|
đăng 27 tháng 9, 2009
|
Hai tuần qua, dù
bận đi công tác ở bên Mĩ, tôi
vẫn thỉnh thoảng vào mạng đọc
báo để theo dõi tình hình trong
nước, và thấy nhiều sự kiện mà
tôi rất muốn bình luận nhưng vì
quá bận rộn nên đành “lực bất
tòng tâm” do không có thì giờ.
Hôm nay, việc phó hội cũng đã
xong xuôi, nên lại có thì giờ để
góp nhặt vài lời để gọi là “mua
vui cũng được một vài trống
canh”.
Hôm nọ, đọc một
tin rất lạ mà thoạt đầu tôi mỉm
cười một mình vì nghĩ rằng phóng
viên có trí tưởng tượng phong
phú quá: đó là bản tin cho biết
“Hà Nội mong 100% cán bộ
Thành ủy ‘quản’ là tiến sĩ”.
Nhưng tôi nghĩ sai: phóng viên
tường thật hoàn toàn chính xác
về chủ trương của chính quyền và
đảng ủy Hà Nội, vì hôm sau có
một quan chức của Sở nội vụ Hà
Nội lí giải rằng cần phải “Có
bằng tiến sĩ mới đột phá tư duy”.
Vị quan chức này, với danh xưng
tiến sĩ, chính là tác giả của “Chiến
lược cán bộ, công chức khối
chính quyền thành phố”.
Nếu xem chủ
trương nâng cấp 100% cán bộ diện
thành ủy có bằng tiến sĩ thì quả
thật ông tiến sĩ này có tư duy
đột phá. Nhưng chữ “đột phá” ở đây phải
hiểu là phá hoại cái ý nghĩa của
học vị tiến sĩ một cách đột ngột.
Để hiểu cách diễn giải đó, thiết
tưởng tôi có nhiệm vụ giải thích
mục tiêu và ý nghĩa của học vị
tiến sĩ.
Học tiến
sĩ để làm gì?
Học vị tiến
sĩ thường dành cho những người
muốn theo đuổi sự nghiệp nghiên
cứu khoa học. Để dấn thân
vào sự nghiệp nghiên cứu khoa
học, học vị tiến sĩ là một “giấy
thông hành” quốc tế, cũng giống
như muốn hành nghề kĩ sư thì
phải có bằng kĩ sư. Cố nhiên
cũng có một số người tham gia
nghiên cứu khoa học dù họ không
có học vị tiến sĩ, nhưng đây là
những trường hợp ngoại lệ. Do
đó, trong quá trình đào tạo tiến
sĩ, nghiên cứu sinh phải làm
quen với những kĩ năng cơ bản
như phát hiện vấn đề, cách đặt
giả thuyết, thiết kế nghiên cứu,
thu thập dữ liệu (kể cả đo
lường), phân tích và diễn giải
kết quả nghiên cứu, v.v. Đây là
những kĩ năng mà bất cứ một
nghiên cứu sinh tiến sĩ nào cũng
phải có sau khi xong chương
trình đào tạo.
Do đó, để có được
học vị tiến sĩ, thí sinh phải
làm nghiên cứu khoa học một cách
nghiêm chỉnh. Hai chữ “nghiêm
chỉnh” ở đây rất quan trọng
trong trường hợp Việt Nam, bởi
vì rất rất nhiều nghiên cứu khoa
học ở trong nước chẳng những
không nghiêm chỉnh mà còn phạm
quá nhiều sai sót. Điều này cũng
có nghĩa là nếu muốn theo đuổi
sự nghiệp quản trị kinh doanh,
quản trị hành chính, thì học vị
tiến sĩ không cần thiết, và thí
sinh không nên tốn thì giờ để
đạt được học vị này.
Học vị tiến
sĩ dành cho những người muốn
theo đuổi sự nghiệp khoa bảng.
Học vị tiến sĩ là một “chứng từ”
để theo đuổi sự nghiệp khoa bảng
(academic career). “Khoa bảng” ở
đây được hiểu là giảng dạy đại
học và nghiên cứu khoa học. Cố
nhiên, ở nhiều đại học phương
Tây, vẫn có người có thể trở
thành giáo sư dù không có học vị
tiến sĩ, nhưng cơ hội tiến thân
trong các nấc thang khoa bảng
ngày nay cho những cá nhân như
thế không mấy cao. Nhiều trường
đại học lớn trên thế giới đòi
hỏi các giảng viên và giáo sư
hay các nhà nghiên cứu phải có
học vị tiến sĩ. Tại sao? Tại vì
họ muốn đảm bảo trường đại học
có đầy đủ chuyên gia để giảng
dạy các môn học cấp cao và bắt
buộc các chuyên gia này phải làm
nghiên cứu khoa học. Phần lớn
giáo sư đại học có học vị tiến
sĩ, nhưng không phải ai có bằng
tiến sĩ đều có thể trở thành
giáo sư.
Do đó, nếu thí
sinh muốn theo đuổi sự nghiệp
quản trị doanh nghiệp, kĩ nghệ
và khoa học (như muốn làm giám
đốc doanh nghiệp, giám đốc các
cơ sở khoa học) hay các chức vụ
hành chính, hay các chức vụ mang
tính quản lí trong hệ thống
chính phủ thì thí sinh không nên
theo học chương trình tiến sĩ,
mà nên theo học chương trình
thạc sĩ quản trị kinh doanh hay
quản trị hành chính (MBA –
Master of Business
Administration) . Tôi biết ngày
nay có đại học đưa ra chương
trình huấn luyện Tiến sĩ quản
trị hành chính (Doctor of
Business Administration) , nhưng
mục tiêu vẫn là đào tạo nhà
nghiên cứu và giáo sư. Xin nhắc
lại: cốt lõi của học vị tiến sĩ,
và cũng là khía cạnh dùng để
phân biệt học vị tiến sĩ với các
học vị đại học khác, là nghiên
cứu khoa học, không phải quản
trị.
Những ngộ
nhận về tiến sĩ
Do đó, chủ trương
hướng tiến sĩ hóa cán bộ hành
chính thể hiện một sự hiểu lầm
về mục tiêu đào tạo tiến sĩ. Chủ
trương này sẽ dẫn đến tình trạng
có nhiều người tìm cách theo học
để lấy được một học vị tiến sĩ,
nhưng động cơ của việc theo học
thì lại quá sai lầm. Những sai
lầm về động cơ theo học tiến sĩ,
theo tôi, có thể tóm lược trong
những ngộ nhận phổ biến sau đây:
Ngộ nhận 1:
nhiều người hiểu lầm rằng học vị
tiến sĩ sẽ tự động đem lại uy
danh cho cá nhân. Hầu hết
các thí sinh đã đạt được văn
bằng tiến sĩ đều cảm thấy tự hào
về nỗ lực và kết quả của việc
phấn đấu trong học hành nghiên
cứu. Tuy nhiên, thí sinh phải
hiểu rằng một khi tốt nghiệp
tiến sĩ, thí sinh có thể làm
việc với nhiều nhà khoa học khác
cũng có bằng tiến sĩ. Học vị
tiến sĩ mới chỉ là bước đầu vào
nghiên cứu khoa học, là một minh
chứng rằng người có bằng đó
“trưởng thành” trong khoa học,
chứ nó (văn bằng tiến sĩ) chẳng
đem lại uy danh cho người có học
vị nếu người đó không có công
trình nghiên cứu nào có giá trị.
Ngộ nhận 2: ý
kiến của một cá nhân được nâng
cao chỉ vì cá nhân đó có văn
bằng tiến sĩ. Nhiều người
tin rằng một khi họ có văn bằng
tiến sĩ trong tay, công chúng sẽ
tự nhiên kính trọng ý kiến của
họ. Nhưng niềm tin này chỉ là
hoang tưởng. Người có học vị
tiến sĩ có thể am hiểu và uyên
bác về một lĩnh vực chuyên môn
hẹp nào đó, nhưng không phải là
chuyên gia của mọi vấn đề khác.
Sự kính trọng phải được chứng
minh qua hành động và bản lĩnh
của người phát biểu, chứ không
tự động mà có được qua danh xưng
“tiến sĩ”.
Ngộ nhận 3:
học vị tiến sĩ là mục tiêu sau
cùng trong học hành, nghiên cứu.
Học vị tiến sĩ chuẩn bị thí
sinh vào sự nghiệp nghiên cứu.
Nếu thí sinh chỉ muốn có mảnh
giấy để treo trên tường thì
không nên theo đuổi học vị tiến
sĩ. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ,
thí sinh có cơ hội để so sánh
thành quả của mình với các nhà
khoa học khác. Thí sinh sẽ nhận
thức rằng cái được “tính sổ”
không phải là danh xưng hay học
vị tiến sĩ, mà là nghiên cứu
khoa học do chính thí sinh tiến
hành và hoàn tất.
Ngộ nhận 4:
học tiến sĩ để gây ấn tượng
trong gia đình và bạn bè.
Người thân trong gia đình và bạn
bè thí sinh có lẽ rất hồ hởi và
tự hào khi thí sinh vào học
chương trình tiến sĩ, bởi vì họ
nghĩ thí sinh sẽ trở thành một
ông nghè, một “doctor” trong
tương lai. Nhưng văn bằng tiến
sĩ chỉ là giấy thông hành cho
nghiên cứu, chứ không phải để
lấy le với người thân, bạn bè
hay với xã hội. Không phải lúc
nào cũng đòi người khác phải gọi
mình là ông / bà “tiến sĩ”.
Ngộ nhận 5:
học vị tiến sĩ là cái cớ để thử
trí thông minh. Nhiều người
nghĩ rằng học tiến sĩ là một
thách thức và họ muốn chơi trò
thách thức xem tri thức của mình
cỡ nào. Rất tiếc, quan điểm này
sai, bởi vì chương trình huấn
luyện tiến sĩ không phải để thí
sinh cân não hay để thử khả năng
tri thức. Ngoại trừ thí sinh
dành trọn thì giờ và dấn thân
vào học hành để đỗ đạt, thí sinh
sẽ không thể nào có được văn
bằng tiến sĩ chỉ vì mình “thông
minh”. Như nói trên, thí sinh
phải làm việc nhiều giờ trong
ngày, phải có khi thức đêm trong
phòng thí nghiệm hay thư viện,
phải chuẩn bị đương đầu với
những thất bại, phải chuẩn bị
động não để học cái mới và suy
nghĩ cái mới.
Ngộ nhận 6:
học tiến sĩ để kiếm nhiều tiền.
Thí sinh tốt nghiệp tiến sĩ thực
ra không có lương bổng cao hơn
các thí sinh với bằng cử nhân
hay người công nhân bình thường
trong hãng xưởng. Xin nhắc lại:
học tiến sĩ là để trở thành nhà
nghiên cứu, nhà khoa học, và cái
quan tâm đầu tiên của nhà khoa
học là sự thật, chứ không phải
sự giàu có về tiền bạc. Tất
nhiên, có nhiều khi sự thật và
khám phá cũng đem lại một nguồn
tài chính lớn cho nhà nghiên
cứu. Nhưng nói chung, đó không
phải là mục tiêu để theo học
tiến sĩ.
Ngộ nhận 7:
học tiến sĩ là một lựa chọn tốt
nhất. Cống hiến cho xã hội
có nhiều cách và cuộc đời có
nhiều lựa chọn, và học vị tiến
sĩ chỉ là một trong số hàng trăm
lựa chọn đó. Có lẽ nhiều người
sẽ ngạc nhiên khi đọc phát biểu
này, nhưng đó là một thực tế.
Thật vậy, đối với nhiều thí
sinh, học vị tiến sĩ có thể là
một lựa chọn sai lầm! Thí sinh
phải tự hỏi mình muốn làm người
lãnh đạo trong những người có
văn bằng thạc sĩ, hay là làm một
nhà nghiên cứu tầm thường. Thí
sinh phải biết và quyết định
mình muốn gì, và nghề nghiệp nào
sẽ kích khích mình nhiều nhất
hay đem lại hạnh phúc cho mình
nhất.
Đột phá
tư duy ?
Quay lại câu nói
bất hủ (“Có bằng tiến sĩ mới đột
phá tư duy”), tôi muốn trích lại
lời thuật của Gs Đặng Phong
(trong trang blog của Huy Đức)
như sau: “Một lần, ông Viện
trưởng Viện Hàn lâm Khoa học
Liên Xô đến thăm xí nghiệp đánh
cá Vũng Tàu-Côn Đảo, một điển
hình đổi mới lúc đó. Xí nghiệp
này khi sắp bị phá sản đành phải
mời một ông chăn vịt vốn là
người thạo nghề đánh cá hồi
trước 1975 làm giám đốc. Ông đòi
được toàn quyền ‘khoán’ cho xã
viên và xí nghiệp trở nên làm ăn
rất hiệu quả.” Gs Đặng
Phong kể tiếp: “Sau khi thăm
và hỏi chuyện ở Xí nghiệp, ông
Viện trưởng Viện Hàn Lâm Liên Xô
hỏi các cán bộ ở trường Quản Lý
Trung Ương: ‘Các anh có biết bí
quyết thành công của ông giám
đốc là gì không?’ Và, ông Viện
trưởng đáp: ‘Đồng chí ấy thành
công vì đồng chí ấy chưa được
học qua lý luận’. Đổi mới trong
giai đoạn ấy chủ yếu đều bắt đầu
từ những nhà lãnh đạo địa phương
chưa qua các trường lớp chính
quy lý luận.”
Câu chuyện đơn
giản trên cho thấy không phải có
bằng tiến sĩ mới có tư duy đột
phá. Thật ra, những gì gọi là
“đột phá” đều phần lớn xuất phát
từ những người không bị ràng
buộc bởi những lí thuyết, không
có bằng cấp đại học (chứ chưa
nói đến học vị tiến sĩ). Cứ nhìn
lại lịch sử phát triển kinh tế ở
các nước phương Tây thì rõ: có
bao nhiêu nhà lãnh đạo chính trị
có bằng tiến sĩ đâu. Ở nước Úc
tôi đang định cư, cựu thủ tướng
Paul Keating được xem là một thủ
tướng tài ba, một người có tầm
nhìn xa và đột phá trong chính
sách ngoại giao cũng như kinh
tế. Ông Keating được xem là một
thủ tướng giỏi, không phải vì
ông có bằng cấp cao, mà vì ông
biết dùng người có tài. Thật
vậy, ông Keating thậm chí chưa
tốt nghiệp trung học, nhưng
người cố vấn và viết diễn văn
cho ông là một chuyên gia có
bằng tiến sĩ. Dưới “trướng” của
Keating cũng là những cố vấn
giỏi, nhưng chỉ có một số rất ít
trong nhóm cố vấn này có bằng
tiến sĩ.
Do đó, xin đừng
sùng bái văn bằng tiến sĩ như là
một chứng từ cho sự đột phá tư
duy. Thật ra, ngược lại thì đúng
hơn: phần lớn tiến sĩ không có
tư duy đột phá. Điều này đúng,
bởi vì phần lớn (có thể 99%) các
nhà khoa học với học vị tiến sĩ
chỉ làm việc trong những mô thức
(paradigm) thông thường, và mô
thức này thường được định hướng
bởi những nhà khoa học tiền
phong khác.
Đào tạo
tiến sĩ ở Việt Nam
Các trường đại
học Âu châu đã từng đào tạo và
cấp học vị tiến sĩ về thần học,
luật học, y học trong nhiều thế
kỉ qua. Nhưng học vị tiến sĩ
trong các ngành khoa học tự
nhiên và khoa học thực nghiệm
chỉ mới xuất hiện từ đầu thế kỉ
19. Đến giữa thế kỉ 19, học vị
tiến sĩ được du nhập vào Mĩ. Năm
1861, Đại học Yale trở thành
trường đại học Mĩ đầu tiên cấp
học vị tiến sĩ cho sinh viên.
Các đại học Anh cũng theo trào
lưu và bắt đầu cấp học vị tiến
sĩ từ năm 1919. Từ đó, học vị
tiến sĩ trở nên phổ biến trong
hầu hết các đại học trên thế
giới. Ở Mĩ, chỉ tính riêng các
bộ môn y sinh học, số lượng tiến
sĩ tốt nghiệp hàng năm đã tăng
từ 5400 năm 1987 đến 7700 năm
1995. Ở Việt Nam, có 144 trung
tâm đào tạo và trường đại học
cấp học vị tiến sĩ, và mỗi năm
các trung tâm này thu nhận vào
khoảng 1000 nghiên cứu sinh tiến
sĩ.
Theo thống kê thì
hiện nay VN có khoảng 6600 giáo
sư và phó giáo sư. Vẫn theo
thống kê, trong số 48000 giảng
viên đại học, có 13% hay 6250
người có học vị tiến sĩ. Như
vậy, có lẽ cả nước có khoảng
12000 tiến sĩ (kể cả những “phó
tiến sĩ” sau một đêm thành “tiến
sĩ”).
Nhưng trình độ
của các tiến sĩ này ra sao?
Trong bài Cả nước có bao
nhiêu tiến sĩ thật, tác giả
phản ảnh nhiều khiếm khuyết
trong việc đào tạo tiến sĩ ở
trong nước. Những lem nhem về
đạo văn, đánh tráo luận văn, mua
luận văn, nhầm lẫn giữa nghiên
cứu khoa học và dịch vụ, giải
pháp, v.v. Thật vậy, theo bài
báo này, trong số 97 đề tài
nghiên cứu tiến sĩ ở Trường ĐH
Kinh tế TPHCM, thì có đến 57 đề
tài về giải pháp, không xứng tầm
luận án tiến sĩ. Chỉ cần đọc qua
vài luận án đã được cấp bằng
tiến sĩ, có lẽ chúng ta không
khỏi mỉm cười:
“Nhận thức
của công chức hành chính về việc
sắp xếp lại bộ máy của cơ quan
chuyên môn trực thuộc Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, thành phố”.
”Nhận thức
của thanh niên nông thôn về chất
lượng cuộc sống gia đình hiện
nay”.
“Nghiên cứu
nhu cầu điện ảnh của sinh viên”
“Phát huy vai
trò của tri thức ngành y tế Việt
Nam trong công cuộc đổi mới”.
“Lịch sử phát
triển giáo dục – đào tạo ở An
Giang (1975 – 2000)
Đó là chưa nói
đến sự lợi dụng chức quyền để có
bằng tiến sĩ, mua bán bằng cấp,
nghiên cứu ma (giả tạo hay thay
đổi số liệu), nghiên cứu không
đạt tiêu chuẩn khoa học hay sai
phương pháp, v.v. được đề cập
đến với nhiều bức xúc. Trong
thực tế, rất nhiều người có học
vị này chưa chứng tỏ mình là một
nhà khoa học chuyên nghiệp xứng
đáng với học vị tiến sĩ, vì họ
được cấp học vị qua những cống
hiến mang tính hành chính và
quản lí hơn là những cống hiến
mang tính khoa học và hàn lâm mà
một luận án tiến sĩ đòi hỏi. Do
đó có người mang bằng tiến sĩ từ
nước ta sang Thái Lan để học
nhưng chỉ được công nhận tương
đương bằng y tá! Đã có người
khẳng định rằng có nhiều luận án
tiến sĩ ở trong nước không đáp
ứng tiêu chuẩn quốc tế của một
luận án tiến sĩ. Những vấn đề về
đào tạo tiến sĩ đã được nêu lên
nhiều lần, nhưng hình như vẫn
chưa có ai đề ra những tiêu
chuẩn cụ thể cho một học vị tiến
sĩ là gì.
Trong bối cảnh
như thế mà có quan chức nói đến
chuyện có bằng tiến sĩ để có tư
duy đột phá!
Như nói trên, học
vị tiến sĩ là “giấy thông hành”
để làm nghiên cứu khoa học. Sản
phẩm quan trọng của nghiên cứu
khoa học là bài báo khoa học
được công bố trên các tập san
quốc tế. Nhưng với 6600 giáo sư
và phó giáo sư, cộng với 6250
tiến sĩ, đáng lẽ Việt Nam phải
công bố khoảng (ít nhất là) 6000
bài báo khoa học. Nhưng hiện
nay, mỗi năm, Việt Nam công bố
được chỉ khoảng 1000 bài báo
khoa học. Con số này thấp nhất
so với các nước khác trong vùng
Đông Nam Á, và chỉ bằng 1/5 Thái
Lan và 1/10 Singapore.
Tại sao năng suất
khoa học của Việt Nam quá tồi
trong khi có nhiều “sĩ sư” như
thế? Hiện nay, trong số GS/PGS ở
các đại học chỉ có khoảng 1/3
(chính xác là 35%) tham gia
giảng dạy đại học. Phần 65% còn
lại là các quan chức trong các
bộ và sở. Có lẽ con số tiến sĩ
không làm nghiên cứu khoa học
cũng khoảng 60-65%. Như vậy, có
thể nói rằng Việt Nam đã và đang
lãng phí nhân lực khoa học ở qui
mô rất lớn.
Đó cũng chính là
lời giải thích tại sao các quan
chức trong các bộ ở Việt Nam,
nhất là Hà Nội, thường có danh
thiếp chi chít với những học vị
tiến sĩ. Thoạt đầu tôi ngạc
nhiên và thấy khó hiểu là tại
sao các bộ, thậm chí sở, có quá
nhiều quan chức với văn bằng
tiến sĩ như thế, vì ở nước
ngoài, hiếm thấy tiến sĩ làm
việc trong các cơ quan hành
chính. Nhưng nay thì tôi đã hiểu
tại sao: vì Nhà nước muốn có
những con số ấn tượng về phần
trăm tiến sĩ trong đội ngũ cán
bộ. Một cách làm đẹp con số
thống kê.
Chủ trương tiến
sĩ hóa cán bộ hành chính là một
cách biến học vị tiến sĩ thành
một loại giấy thông hành, một
chứng từ, một tiêu chuẩn để tiến
thân trong sự nghiệp quản trị
hành chính. Chẳng hiểu từ đâu mà
có qui định lạ lùng như phải là
tiến sĩ mới được làm trưởng khoa
trong một đại học, hay được đề
bạt lên một chức vụ nào đó trong
hệ thống quản trị hành chính.
Chính vì qui định này mà không
ít trường hợp, người ta đề bạt
(hay nói thẳng ra là xếp đặt)
người vào vị trí nào đó, rồi tìm
cách hợp thức hóa cho người đó
bằng cách cấp bằng tiến sĩ!
Việc hợp thức hóa
đó bất chấp tiêu chuẩn khoa bảng
và ý nghĩa của học vị tiến sĩ
thể hiện một sự phá hoại các
chuẩn mực giáo dục đại học.
Nguyễn Văn Tuấn
Nguồn: http://tuanvannguye n.blogspot. com/2009/ 09/nhung- ngo-nhan- ve-hoc-vi- tien-si.html
Các bài viết khác