Tản Mạn Về Chuyện Mấy Ông Thày Cãi
Đặt Vấn Đề Chính Thống Chính Danh
Trần Chung Ngọc
http://sachhiem.net/TCN/TCNdt/TCNdt055.php
08-Nov-2011
Ở hải ngoại, muốn viết lên những ý nghĩ và suy tư của mình về lịch sử,
nhất là viết trong lãnh vực học thuật trí thức, tôn trọng sự thật, quả
thật là khó. Vì có một số người không thể chấp nhận được quan điểm của
người khác, khi những quan điểm đó không phù hợp với những quan điểm
của họ, dù rằng họ đang sống trong những quốc gia tiến bộ, tự do, dân
chủ nhất thế giới.
Những người muốn tiếp nối cuộc thánh chiến chống
Cộng thì muốn ai cũng phải chống Cộng như họ, và tuyệt đối không được
phép nói gì mà họ cho là có lợi cho CS, dù nhiều khi điều đó chỉ là trình
bày những sự thực lịch sử và những điều hiển nhiên trước mắt. Do đó
khi nói về sự mở mang đất nước ngày nay mà hàng năm có hàng trăm ngàn
người Việt lưu vong về nước thấy tận mắt, thì đó cũng là tuyên truyền
cho CS, bênh CS. Đưa ra những sự kiện lịch sử bất khả phủ bác mà không
đúng ý họ, thí dụ về Chí sĩ Ngô Đình Diệm của họ, thì không là thân Cộng
cũng là làm tay sai cho Cộng. Đối với họ thì đã là người Việt di cư
tị nạn thì phải chống Cộng, chống bất kể lý lẽ, chống cho đến chết thì
thôi. Họ không quan tâm đến vấn đề cuộc chiến Quốc-Cộng đã chấm dứt
cách đây 36 năm rồi, và cái gì của lịch sử phải trả lại cho lịch sử.
Họ không hiểu rằng, lịch sử không có tính cách thiên vị hay bè phái,
mà đơn thuần chỉ là lịch sử nó là như vậy. Xuyên tạc lịch sử theo chủ
đích và cảm tính của mình không phải là tiêu chuẩn nghiên cứu trong lãnh
vực học thuật trí thức.
Dùng những từ hạ cấp để mạ lỵ, hoặc dùng thái
độ du côn ra đe dọa những người không đồng ý kiến với mình không phải
là cách hành xử của con người đối với con người. Khi một người, chỉ
vì bất đồng ý kiến, mà trở mặt coi bạn mình là thù thì sự thực không
còn đáng gọi là bạn nữa. Tiếc thay, trong cộng đồng người Việt hải ngoại
đã từng xẩy ra những vụ như vậy, và tôi đã là nhân chứng sống của một
vụ trong đó một ông quan lớn thuộc ngành Quân Pháp trước, thay vì thảo
luận trí thức, lại giở thái độ du côn ra, đe dọa đánh một người mà ông
ta chưa từng đọc một bài nào của người đó, chỉ nghe bạn bè nói là người
đó bênh Cộng. Như vậy làm sao có thể có sự đối thoại giữa những người
có trình độ khác nhau và giáo dục khác nhau.
Tình cờ tôi đọc được hai bài của hai ông luật sư, gọi nôm na là thày
cãi: bài “Cộng
Sản Việt Nam: Có Chính Danh, Chính Nghĩa, Có Dân Chủ và Pháp Trị Hay Không?”
của TS-LS. Lưu Nguyễn Đạt, và bài “Về
Tính Chính Thống (Legitimacy) của một chế độ » của
LS Trần Thanh Hiệp. Hai bài trên khá đặc biệt vì có sự tham gia nhận
định của những bậc khoa bảng thượng thặng: Giáo sư Vũ Quốc Thúc, thuộc
bậc trưởng thượng, Bs Lê Thị Lễ, và Bs Nguyễn Văn Hoàng.
Hai
bài trên được Bs Lê Thị Lễ giới thiệu như sau:
Trân
trọng kính chuyễn để QUÝ VỊ tham khảo; phổ biến rộng rãi trong ngòai
nước trên mọi phương tiện. Toàn
dân: -
rất hoan nghênh, trân quý, tri ân Ls LƯU NGUYỄN ĐẠT & Ls TRẦN Thanh
Hiệp đã viết hai bài tham luận rất có gia trị để cho tòan dân (Quốc,
cộng, trung lập) biết rõ ràng rằng CSVN vi phạm trầm trọng các hiệp
định nhất là hiệp định Paris mà họ đã ký kết và đã xua quân tấn chiếm
VNCH bằng bạo lực, lừa đảo, theo lênh quan thầy cộng sản quốc tế, như
vậy chính phủ CSVN được coi như là bất hợp pháp, bất chính thức, bất
hợp lệ. -
mong rằng quân đội, công an, Ls LƯU NGUYỄN ĐẠT, Ls TRẦN Thanh Hiệp,
các Luật Gia, các Luật Sư sẽ cùng các Trí thức, Nhân sỉ và đồng bào
các giới trong lẫn ngòai nước hãy mạnh dạn cùng nhau tìm mọi phương
cách hoặc đứng lên lật đổ Chính phủ CSVN bất hợp pháp này đồng thới
cùng nhau sớm truy tố tội ác chiến tranh, chống nhân lọai trong đó
có tội diệt chủng của bạo quyền CSVN ra trước các Tòa Án Hình Sự Quốc
Tế & Quốc Gia có thẩm quyền, Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Châu Âu... -
mong rằng hai bài tham luận rất giá trị này sẽ được Ls Đạt, Ls Hiệp,
các Luật gia, các Luật sư, các thông dịch viên cho dịch ra tiếng Pháp,
Anh, Đức...để đánh động cộng đồng thế giới và các Thanh Niên, Sinh
Viên, Học Sinh tị nạn CSVN.
Kính mến, Bs
LÊ Thị Lễ
Trong cái gọi là “Toàn dân” này của Bs Lê Thị Lễ chắc chắn là không có
một người rồi: đó chính là kẻ hèn này, vì tôi vốn không mấy khi nghe
và tin theo những lời mê sảng của những người nói hay viết mà không biết
mình nói hay viết cái gì, và vì đọc hai bài của hai luật sư tôi không
thể nào hoan nghênh, trân quý hay tri ân họ được. Tôi thấy trong đó
có những luận cứ nặng về cảm tính hơn là những nghiên cứu vô tư, và có
nhiều điều không đúng sự thật. Bài sau đây là bài phê bình trí thức
về những quan điểm về lịch sử của luật sư Lưu Nguyễn Đạt, không dính
dáng gì đến chuyện chống Cộng hay bênh Cộng. Sống trong thế giới Âu
Mỹ, chúng ta phải chấp nhận là: chống Cộng và bênh Cộng đều có quyền
như nhau. Cho nên không ai có thể lấy quyền của mình để dẹp đi quyền
của người khác, chỉ có thể đối thoại trong hòa bình.
►
Trước hết, chúng ta hãy đọc thư của Gs Vũ Quốc Thúc bày tỏ quan điểm
của mình về hai bài của Ls Lưu Nguyễn Đạt và Ls Trần Thanh Hiệp. Thư
của Gs Thúc không bỏ dấu nên tôi đã mạn phép cho thêm dấu cho dễ đọc.
Tranh
luận về tính chất chính danh hay không chính danh, chính thống hay
không chính thống, tuy hào hứng về mặt pháp lý, nhưng theo ngu
ý, không có lợi gì cho công cuộc đấu tranh chung của dân
tộc. Một
khi gửi thư ngỏ cho những kẻ (sic) đương quyền thì phải xưng hô và
phát ngôn lễ độ: Dùng những lời lẽ thiếu lịch sự, thì khác chi khiêu
khích họ? Mà khiêu khích để làm gì? Trong khi mình cần thuyết phục
họ? Sau
hết tôi xin phép nói lên một điều quan trọng mà hai vị luật sư đã không
để ý tới. Như tôi đã trình bày trong quyển 2, tập Hồi Ký mang tựa
đề “Thời đại của tôi: Đời tôi trải qua các thời biến”, tôi đang cố
gắng vận động cho nước Việt Nam chúng ta được hưởng quy chế trung lập
giống như Áo Quốc đã được các nước Mỹ, Anh, Pháp, Liên sô chấp nhận
năm 1945. Theo tôi, đó phải là chiến lược bảo vệ nền độc lập của ta
trước những mưu toan bành trướng bá quyền của nước láng giềng khổng
lồ phương Bắc. [Tôi
hoàn toàn đồng ý với mục tiêu này của Gs Thúc. TCN] Bức Thư Ngỏ,
đối với tôi, chính là một hành động chiến thuật để thực thi chiến lược
trung lập ấy. Vì
vậy, theo tôi nghĩ, tranh luận về vấn đề chính danh, lúc này, là không
đúng thời cơ.
Vậy chúng ta trước hết hãy đọc bài của ông thày cãi Lưu Nguyễn Đạt.
► Ông Đạt viết: Trong
dịp “Bàn thêm về “Thư Ngỏ” của 36 trí thức hải ngoại, GS Thạc sĩ Vũ
Quốc Thúc xác định CSVN là một “chính quyền chính thức [governement
légal], có “chính danh” [légalité], nhưng lại phân biệt:
“Đối với những người chống cộng, thì nhóm C.S đang nắm quyền
ở Việt Nam không có chính nghĩa [légitimité] vì đã chiếm
quyền dưới vĩ tuyến 17 bằng bạo lực, trái với các hiệp định đã ký kết
ở Paris năm 1973…” [1] Sau
đó GS Vũ Quốc Thúc còn nhấn mạnh: “Chúng ta – những người sông yên
ổn ở hải ngoại – có bổn phận ủng hộ họ : thư ngỏ là một hành
động yêu nước , phục vụ dân chủ , phục vụ RULE OF LAW .[2] Với
tất cả sự kính trọng dành cho một vị trưởng thượng đại trí thức như
GS Vũ Quốc Thúc, người viết cùng độc giả chân chính vẫn thấy có bổn
phận xét kỹ lại những thuật ngữ trên để xem: Chế
độ Cộng Sản tại Việt Nam [CSVN] có phải là một “chính quyền chính thức”,
có “chính danh” hay không? Lý
do nào chính thể này còn bị coi là không có “chính nghĩa”? Và
phải chăng những người đồng ký tên trong “Thư Ngỏ” trên đều có bổn
phận ủng hộ “họ” [CSVN], với kỳ vọng chuyển hoá CSVN, hay với ước mong
họ trở thành chính quyền có “chính nghĩa”, …có “dân chủ đích thực”,
có “pháp trị đích thực”?
Về câu hỏi thứ nhất “Chế độ Cộng Sản tại Việt Nam [CSVN] có phải
là một “chính quyền chính thức”, có “chính danh” hay không?”, trước
hết chúng ta hãy thử xét xem hiện nay ở Việt Nam có chế độ CSVN không,
và chế độ đó là như thế nào. Theo tôi biết thì nước Việt Nam ngày nay
có “chính danh” (tên thiệt) là Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam , tiếng
Mỹ là [the
Socialist Republic of Vietnam], một nước độc lập có chủ quyền, được cả
thế giới công nhận, và chính quyền hiện nay là chính quyền của nước “Cộng
Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Cho nên “Chế độ CSVN” chỉ là
cái hồn ma ám ảnh đầu óc của một thiểu số chống Cộng ở hải ngoại muốn
tiếp tục cuộc thánh chiến chống Cộng khi không còn Cộng và ở nơi không
có Cộng, trừ phi chúng ta đánh đồng “chế độ CSVN” với “Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”.. Nhưng chúng ta cần biết rằng trên thế giới có nhiều dạng
của “chủ nghĩa xã hội”.
Thí dụ, đọc trên website http://en.wikipedia.org/wiki/Socialism_of_the_21st_century,
chúng ta thấy có Marxist
Socialism · Christian
Socialism · Islamic
Socialism · Scientific
socialism · Democratic
socialism · Libertarian
socialism · Market
socialism · State
socialism · Utopian
socialism · Communism · Socialist
anarchism · Syndicalism · Social
democracy · Revolutionary
socialism · Green
socialism · Guild
socialism.
Cho
rằng “chế độ CSVN” cũng là “Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” nhưng CSVN là
CS như thế nào. Nếu chúng ta đã về Việt Nam từ cuối thập niên 1990 đến
nay thì chúng ta phải thấy rằng Việt Nam có thể là bất cứ cái gì khác
chứ không còn là CS như chúng ta thường biết về CS trong quá khứ. CS
chỉ có mặt trên giấy tờ, thực chất không còn gì là CS, bởi vì theo những
gì chúng ta thường biết về CS trong quá khứ, thì nếu đúng là CS thì không
làm gì còn Nguyễn Văn Lý, Ngô Quang Kiệt, Lê Thị Công Nhân, Cù Huy Hà
Vũ v…v… Cho nên cứ bám vào từ CSVN để mà chống đối thì không thích hợp
vì chống đối một cái gì không còn tồn tại. Những người chống Cộng không
dám chấp nhận là CS đã chết vì họ vẫn cần một cái bung xung để chống
và để gây thù hận. Chẳng cần phải nói chúng ta cũng biết phần lớn những
người này thuộc lớp người nào và tổ chức nào. Sau đây chúng
ta hãy đi thẳng vào những luận điểm của ông Đạt.
► Ông Đạt viết:
Trước
hết, xin định nghĩa rõ rệt lại: một chính quyền chính thức [governement
légal], có chính danh [légalité] là một chính quyền hợp lệ, hợp pháp,
xuất xứ từ một truyền thống hay một trạng thái chuyển nhượng pháp định.
[3]
Định nghĩa của ông thày cãi là định nghĩa chính trị của riêng mình, và
định nghĩa đó đưa ra với mục đích nào. Vì chú thích số 3 trong tự điển
của Pháp chỉ giảng thế nào được coi là hợp pháp, nghĩa là những gì không
phạm luật pháp quốc gia do cơ quan lập pháp của một chính quyền ban ra.
Ngoài ra không nói gì đến “chính danh” hay “xuất xứ từ một
truyền thống hay một trạng thái chuyển nhượng pháp định”. Chúng
ta hãy đọc chú thích số 3 của ông thày cãi, nguyên văn như sau:
3. Est légal ce
qui est conforme à la loi, à la législation ; ce qui est
prévu, désigné par la loi.
[ D’après
le dictionnaire Trésor de la langue française informatisé (TLFI)].
Tôi xin tạm dịch như sau: “Được coi là hợp pháp những gì tuân theo
luật, tuân theo những luật ban hành (của cơ quan làm luật (législation);
những gì đã được tiên đoán, chỉ định bởi luật.”. Và chỉ có thế.
Chúng
ta cũng nên nhớ là, tùy theo thực tế chính trị và xã hội, nền pháp
luật mỗi nước mỗi khác, không thể có một nền pháp luật chung cho mọi
quốc gia. Và công dân của nước nào cũng bắt buộc phải tuân theo
luật pháp của nước đó, bất kể là có đồng ý hay không. Sau vụ 9/11
trên nước Mỹ, Mỹ đã ra đạo luật yêu nước [The Patriot Act] vi phạm
hầu hết những quyền cá nhân, người dân có quyền không đồng ý và lên
tiếng phàn nàn, nhưng vẫn phải tuân theo. Không một công dân nào có
thể nói, tôi không đồng ý với luật đó nên không có bổn phận phải tuân
theo luật đó, và không thể kiện chính quyền dù, thí dụ như, chính quyền
đã vào ngân hàng xem mình có bao nhiêu tiền, hay đến thư viện xem mình
đã đọc những loại sách nào v…v... Chúng ta hãy đọc tờ
Chicago Tribune ngày 1/11/2003, trong mục Tiếng Nói Người Dân (Voice
of the people), Ben Ogden viết:
Đạo
Luật Phi-Ái Quốc: Đạo luật Yêu Nước là một văn kiện lập pháp có tính
chất phi-yêu nước nhất từ xưa tới nay xuất phát ra từ Washington.
Nó phi-Koa Kỳ vì FBI có quyền khám xét mật, bắt bỏ tù chúng ta không
kết án và dính mũi vào những việc như chúng ta đã mua cái gì hay mượn
sách gì từ thư viện. Tôi hoan nghênh những cố gắng của Nghị viện để
bãi bỏ đạo luật này. (Un-Patriot
Act: The Patriot Act is the most un-patriot piece of legislation
that has ever come from Washington. It’s un-American for the FBI to
have the power to conduct secret searches, jail us without charges
and snoop into what we buy or borrow from the library. I applaud the
efforts in Congress to repeal the act.)
Từ những tài liệu trên, điều rõ ràng là ông thày cãi đã kéo dãn (stretch)
định nghĩa về từ légal trong tự điển của Pháp ra theo ý của ông với chủ
đích chống Cộng. Và bài viết của ông Đạt là một văn bản chống Cộng hơn
là bản nghiên cứu trí thức về thế nào là chính thống và chính nghĩa.
http://www.baoanhdatmui.vn/vcms/html/news_detail.php?nid=2171
Chiều 19.11.2006, lãnh đạo các nước trong hội nghị APEC chụp ảnh chung trong trang phục truyền thống của nước chủ nhà Việt Nam.
Những người chống Cộng đưa ra mọi lý luận để chứng minh là chính quyền
ở Việt Nam ngày nay không phải là một chính quyền chính thức có chính
danh, hợp lệ hay hợp pháp và không công nhận chính quyền này. Đó là
cái quyền của họ. Nhưng thực tế thì sao? Chính quyền Việt Nam đã được
cả thế giới công nhận, hai tổng thống Mỹ đã đến Việt Nam, nhiều nguyên
thủ quốc gia khác cũng đã đến, đại lễ Vesak của Liên Hiệp Quốc, cũng
như hội nghị APEC, ASEAN đều đã họp ở Việt Nam, Mỹ và nhiều nước khác
đã có liên lạc ngoại giao với Việt Nam ở cấp bậc Đại sứ. Giáo hoàng
John Paul II trước đây, muốn đến Việt Nam để khích động lòng cuồng tín
của giáo dân, cũng phải xin phép chính quyền VIệt Nam và chính quyền
đã không cho phép. Mẹ Teresa muốn lập dòng NỮ Tu Bác Ái ở Việt Nam cũng
bị bác vì Việt Nam thấy rõ âm mưu đàng sau. Việt Nam cũng có chân trong
Liên Hiệp Quốc và còn được bầu làm hội
viên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc trong nhiệm kỳ 2007-2009. Vậy
tại sao vấn đề chính thống chính thức chính danh của chính quyền Việt
Nam lại không được thế giới và Liên Hiệp Quốc quan tâm đến, và phải chằng
chúng ta hi vọng rằng, vì những lý luận về chính thức, chính danh của
ông Lưu Nguyễn Đạt thì thế giới sẽ sáng mắt ra và đoạn giao với Việt
Nam.
►
Chúng ta hãy đọc tiếp lý luận của ông Lưu Nguyễn Đạt, dựa trên định nghĩa
của ông ấy.
- 1. Cách
Mạng Mùa Thu 1945 Vậy
khi căn cứ vào định nghĩa trên, chỉ chính quyền quốc gia của Chính
phủ Trần Trọng Kim mới là chính quyền chính thức, hợp pháp hợp lệ,
có chính danh, sau khi vua Bảo Đại của Triều Nhà Nguyễn đã công bố
bản Tuyên Ngôn Độc Lập vào ngày 11.3.1945 và giao cho Trần Trọng Kim
thành lập nội các vào ngày 17.4.1945. Còn
cái nguồn gốc chấp chính của CSVN, cái gọi là Cách mạng mùa thu thực
chất chỉ là một cuộc cướp chính quyền của Chính phủ Trần Trọng Kim. Thật
vậy, ngày 17.8.45, từ một buổi Mít-tinh của Tổng Đoàn Công Chức để
chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim bổng chốc trở thành biểu tình của
Mặt Trận Việt Minh: “Quả lừa lịch sử” bắt đầu chính là từ đây.[5] Như
vậy, trên căn bản pháp lý, thuật ngữ “cách mạng mùa thu” [1945]
cũng đủ chứng tỏ hành vi cướp chính quyền của lực lượng Việt Minh dẫn
tới hiện tượng chấp chính bất hợp pháp, ngược lại với thế hợp pháp,
có chính danh của Chính phủ Trần Trọng Kim.
Tôi xin hỏi ông luật sư: Có cuộc cách mạng nào đặt trên căn bản pháp
lý, ông thày cãi thử nêu lên cho bàn dân thiên hạ coi. Kể qua vài cuộc
cách mạng chính trên thế giới: Pháp 1789, Tahiti 1791, Mỹ cuối thế kỷ
18, Nga 1917, Trung Quốc 1949, Cuba (1959).
Phải chăng tất cả những chính quyền trên những nước này, sau cuộc cách
mạng, đều là bất hợp pháp vì không từ truyền thống hoặc không được chuyển
nhượng theo pháp định.
Nếu muốn nói về chính quyền phải xuất xứ từ một truyền thống hay
một trạng thái chuyển nhượng pháp định thì thử hỏi chính quyền Ngô
Đình Diệm khi xưa là xuất xứ từ truyền thống nào và do sự chuyển nhượng
pháp định nào. Và ngày nay, những chính quyền bù nhìn của Mỹ và NATO
ở Iraq, Afghanistan, Libya v…v..., do bom đạn của Mỹ và NATO đưa lên,
thì xuất xứ từ truyền thống nào và do sự chuyển nhượng pháp định nào?
Ông thày cãi mang luật của ông ta ra hù thiên hạ, nhưng thiên hạ đâu
có ngu. Sự thật lịch sử cay đắng là Ngô Đình Diệm được Mỹ - Vatican bưng
về làm một chính quyền tay sai, khi thấy vô dụng thì loại bỏ. Còn Việt
Minh, một lực lượng chống Pháp và chống Nhật, đứng lên lấy lại chủ quyền
cho đất nước, lập chính phủ, tuyên bố Việt Nam độc lập ngày 2/9/45, Hoàng
đế Bảo Đại thoái vị, chính phủ Trần Trọng Kim hữu danh vô thực, không
có thực lực. Và từ đó đến nay, đảng CSVN đã lãnh đạo người dân đến chiến
thắng Điện Biên Phủ, dứt khoát chấm dứt thực dân Pháp, và sau này, vì
sự phản bội của Mỹ-Diệm, không chịu Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 theo quy
định của Hiệp Định Geneva, nên đã tiếp nối cuộc chiến chống ngoại xâm,
đi đến thống nhất.
Hãy nghe Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang giảng về chính thống
và chính nghĩa trong những trường hợp khác nhau trong bài Quan
Niệm Về Chính Thống Hay Chính Nghĩa Của Người Lên Cầm Quyền (http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH32.php)
.
Một trong những trường hợp đó như sau:
NẾU đất
nước đã hay đang nằm dưới ách thống trị quân thù xâm lược, thì bất
kỳ cá nhân hay thế lực nào trong nhân dân có khả năng chiêu binh mãi
mã, huy động nhân dân cùng lăn xả vào đại cuộc đánh đuổi quân thù ra
khỏi giang sơn, KHI THÀNH CÔNG, cá nhân hay thế
lực đó sẽ có chính nghĩa lên nắm quyền cai trị đất nước. Đây là
các trường hợp của Vua Ngô Quyền vào năm 939, của Vua Lê Lợi vào năm
1427, của Vua Quang Trung vào năm 1789, của Đảng Cộng Sản Việt Nam
và Việt Minh vào năm 1954. Đây là quy luật lịch sử. Thiết tưởng bất
kỳ người dân nào đã học qua bậc tiểu học cùng đều biết như vậy. Dựa
vào quy luật lịch sử này, Giáo sư Lê Xuân Khoa viết trong cuốn Việt
Nam 1945-1975 như sau: “
Tình
hình chính trị Việt Nam vào thời điểm 1945-1946 cho thấy rằng Việt
Minh dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã giành được chính nghĩa chống
Pháp và lôi cuốn được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng.” [7] “Chẳng
có gì đáng ngạc nhiên khi chính nghĩa chống Pháp đã được dồn hết sang
phía chính phủ kháng chiến do Hồ Chí Minh lãnh đạo.”[8] .
► Ông thày cãi cũng chẳng biết gì về thực chất chính phủ Trần Trọng Kim.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang cũng viết về vua Bảo Đại: Bảo Đại trong
tình trạng làm vua của một nước mà tất cả mọi thứ quyền lực như chính
trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, tài chánh và quản trị nhân dân đều
nằm trong tay liên minh Pháp – Vatican? Làm vua như vậy có phải là vua
gỗ, vua hề, vua bù nhìn không? Vậy thực chất chính phủ Trần Trọng
Kim của vua Bảo Đại là như thế nào? Nên nhớ khi đó Nhật còn nắm quyền
ở Việt Nam. Vì vậy, theo:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Tr%E1%BB%8Dng_Kim :
Chính
phủ Trần Trọng Kim thực chất vẫn nằm dưới sự bảo hộ của quân đội
Nhật chiếm đóng Đông Dương. Nhật Bản đưa ra chính
sách Đại Đông Á, tuyên bố "giúp các dân tộc da vàng đánh
đổ ách thống trị của thực dân da trắng để lập nên khu vực thịnh vượng
chung", nhưng thực ra đó chỉ là một tên gọi cho ách chiếm đóng
mới của quân phiệt Nhật. Vai trò của Nhật, theo kế hoạch của người
Nhật, không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế, mà còn bảo vệ quân
sự và dẫn dắt chính sách nội bộ của các nước trong khối, miền Nam
Châu Á sẽ trở thành thị trường và nơi cung cấp nguyên liệu. Vì
vậy nhiều người cho rằng đây chỉ là một chính phủ bù nhìn thân Nhật,
không có thực quyền và không có được sự ủng hộ của dân chúng.
Và theo: http://www.thegioinghenghiep.vn/m/news/view/Tran-Trong-Kim-1883-1953
Chính
phủ Trần Trọng Kim thực chất vẫn nằm dưới sự bảo hộ của quân đội
Nhật chiếm đóng Đông Dương, vì vậy có nhiều người cho rằng đây chỉ
là một chính phủ bù nhìn thân Nhật và không có được sự ủng hộ của
dân chúng. Khi quân Nhật đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng
Kim cũng chỉ tồn tại được đến ngày 23 tháng 8 năm 1945 thì sụp đổ.
Tuy nhiên, trong thời gian ngắn ngủi, chính phủ này cũng đã làm được
một việc quan trọng là thống nhất về mặt danh nghĩa đất Nam Kỳ vào
đất nước Việt Nam; và thay chương trình học bằng tiếng Pháp sang
chương trình học bằng tiếng Việt, do học giả Hoàng Xuân Hãn biên
soạn. Bộ trưởng Bộ thanh niên Phan Anh đã thành lập đoàn Thanh niên
Tiền tuyến, Thanh niên Xã hội. Trường Thanh niên tiền tuyến đã đào
tạo ra nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau
này.
Vậy khi ông luật sư khẳng định rằng: chính quyền quốc gia của Chính
phủ Trần Trọng Kim mới là chính quyền chính thức, hợp pháp hợp lệ, có
chính danh thì ông chỉ nói cho vui mà thôi, không có gì là đúng
sự thật trong đó. Một chính phủ bù nhìn ở trong quyền kiểm soát của
ngoại nhân thì không thể gọi là chính thức, hợp pháp hợp lệ, có chính
danh được.
Chúng ta không thể phủ nhận là, theo website trên: Trần
Trọng Kim được đánh giá là một học giả uyên thâm cả tân và cựu học,
là người tận tụy cho ngành giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên,
ông là người có tư tưởng bảo thủ và dân tộc - bảo hoàng. Tác phẩm Việt
Nam sử lược được đánh giá là một trong những quyển sử Việt Nam có phong
cách ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu, được tái bản nhiều lần.
Chúng ta cũng không thể phủ nhận là cụ Trần Trọng Kim có công lớn trong
việc thu hồi ba Kỳ làm một giải thống nhất, và khởi xướng chương trình
học bằng tiếng Việt, mà Bác sĩ Phan Huy Quát cũng là người nhiệt thành
chủ trương. Nhưng vấn đề là với cuộc đời của một học giả, Cụ Trần Trọng
Kim có đủ bản lãnh và uy tín để lãnh đạo quần chúng trong cuộc kháng
chiến khi Pháp trở lại toan tính tái lập nền đô hộ Việt Nam không? Mặt
khác, tài liệu của Giáo sư Quang cho biết là chính cụ Trần Trọng Kim
đã nhận định: “Liên
Hiệp Pháp chỉ là một thứ cũi chó mạ vàng.”, có
nghĩa là Việt Nam vẫn ở dưới quyền kiểm soát của Pháp. Do đó, dù Việt
Minh có cướp chính quyền đi chăng nữa thì đó cũng chỉ là một diễn biến
lịch sử và theo Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang thì đó là “qui luật lịch sử”.
Có cuộc cách mạng nào mà không lật đổ một chính quyền cũ. Cho nên, ông
luật sư lấy vụ cướp chính quyền của Việt Minh làm luận cứ bài bác thì
luận cứ này không vững vì ông không để ý đến bối cảnh lịch sử Việt Nam
trong những năm 1944-46.
Sau đây là luận điểm thứ hai của ông Lưu Nguyễn Đạt.
2.-
Hànội Vi Phạm Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 Khi Xua quân Chiếm Sàigòn,
Mùa Xuân 1975. Hiệp
Định Paris là hiệp định chấm dứt Chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt
Nam, do 4 bên tham chiến — Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng
hòa miền Nam Việt Nam (??) và
Việt Nam Cộng hòa — ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973, với
những khoản chính như sau: Một
cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện trên khắp miền Nam Việt Nam kể từ
ngày 27 tháng giêng năm 1973; Các
lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ
và của Việt Nam Cộng Hòa sẽ ở nguyên vị trí của mình trong lúc chờ
đợi thực hiện kế hoạch rút quân. Các
lực lượng vũ trang của hai bên ở miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị
trí của mình . Các
lực lượng chính quy thuộc mọi quân chủng và binh chủng và các lực lượng
không chính quy của các bên ở miền Nam Việt Nam phải ngừng mọi hành
động tấn công nhau. Từ
khi thực hiện ngừng bắn cho đến ngày thành lập chính phủ … hai miền
Nam Việt Nam (??) không được nhận đưa vào miền Nam Việt Nam quân
đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ
thuật, vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh. Hai
bên miền Nam được phép từng thời gian thay thế vũ khí, đạn dược, dụng
cụ chiến tranh đã bị phá huỷ, hư hỏng, hao mòn hoặc dùng hết từ sau
khi ngừng bắn, trên cơ sở một đổi một, cùng đặc điểm và tính năng… Vậy
ngay sau khi quân đội Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973,
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam ồ ạt tăng
quân, binh chủng, súng đạn, chuẩn bị đánh dứt điểm chính quyền Việt
Nam Cộng hòa. Như vậy âm mưu xua quân của ngụy quyền Hànội (??),
ồ ạt vượt vĩ tuyến 17 để cưỡng chiếm Sàigòn là một hình thức xâm
nhập lãnh thổ và tiếm quyền bất chính, bất hợp pháp, vì đã vi phạm
những điều khoản căn bản trên của Hiệp Định Paris 1973, cũng như
đã từng vi phạm Hiệp Định Genève 1954 trước đó (??). Vậy,
việc áp đặt chính quyền “thống nhất” trên Miền Nam Việt Nam, dưới chướng
ngụy quyền Hànội/Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, sau khi lật đổ thể chế
Việt Nam Cộng Hoà và gạt bỏ lực lượng bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam là một hành vi tiếm quyền bằng lừa đảo và bạo lực. Căn
cứ vào những sự kiện lịch sử trên [1945 & 1975], CSVN ngày nay,
bắt nguồn từ hai đợt tiếm quyền bằng lừa đảo và cưỡng chiếm bằng bạo
lực không thể được coi là một chính phủ chính thức, hợp pháp, hợp lệ,
có chính danh chính thực. Chính
thể Hànội sau 1945 và nhất là sau 1975, không hơn không kém, vẫn chỉ
là một ngụy quyền tại vị [un pouvoir illégal en place], một hiện trạng
tiếm quyền [un état d’usurpation depouvoir] bất hợp pháp, bất hợp lệ,
khác hẳn với sự thẩm định của nhóm “Thư Ngỏ”, như đã được minh
thị xác nhận bởi vị thầy chỉ đạo, GS Vũ Quốc Thúc và vị chánh chủ thảo,
GS Lê Xuân Khoa.
Tôi không thể tưởng tượng là lý luận của một ông luật sư lại tệ đến như
vậy?
Thứ nhất, tại sao chỉ nhắc đến Hiệp định Paris 1973 mà không nhắc đến
Hiệp định Geneva 1954. Chúng ta nên nhớ là Hiệp Định Geneva là Việt
Minh ký với Pháp, Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ của miền Nam khi đó, còn
thuộc quyền Pháp, chỉ ngồi làm cảnh và phản đối lấy lệ vì không ở cương
vị có thể phản đối. Lịch sử lại tái diễn: Hiệp định Paris 1973 được
ký kết giữa Mỹ và Bắc Việt, Việt Nam Cộng Hòa và Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam chỉ ngồi cho có mặt làm vì, không có tiếng nói quyết định trong
đó. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cực lực phản đối nhưng rồi cũng phải
bó tay. Đây là những sự kiện lịch sử, ai bảo là sai xin mời lên tiếng.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang cũng viết:
Thỏa
Hiệp 27/1/1973 hoàn tòan là sự giàn xếp bằng những thuật ngữ của chính
quyền Hoa Kỳ và chính quyền miền Bắc để chấm dứt cuộc chiến sao cho
cả hai cùng có lợi. Trong việc giàn xếp này, chính quyền miền Nam và
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chỉ đóng vai trò ngồi chơi xơi nước, chứ
đâu có được góp tiếng nói vào việc thảo luận hay bàn cãi gì ở
trong bàn Hội Nghi Paris!
Nếu Mỹ-Diệm không vi phạm Hiệp định Geneva thì làm gì có cuộc chiến tranh
Đông dương thứ hai, làm gì có Hiệp định Paris 1973. Trong Hiệp
Định Genève năm 1954 không có một điều khoản nào quy định việc chia cắt
Việt Nam thành hai miền Nam, Bắc. Lãnh thổ Việt Nam đã toàn vẹn từ Bắc
tới Nam, một thành công của chính phủ Trần Trọng Kim. Sông Bến Hải không
phải là ranh giới chia đôi đất nước mà chỉ là nằm trên vĩ tuyến 17 phân
định vùng rút quân của lực lượng Liên Hiệp Pháp và Quân Đội
Nhân Dân Việt Nam (Việt Minh), chờ ngày đất nước thống nhất qua một
cuộc bầu cử trên toàn quốc vào tháng 7/1956.
Để cho vấn đề được rõ ràng, có lẽ chúng ta cũng nên trở lại chút ít về
tinh thần Hiệp Định Genève năm 1954 giữa Pháp và Việt Minh, tôi nhắc
lại, giữa Pháp và Việt Minh. Chúng ta có thể đọc những chi tiết
về Hiệp Định Genève trong nhiều cuốn sách đã xuất bản, thí dụ như cuốn VIETNAM:
History, Documents, And Opinions On A Major World Crisis, biên tập
bởi Marvin E. Gettleman, trang 137-159; hoặc cuốn The United States
In Vietnam: An Analysis In Depth Of The History Of America’s Involvement
In Vietnam của George McTurnan Kahin và John W. Lewis, Chapter III,
p. 43-63. Sau đây là tóm tắt những nét chính.
Nếu Hiệp định Paris 1973 chủ yếu là “đăng ký” sự thất bại của Mỹ tại
Việt Nam và là một văn kiện “gỡ mặt mũi” để Mỹ “rút ra khỏi Việt Nam
trong danh dự” thì Hiệp Định Genève chủ yếu cũng “đăng ký” sự bại trận
của Pháp và là một văn kiện “gỡ mặt mũi” để Pháp rút ra khỏi Việt Nam.
Dù đang thắng thế quân sự nhưng sau 9 năm kháng chiến với nhiều tổn thất,
Việt Minh, một phần dưới sức ép của Nga Tàu, cũng muốn chuyển
sự tranh chấp quân sự thành tranh chấp chính trị mà họ tin rằng sẽ nắm
phần thắng. Nếu không tin như vậy, không đời nào Việt Minh chịu ký
Hiệp Định Genève chỉ để kiểm soát non nửa đất nước, vứt bỏ mọi công lao
hy sinh kháng chiến, nhường hơn nửa đất nước cho lực lượng Quốc Gia, vốn
vẫn còn thuộc quyền Pháp. Điều này chúng ta thấy rõ trong nội dung
của bản văn Hiệp Định Genève.
►
Hiệp Định Genève gồm hai phần: Phần “Thỏa
hiệp Ngưng Chiến Song Phương” giữa Pháp và Việt Minh (Bilateral
armistice agreement between France and the VietMinh) làm căn bản cho
Phần “Tuyên Ngôn Đa Phương Có Tính Cách
Quyết Định” (The multilateral Final Declaration),
đồng ký bởi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Lào, Cambod, Pháp, Anh, Mỹ, Trung
Quốc, Nga Sô Viết, và Việt Nam Quốc Gia. Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ của
Việt Nam Quốc Gia lên tiếng phản kháng, không đồng ý với nội dung bản
Tuyên Ngôn, điều duy nhất ông ta có thể làm được, vì thực tế là chính
quyền Bảo Đại do Pháp dựng lên và khi đó vẫn còn nằm dưới cái dù của
Pháp, cho nên không có một tư cách quyết định chính trị nào trong Hội
Nghị Genève. Phải 8 tháng sau Hiệp Định Genève, đến tháng 3/1955,
dưới áp lực của Mỹ, Pháp mới hoàn toàn trao trả độc lập cho Nam Việt
Nam, để Mỹ vào thay thế, và Quân Đội Quốc Gia Việt Nam mới có cơ hội
đốt lon của Pháp để đeo lon theo kiểu Mỹ. Chuyện Ngô Đình Diệm đuổi
Pháp giành độc lập cho Nam Việt Nam chỉ là chuyện tiếu lâm của chế độ
Đệ Nhất Cộng Hòa dựng lên để đánh bóng Ngô Đình Diệm, cũng như huyền
thoại “chí sĩ” Ngô Đình Diệm đã từng bôn ba nơi hải ngoại để cứu nước...
Sau đây, chúng ta hãy xét đến phần “Thỏa Hiệp...” trước.
Phần “Thỏa Hiệp...”, gồm 47 điều khoản, được ký kết giữa Tướng Pháp
Henri Delteil, Quyền Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương,
và ông Tạ Quang Bửu, Thứ Trưởng Quốc Phòng của Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa. Có vài điều khoản chính như sau:
Điều khoản 1 (Article 1) nói về sự thiết lập “một đường ranh giới
quân sự tạm thời” (A provisional military demarcation line)
[Vĩ tuyến 17] để quân đội hai bên rút quân về: Lực
lượng quân đội nhân dân Việt Nam ở phía Bắc, và lực lượng Liên Hiệp
Pháp (French Union) ở phía Nam làn ranh giới. [Khi đó Quân đội
Quốc Gia được coi là ở trong lực lượng Liên Hiệp Pháp và trên thực thế
còn trong vòng kiểm soát của Pháp]
Điều khoản 2 ấn định thời gian rút quân của hai bên không quá 300 ngày
kể từ ngày Thỏa Hiệp có hiệu lực.
Điều khoản 8 ấn định quyền kiểm soát hành chánh ở phía Bắc Vĩ Tuyến
17 thuộc Việt Minh và ở phía Nam thuộc Pháp (Civil
administration in the regroupment zone to the North of the 17th parallel
was to be in the hands of the Vietminh, and the area to the South of
the parallel was to be in the hands of the French)
Điều khoản 14, đoạn (a) [Article 14, Paragraph (a)] viết rõ: “Trong
khi chờ đợi cuộc Tổng Tuyển Cử để Thống Nhất Việt Nam, quyền hành chánh
dân sự trong mỗi vùng rút quân nằm trong tay các phe có quân đội rút
quân (nghĩa là Pháp và Việt Minh) theo tinh thần của bản Thỏa Hiệp.”
(Pending the general elections which will bring about the Unification
of Vietnam, the conduct of civil administration in each regrouping zone
shall be in the hands of the party whose forces are to be regrouped there
in virtue of the present Agreement).
Điều khoản 14, đoạn (c) viết: “Mỗi phe
sẽ tự kiềm chế để không có bất cứ hành động trả thù hay kỳ thị nào đối
với những cá nhân hay tổ chức vì những hoạt động trong khi có cuộc tranh
chấp quân sự, và phải bảo đảm quyền tự do dân chủ của họ.” (Each
party undertakes to refrain from any reprisals or discrimination against
persons or organizations on account of their activities during the hostilities
and to guarantee their democratic liberies) [Có ai còn nhớ đến chiến
dịch Tố Cộng của Ngô Đình Diệm không?]
Bản “Tuyên Ngôn...” gồm 13 đoạn, liên quan đến cả Cambod và Lào, có một
đoạn đáng để ý:Đoạn
(6) [Paragraph (6)] nguyên văn như sau:
“Hội
Nghị nhận thức rằng mục đích chính yếu của Thỏa Hiệp về Việt Nam là
dàn xếp những vấn đề quân sự trên quan điểm chấm dứt những đối nghịch
quân sự và rằng ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHÔNG THỂ
DIỄN GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH
TRỊ HAY ĐẤT ĐAI . Hội Nghị bày tỏ sự tin tưởng là thi hành những
điều khoản trong bản Tuyên Ngôn này và trong Thỏa Hiệp ngưng chiến
sẽ tạo nên căn bản cần thiết để trong tương lai gần đạt tới một sự
dàn xếp chính trị ở Việt Nam”
(The Conference recognizes that the essential purpose of the Agreement
relating to Vietnam is to settle military questions with a view to ending
hostilities and that THE MILITARY DEMARCATION LINE IS PROVISIONAL AND
SHOULD NOT IN ANY WAY BE INTERPRETED AS CONSTITUING A POLITICAL OR TERITORIAL
BOUNDARY. The Conference expresses its conviction that the execution
of the provisions set out in the present Declaration and in the Agrrement
on the cessation of hostilities creates the necessary basis for the achievement
in the near future of a political settlement in Vietnam.)
Chỉ cần đọc vài đoạn trong bản Thỏa Hiệp cũng như bản Tuyên Ngôn, không
cần phải diễn giải lôi thôi làm gì, chúng ta có thể thấy ngay là không
làm gì có chuyện chia nước Việt Nam thành hai miền độc lập về chính trị
và quân sự. Huyền thoại về một miền Nam độc lập như một quốc gia riêng
biệt chỉ là sản phẩm do Mỹ tạo ra về sau, tuy trong bản Tuyên Ngôn Đơn
Phương (Unilateral Declaration) của Mỹ về Hội Nghị Genève, Mỹ không bao
giờ nói đến “Nam” hay “Bắc” mà chỉ nói đến một nước Việt Nam (Kahin & Lewis:
Nowhere in its unilateral declaration did the US speak of a “South” or
“North” Vietnam. Every reference of the American representative was
to a SINGLE VIETNAM.). Ngoài ra Mỹ cũng đã hứa sẽ không đe dọa hoặc
can thiệp bằng võ lực vào việc thống nhất đất nước qua cuộc Tổng Tuyển
Cử năm 1956. Thật vậy, Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ, Walter Bedell Smith
xác định trong bản Tuyên Ngôn tại Washington D.C. như sau:
“Trong
trường hợp những quốc gia nay bị chia đôi ngoài ý muốn, chúng ta
sẽ tiếp tục tìm kiếm giải pháp thống nhất qua bầu cử tự do, giám
sát bởi Liên Hiệp Quốc để bảo đảm là bầu cử được thi hành nghiêm chỉnh”
và “Hoa Kỳ sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để phá những
sự Thỏa Hiệp.” (In the case of nations divided against their
will, we shall continue to seek to achieve unity through free elections,
supervised by the United Nations to ensure that they are conducted
fairly... The US will refrain from the threat or the use of force
to disturb them)
Trong cuốn
The United States In Vietnam: An Analysis In Depth Of
The History Of America’s Involvement In Vietnam, hai Giáo sư đại
học Cornell, George McTurnan Kahin và John W. Lewis, viết, trang 59:
“Tuy
Hoa Kỳ nói rằng “sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để phá
những sự Thỏa Hiệp” nhưng điều hiển nhiên chúng ta thấy ngay sau đó
là Hoa Kỳ đã sửa soạn dùng mọi phương cách khác để ủng hộ chế độ
Saigon [do Mỹ dựng lên] trong việc không tôn trọng
những điều khoản trong Thỏa Hiệp." (Though the
US said it would “refrain from the threat or the use of force to disturb”
the agreements, it soon become evident that it was prepared to use
every other means to back up the Saigon regime in its departure from
their central provisions).
►
Hai luận cứ để bào chữa cho chính quyền Ngô Đình Diệm không thi hành
Thỏa Hiệp Genève cũng như không chịu tổ chức Tổng Tuyển Cử là Chính Quyền
Diệm không ký vào bản Thỏa Hiệp và dưới chế độ Cộng Sản không có bầu
cử tự do. Cả hai luận cứ này đều không có tính cách thuyết phục đối
với các giới trí thức.
- Thứ nhất, có điều khoản qui định rằng Pháp là phe phải tôn trọng Hiệp
Định Genève và những chính quyền nối tiếp Pháp trước năm 1956 đều phải
có bổn phận thi hành những điều khoản đã được ký kết giữa Pháp và Việt
Minh [Kahin & Lewis: The Vietminh’s interests were further safeguarded
by the provision that any administration succeeding the French prior
to the 1956 elections would legally assume France’s obligations and be
“responsible for ensuring the observance and enforcement of the terms
and provisions” of the agreements entered between the Vietminh and France.)
- Thứ nhì, Việt Minh có cần phải tổ chức bầu cử gian lận vào thời đó không?
Lý do chính để Mỹ và Diệm phá cuộc Tổng Tuyển Cử năm 1956 là, chính Tổng
Thống Hoa Kỳ Eisenhower và báo chí Mỹ, tờ Time ngày 22/11/1954,
và tờ Look ngày 25/1/1955, đã ước tính là trong cuộc Tổng Tuyển
Cử Tự Do (Free Elections) vào năm 1956 thì ông Hồ Chí Minh sẽ được ít
nhất là 80% số phiếu trên toàn quốc. Mỹ muốn ngăn chận Cộng Sản vì cái
thuyết Domino sai lầm của mình nên không muốn có Tổng Tuyển Cử mà kết
quả chắc chắn là Cộng Sản sẽ thắng trên toàn quốc. Mặt khác, các cuộc
bầu cử dưới chế độ Ngô Đình Diệm có tự do và không gian lận hay không?
Vì vậy Giáo sư Mortimer T. Cohen đã châm biếm trong cuốn From Prologue
To Epilogue In Vietnam , xuất bản năm 1979, trang 227 và 251, như
sau:
“Nhưng Eisenhower biết rằng trong một cuộc bầu cử tự do, 80% dân chúng
sẽ bầu cho Hồ Chí Minh thay vì Bảo Đại. Diệm có khá gì hơn Bảo Đại
không? Làm sao mà khá hơn? Không một người nào ở Việt Nam có thể
thắng Hồ Chí Minh trong cuộc Tổng Tuyển Cử tự do. Ông ta là George
Washington của nước Việt Nam. Giáo sư Brown gọi ông ta là một kẻ “phản
bội”, nhưng trong 15 năm, từ 1954 đến khi ông ta chết vào tháng 9/1969,
cái tên phản bội này sẽ thắng bất cứ ứng cử viên nào khác. Các ông
không thể đánh bại một người có tên tuổi bằng một người không tên tuổi... Nhiều
sử gia lý luận như các luật sư – hay giáo sư đại học - nhấn mạnh là:
vì Việt Nam Cộng Hòa không ký Hiệp Định Genève cho nên không có bổn
phận phải hợp tác trong việc tổ chức bầu cử để thống nhất đất nước.
Điều này giống như là một tên hiếp dâm bảo nạn nhân là cô ta đã làm
hư hại xe của hắn. Chuyện làm hư hại xe chẳng liên hệ gì đến chuyện
hiếp dâm. Lý do mà hắn hãm hiếp là vì hắn muốn làm tình. Lý do Diệm
không muốn có cuộc Tổng Tuyển Cử là vì ông ta nghĩ rằng mình sẽ thua...”
(But Eisenhower knew then that 80 percent of the people in a free election
would vote for Ho Chi Minh over Bao Dai. Would Diem do any better than
Bao Dai? Why should he? No one in Vietnam could beat Ho Chi Minh in
an open election. He was the George Washington of the nation. Professor
Brown calls him a “traitor”, but for fifteen years, from 1954 to his
death in September of 1969, this traitor would have easily won over any
other candidate. You can’t beat somebody with nobody... Several
historians, arguing like lawyers – or professors – insist that because
the Republic of Vietnam had not signed the Geneva Accord, it was not
obligated to cooperate in holding elections for unification. It’s like
a rapist telling the victim she damaged his car. This had nothing to
do with it. The reason he does what he does is he wants to copulate.
The reason Diem did not hold unification elections was that he thought
he’d lose them...)
► Vậy một câu hỏi được đặt ra. Nếu chính quyền Quốc Gia đã vi phạm Hiệp
định Geneva 1954, không thi hành Tổng Tuyển Cử để thống nhất đất nước
bằng phương pháp hòa bình, thì tại sao Bắc Việt không thể vi phạm Hiệp
định Paris 1973, để thống nhất đất nước bằng phương pháp quân sự?. Luận
cứ của ông luật sư Đạt cho rằng quân Bắc Việt xâm nhập lãnh thổ miền
Nam không đứng vững, vì không ai có thể nói là người Việt xâm nhập lãnh
thổ của người Việt. Bởi vậy Daniel Ellsberg đã cho rằng “cuộc xâm lăng
từ miền Bắc” chỉ là một huyền thoại như trong tài liệu sau. Mặt khác,
trên nguyên tắc, Hiệp định Paris do Mỹ và Bắc Việt ký kết với nhau, tại
sao Mỹ, cường quốc bậc nhất trên thế giới về kinh tế và quân sự, lại
không có biện pháp trừng phạt Bắc Việt về sự vi phạm của Bắc Việt mà
chỉ phản đối lấy lệ. Và liên hệ ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam ngày
nay ra sao? Bàn cờ quốc tế nó là như vậy. Quý vị muốn đi ngược lại
thời gian, nhưng lịch sử chỉ đi có một chiều.
Nếu như Giáo sư Mortimer Cohen nhận định: Mỹ không có lý do nào chính
đáng để can thiệp vào Việt Nam và cũng không thể nào biện minh được thì
chúng ta chỉ có một cách giải thích. Đó là thực chất cuộc can thiệp
của Mỹ vào Việt Nam là một cuộc xâm lăng mà Mỹ đã xử dụng “luật rừng”
và “cường quyền thắng công lý”, những hành động mà Mỹ đang áp dụng ở
Iraq, Afghanistan, Syria, Libya và ở nhiều quốc gia khác trước đây.
Lý do của Mỹ là “Lý của kẻ mạnh bao giờ cũng là đúng nhất” (La
raison du phus fort est toujours la meilleure). Thật vậy:
Daniel Ellsberg viết trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and
the Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255:
Không làm gì có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có
một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ.. Dùng
ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc
chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp-Mỹ, sau đến toàn là Mỹ. Trong cả hai
trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải
là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh –
chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia,
hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ.
Cuộc chiến đó không có gì là “nội chiến”, sau 1956 hay 1960, như nó
đã không từng là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của Pháp
được Mỹ ủng hộ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn toàn được
trang bị và trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực
nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền
lợi của mình – thì không phải là một cuộc nội chiến.
Bảo rằng chúng ta “xía vào” cái gọi là “đích thực là một cuộc nội chiến”,
như hầu hết các tác giả Mỹ, và ngay cả những người có khuynh hướng
tự do chỉ trích cuộc chiến cho rằng như vậy cho đến ngày nay, đơn giản
chỉ là che dấu một sự thực đau lòng hơn, và cũng chỉ là một huyền
thoại như là luận điệu chính thức về một “cuộc xâm lăng từ miền Bắc”.
Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà
chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm
lăng của Mỹ.
[There had been no First and Second Indochina Wars, just one continuous
conflict for almost a quarter of century.
In practical terms, on one side, it had been an American war almost from
its beginning: at first French-American, eventually wholly American.
In both cases it was a struggle of Vietnamese – not all of them but enough
to persist – against American policy and American financing, proxies,
technicians, firepower, and finally, troops and pilots.
It was no more a “civil war” after 1955 or 1960 than it had been during
the US-supported French at colonial reconquest. A war in which one side
was entirely equipped and paid by a foreign power – which dictated the
nature of the local regime in its own interest – was not a civil war.
To say that we had “interfered” in what is “really a civil war”, as most
American writers and even liberal critics of the war do to this day,
simply screened a more painful reality and was as much a myth as the
earlier official one of “agression from the North”. In terms of the
UN Charter and our own avowed ideals, it was a war of foreign agression,
American aggression.]
Tại sao Daniel Ellsberg lại có thể viết như vậy. Vì Ellsberg là viên
chức trong chính quyền Mỹ, đã từng đọc được những tài liệu mật nhất của
Mỹ và biết rõ nhất về thực chất cuộc chiến ở Việt Nam. Chính ông là
người đã tiết lộ Tài Liệu Ngũ Giác Đài. Và ông viết đoạn trên năm 2002
chứ không phải là trong thời kỳ “phản chiến” sôi nổi trên đất Mỹ. Nếu
chúng ta đã đọc một số những sách viết về cuộc chiến Việt Nam, viết sau
1975, của các học giả và cựu quân nhân Mỹ, thì chúng ta sẽ thấy rằng
đa số đồng ý với Daniel Ellsberg về điểm này.
► Có lẽ chúng ta cũng nên biết thêm một tài liệu khác về bản chất của cuộc
chiến ở Việt Nam cách đây trên 35 năm. Trong cuốn Chiến Tranh Việt
Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War and American Culture, Columbia
University Press, New York, 1991), hai giáo sư đại học Iowa John Carlos
Rowe và Rick Berg viết, trang 28-29:
Cho tới năm 1982 – sau nhiều năm tuyên truyền liên tục mà hầu như
không có tiếng nói chống đối nào được phép đến với đại chúng – trên 70%
dân chúng vẫn coi cuộc chiến (ở Việt Nam) “căn bản là sai lầm và phi
đạo đức”, chứ không chỉ là “một lỗi lầm.”
Tưởng cũng nên nhớ lại vài sự kiện. Mỹ đã dính sâu vào nỗ lực của
Pháp để tái chiếm thuộc địa cũ của họ, biết rằng kẻ thù là phong trào
quốc gia của Việt Nam. Số tử vong vào khoảng nửa triệu. Khi Pháp
rút lui, Mỹ lập tức hiến thân vào việc phá hoại Hiệp Định Genève năm
1954, dựng lên ở miền Nam một chế độ khủng bố, cho đến năm 1961,
giết có lẽ khoảng 70000 “Việt Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến
mà từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp
Định Genève mà Mỹ phá ngầm. Trong những năm 1961-62, Tổng thống Kennedy
phát động cuộc tấn công thẳng vào vùng quê Nam Việt Nam với những cuộc
thả bom trải rộng, thuốc khai quang trong một chương trình được thiết
kế để lùa hàng triệu người dân vào những trại (ấp chiến lược?) nơi
đây họ được bảo vệ bởi những lính gác, giây thép gai, khỏi quân
du kích mà Mỹ thừa nhận rằng được dân ủng hộ. Mỹ khẳng định là
đã được mời đến, nhưng như tờ London Economist đã nhận định chính xác,
“một kẻ xâm lăng là một kẻ xâm lăng trừ phi được mời bởi một chính
phủ hợp pháp.” Mỹ chưa bao giờ coi những tay sai mình dựng lên
là có quyền hợp pháp như vậy, và thật ra Mỹ thường thay đổi những
chính phủ này khi họ không có đủ thích thú trước sự tấn công của Mỹ
hay tìm kiếm một sự dàn xếp trung lập được mọi phía ủng hộ nhưng bị
coi là nguy hiểm cho những kẻ xâm lăng, vì như vậy là phá ngầm căn
bản cuộc chiến của Mỹ chống Nam Việt Nam. Nói ngắn gọn, Mỹ xâm
lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng
với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân lọại trên khắp Đông Dương.
(As late as 1982 – after years of unremitting propaganda with virtually
no dissenting voice permitted expression to a large audience – over 70%
of the general population (but far fewer “opinion leaders”) still regarded
the war as “fundamentally wrong and immoral,’ not merely “a mistake”..
It is worth recalling a few facts. The US was deeply committed to the
French effort to reconquer their former colony, recognizing throughout
that the enemy was the nationalist movement of Vietnam. The death toll
was about half a million. When France withdrew, the US dedicated itself
at once to subverting the 1954 Geneva settlement, installing in the south
a terrorist regime that killed perhaps 70000 “Viet Cong” by 1961, evoking
resistance which, from 1959, was supported from the northern half of
the country temporarily divided by the Geneva settlement that the US
had undermined. In 1961-1962, President Kennedy launched a direct attack
against rural South Vietnam with large-scale bombing and defoliation
as part of a program designed to drive millions of people to camps where
they would be “protected” by armed guards and barbed wire from the guerillas
whom, the US conceded, they were willinggly supporting. The US maintained
that it was invited in, but as the London Economist accurately observed,
“an invader is an invader unless invited in by a government with a claim
to legitimacy.” The US never regarded the clients it installed as having
any such claim, and in fact it regularly replaced them when they failed
to exhibit sufficient enthusiam for the American attack or sought to
implement the neutralist settlement that was advocated on all sides and
was considered the prime danger by the aggressors, since it would undermine
the basis for their war against South Vietnam. In short, the US invaded
South Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression
with numerous and quite appalling crimes against humanity throughout
Indochina.)
►
Tại sao miền Nam lại thua? Sau đây là vài đoạn điển hình trong cuốn The
Pentagon Papers, tài liệu của Ngũ Giác Đài, hiển nhiên không phải
thuộc loại phản chiến hay thiên Cộng:
Tài liệu Ngũ Giác Đài nói, tình báo Mỹ ước tính trong thập niên 1950
là chiến tranh phát khởi phần lớn là do sự nổi giậy ở miền Nam để
chống chế độ tham nhũng và càng ngày càng đàn áp dân chúng của Ngô
Đình Diệm .
Tài liệu Ngũ Giác Đài nói về những năm 1956-1959, khi mà cuộc nổi giậy
bắt đầu, hầu hết những người đứng lên cầm vũ khí là những người Việt
miền Nam và những nguyên nhân họ chiến đấu không có cách nào có thể
bảo đó là do kế hoạch tính toán trước ở Bắc Việt.
Chỉ có rất ít bằng chứng là Bắc Việt đã chỉ đạo, hoặc có khả năng để
chỉ đạo, những sự bạo động ở miền Nam (3 tháng cuối 1957: 75 viên chức
địa phương bị ám sát. Ngày 22 tháng 10, 1957, 13 người Mỹ bị thương
trong 3 cuộc nổ bom ở Saigon)
Từ năm 1954 đến năm 1958 Bắc Việt tập trung vào sự phát triển nội bộ,
hiển nhiên là hi vọng vào một cuộc thống nhất đất nước hoặc qua cuộc
bầu cử theo như Hiệp Định Genève hoặc là kết quả của sự sụp đổ đương
nhiên của chế độ Diệm yếu ớt. Cộng sản để lại ở miền Nam một bộ phận
nòng cốt khi họ đi tập kết ra Bắc năm 1954 sau cuộc chiến với Pháp
chấm dứt, nhưng những cán bộ được lệnh chỉ được “tranh đấu chính trị” [để
sửa soạn kiếm phiếu trong cuộc bầu cử mà Bắc Việt hi vọng, và điều
này không vi phạm hiệp định Genève].
Tháng 5, 1959, các nhà lãnh đạo Bắc Việt quyết định nắm quyền cuộc
nổi giậy càng ngày càng lớn mạnh ở miền Nam.
Tài liệu Ngũ Giác Đài nói, cả tình báo Mỹ và các tù binh Việt Cộng
đều cho sự thành công nhanh chóng của Việt Cộng sau 1959 là do những
sai lầm của Diệm.
Tài liệu Ngũ Giác Đài mô tả trạng thái tâm lý của Ngô Đình Diệm như
là của một “Đại Phán Quan Tây Ban Nha”).
(American Intelligence estimates during the 1950s show, The Pentagon
account says, that the war began largely as a rebellion in the South
against the increasingly oppressive and corrupt regime of Ngo Dinh Diem.
“Most of those who took up arms were South Vietnamese and the causes
for which they fought were by no means contrived in North Vietnam,” the
Pentagon account says of the years from 1956 to 1959, when the insurgency
began.
There is only sparse evidence that North Vietnam was directing, or was
capable of directing, that violence (Last quarter of 1957: 75 local assassinated
or kidnapped. On October 22, 1957, 13 Americans were wounded in three
bombings in Saigon)
From 1954 to 1958 North Vietnam concentrated on its internal development,
apparently hoping to achieve reunification either through the election
provided for in the Geneva settlement or through the natural collapse
of the weak Diem regime. The Communist left behind a skeletal apparatus
in the South when they regrouped to North Vietnam in 1954 after the war
with the French ended, but the cadre members were ordered to engage only
in “political struggle.”
North Vietnam’s leaders formally decided in May, 1959, to take control
of the growing insurgency.
The Pentagon account says that both American intelligence and Vietcong
prisoners attributed the Vietcong’s rapid success after 1959 to the Diem’s
mistakes.
Diem’s mentality is described in the account as like that of a “Spanish
Inquisitor”.)
Cuộc chiến ở Việt Nam đã chấm dứt 36 năm rồi, có những thực tế chúng
ta phải chấp nhận, dù có đau lòng đến mấy. Chúng ta có chấp nhận hay
không thì những sự thật lịch sử vẫn là những sự thật và không thể thay
đổi. Thái độ chân chính của người trí thức có lương tâm là phải chấp
nhận sự thật dù sự thật đó có trái ý chúng ta hay làm cho chúng ta
phiền não. Dựa vào cảm tính để thay đổi sự thật là điều không bao
giờ có thể thành công.
►
Chúng ta hãy đọc tiếp luật sư Lưu Nguyễn Đạt.
Phần II.
TẠI SAO CSVN KHÔNG CÓ CHÍNH NGHĨA? của luật sư Đạt khá dài. Bỏ qua những
cường điệu để tố Cộng với những điều cũ rích như cải cách ruộng đất,
Tết Mậu Thân, phần còn lại là những nhận định thiếu cơ sở và không đúng
sự thật. Tôi không có thì giờ phê bình mọi điều trong phần này. Trước
hết là định nghĩa về “chính nghĩa” của ông luật sư.
1.-
Thế nào là “chính nghĩa”? Về
mặt thuần thục, “Chính nghĩa” là trạng thái hành xử thích hợp với lẽ
phải chân chính của công lý; ứng dụng đại nghĩa công bình và đạo đức
nhân bản; bảo trọng quyền lợi, nguyện vọng tiến hoá và hạnh phúc của
toàn dân.[6] Do đó, một chính quyền có chính nghĩa địch thực
khi được dân chúng tín nhiệm, tin tưởng. [7] Một
lực lượng cách mạng, khởi đầu có thể là một tổ chức bất hợp pháp, khi
nổi dậy đào thải một chính quyền tại vị. Nhưng sau cuộc đảo chính
hay cách mạng đó, lực lượng nổi dậy có thể tạo dựng thành một chính
quyền có chính nghĩa, như trường hợp của những cuộc cách mạng giành
độc lập, tự do, dân chủ tại Pháp, Hoa Kỳ và gần đây tại các quốc gia
Ả Rập và Trung Đông. Những lực lượng nhân dân này đã khởi nghĩa
phá bỏ những thể chế lỗi thời, phản nước, hại dân để tạo dựng vào đó
những chính thể phù hợp với chủ quyền quốc gia, với quyền lợi và phẩm
giá của toàn dân.
Thường thì khi chúng ta nói về chính nghĩa là nói về chủ trương của một
phong trào. Chủ trương đó có lôi kéo được quần chúng không, có theo
ý của đa số người dân không, chứ ít ai nói đế chính nghĩa của một chính
quyền. Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang cũng đã viết rất rõ ràng thế nào là
chính nghĩa trong đoạn sau đây:
[Trích] Dân ta có đươc những thành quả vẻ vang như vậy [đảng
CSVN đã lãnh đạo người dân đến chiến thắng Điện Biên Phủ, dứt khoát chấm
dứt thực dân Pháp, và sau này, vì sự phản bội của Mỹ-Diệm, không chịu
Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 theo quy định của Hiệp Định Geneva, nên đã
tiếp nối cuộc chiến chống ngoại xâm, đi đến thống nhất.] là nhờ
ở lòng tận tụy hy sinh vì nước của đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận
Việt Minh cùng sự hy sinh vô bờ bến của toàn dân ta. Với những thành
quả này, tất nhiên là Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận
Việt Minh có dư thừa chính nghĩa để lên nắm quyền cai trị quốc dân. Đây
là quy luật lịch sử. Quy luật lịch sử này cũng được Giáo-sư Lê Xuân Khoa
nói rõ nơi các trang 189 – 190, 206 và 210, trong cuốn Việt Nam
1945-1975 về chính nghĩa của Mặt Trận Việt Minh. Dưới đây là 2 đọan văn
này:
“Cuộc kháng chiến chống Pháp thành công do Việt Minh lãnh đạo đã
chứng tỏ truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam cương quyết chống
lại mọi sự đô hộ của ngoại bang để giành lại quyền tự chủ. Trong suốt
tám năm trời kháng chiến, các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam, dưới danh
nghĩa Mặt Trận Việt Minh và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, luôn
luôn nêu cao mục tiêu tranh đấu cho độc lập, tự do và giải phóng dân
tộc ra khỏi chế độ cai trị bóc lột tàn ác của đế quốc thực dân. Đó là
chính nghĩa đã lôi cuốn được đông đảo nhân dân, quân đội và cán bộ đã
hết lòng chiến đấu, chịu đựng bao nhiêu gian lao, hi sinh bao nhiêu của
cải và xương máu cho công cuộc cứu nước…”
“Công
bằng mà nói, thắng lợi này đạt được chính là nhờ sự điều động của đảng
Cộng Sản ở đằng sau Mặt Trận Việt Minh, với những ưu điểm về tổ chức
và tinh thần kỷ luật, lý tưởng cách mạng, kỹ thuật chiến tranh nhân
dân, nghệ thuật tuyên truyền và nhất
là sức mạnh lôi cuốn quần chúng của Hồ Chí Minh qua hình ảnh của một
nhà cách mạng một lòng vì dân vì nước, đã tranh đấu gian nan ở hải
ngoại trong suốt mấy chục năm. Chiến tranh chống Pháp là một chiến
tranh có chính nghĩa và Việt Minh đã giành được chính nghĩa đó.” [23]
Dĩ nhiên, ở vào trường hợp này, không có lý gì mà một thế lực đã có công
đánh đuổi được quân thù ra khỏi quê hương lại ngu xuẩn đến độ trao quyền
lãnh đạo quốc gia cho người kế thừa một triều đình đã không làm tròn
bổn phận của người lãnh đạo quốc dân bảo toàn lãnh thổ và chăm
lo phúc lợi cho nhân dân. Đây là lý do tại sao khi hoàn thành sứ mạng
đánh đuổi quân Minh ra khỏi đất nước, Bình Định Vương Lê Lợi đã không
tái lập ngôi vua cho nhà Trần. Đây cũng là lý do tại sao Bắc Bình Vương
Nguyễn Huệ được toàn quân tôn lên làm Hoàng Đế Quang Trung trước khi
kéo quân ra Bắc tiêu diệt gần 300 ngàn quân Thanh xâm lăng, và sau
đó được toàn thể dân tộc ta kính mến tôn vinh lên là vị đại cứu tinh
của đất nước. Tương tự như vậy, cũng vì lý do này, kể từ năm 1862 trở
đi, bất kỳ lực lượng nghĩa quân kháng chiến nào thành công hay hoàn thành
được sứ mạng đánh đuổi Liên Minh Xâm Lăng Pháp – Vatican ra khỏi quê
hương đều có đầy đủ chính nghĩa lên cầm quyền cai trị nhân dân. Đảng
Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh đã hoàn thành được sứ mạng trọng
đại và cao cả này. Vậy thì chính nghĩa nắm quyền cai trị nhân dân
phải thuộc về Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh.
Phần
trình bày trên đây cho chúng ta thấy rằng chính tà đã định, và bất kỳ các cá
nhân hay thế lực nào khác, dù là con cháu của nhà Nguyễn, kể cả ông Bảo
Đại, dù là của một tổ chức nào đó với những danh xưng tốt đẹp đến đâu
đi nữa, thì cũng không có tư cách gì để nhẩy lên hay được đưa lên
nắm chính quyền. Người viết xin khẳng định đây là quy luật lịch sử.
Đế Quốc Pháp rút quân về nước công nhận chủ quyền độc lập của dân tộc
khiến cho Liên Minh Xâm Lăng Pháp – Vatican tan vỡ. Vatican quay ra liên
kết với Hoa Kỳ và Liên Minh Xâm Lăng Mỹ - Vatican được cho ra đời thay
thế Liên Minh Xăm Lăng Pháp – Vatican nhẩy vào chiếm đoạt miền Nam Việt
Nam. Nhưng rồi trước sức mạnh kháng chiến kiên cường của
toàn quân toàn dân Việt Nam, quân Mỹ cũng phải cuốn gói ra đi,
công nhận miền Nam Việt Nam là của Việt Nam và Liên Minh Xâm Lăng Mỹ
- Vatican tan rã. Sự ra đi của quân đội Mỹ khiến cho chính quyền
và quân đội miền Nam cũng tan rã và cuốn gói chạy theo quan thày đi sống
lưu vong ở nước ngoài.
Đây là thành quả vô cùng vẻ vang toàn thể nhân dân ta với lòng quyết
tâm theo đuổi cuộc chiến trường kỳ kéo dài cả cả 30 năm trời dưới
quyền lãnh đạo của nhà ái quốc Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cũng
vì thế mà cụ Hồ không những được toàn thể nhân dân Việt Nam tôn vinh
là vị đại cứu tinh của dân tộc, mà còn được nhân dân thế giới và
các nhà viết sử có trọng lượng vô cùng kính nể và ngưỡng vọng.
Xin xem lại chương sách nói về “Các Nhân Vật Lãnh
Đạo Việt Nam” trong
Mục XXII, Phần VI trong bộ sách Lịch Sử và Hồi Sơ Tội Ác của Giáo
Hội La Mã của tác giả Nguyễn Mạnh Quang và bài viết “Vài
Nét về Của
Hồ” của tác giả Trần Chung Ngọc đã được đăng trong sachhiem.net và giaodiemonline.com
[Hết Trích]
Một chính quyền đưa ra một đường lối cai trị gọi chung là chế độ. Chế
độ cai trị đó như thế nào. Thí dụ chúng ta thường biết chế độ Ngô Đình
Diệm là một chế độ độc tài, Công giáo trị và gia đình trị. Chúng ta
cũng biết là chế độ của chính quyền hiện nay ở Việt Nam là chế độ độc
đảng, độc tài chính trị, muốn thêm tham nhũng vào đó cũng đúng. Nhưng
đây lại là chính quyền đang chính thức nắm quyền giải quyết những vấn
nạn của quốc gia. Giả thử chúng ta nghe lời hô hào của luật sư Lưu Nguyễn
Đạt từ ngoại quốc: Hãy
Dẹp CSVN và Xây Dựng Lại Chính Nghĩa Dân Tộc thì
vài vấn đề lại được đặt ra là: Trong chế độ hiện nay ở Việt Nam thì ai
đi dẹp CSVN bây giờ và giả thử chuyện dẹp CSVN thành công thì lực lượng
nào lên thay, ai lên cầm quyền, lực lượng nào hay cá nhân nào có những
thành tích yêu nước nào, có đủ uy tín đối với quốc dân đồng bào không,
và lực lượng nào hay cá nhân nào có chính nghĩa dân tộc trong tay, chính
nghĩa đó như thế nào. Điều đơn giản nhất có thể thực hiện được hoài
bão của ông luật sư có lẽ là kiếm được một chí sĩ nào đó, bao năm bôn
ba trong nhà dòng ở nước ngoài để bưng về cứu nước. Không biết tài ăn
nói của một luật sư có thể giải đáp cho những câu hỏi này, những giải
đáp không có không được để quần chúng nghe theo lời hô hào của ông luật
sư ở ngoại quốc.
Chúng ta hãy đọc tiếp ông luật sư Lưu Nguyễn Đạt, Phần này dài, tôi chỉ
phân tích vài đoạn đầu.
2. -
Tại sao lại quả quyết CSVN không có chính nghĩa?
Một lần nữa, người viết lại vịn vào lịch sử cận đại chứ không chỉ nghe
ngóng lập trường của “những người chống cộng” mà khẳng định rằng CSVN
không có chính nghĩa, bởi những chứng cứ sau đây: Rõ
rệt nhất, từ lúc thành lập bán khai [sic] cho
tới khi lộ diện, đảng phái và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam [CSVN]
không bao giờ phục vụ quyền lợi của dân tộc Việt Nam.
Ông luật sư viết để mà viết. Đảng CSVN thành lập năm 1930 và lộ diện
năm 1945 để, cứ cho là cướp chính quyền đi, theo ông luật sư. Trong
thời gian này “nhà cầm quyền CSVN” cầm quyền nào và quyền ở đâu. Trong
thời gian đó CSVN có bao thực lực, và ở cái thế nào để phục vụ quyền
lợi của dân tộc Việt Nam trong khi còn bị Pháp và Nhật và Tri Phủ
Hòa Đa Ngô Đình Diệm lùng bắt. Vụ Xô Viết Nghệ Tĩnh nổi dậy, có bàn
tay của đảng CS ở đàng sau, là phục vụ cho ai, nếu không phải là cho
những nông dân và công nhân bị Pháp bóc lột đến xương tủy. Ông luật sư
Đạt viết:
Đối
với Hồ Chí Minh và các đồng chí cộng sản, cứu cánh biện minh cho phương
tiện, kể cả thủ đoạn đê hèn nhất. Cái dã tâm là cứu cánh của họ không
có mục đích chính đáng, phục vụ dân tộc, mà chỉ phỉnh gạt, lừa
lọc, gây tội ác để củng cố đảng phiệt và chế độ cộng sản của họ, và
để duy trì quyền lợi cho khối cộng sản chuyên chính quốc tế [comintern],
dù phải làm thiệt hại cho dân tộc Việt Nam. “
Đây chỉ là những khẳng định vô trách nhiệm một cách cường điệu dựa theo
cảm tính cá nhân chứ không dựa theo sự thật lịch sử. Nếu không có mục
đích chính đáng thì tại sao người dân lại theo và ủng hộ. Phải chăng
người dân toàn là đồ ngu cả nên để cho HCM và các đồng chí CS của ông
phỉnh gạt. Những nhận định của Giáo sư Lê Xuân Khoa do Giáo sư Nguyễn
Mạnh Quang trích dẫn đã nói rõ hơn gì hết mục đích của CSVN có chính
đáng hay không.
Có phê bình tiếp ông luật sư Lưu Nguyễn Đạt thì cũng thế thôi. Tôi xin
ngưng ở đây và xin miễn phê bình bài của luật sư Trần Thanh Hiệp. Giáo
sư Vũ Quốc Thúc có đưa ra một yêu cầu với luật sư Lưu Nguyễn Đạt:
Tôi rất mong L.s. Lưu Nguyễn Đạt góp ý về một giải pháp khả thi để
chống lại hiểm họa Bắc thuộc đang đe dọa đất nước ta trong giai đoạn
lịch sử này. Xin luật sư chú trọng trước tiên vào tám chục triệu
đồng bào đang sống ở trong nước, dưới sự kiểm soát thường xuyên của
Công An. Chắc luật sư sẵn sàng là một hành động tích cực để cho
các đàn em trong nước có thể noi gương và tiếp tay. Mong lắm thay.
Trân trọng. Vũ Quốc Thúc.
Hành động tích cực của luật sư Lưu Nguyễn Đạt ở nước ngoài đã có, theo
Đặng Vũ Ái:
“LS
TTH - LS LNĐ cứu nguy đất nước bằng Tự Điển - Pháp Lý và TỔ QUỐC”
(http://sachhiem.net/printemail.php?id=5116)
Trần Chung Ngọc
Ngày 11/11/11
Các bài đối thoại cùng tác giả
▪
“ Sản Phẩm Trí Tuệ” của Nguyễn Anh Tuấn -
Trần Chung Ngọc
▪
“Sản Phẩm Trí Tuệ” Mới Của Nguyễn Anh Tuấn Về “Giáo H -
Trần Chung Ngọc
▪
“Tự Do Tín Ngưỡng” của Minh Võ -
Trần Chung Ngọc
▪
Ai Dám Tấn Công Đạo Chúa ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chiến Tranh ... Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ -
Trần Chung Ngọc
▪
Chu Tất Tiến: Here We Go Again -
Trần Chung Ngọc
▪
Chung Quanh Một Cuộc Tranh Luận Hào Hứng -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - “Cha Chung” là ai? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Các Vấn Nạn Cần Giải Quyết -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Căn Bản Đức Tin -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Kết Luận -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Lợi Ích ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Comments On John Paul II's Crossing the Threshold of Hope -
Trần Chung Ngọc
▪
Eh! Lữ Giang, alias Tú Gàn, Here we go again! -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Nguyễn Văn Lục -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Tú Gàn -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ Về Tiến Sĩ Nguyễn Học Tập -
Trần Chung Ngọc
▪
Một Trí Thức Không Biết Ngượng -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Bài “Niềm Tin ...” Của Trần Thị Hồng Sương -1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Mấy Câu Trả Lời của Ông Mục Sư NQM -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 ▪
>>>