại thì đúng 
												hơn: phần lớn tiến sĩ không có 
												tư duy đột phá. Điều này đúng, 
												bởi vì phần lớn (có thể 99%) các 
												nhà khoa học với học vị tiến sĩ 
												chỉ làm việc trong những mô thức 
												(paradigm) thông thường, và mô 
												thức này thường được định hướng 
												bởi những nhà khoa học tiền 
												phong khác.
Đào tạo 
												tiến sĩ ở Việt Nam
Các trường đại 
												học Âu châu đã từng đào tạo và 
												cấp học vị tiến sĩ về thần học, 
												luật học, y học trong nhiều thế 
												kỉ qua. Nhưng học vị tiến sĩ 
												trong các ngành khoa học tự 
												nhiên và khoa học thực nghiệm 
												chỉ mới xuất hiện từ đầu thế kỉ 
												19. Đến giữa thế kỉ 19, học vị 
												tiến sĩ được du nhập vào Mĩ. Năm 
												1861, Đại học Yale trở thành 
												trường đại học Mĩ đầu tiên cấp 
												học vị tiến sĩ cho sinh viên. 
												Các đại học Anh cũng theo trào 
												lưu và bắt đầu cấp học vị tiến 
												sĩ từ năm 1919. Từ đó, học vị 
												tiến sĩ trở nên phổ biến trong 
												hầu hết các đại học trên thế 
												giới. Ở Mĩ, chỉ tính riêng các 
												bộ môn y sinh học, số lượng tiến 
												sĩ tốt nghiệp hàng năm đã tăng 
												từ 5400 năm 1987 đến 7700 năm 
												1995. Ở Việt Nam, có 144 trung 
												tâm đào tạo và trường đại học 
												cấp học vị tiến sĩ, và mỗi năm 
												các trung tâm này thu nhận vào 
												khoảng 1000 nghiên cứu sinh tiến 
												sĩ.
Theo thống kê thì 
												hiện nay VN có khoảng 6600 giáo 
												sư và phó giáo sư. Vẫn theo 
												thống kê, trong số 48000 giảng 
												viên đại học, có 13% hay 6250 
												người có học vị tiến sĩ. Như 
												vậy, có lẽ cả nước có khoảng 
												12000 tiến sĩ (kể cả những “phó 
												tiến sĩ” sau một đêm thành “tiến 
												sĩ”).
Nhưng trình độ 
												của các tiến sĩ này ra sao? 
												Trong bài Cả nước có bao 
												nhiêu tiến sĩ thật, tác giả 
												phản ảnh nhiều khiếm khuyết 
												trong việc đào tạo tiến sĩ ở 
												trong nước. Những lem nhem về 
												đạo văn, đánh tráo luận văn, mua 
												luận văn, nhầm lẫn giữa nghiên 
												cứu khoa học và dịch vụ, giải 
												pháp, v.v. Thật vậy, theo bài 
												báo này, trong số 97 đề tài 
												nghiên cứu tiến sĩ ở Trường ĐH 
												Kinh tế TPHCM, thì có đến 57 đề 
												tài về giải pháp, không xứng tầm 
												luận án tiến sĩ. Chỉ cần đọc qua 
												vài luận án đã được cấp bằng 
												tiến sĩ, có lẽ chúng ta không 
												khỏi mỉm cười:
“Nhận thức 
												của công chức hành chính về việc 
												sắp xếp lại bộ máy của cơ quan 
												chuyên môn trực thuộc Ủy ban 
												nhân dân cấp tỉnh, thành phố”.
”Nhận thức 
												của thanh niên nông thôn về chất 
												lượng cuộc sống gia đình hiện 
												nay”.
“Nghiên cứu 
												nhu cầu điện ảnh của sinh viên”
“Phát huy vai 
												trò của tri thức ngành y tế Việt 
												Nam trong công cuộc đổi mới”.
“Lịch sử phát 
												triển giáo dục – đào tạo ở An 
												Giang (1975 – 2000)
Đó là chưa nói 
												đến sự lợi dụng chức quyền để có 
												bằng tiến sĩ, mua bán bằng cấp, 
												nghiên cứu ma (giả tạo hay thay 
												đổi số liệu), nghiên cứu không 
												đạt tiêu chuẩn khoa học hay sai 
												phương pháp, v.v. được đề cập 
												đến với nhiều bức xúc. Trong 
												thực tế, rất nhiều người có học 
												vị này chưa chứng tỏ mình là một 
												nhà khoa học chuyên nghiệp xứng 
												đáng với học vị tiến sĩ, vì họ 
												được cấp học vị qua những cống 
												hiến mang tính hành chính và 
												quản lí hơn là những cống hiến 
												mang tính khoa học và hàn lâm mà 
												một luận án tiến sĩ đòi hỏi. Do 
												đó có người mang bằng tiến sĩ từ 
												nước ta sang Thái Lan để học 
												nhưng chỉ được công nhận tương 
												đương bằng y tá! Đã có người 
												khẳng định rằng có nhiều luận án 
												tiến sĩ ở trong nước không đáp 
												ứng tiêu chuẩn quốc tế của một 
												luận án tiến sĩ. Những vấn đề về 
												đào tạo tiến sĩ đã được nêu lên 
												nhiều lần, nhưng hình như vẫn 
												chưa có ai đề ra những tiêu 
												chuẩn cụ thể cho một học vị tiến 
												sĩ là gì.
Trong bối cảnh 
												như thế mà có quan chức nói đến 
												chuyện có bằng tiến sĩ để có tư 
												duy đột phá!
Như nói trên, học 
												vị tiến sĩ là “giấy thông hành” 
												để làm nghiên cứu khoa học. Sản 
												phẩm quan trọng của nghiên cứu 
												khoa học là bài báo khoa học 
												được công bố trên các tập san 
												quốc tế. Nhưng với 6600 giáo sư 
												và phó giáo sư, cộng với 6250 
												tiến sĩ, đáng lẽ Việt Nam phải 
												công bố khoảng (ít nhất là) 6000 
												bài báo khoa học. Nhưng hiện 
												nay, mỗi năm, Việt Nam công bố 
												được chỉ khoảng 1000 bài báo 
												khoa học. Con số này thấp nhất 
												so với các nước khác trong vùng 
												Đông Nam Á, và chỉ bằng 1/5 Thái 
												Lan và 1/10 Singapore.
Tại sao năng suất 
												khoa học của Việt Nam quá tồi 
												trong khi có nhiều “sĩ sư” như 
												thế? Hiện nay, trong số GS/PGS ở 
												các đại học chỉ có khoảng 1/3 
												(chính xác là 35%) tham gia 
												giảng dạy đại học. Phần 65% còn 
												lại là các quan chức trong các 
												bộ và sở. Có lẽ con số tiến sĩ 
												không làm nghiên cứu khoa học 
												cũng khoảng 60-65%. Như vậy, có 
												thể nói rằng Việt Nam đã và đang 
												lãng phí nhân lực khoa học ở qui 
												mô rất lớn.
Đó cũng chính là 
												lời giải thích tại sao các quan 
												chức trong các bộ ở Việt Nam, 
												nhất là Hà Nội, thường có danh 
												thiếp chi chít với những học vị 
												tiến sĩ. Thoạt đầu tôi ngạc 
												nhiên và thấy khó hiểu là tại 
												sao các bộ, thậm chí sở, có quá 
												nhiều quan chức với văn bằng 
												tiến sĩ như thế, vì ở nước 
												ngoài, hiếm thấy tiến sĩ làm 
												việc trong các cơ quan hành 
												chính. Nhưng nay thì tôi đã hiểu 
												tại sao: vì Nhà nước muốn có 
												những con số ấn tượng về phần 
												trăm tiến sĩ trong đội ngũ cán 
												bộ. Một cách làm đẹp con số 
												thống kê.
Chủ trương tiến 
												sĩ hóa cán bộ hành chính là một 
												cách biến học vị tiến sĩ thành 
												một loại giấy thông hành, một 
												chứng từ, một tiêu chuẩn để tiến 
												thân trong sự nghiệp quản trị 
												hành chính. Chẳng hiểu từ đâu mà 
												có qui định lạ lùng như phải là 
												tiến sĩ mới được làm trưởng khoa 
												trong một đại học, hay được đề 
												bạt lên một chức vụ nào đó trong 
												hệ thống quản trị hành chính. 
												Chính vì qui định này mà không 
												ít trường hợp, người ta đề bạt 
												(hay nói thẳng ra là xếp đặt) 
												người vào vị trí nào đó, rồi tìm 
												cách hợp thức hóa cho người đó 
												bằng cách cấp bằng tiến sĩ!
Việc hợp thức hóa 
												đó bất chấp tiêu chuẩn khoa bảng 
												và ý nghĩa của học vị tiến sĩ 
												thể hiện một sự phá hoại các 
												chuẩn mực giáo dục đại học.
 
Nguyễn Văn Tuấn
 
Nguồn: https://tuanvannguye n.blogspot. com/2009/ 09/nhung- ngo-nhan- ve-hoc-vi- tien-si.html
Các bài viết khác