 |
bản in |
¿ toàn bộ NTT |
03 tháng 01, 2009
|
Trích Từ Cuốn
“NGUYỄN TRƯỜNG TỘ: THỰC CHẤT
CON NGƯỜI VÀ DI THẢO”
Của Nguyễn Kha alias Bùi Kha &
Trần Chung Ngọc
Giao Điểm Xuất Bản, 1998
Qua những bài viết trước đây của nhiều tác giả
về nhân vật Nguyễn Trường Tộ của thế kỷ 19, ngoài vài bài đánh giá
Nguyễn Trường Tộ qua những nhận định phần nào rộng rãi, tổng hợp, trong
bối cảnh lịch sử Việt Nam (Văn Tân trong Nghiên Cứu Lịch Sử, số
23; Lê Xuân Diệm, Phạm Thị Hảo, Thái Hồng trong Nguyễn Trường Tộ Với
Vấn Đề Canh Tân Đất Nước), chúng ta thấy phần lớn đánh giá Nguyễn
Trường Tộ qua một số trích dẫn chọn lọc từ những bản điều trần của ông
gửi lên Vua Tự Đức, đề nghị cải cách, canh tân đất nước...trong tình
hình sôi bỏng của đất nước, khi Pháp đã chiếm xong hoặc 3, hoặc 6 tỉnh
Nam Kỳ và đang sửa soạn chiếm nốt Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Vì thường ít để ý
đến thực chất những ý kiến, đề nghị của ông và tính cách khả thi của
những bản điều trần cùng những diễn biến lịch sử, chính trị, xã hội
v...v.. của nước nhà trong khoảng thời gian 1863-71, thời gian ông đệ
trình những bản điều trần, và trước đó, cho nên thật là dễ hiểu khi
Nguyễn Trường Tộ thường được đánh giá như là một trong ba cột trụ vô
thượng thiên tài của CaTô Giáo Rô Ma (Công Giáo) tại Việt Nam, hai cột
trụ kia là Alexandre de Rhodes (xin đọc những bài viết về
Alexandre de Rhodes Với Chữ Quốc Ngữ của Hoàng Văn Lân & Đặng Huy
Vận, Chương Thâu, Hoàng Tuệ, Nguyễn Khắc Xuyên, Nguyễn Kha, Bùi Phước và
Chu Văn Trình) và Pétrus Trương Vĩnh Ký (xin đọc những bài viết về
Pétrus Ký trong cuốn "Pétrus Trương Vĩnh Ký Tuyển Tập", Lê trọng
Văn xuất bản). Tôi dùng chữ "vô thượng thiên tài" ở đây là dựa theo
quan điểm của một số trí thức Ca Tô như Võ Đức Hạnh, Thiện Cẩm, Trương
Bá Cần, Phan Phát Huồn v..v.. và một số tác giả khác, Ca Tô hay phi Ca
Tô, những người đã ca tụng Nguyễn Trường Tộ như là một bậc vô thượng
thiên tài về đủ các lãnh vực: thi sĩ, lý thuyết gia chính trị, lý
thuyết gia kinh tế, nhà cải cách xã hội và giáo dục, kỹ sư cầu cống,
kiến trúc sư, giáo sư khoa học, tư tưởng gia tiền tiến, nhà ngoại giao,
nhà ái quốc bậc nhất, và ... thiên tài quân sự v...v... với hàm ý: một
con én Nguyễn Trường Tộ có thể làm cả một mùa Xuân Ca Tô vĩnh viễn trên
đất Việt.
Một bậc vô thượng thiên tài như vậy, nếu thực
sự là vô thượng thiên tài, thật là rất đáng kính phục và đáng là một
niềm hãnh diện cho đất nước Việt Nam . Nhưng chúng ta biết rằng từ
10 đến 16 tuổi ông học với cha ở nhà, cha ông là một đông y sĩ; từ 16
đến 22 tuổi ông theo cụ Lê Thước và học với thày Tú Giai; từ 22 đến 25
tuổi ông theo học với thày Cử Hữu; từ 25 đến 28 tuổi ông có học với
quan huyện Địa Linh; năm 28 tuổi ông dạy chữ Hán ở nhà thờ Tân Ấp ,
và cũng trong thời gian này ông được Giám Mục Gauthier (Ngô Gia
Hậu) để mắt tới và dạy ông tiếng Pháp và giúp ông một số hiểu biết về
các khoa học thường thức ở Tây Phương (căn bản học thức của ông từ
nhỏ cho tới 29 tuổi không ngoài cái học từ chương "Tống nho hủ lậu", cái
học này có thể “vô dụng" đối với ông vì không thuộc loại "thực dụng" như
ông chủ trương sau này). Chúng ta cũng biết rằng ông được tiếp xúc với
văn hóa Tây phương qua một số giám mục, nhất là giám mục Gauthier. Năm
29 tuổi, ông tháp tùng Giám Mục Gauthier sang Pháp và ở lại Pháp trên 2
năm. (Xin đọc "Niên Biểu Nguyễn Trường Tộ" của Trà Ngọc Anh trong
cuốn "Nguyễn Trường Tộ Với Vấn Đề Canh Tân Đất Nước", "Nguyễn
Trường Tộ và Những Đề Nghị Cải Cách Của Ông" của Văn Tân trong
"Nghiên Cứu Lịch Sử ", Số 23).
Thời gian hai năm ở Pháp này đã biến ông
thành một bậc vô thượng thiên tài về mọi lãnh vực như một số tác giả đã
ca tụng ở trên. Và, với lòng yêu nước cao độ, với một kiến thức sâu
rộng về nhiều ngành học có thể nói là khó khăn như thiên văn, kỹ sư cầu
cống, một kiến thức mà người học cần một căn bản khá rộng rãi và vững
chắc về toán học, cơ học các thiên thể, vật lý học v...v..., ông trở về
nước năm 31 tuổi, làm...từ dịch, phụ trách dịch những văn bản bằng chữ
Hán cho Tây, để...cứu nước. Nhưng nước không cứu được, vì vua quan
thời đó thuộc loại Tống Nho ngu muội, đầu óc tối tăm mù mịt, không chịu
nghe theo những đề nghị cải cách, canh tân của ông, thí dụ như: không
chịu noi gương canh tân của Nhật Bản, không chịu hòa (một nghĩa khác
của đầu hàng theo tình hình thời bấy giờ) với Pháp, cưỡng lại mệnh
(Chúa) Trời vì (Chúa) Trời đã an bài để Tây (Kim) diệt Đông (Mộc),
không chịu nhờ Giáo Hoàng can thiệp cứu nước Việt Nam, không chịu
dùng những "kiến thức chuyên môn" của giới Giáo sĩ trong việc giáo
dục và canh tân đất nước, và nhất là cứ giết hại giáo sĩ, không để cho
họ tự do "mở rộng đạo, chống gian tà" (có nghĩa là những
truyền thống của dân tộc Việt Nam đều thuộc loại gian tà vì Ca Tô Giáo
chống lại tất cả những truyền thống này) để mở mang đầu óc và cứu
vớt linh hồn nhân dân Việt Nam.
Đó là huyền thoại Nguyễn Trường Tộ đã được
truyền tụng trong dân gian, từ thời Pháp thuộc, qua thời Ngô Đình Diệm ở
miền Nam, và kéo dài cho tới ngày nay qua những "tác phẩm nghiên cứu"
trích dẫn chọn lọc, ngoài toàn bộ vấn đề (out of context), thiếu hẳn một
sự phân tích khoa học có tính cách tổng hợp, và có vẻ như không hề biết
đến những tài liệu lịch sử hiện hữu.
Vậy thực chất những hiểu biết, tư tưởng và đề
nghị canh tân của ông Nguyễn Trường Tộ ra sao? Muốn giải đáp câu hỏi
này chúng ta cần có một cuộc nghiên cứu sâu rộng trên mọi khía cạnh, một
cuộc nghiên cứu toàn bộ các vấn đề dựa trên các tư liệu và trên sự phân
tích khoa học. Trong bài này tôi xin góp vài ý kiến về một vài khía
cạnh trong phạm vi hiểu biết của tôi. Tôi hi vọng những ý kiến sau
đây có thể góp phần bổ túc cho một số những nhận định và nghiên cứu
khác, đầy đủ và chi tiết hơn, về nhân vật Nguyễn Trường Tộ. Những ý
kiến của tôi về Nguyễn Trường Tộ hoàn toàn dựa trên sự phân tích một
số điểm trong những bản điều trần đã được dịch ra chữ quốc ngữ từ
nguyên bản bằng tiếng Hán.
Mức độ chính xác của những bản dịch này và
trong số những bản điều trần này có bao nhiêu bản đích thực là bút tích
của Nguyễn Trường Tộ? (Sử gia Trần Trọng Kim viết: "Nguyễn Trường Tộ
có làm mấy bản (có nghĩa là vài bản) điều trần" và các tác
giả trong cuốn Lịch Sử Việt Nam, Tập II, nxb Khoa Học Xã Hội,
1989, viết, trang 61: "Từ năm 1863 đến 1871, Nguyễn Trường Tộ đã đệ
trình Vua Tự Đức 14 bản điều trần"; Nguyễn Thế Anh đưa ra con số
"mười mấy bản điều trần"; Đặng Huy Vận và Chương Thâu đưa ra con số
43 bản điều trần trong đó có những bản không có tên, không có ngày
tháng; Thái Văn Kiểm đưa ra con số 18 bản điều trần trong đó có 3 bản
không kê ngày tháng), và theo Georges Boudarel, đại học Paris VII, trong
cuốn Catholicisme et Sociétés Asiatiques, trang 200, thì
"không có bản chữ quốc ngữ nào ghi xuất xứ của văn bản gốc viết bằng chữ
Hán " (Aucun des textes en quoc ngu consulté ne donne l'origine du
manuscrit original en caractères chinois.), những nghi vấn này cần được
giải đáp qua những công cuộc nghiên cứu lịch sử nghiêm chỉnh. Tuy
nhiên, khi viết bài này tôi tạm tin là những bản dịch phản ánh trung
thực những bản gốc, còn số bản điều trần chính xác đối với tôi không mấy
quan trọng.
Không ai có thể phủ nhận là sự hiểu biết của
ông Nguyễn Trường Tộ rộng rãi và tiến bộ hơn sự hiểu biết của người dân
và đa số sĩ phu trong nước cùng thời với ông. Điều này rất dễ hiểu,
vì "trăm nghe không bằng một thấy". Ông đã được tháp tùng Giám
Mục Gauthier xuất ngoại sang Hồng Kông, Singapore, và ở tại Pháp 2 năm
trong khi người dân Việt Nam không biết Pháp là gì, ngoài danh từ
"bạch quỷ" và mưu đồ xâm lăng của Pháp, song song với những hoạt động
gây chia rẽ, phá hủy nền văn hóa truyền thống của dân tộc, khuyến khích,
hỗ trợ, và cầm đầu những cuộc nổi loạn, gây xáo trộn trong nước của một
số giáo sĩ thừa sai ngoại quốc với sự cộng tác của một số giáo dân bản
địa. Nhưng thực chất những hiểu biết của ông như thế nào và những
hiểu biết đó đã giúp được nước những gì, những đề nghị canh tân của ông
có đi sát với thực tế không, có thể thi hành được hay không, và nếu
thi hành thì có lợi hay có hại cho đất nước, và những tư tưởng của ông
có phải là mới mẻ, đặc biệt hay không? Đó là những điểm chúng ta cần
phân tích và thảo luận.
Theo nguyên tắc, khi đánh giá nhân vật Nguyễn
Trường Tộ qua những ý kiến, tư tưởng, đề nghị của ông, chúng ta nên bỏ
qua, hay ít nhất cũng đặt nhẹ, tín ngưỡng cá nhân của ông, trừ phi những
ý kiến, tư tưởng, đề nghị của ông thuộc lãnh vực tôn giáo. Nhưng có
vẻ như một số trí thức và chức sắc Gia Tô đã đặt nặng vấn đề tín ngưỡng
của ông Nguyễn Trường Tộ, hàm ý ông có được cái học uyên bác và lòng yêu
nước cao độ là do sự huấn luyện của Ca Tô Giáo Rô Ma, hay đi xa và
huyền hoặc hơn nữa, là do "Thần khí Đức Ki Tô" tạo thành (LM
Thiện Cẩm). Cho nên, tôi bắt buộc cũng phải xét đến khía cạnh này để
tìm hiểu thực chất con người Nguyễn Trường Tộ.
Ông Nguyễn Trường Tộ là một tín đồ Ca Tô Giáo
Rô Ma, không phải là tân tòng, mà được truyền lại từ các đời trước, danh
từ quen thuộc gọi là "đạo gốc", và được đào tạo trong cái nôi của Ca Tô
giáo: "Từ bé tới lớn sống với Tây" (Trần Tiễn Thành). Vậy, muốn
biết những tác dụng của tôn giáo này trên ông, hay nói khác đi, muốn
đánh giá ông mà không nghiên cứu về lịch sử Ca Tô Giáo Rô Ma, về phương
cách đào tạo những cán bộ Ca Tô (linh mục) trong các trường Dòng và do
đó suy ra kiến thức tổng quát của giới giám mục, linh mục v..v.., nền
Thần học Ca Tô, đức tin Ca Tô, sách lược truyền đạo Ca Tô ở Á Châu, Phi
Châu v..v.., vị thế và cái nhìn của các Giáo sĩ Âu châu đối với các con
chiên bản địa, mục đích truyền đạo bằng những phương tiện giáo dục, sách
lược nắm giữ đầu óc tín đồ, sách lược thu thập của cải đất đai cho giáo
hội, những hoạt động chính trị của giáo hội v...v.. thì khó có thể đánh
giá một cách chính xác được. Hiển nhiên trong bài viết này tôi không
thể đi vào chi tiết của các đề mục trên mà chỉ có thể tóm lược, hết sức
sơ lược, vài điểm quan trọng nhất để chúng ta có một căn bản đánh giá
đúng mức nhân vật Nguyễn Trường Tộ.
I. Thực Chất Ca Tô Giáo Rô Ma Qua Những Sự
Kiện Lịch Sử:
Về lịch sử Ca Tô Giáo Rô Ma (Công Giáo) thì
chúng ta đã biết đó là một lịch sử đẫm máu của gần 2000 năm chinh phục
bằng "thập giá và lưỡi gươm" qua những chính sách tàn bạo, diệt chủng,
một lịch sử đã mang quá nhiều bất hạnh to lớn tới nhân loại, to lớn đến
độ làm mờ nhạt hẳn những việc từ thiện bác ái của các giáo hội địa
phương, thường là thực hiện với chủ đích dùng bả vật chất để thu nhặt
tín đồ, mà Giáo hội Ca Tô thường vẫn thổi phồng để cho thế giới quên
đi, không nghĩ đến cái lịch sử đen tối của Giáo hội.
Hiện nay số tài liệu khảo cứu về CaTô Giáo Rô
Ma rất là phong phú. Đã có những công cuộc nghiên cứu được phổ biến
trên toàn thế giới với đầy đủ tài liệu xác tín về mọi khía cạnh của tôn
giáo này: từ tổ chức quyền hành toàn trị cho tới phương pháp truyền đạo;
từ các triều đại dâm loạn của một số Giáo Hoàng cho tới các cuộc Thánh
Chiến để tiêu diệt những người ngoại đạo; từ những hành động đàn áp,
giết chóc khoa học gia, ngăn chặn sự tiến bộ của khoa học để bảo vệ
những điều sai lầm trong Thánh Kinh cho tới những toan tính diễn giải
lại Thánh Kinh để cho phù hợp với những sự kiện khoa học; từ mưu toan
thống trị hoàn cầu cho tới những sự dẫn đướng, liên kết, đồng lõa với
các chế độ thực dân; từ những cuộc săn lùng "phù thủy" cho tới những toà
hình án tra tấn dã man những người bị kết án là "dị giáo" (những
người không có cùng quan niệm và lòng tin tôn giáo như các tín đồ CaTô);
từ sách lược gây thù hận nhằm tiêu diệt dân Do Thái cho đến mưu toan
tiêu diệt tất cả các nền văn hóa không phải là Ca Tô; từ sự sa đọa tinh
thần của một số không nhỏ lãnh đạo tinh thần Ca Tô: rượu chè trai gái,
đồng giống luyến ái, cho tới cưỡng bách tình dục trẻ em, nữ tín đồ, và
các nữ tu Ca Tô (sơ); từ những phương cách vơ vét của cải tài nguyên
của các giáo hội địa phương cho tới những kế hoạch kinh tài phi luân; từ
những thỏa ước chính trị với Phát xít Đức, Ý cho tới những hoạt
động che dấu tội phạm chiến tranh trong các tu viện và qua các cơ quan
từ thiện; từ những hành động ve vuốt ngoài mặt cho tới những âm mưu lũng
đoạn cơ cấu chính trị và kinh tế của các nước thuộc Xã Hội Chủ Nghĩa; từ
những ngụy tạo phép lạ cho tới việc buôn bán các Thánh tích giả mạo hay
phong Thánh từng loạt để mê hoặc, chiêu dụ đám tín đồ kém hiểu biết
v...v...; thật quả là không thiếu một phương diện nào.
Chúng ta nên để ý rằng, trước số tài liệu
phong phú kể trên, cái gọi là Hội Thánh, tuy có tới hàng tỷ tín đồ nhưng
cũng không còn đủ khả năng ngăn chặn sự phổ biến của những tài liệu
này, hoặc xách động một cuộc Thánh Chiến nào để đốt các tác phẩm trên
và đốt luôn cả tác giả những tác phẩm đó như khi Hội Thánh còn nắm quyền
thống trị ở Tây phương trong thời Trung Cổ. Thế giới ngày nay đã văn
minh tiến bộ nhiều, không còn chấp nhận sự đen tối trí thức như trong
thời Trung Cổ ở Âu Châu nữa.
Đọc lịch sử CaTô Giáo Rô Ma, chúng ta thấy
rằng trong suốt gần 2000 năm nay, tôn giáo này chưa bao giờ hòa hợp với
bất cứ một tôn giáo nào khác, kể cả những tôn giáo cùng thờ một Chúa
KiTô. Khi ở vị thế có thể nắm quyền thế gian thì tôn giáo này đã làm đủ
mọi cách, dùng mọi quyền lực và thủ đoạn, thường là bất nhân tàn ác,
để bành trướng bằng sắt máu, tiêu diệt các tôn giáo khác. Đi tới địa
phương nào, tôn giáo này cũng tự cho là cao quý khai phóng nhất, phỉ
báng các tôn giáo và truyền thống dân tộc địa phương và tìm cách tiêu
diệt nền văn hóa địa phương để thay vào đó bằng một nền văn hóa hẹp hòi,
tàn độc của GiaTô giáo Tây phương. Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy, giáo
sĩ Alexandre de Rhodes, khi tới Việt Nam truyền đạo, đã xuyên tạc, mạ lỵ
cả ba tôn giáo lớn ở Việt Nam là Phật Giáo, Khổng Giáo, và Lão Giáo, gọi
đức Phật, Khổng Tử bằng những danh từ thiếu văn hóa. (Xin đọc "Phép
Giảng 8 Ngày..." của Alexandre de Rhodes) Chính sách truyền bá đạo
bằng bạo lực và sách lược tiêu diệt các nền văn hóa khác là những sự
kiện lịch sử mà chính giáo hội Ca Tô cũng không thể phủ nhận. Và để xoa
dịu dư luận thế giới, Giáo Hoàng đương nhiệm John Paul II đã thực hiện
nhiều chuyến công du tới các nước trong Thế Giới Thứ Ba và đã hơn 100
lần xin lỗi những nước này về những chính sách truyền đạo của giáo hội
Gia Tô bằng bạo lực, cưỡng ép, phá hủy các nền văn hóa địa phương, phá
hủy đền đài miếu mạo tượng thờ của các tôn giáo khác v...v... đồng thời
kêu gọi giáo dân phải sám hối về những tội ác và bất hạnh mà giáo hội
GiaTô đã gây ra cho nhân loại. Ngày Chủ Nhật 12 tháng 3, 2000, một tuần
lễ trước ngày đi hành hương nơi "Thánh địa" Jerusalem, trong một cuộc
“Thánh lễ” công cộng tại "Thánh đường" Phê-rô, trước nhiều chục ngàn con
chiên, người Chủ Chiên, Đức “Thánh cha” Gion Pôn Hai (John Paul II),
cùng với một số chức sắc cao cấp trong hàng giáo phẩm trong đó có Tổng
Giám Mục Nguyễn Văn Thuận , nay là Hồng Y, của Việt Nam, đại diện cho
"hội Thánh" Ca Tô gồm gần một tỷ tín đồ, trong đó có khoảng 5 triệu tín
đồ Việt Nam, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội lỗi” đối với nhân loại
của Ca Tô Giáo, một tôn giáo tự nhận là “thiên khải”, “duy nhất”, “thánh
thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “vương quốc của Thiên Chúa”, “cao
quý”, “ánh sáng của nhân loại” v…v…, và xin thế giới tha thứ cho những
hành động phi Thánh phi phàm, đặc thù Ca Tô, của những con cái giáo hội
Gia Tô "thánh thiện". Những sự kiện lịch sử này đã phần nào nói lên bản
chất của Ca Tô Giáo Rô Ma.
Giáo Hoàng phải làm như vậy để vớt vát phần
nào uy tín ngày càng suy sụp của giáo hội trước những phanh phui về
những sự kiện lịch sử của giáo hội nằm trong những tác phẩm nghiên cứu
của ngay chính một số chức sắc trong Gia Tô giáo cùng của nhiều học giả
và giáo sư đại học chuyên về tôn giáo. Tòa Thánh Vatican đã hoàn toàn
yên lặng trước những phanh phui lịch sử này, dù thế lực về chính trị
cũng như về tiền bạc của Tòa Thánh trên hoàn cầu rất lớn. Những tác
phẩm nghiên cứu về lịch sử Ca Tô Giáo Rô Ma kể trên nay được phổ biến
rộng rãi trong các thư viện đại học và thư viện công cộng, trong các
tiệm sách, và trên cả diễn đàn điện tử Internet. Lẽ dĩ nhiên Tòa Thánh
không khuyến khích tín đồ đọc những loại sách này.
Tại sao một tôn giáo thường tự nhận là ánh
sáng của nhân loại, là tình thương của Thượng Đế, là dân chủ, là đạo
đức, bác ái v..v.. mà lại có thể có một lịch sử đen tối như vậy? Ngày
nay, phần lớn những nhà khảo cứu về tôn giáo đã đồng ý rằng: những lời
tự nhận như trên của Ca Tô Giáo Rô Ma không dựa trên sự thực và chỉ là
những lời lừa dối đám tín đồ kém hiểu biết để duy trì quyền lợi thế tục,
mượn danh thần thánh, của giới lãnh đạo tôn giáo: Giáo hoàng, Hồng Y,
Tổng Giám Mục, Giám Mục và Linh Mục, và rằng, cái lịch sử đen tối của
giáo hội không phải là do vài cá nhân làm sai ý Chúa mà chính là đường
lối của Giáo hội, bắt nguồn từ sự tin tuyệt đối một cách mù quáng vào
Thánh Kinh. Thật vậy:
1. 1. Mục sư Ernie Bringas, một nhà
Thần học Ki Tô, đã giải thích những nhận định trên qua cuốn Theo
Đúng Sách Vở: Những Thảm Trạng Trong Hiện Tại và Quá Khứ Của Sự Tin
Tuyệt Đối Vào Thánh Kinh (Going By The Book: Past And Present
Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads Publishing Co., Inc.,
Charlottesville, VA, 1996):
“Ngày nay, nhiều người tin rằng sùng đạo
đồng nghĩa với tốt hay đạo đức, nếu không ở trong thực hành thì ít nhất
cũng ở trong ý định. Do đó, tôn giáo (độc thần) thường được coi
là có ảnh hưởng tốt cho xã hội.
Nhưng, giả thử cái món súp Thần học tôn
giáo này có chứa một chất khó nhận ra mà rút cuộc làm cho cái vị thông
điệp của nó chua ra. Tệ hơn nữa, giả thử nó chứa một chất độc có tác
dụng phá hủy cảm giác của những người dùng nó. Nếu tôn giáo đẩy mạnh
trong đám tín đồ một tâm cảnh không những bị lạc dẫn mà còn đẩy họ đến
những hành xử ghê tởm, vậy thì cái tôn giáo đó (ít nhất là một phần
của tôn giáo đó) có thể coi như là có phương hại cho nhân loại - một
ảnh hưởng suy đồi trên tất cả chúng ta. Có thể nào Ki Tô Giáo lại chứa
cái chất độc như vậy không? Thực sự là Ki Tô Giáo chứa cái chất độc
này.
Trải qua nhiều thế kỷ, sự sùng tín Kinh
Thánh đã dẫn tín đồ Ki Tô trong một niềm tin mù quáng, trong sự khủng
bố, ngược đãi người Do Thái và những người phi Ki-Tô, giết hại
và khủng bố, áp bức phái nữ, đè nén dục tính, kiểm duyệt, tạo tâm lý
tôn sùng, và nhiều lầm lạc khác. Những mô thức hành xử có tính cách
hủy diệt này, người ta có thể thấy dễ dàng là chúng bắt nguồn từ sự tin
vào quyền năng tuyệt đối của những điều viết trong Thánh Kinh.
Ki Tô Giáo đã để lại một dấu vết kinh
hoàng, khổ sở và chết chóc như đã được ghi trong những trang sử đẫm
máu. Và những hiện tượng tàn ác, lố bịch trong sử sách là những thí dụ
chủ yếu về một niềm tin bị lạc dẫn, đã được gây ra dưới cái ảo tưởng
(đôi khi là cái cớ): đó là sự hướng dẫn của Thượng đế.”
(Today, many believe that to be religious is to
be good or moral, if not in practice at least in intention. Thus,
religion is generally considered to be a positive influence on
society...
But suppose this religious soup of theology
contains an undetected ingredient that ultimately sours the flavor of
its message. Worse yet, suppose it harbors a poison that destroys the
sensibilities of those who consume it. If religion promoted among its
followers a mind-set that not only was misguided but also drove them to
abhorrent behavior, then it could be regarded (at least in part) as a
detriment to humankind - a retrogressive influence on us all. Is it
possible that Christianity contains such an additive? It does.
Over the past centuries, bibliolatry has led
Cristians in bigotry, the persecution of Jews and other non-Christians,
murder and terrorism, the oppression of women, the suppression of
sexuality, censorship, cult mentality, and other aberrations. The
destructive behavior patterns can be easily traced to the unchallenged
authority accorded biblical writing.
Christianity has left an appalling trail of
misery and death as recorded in the bloodstained pages of history. And
the cruel, grotesque events they record are prime examples of misguided
faith, perpetrated under the delusion (sometimes pretext) of divine
guidance.)
1.2.- Regina Schwartz, giáo sư dạy
Thánh Kinh trong 20 năm qua tại hai đại học nổi tiếng là đại học
Northwestern, Illinois, và đại học Duke, North Carolina, đã dạy sinh
viên bài học: "không làm gì có chân lý Phúc Âm" (Northwestern
University professor's lesson: There are no Gospel truths). Sau nhiều
năm suy tư và nghiên cứu, giáo sư Schwartz xuất bản cuốn Lời Nguyền
của Cain: Di sản bạo tàn của Tôn Giáo Độc Thần ("The Curse of Cain:
The Violent Legacy of Monotheism", The University of Chicago Press,
Chicago, 1997). Cuốn sách này được đề nghị trao giải thưởng Pulitzer về
loại tác phẩm nghiên cứu. Trong cuốn này, giáo sư Schwartz viết như
sau: "Cái mặt đen tối của tôn giáo độc thần là xác nhận, tán thành
tính duy nhất và bất khoan dung... (The dark side of monotheism
endorses exclusivity and intolerance...) và sự phân biệt giữa "chúng
ta" và "chúng nó". Chúng nó là những kẻ ngoại đạo, cần phải thóa mạ và
ghét bỏ. Đây là một cách nhìn sự việc đã được dùng để biện minh cho sự
kỳ thị và diệt chủng" (Community is imagined as "us against them".
The "Other" is the infidel, who's to be degraded and hated. This is a
vision that has been used to justify discrimination and
genocide.).
Giáo sư Schwartz nhận ra rằng sinh viên
ngày nay tin rằng Thượng Đế là do con người tạo ra theo hình ảnh con
người thay vì ngược lại, với những thuộc tính của con người như tham
lam, hẹp hòi, ghen tuông, và sợ hãi được gán cho Thượng Đế.
(...students come to believe that God is more often created in the image
of man than the other way around. That is, mankind's greed, pettiness,
jealousies and fears are often projected onto God).
II. Thực Chất Giáo Sĩ Ca Tô:
Một câu hỏi được đặt ra là, tại sao một tôn
giáo, với một lịch sử đen tối như vậy, mà vẫn có thể phát triển và tồn
tại? Có nhiều nguyên nhân và một trong những nguyên nhân chính là
phương cách đào tạo, trang bị giới giáo sĩ bằng một loại kiến thức hạn
hẹp, một chiều, nặng về phục tùng để có một địa vị, không dùng đến suy
luận, và nghệ thuật nắm giữ đầu óc tín đồ bằng mọi cách kể cả gian dối,
độc tài, và nhất là nuôi dưỡng sự mê tín. Sau đây là vài tài liệu về sự
đào tạo các linh mục. Tôi cố kiếm những tài liệu thuộc loại này
trong thời kỳ gần sát với thời của Nguyễn Trường Tộ để cho những
nhận định của tôi phần nào chính xác, nhưng tài liệu xưa nhất mà tôi
kiếm được là vào những năm 1926, và trong thập niên 1950-60, và tôi tin
rằng chương trình đào tạo các linh mục vào thế kỷ thứ 20 này chắc hẳn đã
phải tiến bộ hơn thời Nguyễn Trường Tộ.
2.1. Trước hết, chúng ta hãy nghe
Linh Mục Joseph McCabe mô tả về sự đào tạo linh mục vào khoảng đầu thế
kỷ 20 trong cuốn Sự Thực về Giáo Hội Ca To (The Truth About The
Catholic Church, Halderman-Julius Publications, Kansas, 1926, trang
89-90):
“Các linh mục được tuyển mộ khi còn rất
trẻ tuổi, và thường được tuyển trong giới ít học. Trong mọi quốc gia,
hiện nay giáo hội gặp khó khăn trong việc tuyển mộ những người xứng
đáng, và do đó phải hạ thấp nhiều tiêu chuẩn về khả năng. Như là một
quy luật, được chọn vào làm nghề linh mục là những thanh niên trẻ, đối
với họ việc tấn phong linh mục có nghĩa là được thăng lên một địa vị và
uy tín mà với những khả năng của họ, họ không thể đạt được ở ngoài đời.
Điều này đặt cái gánh nặng đào tạo họ
hầu như hoàn toàn vào trong tay giáo hội, và sở học của họ thường rất
nghèo nàn. Rất ít linh mục đọc được những tác phẩm của những tác giả
viết bằng tiếng La Tinh (trừ Ceasar), hay là hiểu Horace, Tacitus, hay
Juvenal. Về tiếng Hi Lạp, như là một quy luật, họ chỉ có một kiến thức
sơ đẳng mà họ thường quên ngay. Về khoa học, lịch sử, và triết lý,
theo cái nghĩa hiện đại, như là một quy luật, họ không có một kiến thức
nào.
Khoa học được dạy trong một số rất ít các
trường huấn luyện Linh mục và cũng chỉ ở trình độ sơ đẳng và trong một
thời gian ngắn. Sử học được trình bày trong vài bài về lịch sử Gia Tô,
do các tác giả Gia Tô viết.
Về khoa học và sử học, tôi không được học
một bài nào trong suốt thời gian đào tạo, và, như tôi đã nói, cái
"triết học" mà tôi học được chỉ liên hệ đến triết học hiện đại một cách
ít ỏi như là sự liên hệ của khoa chiêm tinh học với thiên văn
học.
Cái nền giáo dục mà giáo hội ban cho tôi
đã được chứng tỏ rõ ràng khi tôi "trở lại đời". Tôi không thể kiếm được
một chân dạy học với đồng lương 10 đô la một tuần. Ông Forbes, bạn tôi,
sau khi khảo sát kiến thức của tôi, rất tiếc mà bảo tôi rằng, sở học của
tôi thật là vô dụng. 3 Linh mục đồng nghiệp của tôi lặng lẽ bỏ giáo hội
ra kiếm sống ở ngoài đời. Cả 3 đều thất bại và phải quay trở lại giáo
hội. Giáo hội chắc chắn là có nhiều linh mục như vậy.”
(Recruits are now sought at a very early age,
and usually from the less educated class...The Church now, in all
countries, has a difficulty in securing the proper type of recruits, and
the theoretical qualifications have to be considerably lowered. As a
rule, the priesthood is recruited by the adoption of young boys to whom
ordination means promotion to a position and prestige which their
personal merits would not otherwise obtain for them.
This casts the burden of their training
almost entirely upon the Church, and their education is generally very
poor. Very few priests could read any Latin author (except Ceasar) at
sight, or make much sense of Horace, Tacitus, or Juvenal. Of Greek they
have, as a rule, received only an elementary knowledge, which they soon
forget. Of science, history, and philosophy, in the modern sense, they,
as a rule, know nothing.
Science is taught in very few
training-colleges for the clergy, and then only in the most elementary
form and for a very short time. History is represented only by a few
lessons, from Catholic writers, on Church history...
In science and history I did not receive one
single lesson in the whole course of my training; and, as I said, my
"philosophy" had as little relation to modern philosophy as astrology
has to astronomy.
The value of the education given to me in the
Church was made plain the moment I returned to "the world"...I could not
get a position as a teacher at ten dollars a week. My friend Mr. Forbes,
regretfully told me, after a short examination, that my "education" was
quite useless...Three of my colleagues secretly left the Church and
tried to earn their living. Each failed, and had to return..The Church
must have a high proportion of such men.)
2.2. Linh Mục James Kavanaugh, trong
cuốn Một Linh Mục Hiện Đại Nhận Xét về Giáo Hội Lỗi Thời Của Ông
(A Modern Priest Looks at His Outdated Church", Pocket Books, New York
, 1968, trg. 20-21), có kể về sự huấn luyện các linh mục như sau:
“Sau Trung học tôi theo học 4 năm cho đến
khi tôi được nhận là có đủ khả năng làm Linh mục. Trong học trình của
tôi, rất hiếm khi bàn đến những nghi vấn hay quan niệm mà thường là hoặc
trắng hoặc đen.
Thí dụ như, trong môn triết học, chúng
tôi học qua Berkeley, Hume, và Kant chỉ trong vòng 1 tuần lễ..Chúng tôi
phải học thuộc lòng từng mỗi đề luận và định nghĩa và chứng minh rằng
"lý trí" chỉ có thể dẫn một người lương thiện đến niềm tin. Chúng
tôi là những người chân thật duy nhất vì chúng tôi đã bênh vực
bằng "lý trí" tất cả những giáo lý về đạo đức của giáo hội. Giáo hội
Gia Tô chống ly dị và kiểm soát sinh đẻ, chống tự do ngôn luận và tự do
tư tưởng, chống sự giải thoát con người khỏi những cơn đau đớn, chống
ngoại tình, tất cả đều là những kết luận hiển nhiên của một "lý trí"
không bị che mờ bởi ham muốn và lòng kiêu hãnh. Sự hiện hữu của hàng
triệu người "không có lý trí" có vẻ như là không quan trọng đối với giáo
hội... Đó là một nền giáo dục không có sự đồng tình, một sự huấn luyện
không có sự giúp đỡ. Tôi nghe những gì họ muốn tôi nghe, và nói những
gì ban giám đốc mong muốn tôi nói như vậy. Người nào chống đối thì bị
gạt ra ngoài. Chỉ có những người phục tùng luật lệ, hay những kẻ ngây
thơ, tiêu cực mới tồn tại. Sáng kiến không được khuyến khích trừ phi đi
theo đường lối đã được chấp nhận. "Tà đạo" là danh từ để chấm dứt
mọi luận cứ, và "Giáo hội dạy rằng" là nghị trình nhỏ hẹp của mọi tranh
luận. Tôi không được giáo dục mà được nặn thành. Tôi không được khuyến
khích suy nghĩ mà chỉ được huấn luyện để bênh vực giáo hội. Người ta
không muốn tôi suy tư mà chỉ muốn tôi học thuộc lòng.
Chúa ơi! Tôi đã trở thành cái gì? Người
đòi hỏi tôi dẫn dắt con chiên với sự yếu kém của xác thịt tôi, phục vụ
những người đang vật lộn với tội lỗi, và tôi đã trở nên một người cứng
rắn và thoải mái trong sự phục vụ chính mình. Tôi không phải là "một
đấng Ki Tô khác", (Giáo lý Gia Tô nhét vào đầu những tín đồ có đầu mà
không có óc cái giáo lý giáo hội bịa ra để ngự trị trên đám tín đồ là:
"Cha cũng như Chúa". Chẳng thế mà gần đây ở trong nước, trước những lời
than phiền của giáo dân về sự bê bối của các Cha thì có ông Giám mục răn
rằng: "Các con đừng có nói hành các Cha mà mắc tội với Chúa." (xin đọc
bức thư ngỏ của LM Nguyễn Hữu Trọng gửi Giáo Hoàng và Hồng Y Phan Đình
Tụng. TCN) và tôi cũng không hẳn là một con người. Tôi chỉ là một tù
nhân, một mẫu mực được tổng hợp, một kẻ bênh vực cho một quá khứ mệt
mỏi.
Chúa ơi! Nếu tôi sẽ trở thành một linh
mục thì trước hết hãy để cho tôi làm một con người đã. Đừng bắt tôi
phải trốn đằng sau cái cổ áo thày tu, chức tước, cái bề ngoài giả dối
của tôi. Đừng bắt tôi phải đưa ra những câu trả lời mà chính tôi không
còn tin, hoặc bắt tôi phải đúc nặn giáo dân thành những người không có
nhân tính và những người đần độn chỉ biết tuân phục. Hãy để cho họ biết
đến những nghi vấn do chính miệng tôi nói ra, và hãy để cho họ nói ra
những nghi vấn của họ một cách thật thà. Đừng để cho tôi trói buộc họ
vào giáo luật và địa ngục, hoặc làm họ sợ hãi với những câu chuyện về
cái chết bất ngờ...”
(I studied four years after college until I was
declared ready to be a priest. My studies spoke seldom of doubts or
opinions and most frequently of blacks and whites.. In philosophy, for
example, we could handle Berkeley, Hume, and Kant in a single week... We
memorized each thesis and definition and proved that "reason" could only
lead an honest man to faith. We were the only honest men as we defended
by "reason" all the moral teachings of the Church. Catholic opposition
to divorce and birth control, to freedom of speech and thought, to mercy
killing and adultery were all the obvious conclusions of a "reason"
unclouded by passion and pride. It did not seem important that there
were millions of "unreasonable" men...It was an education without
sympathy, a training without recourse. I heard what I was supposed to
hear, and said what the administration expected me to say. Rebels
were weeded out. Only the strong and legal-minded, or the naive and
passive, could last. Creativity was discouraged unless it pursued the
accepted patterns wich cautious minds approved. "heresy" was a word
which ended every argument, and "the Church teaches" was the narrow
outline of every debate. I was not educated, I was formed. I was not
encouraged to think, but trained to defend. I was not asked to reflect,
but to memorize.
...My God! What have I become? You asked me
to minister with the weakness of my flesh, to serve the struggling
sinner, and I have grown rigid and comfortable in the service of
myself. I am not "another Christ," I am not even a man, I am only a
prisoner, a synthetic paragon, a defender of the tired past.
O God! If I am to be a priest, first lat me
be a man. Do not let me hide behind my collar, my titles, my false
front. Do not make me give answers I do not believe, nor mold men into
impersonal and uncomplaining dolts. Let them know my doubts from my own
lips, and let them tell me honestly of theirs. Let me not bind them
with law and hell, nor frigten them with tales of unexpected death...)
2.3. Linh Mục Emmett McLoughlin mô tả thực
chất giáo dục Ca Tô trong việc đào tạo Linh mục như sau, trong cuốn
Văn Hóa Mỹ và các Trường Học Ca Tô (American Culture and Catholic
Schools, Lyle Stuart, New York, 1960, trg. 36 -37):
“Tôi không được học để suy nghĩ. Từ những
năm của thời thơ ấu qua thời kỳ thiếu niên bối rối (trong nhà Dòng) cho
đến khi thành người lớn, đầu óc tôi bị đúc trong một mô thức trí thức
cũng như là được đúc trong bê tông.
Sự tiếp cận khoa học của tôi trong 21 năm
là một cua về vật lý sơ đẳng. Trong 12 năm, tôi chẳng học được gì về
văn học nổi tiếng của hoàn cầu. Những ánh sáng trí thức này được giam
chặt trong Danh Sách Những Cuốn Sách Cấm Đọc của Giáo hội.
Nói ngắn gọn - tôi không được giáo dục -
tôi chỉ bị tẩy não. Tôi đã đạt đến trình độ khô cứng của sự hiểu biết
trí thức xoàng xĩnh.
Tôi đã trở nên một người máy, một linh
mục với những lễ nghi thiêng liêng không rõ ràng, vô nghĩa ở sự hiệu
quả của chúng cũng như là những bài ca của các thầy Pháp Haiti .
Tôi là một kỹ thuật viên của giáo hội được
huấn luyện để đúc nặn những bộ óc trẻ, dễ uốn nắn..”.
(I did not learn to think. As the years of
childhood slipped through a frustrated adolescence (in the seminary)
into the days that were supposed to be those of manhood, my mind was
molded in an intellectual pattern as effectively as though it had been
cast in concrete.
The closest approach to science that I
experienced in those 21 years was that a non-laboratory course in
elemental physics...Of the world's really great literature, in 12 years
I learned practically nothing. Its greatest lights were locked in the
prison of the Index of Forbidden Books.
In short, I was not educated. I was merely
endoctrinated. I had achieved the level of the rigor mortis of
intellectual mediocrity.
I had become an automaton, a priest of
sacred, half known rites as meaningless in the efficacy as the chants of
a Puerto Rican woodoo priest.
I was an ecclesiastical technician trained to
mold other young, pliable minds...)
Từ những tài liệu trên, viết bởi các linh
mục, chúng ta thấy rằng, mục đích đào tạo các linh mục không phải là
để mở mang đầu óc con người, mà trái lại để tẩy não, gò bó đầu óc con
người theo một chiều hướng nhất định và do đó, những linh mục sau khi
tốt nghiệp cũng giống như những con ngựa bị che mắt, chỉ biết đi theo
một hướng nhất định. Một mặt khác, với phương cách giáo dục như
vậy, các linh mục khó có thể rời bỏ giáo hội vì kiến thức của họ không
thể dùng được ở ngoài đời. Địa vị, uy tín, và đời sống thoải mái về
vật chất trong sự kính trọng, qụy lụy của giáo dân cũng là những yếu tố
quan trọng để ngăn linh mục bỏ giáo hội. Phương cách huấn luyện và
nắm giữ linh mục như trên đã tạo ra một mẫu người nô lệ giáo điều, giáo
hoàng và tòa Thánh một cách hết sức mù quáng. Và chính giới linh mục
này đã góp phần không nhỏ trong việc uốn nắn đầu óc tín đồ theo chủ
trương của giáo hội, dù trong thâm tâm có thể có nhiều vị không tin ngay
cả những điều mình rao truyền cho đám tín đồ kém hiểu biết.
Tuy nhiên, nhiều giáo hội quốc gia đã tách ra
khỏi quyền thống trị của Vatican (Anh, Hòa Lan, Bỉ, Thụy Điển, Ích Lan
v...v...), và nhiều ngàn linh mục đã bỏ đạo. Đây là những người có đầu
óc suy tư, đã thấy cái bộ mặt giả dối của giáo hội, và là những người có
ý chí, có can đảm "làm lại cuộc đời" qua những cố gắng học hỏi cá nhân.
Chính nhờ những con người can đảm như vậy và nhờ những công cuộc nghiên
cứu của những học giả, giáo sư đại học, chuyên gia về tôn giáo, mà ngày
nay chúng ta có được hàng ngàn văn phẩm viết về những sự thực của giáo
hội Ca Tô và Vatican. Họ là những người biết rõ giáo hội và thực chất
của các bậc lãnh đạo Ca Tô giáo hơn ai hết.
III. Thực Chất Vai Trò Các Giáo Sĩ Trong
Sách Lược Truyền Giáo Ở Á Châu:
Có lẽ luận án Tiến Sĩ Quốc Gia về "Đạo Thiên
Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam" của Cao Huy Thuần là nguồn tài
liệu phong phú và chính xác nhất về thực chất vai trò của các giáo sĩ
thừa sai Ca Tô Giáo Rô Ma trong sách lược truyền giáo tại Việt Nam. Độc
giả nên tìm đọc thiên khảo cứu này cùng với cuốn "Histoire de la
Pénetration Francaise au Viet Nam " của Nguyễn Xuân Thọ để thấy rõ những
thảm họa do những giáo sĩ này mang tới đất nước Việt Nam . Ở đây, tôi
xin trích dẫn tóm tắt nhận định tổng quát về thực chất truyền giáo của
Gia Tô Giáo Rô Ma tại Á Châu của Avro Manhattan trong cuốn "Chủ Nghĩa
Đế Quốc của Gia Tô Giáo Và Sự Tự Do Của Thế Giới" ("Catholic
Imperialism and World Freedom", Watts & Co., London, 1952. pp. 341 -
365:
“Những công vụ truyền giáo của Ki Tô Giáo
không bao giờ chỉ là thuần túy truyền giáo. Những công vụ truyền
giáo này luôn luôn hoặc theo sau, hoặc đồng hành, hoặc làm đạo quân
tiền phong cho những kho hàng Tây phương, ngoại giao Tây phương, và
những binh đội Tây phương. Bất kể sự diễn tiến như thế nào, kết quả
đều giống nhau: những dân tộc Á châu mất đi hoặc một phần, hoặc toàn
phần sự tự do của họ, bất cứ khi nào và ở nơi nào mà cái Thánh giá cùng
cái mũ Tây phương xuất hiện. Sự chấp nhận, do tự nguyện hay do cưỡng
bức, hai thứ trên được tuyên dương là chiến thắng của nền văn minh Ki
Tô, và văn minh Ki Tô có nghĩa là bất cứ cái gì có tính cách thống trị -
hay nói khác đi, bất cứ cái gì của Tây phương - sự thành công thường
thường tùy thuộc ở sự hiện diện của những hạm đội ở ngoài khơi.
Những dân tộc chậm tiến nhưng có nền văn
minh cao mất đi nền độc lập của họ, văn hóa của họ bị chế nhạo, màu da
của họ bị coi như là dấu vết của nhục nhã, quá khứ, hiện tại và ngay cả
những khả năng thành đạt trong tương lai của họ bị khinh miệt và coi
thường... Trong lúc đó thì tôn giáo Tây phương thuyết giáo về "tứ hải
giai huynh đệ", nền dân chủ Tây phương, nhân quyền của mọi người, và lý
tưởng Tây phương về sự bình đẳng của mọi sắc dân.
Thực ra, từ khi được cấy vào từ Judea, Ki
Tô giáo đã trở thành tôn giáo của Tây phương, và từ đó trở nên tôn giáo
lớn nhất trên thế giới, không do sức mạnh của những nguyên lý tinh
thần mà do sự thống trị vật chất của người da trắng... Ki Tô giáo
hiện còn bị hầu hết Á Châu bác bỏ vì tôn giáo này được coi như biểu thị
sự tham tàn của thế giới Tây phương, của chủ nghĩa đế quốc Tây phương và
của sự "ưu việt của người da trắng".
Tuy nhiên,cho rằng Á Châu đã loại bỏ Ki Tô
Giáo chỉ vì nó là một phó sản của Tây phương là sai lầm. Khoa học và Kỹ
nghệ cũng là những phó sản của Tây phương, nhưng chúng được đón nhận.
Chủ nghĩa Marx là một phó sản của tư tưởng Tây phương, tuy nhiên chỉ
trong vài thập niên đã đủ để nó gây mầm mống khắp lục địa trong đó gần
hai ngàn năm nỗ lực của Ki Tô Giáo chỉ đưa tới một kết quả ảm đạm.
Chủ nghĩa Cộng Sản, như là nguồn cảm hứng
cách mạng của thế giới, có ích hay có hại là tùy theo quan niệm mỗi
người. Nhưng sự lan tràn kỳ lạ của nó là một sự kiện. Nó đã góp phần
cho một sự thức tỉnh nhanh chóng hơn của Á Châu, cho sự nổi giậy mau
hơn của tinh thần quốc gia của Á Châu, và cho sự chống lại Ki Tô Giáo
của Á Châu quyết liệt hơn. (Chẳng trách là, cho tới bây giờ, Ca Tô Giáo
Rô Ma vẫn coi CS là kẻ thù nguy hiểm nhất, cần phải tiêu diệt bằng mọi
thủ đoạn lũng đoạn chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa v..v..., TCN)
Có thể nào một sự rao truyền Ki Tô Giáo
thuần khiết hay nguyên lý căn bản về "tứ hải giai huynh đệ" đã gây nên
cái phản ứng sâu rộng ở Á Châu như vậy? Nếu không thì cái nguyên nhân
căn bản nào đã, và đang gây nên phản ứng như vậy? Câu trả lời là: chính
trị Ki Tô Giáo. Chính trị Ki Tô Giáo đã đầu độc những sự giao thiệp Âu
Á. Ngay từ khi khởi đầu của Ki Tô Giáo ở Viễn Đông, Ki Tô Giáo, xuất
hiện dưới bộ áo tôn giáo, đã luôn luôn vươn lên như một lực lượng chính
trị phục vụ cho những cá nhân và quốc gia Tây phương. Tin Lành Giáo
cũng phạm tội như là Gia Giáo. Giống như Gia Tô Giáo, các thừa sai
Tin Lành luôn luôn làm tiền phong hoặc theo gót các con buôn, tàu chiến,
và những đoàn quân xâm lăng. Tuy nhiên, chính trị Tin Lành Giáo, dù
phạm tội, không thể nào đồng hạng với Ca Tô Giáo. Sự tác hại gây nên
bởi chính trị Ca Tô Giáo (Công Giáo) ở Á Châu thì to lớn một cách không
thể nào so sánh được, hơn tất cả những sự tác hại gây nên bởi mọi giáo
hội Ki Tô khác góp chung lại với nhau.
Không giống như Tin Lành, những hoạt động
của các thừa sai Ca Tô được phối hợp hoàn toàn và với những mục tiêu tôn
giáo - chính trị chuyên biệt. Với chủ ý dùng quyền lực chính trị để
khuất phục những dân tộc Á Châu trong lãnh vực tôn giáo, Ca Tô Giáo đã
đầu độc những mối liên hệ giao thiệp Âu Á ngay từ lúc bắt đầu, và sự đầu
độc này đã góp phần hơn gì hết cho sự nghi ngờ bẩm sinh của dân tộc Á
Châu đối với Tây phương âm dội trong mọi lãnh vực cho tới ngày nay.
Những yêu sách chính trị của Giáo hội
Ca Tô trên những quốc gia phi-KiTô bao giờ cũng liên kết với những yêu
sách tôn giáo. Bởi vì, bất cứ khi nào Giáo hội gửi các thừa sai
đi đến các nơi này, mục đích của Giáo hội là biến những người tân tòng
thành những tín đồ của Giáo hội và là thuộc hạ của Giáo hoàng. Hai điều
này không thể tách rời nhau được. Cũng như ở Tây phương, ở phương Đông,
bất cứ nơi nào mà có Giáo hội Ca Tô là ở đó có Vatican; nghĩa là, quyền
lợi ngoại giao và chính trị của Ca Tô Giáo.
Cho nên, những thừa sai Ca Tô được tự
động biến đổi thành những "tác viên chính trị" tạo thành nền tảng quyền
lực chính trị của Ca Tô Giáo bất cứ nơi nào họ dựng lên những cộng đồng
Ca Tô.
Những hoạt động tôn giáo - chính trị
của Ca Tô Giáo như vậy thường tạo nên những ảnh hưởng sâu rộng, với bản
chất ghê tởm nhất, trên lịch sử nhân loại. Những hoạt động này đã
trở nên nguyên nhân trực tiếp của những thảm họa chính trị và quân sự
trong những sự giao dịch giữa Tây phương và Á Châu, những thảm họa mà
người ta thường tin là do những sai lầm, tham lam, và thiển cận của
những quốc gia đế quốc, và không bao giờ do sự lì lợm tôn giáo của Giáo
hội Ca Tô, đường lối ngoại giao lá mặt lá trái của Vatican, hoặc khát
vọng thống trị cả hai lục địa của Vatican mà thường khi làm nhơ nhuốc
lịch sử hiện tại và góp phần làm cho sự phương hại đến những giao dịch
hòa bình của các dân tộc trên thế giới kéo dài bất tuyệt.”
(Christian missions were never solely
Christian missions. They were invariably preceded, accompanied, or
followed by Western warehouses, Western diplomacy, and Western armies.
Whichever the sequence, the result was eternally the same: the partial
or total loss of the regional, national, and racial liberty of the
Asiatics, wherever and whenever the Cross and the Western Hat had made
their appearance. The voluntary or forced acceptance of both was
proclaimed to be the victory of Christian civilization, and Christian
civilization came to mean whatever tended to be dominant - in other
words, whatever was Western - success very often depending on the
appearance of naval squadrons off the coasts.
Backward and highly civilized peoples lost their
independence; their cultures were ridiculed, the color of their skin
became a mark of opprobium; their past, present, and even potential
future achievements were scorned and despised... This while, at the same
time, Western religion preached universal brotherhood, Western
democracy, the rights of all men, and Western idealism the equality of
all races...
In fact, since its transplantation from Judea
, Christianity had become Western, and since then had become the
dominant world religion, not through the strength of its principles but
through the physical dominance of the White race... Christianity is
still spurned by most of Asia as being hopelessly identified with the
rapacity of the Western world, of Western Imperialism and of Western
"White supremacy".
To think, however, that Asia has rejected
Christianity simply because it is a by-product of the West would be
erroneous. Science and industrialism are Western by-products; yet they
are welcome. Marxism is a by-product of Western thought, yet a few
decades have sufficed to plant its seeds throughout the continent in
which almost two thousand years of Christian efforts were spent with the
most dismal result...
Whether Communism, as the inspirer of a world
revolution, is beneficial or harmful is anyone's opinion. Its
phenomenal spreading, however, is a fact. It has contributed to a
swifter awakening of Asia , to a quicker emergence of Asian
nationalism, to a fiercer Asian opposition to Christianity.
Could the mere preaching of an
unadulterated Christianity or of the basic principle of brotherhood (tứ
hải giai huynh đệ) of man have provoked such far-reaching Asiatic
reaction? If not, what was, and, indeed what is, its fundamental
cause? The reply is: Political Christianity.
Political Christianity has poisoned, at the
very source, Asiatic-Western relations. Since its inception in the Far
East , Christianity, having appeared in the apparel of religion, has
always emerged as a political force at the service of Western
individuals and nations. Protestantism is as guilty as Catholicism.
Like the Catholic, so also the Protestan missionaries were invariably
preceded or followed by traders, gun-boats, or military expeditions.
Political Protestantism, however, although guilty, cannot be put on a
par with Catholicism. The damage caused by political Catholicism in
Asia has been incommensurably greater than anything done by all the
other Christian Churches put together.
Unlike those of Protestantism, all its
missionaries' activities were fully co-ordinated and had specific
religious-political goals. By purposely employing political power to
subdue Asiatic people in the religious field, Catholicism poisoned
Asiatic-Western relations from the very beginning, and this poisoning
has contributed, perhaps more than anything else, to the inborn
suspicions of the Asiatic people towards the West, which has
reverberated in all fields to our present day.
The political claims of the Catholic Church
upon non-Christian lands are inseparable from her religious one. This
owing to the fact that, whenever sending out her missionaries, her aim
is to make the newly converted people simultaneously members of the
Church and subjects of the Pope. The two are inseparable. As in
the West, so also in the East, wherever there is the Catholic
Church there also is the Vatican ; that is to say, Catholic diplomatic
and political interests.
Catholic missionaries, therefore, are
automatically transformed ito "political agents" and ultimately become
the foundation stones of the political power of the Catholic Church
wherever they erect Catholic communities...
Such Catholic religious-political activities
have often produced far-reaching effects, of a most nefarious nature,
upon the history of mankind. They became the direct cause of political
and military disasters in Western dealings with Asia; disasters
popularly believed to be due merely to the blunders, rapacity, and
short-sightedness of imperalistic nations, and never to the religious
intransigence of the Catholic Church, to the diplomatic duplicity of the
Vatican, or to the thirst for domination of both which, very often, by
befouling the current of history, have contributed to the perennial
detriment of the peaceful relationship of the peoples of the world.)
Trên đây tôi đã đưa ra một số tài liệu liên
hệ đến thực chất của Ca Tô Giáo Rô Ma, thực chất của các Giáo sĩ, và
thực chất những hoạt động truyền đạo của các Giáo sĩ Ca Tô tại Á Châu.
Tôi chắc sẽ có người cho rằng những tài liệu trên lạc đề, không liên
quan gì đến nhân vật Nguyễn Trường Tộ. Không hẳn vậy, chúng được đưa ra
để chứng minh một điều: Bản chất của Ca Tô Giáo Rô Ma là thống trị, là
chinh phục, là mở mang nước Chúa chứ không phải mở mang các nước trên
thế gian, không phải để giải phóng con người mà trái lại, dùng mọi thủ
đoạn để nô lệ hóa con người vào một niềm tin không suy luận về một viễn
tượng huyễn hoặc về một đời sau. Hãy nhìn vào tình trạng kinh tế, xã
hội tại các nước ở Phi Châu, Nam Mỹ, Mễ Tây Cơ, nơi đây có hơn 70% số
tín đồ Ca Tô trên hoàn cầu sống, thì chúng ta có thể thấy đâu là sự
thực.
Chúng ta đã biết, Nguyễn Trường Tộ là một tín
đồ Ca Tô, được đào tạo và huấn luyện trong cái nôi của Ca Tô Giáo. Dựa
trên những tài liệu trên, chúng ta có thể suy ra phần nào thực chất con
người của Nguyễn Trường Tộ. Những tài liệu trên cũng chứng minh thêm
vài điểm: thứ nhất, nếu ông Nguyễn Trường Tộ là một người yêu nước thì
đó không phải là kết quả giáo dục của Ca Tô Giáo Rô Ma, vì chính
sách truyền đạo của Ca Tô Giáo Rô Ma tuyệt đối không có mục đích huấn
luyện dân bản xứ thành những con người yêu nước, vì nếu người dân
bản xứ yêu nước thì không còn có thể chấp nhận sách lược truyền đạo
với âm mưu xóa bỏ nền văn hóa bản địa của các thừa sai ngoại quốc và
chấp nhận sự thống trị của một thế lực tôn giáo ngoại quốc; thứ nhì,
nếu ông Nguyễn Trường Tộ có một kiến thức uyên bác thì điều này cũng
không phải do sự đào luyện của Ca Tô Giáo Rô Ma. Tôi sẽ trở lại những
điểm này trong một đoạn sau.
Tuy nhiên, dù những tài liệu trên đã cho
chúng ta một căn bản suy luận, trong tinh thần phân tích khoa học, chúng
ta không thể suy diễn một cách máy móc về con người Nguyễn Trường Tộ
qua những tài liệu trên, mà chúng ta phải phân tích ngay những ý
kiến, tư tưởng và đề nghị của Nguyễn Trường Tộ trong mục đích canh tân
đất nước xem thực chất của chúng ra sao.
Đọc những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ,
tôi thấy rằng phần lớn kiến thức của ông là một loại kiến thức đặc thù
Ca Tô, tương tự như kiến thức của các giáo sĩ, nghĩa là thuộc loại "Giáo
Hội dạy rằng..", và do đó hẹp hòi và có nhiều khiếm khuyết.
Ngoài ra, những tư tưởng, nhận định của ông nhiều khi mâu thuẫn đến độ
buồn cười, và thay đổi khá nhiều theo thời gian. Vì được đào luyện
trong cái nôi của Ca Tô Giáo Rô Ma, cho nên với một kiến thức
thu hẹp trong chương trình đào luyện của Ca Tô Giáo Rô Ma mà mục đích
không phải là để mở mang trí óc, ông Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra một số ý
kiến, nhận định, đề nghị mà ông tin là chính xác và có thể giúp được
nước mà không biết rằng những nhận định sai lạc của ông chỉ có hại cho
đất nước và một số lớn những đề nghị canh tân của ông cũng không hợp
thời và chỉ có tác dụng sớm đưa đất nước vào vòng nô lệ. Thật vậy,
nếu triều đình tin và thi hành một số đề nghị "cải cách, canh tân" của
ông thì kết quả không thể nào lường được, nước Việt Nam có còn là nước
Việt Nam không, hay là sẽ cùng chung số phận với một số quốc gia ở Phi
Châu, Nam Mỹ hay của Phi Luật Tân, mất hẳn nền văn hóa của mình. Sau
đây là phần chứng minh. Lẽ dĩ nhiên tôi không thể phê bình tất cả những
ý kiến và đề nghị của Nguyễn Trường Tộ mà chỉ luận trên một số điểm có
tính cách tổng quát và được coi là quan trọng nhất trong những bản điều
trần của ông.
1. Kiến thức của Nguyễn Trường Tộ về con
người và vũ trụ:
Ông Nguyễn Trường Tộ mở đầu bản điều trần số
5, Lục Lợi Tư hay Kế Hoạch Làm Cho Dân Giàu Nước Mạnh,
bằng một khẳng định:
"..Tạo vật sinh ra muôn vật để cho con người
sử dụng mà không tiếc một thứ gì.. Kể từ khi có loài người, loài vật đến
nay đã gần 7000 năm ..."
Đây không phải là một sự hiểu biết qua học
hỏi mà chỉ là một niềm tin tôn giáo dựa theo Thánh Kinh hoặc theo những
điều "Giáo hội dạy rằng", theo sách lược đúc nặn đầu óc tín đồ của Ca Tô
Giáo. Giáo hội dạy rằng, theo Thánh Kinh thì Thượng Đế tạo ra mọi
sinh vật để phục vụ con người. Có lẽ ông Nguyễn Trường Tộ được dạy
như vậy mà không bao giờ tự đặt cho mình một câu hỏi: những sinh vật như
khổng long chỉ xuất hiện một thời rồi biến mất trên thế gian, những con
hùm beo, rắn rết, những con vi trùng và siêu vi trùng sinh ra đủ mọi thứ
bệnh, phục vụ con người như thế nào? Câu hỏi này, từ xưa tới nay chưa
có nhà Thần học Ca Tô nào giải thích được. Cách "giải thích" duy nhất
của họ là "có những việc làm của Thượng Đế, đầu óc con người không thể
nào hiểu nổi".
Lẽ dĩ nhiên chúng ta không thể trách ông
Nguyễn Trường Tộ là không biết đến những khám phá của khoa học ngày nay,
rằng tuổi của vũ trụ là khoảng 13.7 tỷ năm và tuổi của trái đất là 4.5
tỷ năm, và các sinh vật hiện hữu là do sự tiến hóa qua nhiều tỷ năm của
những tế bào nguyên thủy đơn giản, và không có một căn bản thuyết lý
nào có thể chứng minh là "muôn vật được sinh ra để cho con người sử
dụng". Nhưng ngay cả với những tiến bộ khoa học trước và trong thời
ông, ông cũng không biết đến.
Trong bản điều trần số 3, ông Nguyễn Trường
Tộ khoe rằng:
"Về việc học không môn nào tôi không để ý
tới, cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân
sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí,
thuật số, không môn nào là tôi không khảo cứu, nhất là để nghiên cứu về
sự thể dọc ngang, tan hợp trong thiên hạ".
Trước hết, chúng ta hãy tạm bỏ qua nghi vấn:
mức độ hiểu biết của ông Nguyễn Trường Tộ về những bộ môn kể trên tới
đâu trong khi ông chỉ có vài ba năm để "để ý tới"? Tôi không gạt bỏ
điều có thể ông là một thần đồng, học một biết mười. Nhưng điều hiển
nhiên là ông không hề biết đến những công cuộc nghiên cứu của Newton ,
Buffon, và Darwin . Isaac Newton (1642-1727), đã dựa trên tình trạng
đương thời của trái đất và độ nguội của các thể đặc và tính ra tuổi của
trái đất là 50.000 (năm mươi ngàn) năm. Vì là một tín đồ Ca Tô, Newton
cho rằng mình đã tính sai ở chỗ nào đó, vì kết quả không phù hợp với
Thánh Kinh. Nhưng sau đó, Georges Louis Leclerc, Comte de Buffon
(1717-1788) dựa trên những kết quả thí nghiệm về độ nguội của các vật
thể hình cầu, đã tính lại và cho rằng con số 50.000 năm của Newton
là quá thấp, và đưa ra một con số cao hơn về tuổi của trái đất là
74.832 năm (bảy mươi bốn ngàn tám trăm ba mươi hai năm); Charles Darwin
xuất bản cuốn Nguồn Gốc Các Chủng Loại (The Origin of Species)
năm 1859, gây nên một cuộc tranh luận sôi nổi khắp Âu Châu và dồn Ki
Tô Giáo nói chung vào một thế thủ Thần học, chẳng lẽ ông
Nguyễn Trường Tộ, khi đó ở Pháp, không biết đến sự kiện này. Có thể
ông không biết đến vì ông chỉ được nghe những gì giáo hội muốn ông nghe,
nói những gì giáo hội muốn ông nói. Ngay vào thời đó, trong giới trí
thức không còn ai tin là thế giới này là do một đấng toàn năng sáng tạo
ra trong 6 ngày và cách đây 6, 7 ngàn năm như được viết trong Thánh
Kinh. Lẽ dĩ nhiên ông cũng không đọc Spinoza, Thomas Paine, Voltaire,
Montesquieu v..v.. vì tác phẩm của những tác giả này đều bị Tòa Thánh
cho vào danh sách những cuốn sách cấm tín đồ đọc (Index of banned
books). Ông nói là ông học cả luật lịch, nhưng luật mà ông học là luật
của Giáo hội, của Tòa Thánh, luật của Thượng Đế (bản điều trần số 13),
chứ không phải là Tinh Thần Luật Pháp (L'Esprit des Lois) của
Montesquieu, người đã đưa ra nguyên tắc phân quyền mà các nước tiến bộ,
văn minh nhất trên thế giới ngày nay đều áp dụng. Cho nên, ông tự nhận
là đã nghiên cứu đủ mọi môn học nhưng tôi chắc ông chỉ có thể nghiên
cứu những tài liệu nào mà giáo hội Gia Tô cho phép mà thôi, và ngay
chính kiến thức của các giám mục về khoa học, nhân văn v..v.. vào thời
đó cũng thuộc loại hạn hẹp một chiều, nói chi đến kiến thức của một
tín đồ ở một nước mà các thừa sai ngoại quốc thường cho là lạc hậu, chậm
tiến. Ông đưa ra những kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh,
nhưng những kế hoạch của ông lại dựa trên những căn bản hiểu biết hoặc
sai lầm, hoặc thiếu sót, hoặc không phù hợp với sự tiến bộ của khoa
học ngay trong thời đại của ông, vậy nếu triều đình thi hành những kế
hoạch của ông thì đất nước sẽ đi về đâu? Lẽ dĩ nhiên, nếu mang kiến
thức của Nguyễn Trường Tộ so sánh với kiến thức của đa số người dân ít
học hoặc không có học thì quả thật là kiến thức của ông vượt xa họ,
nhưng nếu so sánh với bộ kiến thức của nhân loại cùng thời ông, thì kiến
thức của ông không có gì độc đáo, đặc biệt, nếu không muốn nói là hạn
hẹp, một chiều, và thiếu sót rất nhiều.
Vài điểm sau đây sẽ chứng minh cho luận cứ
trên.
2. Kiến thức của Nguyễn Trường Tộ về Ngũ
Hành:
Trong bản điều trần số 1, Thiên Hạ Đại Thế
Luận, ông Nguyễn trường Tộ viết:
"Hãy nói về Thiên đạo trước. Khí đất là từ
Bắc đến Nam, vận trời từ Tây sang Đông, theo Hà đồ thì thủy ở về
phương Bắc, hỏa ở về phương Nam, kim ở về phương Tây, mộc ở về phương
Đông. Thủy thì diệt hỏa, kim diệt mộc, ấy là lẽ tự nhiên của
trời đất luôn luôn như vậy."
Hiển nhiên là Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra ý
kiến một chiều của ông về Ngũ Hành là có dụng ý: Tây (Kim) diệt Đông
(Mộc) là lẽ tự nhiên của trời đất. Cho nên Việt Nam (Đông) bị Pháp
(Tây) diệt cũng là lẽ tự nhiên, và Việt Nam không nên cưỡng mệnh
(Chúa) Trời. Trái đất quay từ Tây sang Đông xung quanh trục
Nam Bắc với vận tốc quay khoảng 1600 (một ngàn sáu trăm) cây số một giờ,
đồng thời di chuyển trong không gian trên một quỹ đạo xung quanh mặt
trời với vận tốc khoảng hơn 100000 (một trăm ngàn) cây số một giờ, nhưng
các quốc gia lúc nào cũng như là đứng yên, và chuyển động biểu kiến của
mặt trời thì lại từ Đông sang Tây. Vậy khí đất nào là từ Bắc đến Nam
? Ông cha ta đã bao lần đánh đuổi Bắc xâm, nếu cứ an phận chịu theo
"khí đất từ Bắc đến Nam " của ông Nguyễn Trường Tộ thì làm gì còn có
lịch sử Việt Nam ? Và vận trời nào là từ Tây sang Đông? hay ông Nguyễn
Trường Tộ muốn nói đến vận của Chúa Trời? Tôi không thể tin rằng
một người có cái vốn "Tống Nho" như ông trong 19 năm trời mà lại không
biết đến các luật "tương sinh", "tương khắc" và tác dụng phản hồi trong
sự vận hành của Ngũ Hành. Tại sao ông chỉ xét đến "tương khắc" mà không
luận về "tương sinh" và tác dụng phản hồi trong sự vận hành của Ngũ
Hành. Đúng vậy: Kim khắc Mộc, nhưng Mộc lại sinh Hỏa, và Hỏa lại
khắc Kim. Trong cuộc chiến chống Pháp trở lại Việt Nam, ý chí
giành độc lập của dân tộc Việt Nam đã "biến" gậy gộc (mộc) thành những
cỗ đại pháo (hỏa) dàn trong những hốc núi xung quanh lòng chảo Điện
Biên, và trận Điện Biên Phủ năm 1954 đã gạo muối tiễn đưa "vận (Chúa)
trời" trở về Tây, cùng lúc rửa cái nhục của trận tấn công vào Đà Nẵng
năm1858 của liên quân Pháp - Tây Ba Nha mà chính ông Nguyễn Trường Tộ
cùng giám mục Ngô Gia Hậu đã có mặt ở đó để đón tiếp quân đại Pháp..
Các vị Đông Y Sĩ khi chẩn bệnh và chữa bệnh mà chỉ biết đến tương khắc
trong Ngũ Hành thì bệnh nhân chỉ có sớm suôi sáu tấm. Cũng như vậy, nếu
các nhà cầm quyền tin vào một nửa luật Ngũ Hành của nhà "bác học" Nguyễn
Trường Tộ, và do đó hồ hởi tuân phục các giáo sĩ thừa sai và thực dân
Pháp thì Việt Nam cũng sẽ sớm đi vào vòng nô lệ, mất hết nền văn hóa của
mình, và như vậy thì sống cũng như chết. Vậy, nhận định về "khí đất"
và "vận trời" theo thuyết Ngũ Hành của ông Nguyễn Trường Tộ có mục đích
gì, áp dụng cho đất nước Việt Nam, có lợi hay có hại cho đất nước, có
mục đích khuyến khích dân chúng chống xâm lăng đô hộ, hay thần phục
ngoại bang, chịu sống trong nền đô hộ để thuận theo lẽ trời, tưởng
chẳng cần phải có một bộ óc thông minh cho lắm cũng có thể hiểu nổi.
3. Nhận định tình hình thế giới của Nguyễn
Trường Tộ:
Rồi sau đó ông viết tiếp:
"Ngày nay các nước phương Tây, đã bao
chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho
tới Thiên Phương, Thiên trúc, Miến Điện, Xiêm La,...Cao Ly, Nhật Bản,
Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu..."
Đây là một nhận định hoàn toàn sai lầm về
tình hình thế giới thời đó, có tác dụng lừa dối vua quan triều Nguyễn và
làm nhụt chí khí chống xâm lăng của nhân dân Việt Nam , chấp nhận sự
thống trị của Tây Phương. Tôi cho rằng nhận định của ông Nguyễn Trường
Tộ như trên là hệ quả của một nền giáo dục chuyên xuyên tạc lịch sử thế
giới và lịch sử giáo hội của Ca Tô Giáo Rô Ma. Nếu không phải là như
vậy thì nhất định ông Nguyễn Trường Tộ phải là tay sai đắc lực cho thế
lực giáo sĩ thực dân, cố ý đưa ra những thông tin sai lạc để đánh lừa
dân chúng với mục đích khuyên nhân dân ta nên chịu thần phục Tây phương.
Thực tế là, Xiêm La (Thái Lan), Cao Ly (Đại
Hàn), Nhật Bản và Trung Quốc không hề bị các nước Tây phương bao chiếm.
Sau đây là một tài liệu chứng minh sự kiện trên, "Missionaries",
BBC Books, 1990, p. 175:
“Ở Á Châu, các thừa sai không bao giờ được
hưởng sự tự do như là họ đã hưởng ở Phi châu. Phần lớn lục địa - Nhật
Bản, Trung Hoa, Thái Lan, Đại Hàn - chưa bao giờ rơi vào vòng đô hộ của
các đế quốc Tây phương, trừ nước Phi Luật Tân..."
(In Asia, the missionaries never enjoyed the
same freedom as they did in Africa . Large parts of the
continent - Japan , China , Thailand , Korea - never fell within the
European empires and, with the exception of the Philippines ....)
Các nước trên, trước sự uy hiếp quân sự của
các đế quốc thực dân Âu Mỹ chỉ nhượng bộ về vấn đề mở rộng một số hải
cảng cho ngoại quốc giao thương và truyền đạo. Trung Hoa mất Hương Cảng
cho Anh trong 100 năm và chia Thượng Hải làm nhiều tô giới đặt dưới ảnh
hưởng của các nước phương Tây. Còn toàn bộ đất đai và chủ quyền quốc
gia vẫn thuộc người Trung Hoa. Xiêm La, Cao Ly và Nhật Bản cũng chưa
bao giờ bị mất chủ quyền.
Riêng về Nhật Bản, cả thế giới thán phục về
kết quả canh tân của triều đại Minh Trị Thiên Hoàng. "Người ta" thường
trách vua quan thời Tự Đức ngu muội, không biết nghe những đề nghị canh
tân của Nguyễn Trường Tộ, nếu không thì Việt Nam cũng đâu có kém gì Nhật
Bản. Trách như vậy là không nghiên cứu kỹ về tình hình xã hội, chính
trị của Nhật Bản và của Việt Nam . Trên đất Nhật, xuyên suốt gần
250 năm, không hề có bóng dáng của một thừa sai Ki Tô Giáo nào, và do
đó không bị những xáo trộn xã hội chính trị hay nội loạn nào do các thừa
sai Ca Tô xúi giục hoặc cầm đầu, tương tự như ở Việt Nam, vụ Cố Marchand
cầm đầu đám nổi loạn Lê Văn Khôi, vụ giám mục Retord xúi dục Pierre
Lê Duy Phụng nổi loạn ở ngoài Bắc, và không có mấy trăm ngàn
giáo dân sẵn sàng nghe lệnh các vị thừa sai ngoại quốc qua những tay sai
bản địa để phản bội quê hương, cộng tác và hỗ trợ cho những đoàn quân
viễn chinh tại Việt Nam (Đầu tháng 9, 1858, Rigault de
Genouilly chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ba Nha tấn công chiếm Đà Nẵng.
Genouilly chờ đợi một đoàn quân của Việt Nam tới tiếp viện Đà Nẵng vì đã
được các thừa sai (gián điệp trá hình) thông báo là có một đoàn quân
Việt Nam ít nhất là 10000 người kéo tới Đà Nẵng. (Tsuboi: "Il attend
l'armée Vietnamienne parce que les missionnaires lui ont fait savoir
qu'au moins dix mille hommes doivent marcher contre lui"). Sau khi
chiếm đóng Đà nẵng vài tháng, Genouilly vẫn luôn luôn chờ đợi sự nổi
giậy của giáo dân. (Tsuboi: "Après quelques mois d'occupation, il attend
toujours que les chrétiens se soulèvent").
Sau đây chúng ta hãy đọc lại lịch sử Nhật
Bản trong vấn đề tiếp xúc với Tây phương và Ca Tô Giáo Rô Ma để có thể
hiểu tại sao Nhật Bản có khả năng thi hành và thành công trong việc canh
tân đất nước trong khi nước ta không có khả năng đó dù mong muốn.
Từ đầu thế kỷ 16, Nhật Bản đã tiếp xúc với
Tây phương qua những thương gia ngoại quốc, nhất là những thương gia Bồ
Đào Nha. Khi đó Nhật Bản hoan nghênh những sự trao đổi ý kiến và trao
đổi hàng hóa và mở cửa cho thông thương tự do. Tuy nhiên, theo sau các
thương gia là những thừa sai Ki Tô Giáo, nhất là những thừa sai Ca Tô,
tới để truyền đạo. Muốn hiểu hiện tượng trên, tưởng chúng ta cũng nên
nhắc lại là vào cuối thế kỷ 15, (1493), Giáo hoàng Alexander VI, tự cho
Ca Tô giáo cái quyền thống trị hoàn cầu, đã chia thế giới ra làm hai
vùng ảnh hưởng: toàn thể Mỹ Châu, trừ Ba Tây, thuộc Tây Ba Nha, và Bồ
Đào Nha thì được Ba Tây và tất cả những đất đai nào chiếm được ở Á Châu
và Phi Châu. Sắc lệnh phân chia vùng ảnh hưởng này quy định rằng,
song song với việc chiếm cứ đất đai là bổn phận phải kết hợp các dân địa
phương vào trong giáo hội Gia Tô. Do đó, đi cùng với những đoàn quân
xâm lăng là những linh mục. Sự có mặt của giới linh mục đã biện minh
cho những hành động áp chế dân địa phương cũng như bất cứ thủ đoạn cưỡng
ép nào được coi là cần thiết để kéo họ vào niềm tin Gia Tô.
(Missionaries, pp. 132-133: By the end of the
fifteenth century, Pope Alexander VI created two spheres of influence;
he determined that the whole of the Americas with the exception of
Brazil, should belong to Spain, while Portugal would take Brazil and
whatever could be seized in Asia and Africạ It was decreed that along
with territorial gains would go the duty to incorporate any native
peoples into the Catholic Church...With the invading armies came priests
and friars whose presence justified the subjugation of the people and
the use of whatever coercion was judged necessary to bring them to the
faith.)
Các thừa sai Ca Tô được sự ủng hộ nồng nhiệt
của Nobugata, một lãnh chúa Nhật Bản (1573-1582).
Nobugata, ngoài việc cho phép các giáo sĩ tự
do truyền đạo còn cấp đất cho họ ở Kyoto , cùng hứa hẹn cấp cho họ một
khoản tiền mỗi năm. Do đó, Ca Tô giáo lan tràn khắp nước, hàng ngàn
người theo đạo và các trung tâm Ca Tô mọc lên ở nhiều nơi trong nước
Nhật.
Nếu các giáo sĩ Ca Tô chỉ giới hạn trong việc
truyền bá tình thương của đạo Chúa thì chắc chắn Nhật Bản và các nước
khác ở Á Châu sẽ để cho họ tự do, nhất là Việt Nam, một dân tộc đã nổi
tiếng là hiếu khách và không hề có chuyện kỳ thị tôn giáo. Nhưng, do sự
cực đoan tôn giáo của Ca Tô giáo, tự cho là Giáo hội Ca Tô phải thống
trị giáo dân trong tất cả những lãnh vực tôn giáo, đạo đức, xã hội,
chính trị v..v.., kết quả là các cộng đồng Ca Tô ở Nhật Bản đều phải đặt
dưới quyền thống trị của Vatican . Theo giáo điều Ca Tô, Giáo hội không
cho phép những người dân Nhật theo đạo phục tùng những người cầm quyền
như là một người dân trong một nước. Những người gia nhập Giáo hội Ca
Tô đương nhiên tự biến họ thành những thuộc hạ của Giáo Hoàng. Một khi
sự trung thành đã chuyển sang một thế lực ngoại quốc ở ngoài đất Nhật,
các giáo dân trở thành bất trung đối với những nhà cầm quyền Nhật Bản.
Điều này rất nguy hại cho sự an ninh của Nhật, quốc nội cũng như quốc
ngoại.
Vì Ca Tô Giáo dạy rằng đạo Ca Tô là đạo
duy nhất chân thật, các tín đồ Nhật đã phát động tinh thần bất khoan
nhượng tôn giáo, và khi ở vị thế có quyền hành, tìm cách xóa bỏ các tôn
giáo khác bằng bạo lực. Điều này đã gây nên những xáo trộn trong xã
hội. Bất cứ ở nơi nào mà Ca Tô giáo chiếm đa số trên đất Nhật thì ở nơi
đó Phật Giáo và các tôn giáo khác đều bị chèn ép. Chùa chiền bị phá
hủy, đóng cửa hay chiếm đoạt để làm nhà thờ. Trong nhiều trường hợp,
Phật tử bị cưỡng bách theo đạo, từ chối có thể bị tịch thu gia sản hay
xử tử. (Những người sống ở miền Nam, nhất là vùng Nam, Ngãi, dưới triều
Ngô Đình Diệm chắc chắn chưa quên những cảnh này).
Trước tình thế quốc gia như vậy, những nhà
cầm quyền Nhật Bản, Hideyoshi rồi Ieyasu, thay đổi thái độ, và bắt đầu
từ năm 1614 Ieyasu đưa ra một chính sách để đối phó với những xáo trộn
mà các giáo sĩ và giáo dân Ca Tô giáo đã gây ra:
“Mọi công dân Nhật theo đạo được lệnh
phải bỏ đạo; các nhà thờ và tu viện Ca Tô bị phá hủy, tài sản đất đai bị
tịch thu, và tất cả linh mục ngoại quốc được lệnh phải rời khỏi các xứ
đạo, tập trung tại Nagasaki để chờ tống xuất.”
Sắc lệnh này chưa kịp thi hành thì
"một sắc lệnh khác khe khắt hơn được ban
hành, và sự đàn áp tôn giáo trở thành tàn nhẫn hơn cho tới khi mọi
vết tích công khai của Ki Tô Giáo bị phá hủy.”
(Missionaries: A further decree, much
fiercer in tone, set in train a ruthless persecution that continued
until all overt vestiges of Christianity had been destroyed.)
“Khi sắc lệnh trục xuất thứ hai được ban
hành, một số thừa sai rời khỏi nước Nhật nhưng nhiều vị ở lại và toan
tính tiếp tục gây dựng ngầm các xứ đạo. Tất cả đều bị săn lùng và
hành quyết. Toàn thể các cộng đồng Ki Tô phải chịu đựng những biện pháp
cấm đạo. Họ bị cưỡng bức giẫm lên hình tượng của Đức Mẹ bồng Con khắc
trên những bản nhỏ, ai từ chối đều bị hành quyết. Hình phạt thông
thường là đóng đinh, nhưng được thay đổi một cách ác độc, nạn nhân bị
đóng đinh đầu ngược xuống đất và ở bờ biển. Khi thủy triều lên họ bị
chết ngộp dần dần.”
(Missionaries: When the second decree of
expulsion was promulgated, a number of missionaries left Japan but many
remained and tried to continue their ministry in hiding. All of them
were hunted down and put to death.. . Whole communities were put to the
test. They were forced to trample upon a fumie, a small plaque bearing a
carved image of the Virgin and Child, and those who refused were
executed. Crucifixion was the usual fate, but, in a cruel refinement,
the victims were crucified upside down on the shoreline. As the tide
came in, they slowly drowned. )
Vào thời điểm này, những tín đồ Ca Tô ở Nhật
bắt đầu tổ chức võ trang chống lại chính quyền. Cuộc chiến bùng nổ vào
mùa đông năm 1637 tại Shimbara và tại đảo Amakusa, những vùng hầu như
toàn tòng Ca Tô. Những cộng đồng Ca Tô này, cầm đầu bởi các linh mục
Tây phương, công khai chống lại chính quyền.
Chính quyền Nhật, sợ rằng các toán giáo dân
đó liên kết với những giáo dân Ca Tô Tây phương và bị Bồ Đào Nha dùng
làm phương tiện để chiếm đất đai của Nhật, đánh thuế rất nặng trên những
cộng đồng này. Các linh mục dòng Tên tổ chức một đạo quân khoảng
30000 giáo dân Nhật, với cờ xí mang tên Giê-Su, Maria, Thánh Iago, tiến
quân đối đầu với đại diện chính quyền về dân sự và quân sự ở địa phương,
và nhiều cuộc chiến đẫm máu đã xảy ra trong vùng Shimbara và vùng vịnh
Nagasaki. Giáo dân giết luôn Thống Đốc ở Shimbara và rồi cố thủ trong
một thành lũy kiên cố khi quân chính phủ kéo đến dẹp.
Với vũ khí thô sơ, chính quyền Nhật phải nhờ
đến sự trợ giúp của Hòa Lan (theo Tin Lành) về súng đại bác và tàu
chiến. Hòa Lan ưng thuận, và giúp chính quyền san thành bình địa nơi
cố thủ của các giáo dân và hầu như tất cả các giáo dân trong đó đều bị
tàn sát.
Kết quả cuộc nổi loạn của giáo dân này là
một đạo Dụ bài Ngoại của chính quyền Nhật Bản ban hành năm 1639:
“Trong tương lai, chừng nào mà mặt trời
còn soi sáng thế giới, không một ai được phép nhập cảnh Nhật Bản, ngay
cả với tư cách là đại sứ...”
(Manhattan, p. 361: For the future, let none,
so long as the Sun illuminates the World, presume to sail to Japan, not
even in the quality of ambassadors...)
Đạo Dụ trên được áp dụng cho mọi nước Tây
phương, trừ Hòa Lan vì Hòa Lan đã giúp phương tiện cho chính quyền Nhật
dẹp cuộc nổi loạn của các giáo dân Ca Tô. Nhưng ngay cả đối với người
Hòa Lan, họ cũng bị hạn chế tối đa. Lý do: tuy họ không phải là tín đồ
Gia Tô Giáo nhưng cũng là tín đồ Ki Tô Giáo. (Nevertheless, even they
were put under extreme restrictions owing simply to the fact that
although they were not Catholics they were Christians.)
Đối với Nhật Bản khi đó, bất cứ cái gì liên
hệ đến Ki Tô Giáo nói chung đều bị nghi ngờ là có âm mưu lừa dối, chinh
phục, và bất khoan dung.
“Người Hòa Lan không được phép đọc ngay
cả những lời cầu nguyện trong Ki Tô Giáo trước mặt một công dân Nhật
nào. “
(Manhattan, p. 362: The Dutch were not
permitted to use Christian prayers in the presence of a single
Japanese subject).
Hiệp ước thương mại giữa Nhật và Hòa Lan có
những điều khoản như:
- Không một tàu buôn nào của Hòa Lan được
chở một tín đồ Ki Tô bất cứ quốc tịch nào hoặc chuyên chở thư từ viết
bởi tín đồ Ki Tô.
- Hòa Lan phải báo cho chính quyền Nhật
biết tình hình bành trướng của Ki Tô Giáo ở ngoại quốc.
- Mọi sách viết về những đề tài tôn
giáo phải khóa kín, niêm phong trong các rương hòm và trao cho chính
quyền Nhật giữ trong suốt thời gian tàu cặp bến Nhật.
( Manhattan , p.362: No Dutch ship should
carry a Christian of any nationality or convey letters written by
Christians.
The Dutch should convey to the Japanese
governor any information about the spreading of Christianity in foreign
lands that might be of interest.
All books, especially those dealing with
religious subjects, belonging to Dutch ships had to be put into trunks,
sealed, and turned over to the Japanese during the period the ship was
in port)
Với những biện pháp quyết liệt và tàn nhẫn
đối với Ca Tô Giáo nói riêng và Ki Tô Giáo nói chung, Nhật Bản đã giữ
nước khỏi bị cái họa Ki Tô Giáo trong suốt hơn 200 năm, trong thời gian
này trên đất Nhật không hề có bóng dáng của ngay cả một linh mục thừa
sai và con chiên bản địa, đỡ hẳn mối lo âu về một số tín đồ Ca Tô sẵn
sàng theo lệnh các thừa sai Tây phương phản quốc, cho tới khi Đô Đốc
Perry của Mỹ dùng 10 tàu chiến tấn công và uy hiếp Nhật phải mở cửa giao
thương và cho truyền đạo lại vào năm 1854. Trước mối nhục vì bị
thua kém về kỹ thuật và súng ống này, Nhật Bản đã quyết tâm canh tân.
Năm 1866 Nhật còn là một dân tộc thuộc loại Trung Cổ. Chỉ trong vòng 33
năm, tới năm 1899, Nhật đã trở thành một cường quốc không kém các nước
Tây phương. Ngoài lòng yêu nước cao độ và quyết tâm, yếu tố chính
trong sự thành công canh tân của Nhật là một tình trạng xã hội, chính
trị ổn định, không có một đạo quân thứ 5 nằm vùng trong lòng dân tộc và
các thừa sai gián điệp chuyên gây xáo trộn trong các quốc gia để thủ lợi
về mặt tôn giáo cũng như về vật chất thế tục.
“Trong 24 năm đàn áp Ki Tô Giáo ở Nhật
Bản, 62 thừa sai Tây phương đã bị hành quyết cùng với hàng ngàn giáo dân
Nhật. Phải tới hơn 200 năm sau Nhật mới lại mở cửa cho các thừa sai trở
lại, nhưng lòng của họ vẫn khép kín.”
(Missionaries: During the twenty-four years
of the great Japanese persecution, sixty-two European missionaries were
put to death together with thousands of Japanese Christians. It was to
be more than 200 years before the Japanese would again open their doors
to missionaries but even then, they did not open their hearts.)
Nhưng kết quả của công cuộc canh tân này đã
đưa Nhật rơi vào giấc mộng muốn làm bá chủ Đông Nam Á, không khác gì
giấc mộng thực dân thuộc địa của các nước Tây phương, và mở trục phát
xít ở Đông Nam Á trong Đệ Nhị Thế Chiến. Giấc mộng bá vương bị xẹp dưới
hai cây nấm nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki . Nhật đầu hàng và Đại
Tướng MacArthur của Mỹ tiên đoán Nhật sẽ trở thành một nước theo Ki Tô
Giáo chỉ trong vòng một thập niên, và bộ máy tuyên truyền của La Mã cũng
tiên đoán là Ca Tô Giáo sẽ là lực lượng tôn giáo chủ chốt ở Nhật Bản.
Trong vòng 5 năm, (từ 1945-50), Mỹ đã bỏ ra hơn 10 triệu đô la trong
những hoạt động với mục đích cải đạo dân chúng Nhật nhưng dân chúng vẫn
thờ ơ. Và cho tới ngày nay, số tín đồ Ki Tô Giáo nói chung ở Nhật chưa
tới 1% trên tổng số dân số (gần 1 triệu trên tổng số 120 triệu). Số tín
đồ Ki Tô ở Thái Lan cũng chưa tới 1%, ở Trung Quốc, chỉ vào khoảng 4
phần ngàn và không trực thuộc Vatican. Các nước này ngày càng phát
triển kinh tế làm cho dân giàu hơn, nước mạnh hơn. Ai dám khẳng định
rằng phải theo Ki Tô Giáo nói chung thì đất nước mới có thể trở nên giàu
mạnh?
Những bản điều trần của ông Nguyễn Trường Tộ
được đệ trình lên Vua Tự Đức từ 1863 tới 1871, năm ông Tộ chết. Khi đó
Nhật mới bắt đầu canh tân (1868), vàì kết quả canh tân của Nhật chỉ
hiện rõ vào cuối thập niên 1880, đầu thập niên 1890. Như vậy, làm
sao ông Nguyễn Trường Tộ đã thấy những kết quả canh tân của Nhật Bản
mà viết về canh tân của Nhật? Phải chăng những ý tưởng về “canh tân của
Nhật” đã được đưa vào làm tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ về sau, với mục
đích đề cao sự “đóng góp” tưởng tượng của Ca Tô Giáo vào xã hội Việt
Nam? Hơn nữa, hoàn cảnh chính trị, xã hội v..v.. của Việt Nam hoàn
toàn khác với hoàn cảnh chính trị, xã hội ở Nhật Bản. Cho nên, trách
các triều Nguyễn không chịu cải cách canh tân xứ sở là không xét đến bối
cảnh lịch sử Việt Nam trong giai đoạn hậu bán thế kỷ 19 và trước đó.
Thực ra, so với Nhật Bản, các triều Nguyễn đã quá nhân từ, phải chăng
là bị ảnh hưởng Tống Nho hủ lậu, để rồi phải đối phó một cách tiêu cực
với ngoại xâm bên ngoài, cùng lúc với nội ứng bên trong, kết quả là nước
nhà rơi vào vòng đô hộ của Pháp gần 100 năm.
Nhưng thật là nực cười, trong khi "người ta"
đổ tội mất nước lên đầu vua quan thời Tự Đức là không nhìn sự việc "sáng
suốt" như Nguyễn Trường Tộ, nghĩa là không biết thời thế, không biết
rằng Pháp đang bá chủ hoàn cầu, không chịu hòa với Pháp, không tuân
theo vận trời từ Tây sang Đông, không chấp nhận Kim (Tây) khắc Mộc
(Đông), không chịu canh tân cải cách, không biết quân Pháp rất anh dũng,
quân ta chưa đánh đã chạy v...v... thì Giám Mục Puginier lại khẳng định
rằng:
"Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô
Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng.
Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và
mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo, người
Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù, họ sẽ không thể tin cậy vào
một ai, họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với
ác ý để phá hoại tình thế của họ, họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể
hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách
nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị
buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện hữu của họ
sẽ bị nguy hại."
( Alain Forest & Yoshiharu Tsuboi: Sans les
missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais
seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes.
La comparison, pour être triviale, ne manque pas de justesse et de
force. En effet, sans les missionnaires et les chrétiens, les Francais
se verraient entourés d'ennemis; ils ne pouraient se fier à personne;
ils ne recevraient que de faux renseignements, méchamment donnés pour
compromettre leur situation; ils se trouvaient donc réduits à
l'impossibilité d'agir et seraient rapidement exposés à des vrais
désastres. Leur position ici ne serait plus tenable, et ils se
verraient forcés de quitter un pays où leurs intérêts et leur existence
même serait compromis.)
Và chúng ta cũng đừng nên quên rằng, Pháp đã
mang 2250 binh sĩ với 25 khẩu đại bác, 4 tàu chiến, dưới sự chỉ huy của
đại tá Metzinger, tấn công trung tâm kháng chiến Ba Đình do Đinh Công
Tráng cầm đầu, nhưng liên tiếp bị đẩy lui. Nhưng rồi Trần Lục, cha
xứ Phát Diệm, phó tướng đặc trách "bình định" các tỉnh Thanh Hóa,
Nghệ An và Hà Tịnh, được giám mục Puginier ban phép lành, kéo 5000
(năm ngàn) giáo dân Ca Tô đến giúp quân Pháp đánh lại chính đồng bào
ruột thịt yêu nước của mình, do đó Ba Đình bị thất thủ (LM Trần Tam
Tĩnh: Dieu et César).
Như vậy thì cái nguyên nhân chính để Việt
Nam rơi vào vòng đô hộ của Pháp là từ đâu? Nhật Bản không có những quốc
nạn này nên rảnh tay, yên tâm canh tân xứ sở. Việt Nam , vào thời đó,
cùng lúc phải đối phó với giặc trong nội ứng cho giặc ngoài, làm sao
canh tân xứ sở trong một tình trạng nhiễu thương như vậy? Khi đất nước
bị ngoại xâm cùng lúc có những con nội trùng bán nước tiếp tay với quân
xâm lược thì vấn đề ưu tiên hàng đầu là chống ngoại xâm và thanh trừng
nội bộ hay là canh tân xứ sở? Điều ngạc nhiên đối với tôi là, cho
tới thời buổi này, trước những sự kiện lịch sử rõ ràng như vậy, mà người
ta vẫn còn giữ những lập luận hoang đường để chạy tội: là Quân, Thần
các Triều Nguyễn ngu dốt, không chịu canh tân xứ sở để làm mất nước.
Lẽ dĩ nhiên, triều đình chịu một phần trách nhiệm, nhưng đổ hết tội lên
đầu triều đình là không xét đến những hoàn cảnh lịch sử đương thời, là
"cả vú Công Vụ, lấp miệng Cần Vương" (Vũ Huy Quang), là chạy tội cho một
số không nhỏ những người bán nước cầu vinh, và dĩ nhiên là không công
bằng.
4. Ông Nguyễn Trường Tộ đề nghị dùng
giám mục, linh mục trong việc canh tân đất nước:
Thế kỷ 19, trong khi ở nước Pháp, các trí
thức Pháp đã nhận thức được sự quan trọng của một nền giáo dục khai
phóng cho nên đã cương quyết chống lại nền giáo dục của Ca Tô Giáo Rô Ma
mà họ cho rằng đã "dạy dỗ những đứa trẻ để chống lại tổ quốc của
chúng và cản sự tiến bộ của chúng" (Élever des enfants contre
leur pays et contre leur temps) và họ đã thành công trong việc
"Giật con em ra khỏi bàn tay giáo dục của các linh mục, vạch trần những
đạo đức giả của Giáo hội” (Arracher l'enfant au moine,
dévoiler les hypocrisies de l'Église) và nhà đại văn hào Victor Hugo đã
đưa ra nhận định:
"Nền văn minh, ánh sáng này, có thể bị
tắt đi bởi hai sự chìm ngập, hai sự xâm lăng nguy hiểm đối với nền văn
minh, sự xâm lăng của các quân lính và sự xâm lăng của các linh mục. Sự
xâm lăng của các quân lính đe dọa mẹ chúng ta: tổ quốc; sự xâm lăng
của các linh mục đe dọa con chúng ta: tương lai"
(La civilisation, cette lumière, peut être
éteinte pasr deux modes de submersion, deus invasions lui sont
dangereuses, l'invasion des soldats et l'invasion des prêtres. L'une
menace notre mère, la patrie; l'autre menace nos enfants, l'avenir.)
thì ở Việt Nam, ông Nguyễn Trường Tộ lại đề nghị
dùng các Giám mục, Linh mục trong việc canh tân đất nước, và "cho
phép các giáo hội Tây phương cứ tới nước mình mà lập hội cứu tế", "cho
phép mỗi tỉnh lập ra một viện dục anh, giao cho một giám mục quản cố".
Văn Tân cho rằng:
"Những đề nghị này cộng với những đề nghị
trông nhờ vào các hội kinh doanh ngoại quốc để phát triển kinh tế, nếu
được thi hành, sẽ mở của nước Việt Nam cho người Pháp kéo vào nắm giữ
các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội của nước Việt Nam ."
Một mặt khác, kiến thức của các giám mục,
linh mục có thể dùng vào việc canh tân đất nước được hay không? Nhận
định sau đây của Linh Mục Trương Bá Cần sẽ cho chúng ta một giải đáp
thích đáng:
"Về Tây học, thì ông (Nguyễn Trường Tộ)
quả có được các linh mục thừa sai và, đặc biệt, Giám mục Gauthier
dạy cho tiếng Pháp và truyền đạt một số kiến thức khoa học, chỉ có thể
là, rất phổ thông...vì các thừa sai thuộc Hội Truyền Giáo Nước Ngoài
(MEP) tuyệt đại bộ phận chỉ học xong chương trình phổ thông, rồi vào các
đại chủng viện học làm linh mục để gởi đến các nước truyền đạo".
Nhận định của Linh Mục Trương Bá Cần ở trên
đã cho chúng ta thấy rõ thực chất kiến thức của Nguyễn Trường Tộ và của
các thừa sai đương thời. Và qua một số tài liệu đã chưng dẫn ở trên,
chúng ta đã biết thực chất sự huấn luyện các linh mục trong các đại
chủng viện như thế nào rồi. Với những đầu óc mà mục đích duy nhất là
kiếm thêm tín đồ cho Chúa, họ có thể dùng vào được việc gì trong vấn đề
canh tân xứ sở? Canh tân bằng cách nào, biến dân chúng Việt Nam thành
những người nghiện thuốc phiện, đầu óc lúc nào cũng lơ mơ về một viên
thuốc "sống đời đời " ở trên trời?
Để thấy rõ vấn đề hơn, chúng ta hãy đọc đoạn
sau đây trong cuốn "Tiếng Kêu Than Của Người Dân" (Cry of the
People, Penguin Books, New York, 1991) của Penny Lernoux để biết phần
nào sự thực về chính sách truyền đạo mà Giáo hội Ca Tô vẫn tự nhận là
"khai phóng, mở mang trí óc con người":
"Từ lúc đầu, xã hội Mỹ - La Tinh được xây
dựng giống như một Kim Tự Tháp, với vài người Âu Châu đến định cư và
hưởng mọi quyền lợi của đế quốc, và quần chúng thổ dân, da đen, giai cấp
thấp, không có một quyền nào. Cái tháp tồn tại được là vì khối nhân
dân ở dưới đáy được nhắc nhở rằng họ ngu si, lười biếng, và thấp kém.
Những nhà truyền giáo ngoại quốc góp phần nhồi vào óc dân bản xứ ý tưởng
là họ nghèo và ngu dốt là do ý muốn của Thiên Chúa. Như tổng giám mục ở
Lima bảo các thổ dân rằng: "Nghèo khổ là con đường chắc chắn nhất đi tới
hạnh phúc." Người thổ dân nào hay dân Phi Châu nào mà liều lĩnh nghi
ngờ điều dạy khôn ngoan đó bằng cách chống lại hệ thống đều bị giết
ngay...Giáo hội Ca Tô phải gánh rất nhiều trách nhiệm về tình trạng
này. Giống như những kẻ chiến thắng Tây Ba Nha trong thế kỷ 16, hầu
hết các nhà truyền giáo Âu Châu tới châu Mỹ La Tinh tự coi như là những
kẻ mang những văn hóa cao hơn nền văn hóa của dân bản xứ nhiều. Những
nhà truyền giáo ít quan tâm đến việc hòa nhập với các thổ dân hay dân
Phi Châu mà chỉ muốn chinh phục họ vào những cấu trúc của tôn giáo Âu
Châu."
(From the beginning, Latin-American society
was constructed like a pyramid, with a few Europeans settlers enjoying
all the privileges of empire and a mass of Indians, blacks, and
half-castes having no rights at all. The pyramid survived because the
mass at the bottom was repeatedly told that it was stupid, lazy, and
inferior. Foreign missionaries helped drum these ideas into the
native's heads by claiming that it was God's will that they should be
poor and ignorant. As the Archbishop of Lima told his Indians: "Poverty
is the most certain road to felicity." Any Indian or African who had
the temerity to doubt such wisdom by rebelling against the system was
promtly put to death...The Catholic Church must accept a lot of the
blame for this situation. Like the conquistadors, most of the European
missionaries who came to Latin-America saw themselves as bearers of
cultures vastly superior to those of the natives. The missionaries
were less interested in integrating the Indians and Africans than on
subjugating them to the European religious structures.)
Chính sách truyền đạo này đã được các thừa
sai áp dụng trên toàn thế giới chứ không chỉ riêng ở châu Mỹ La Tinh, và
lẽ dĩ nhiên, Việt Nam không ở ngoài lệ..
Và thực chất những hội cứu tế, viện dục anh
v..v... của Ca Tô Giáo Rô Ma được tóm tắt trong nhận định sau đây của B.
S. Rajneesh, trong cuốn "Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của
Linh Hồn" ("Priests & Politicians: The Mafia of the Soul", The Rebel
Publishing House GmbH, Cologne, West Germany, 1987, trg. 25):
"Nếu con người nghèo đói, họ có thể dễ bị
dụ vào KiTô giáo, đặc biệt là Ca Tô giáo. Những trường học, nhà
thương, và viện mồ côi của họ chẳng qua chỉ là những xưởng để dụ người
ta trở thành tín đồ CaTô."
(If people are poor and hungry, they can be
easily converted to Christianity, particularly into the Catholic
Church. Their schools, their hospitals, their orphanages are nothing
but factories for converting people into Catholics.)
Riêng ở Việt Nam, tưởng chúng ta cũng
nên biết rõ sách lược của các giáo sĩ thừa sai dùng trường học, giáo dục
để Gia Tô hóa Việt Nam và sớm đưa Việt Nam vào vòng đô hộ của Pháp như
thế nào.
Trong bài "Le Rôle Des
Missionnaires au Viêt-Nam: Un Décalage Dans Le Temps et Dans L'Espace",
đăng trong cuốn "Catholicisme et Sociétés Asiatiques", Yoshiharu
Tsuboi đã viết một cách rõ ràng về sách lược trên như sau:
"Trên bình diện tôn giáo, điều cấp bách
là phải xây dựng tổ chức những giáo xứ và củng cố sự hiện diện của Ca Tô
Giáo bằng hệ thống giáo dục... Giám mục Puginier ý thức được điều này
và đã củng cố được nhiều cơ sở tại các nơi đây. Trong nhiệm vụ của
ông, nghĩa là, trong giáo xứ Bắc Kỳ miền tây, mỗi linh mục phải nuôi
nấng tại nhà một số trẻ nào đó, được chọn từ những gia đình Ki Tô tốt
nhất, trong những đứa thông minh nhất và có khả năng nhất. Từ 10 hoặc
12 tuổi, những đứa trẻ trên bắt đầu phục vụ ông linh mục và học chữ Nho
và chữ la tinh nhập môn. Tới 16 hay 18 tuổi, chúng được lọc lựa, tùy
theo khả năng và hạnh kiểm, để hoặc gửi đi các trường Dòng, hoặc vào các
trường huấn luyện những người dạy giáo lý, hoặc ở lại tiếp tục phục vụ
ông linh mục...
Một mặt khác các ông linh mục cũng dạy học trò chủ thuyết Ki Tô, dùng
chữ Quốc Ngữ. Dùng Quốc Ngữ có hai lợi điểm: một mặt có thể tách biệt
tinh thần triết lý của Khổng Tử, mặt khác chữ này dễ học hơn.
Nếu những linh mục trong Phái bộ Truyền Giáo Hải Ngoại đặt nặng tầm
quan trọng vào giáo dục những đứa trẻ ở trong các trường học của họ,
đó là vì họ nghĩ rằng quyền lợi truyền giáo thì đồng nhất với quyền lợi
thuộc địa. Đối với họ, trường học là phương tiện tốt nhất để truyền bá
niềm tin Ki Tô nhưng cũng là để củng cố chính sách thuộc địa. Chúng ta
hãy dẫn chứng thêm nơi đây lời của linh mục Wibaux:
"Thật ra không có cách nào khác để đi vào dân bản xứ, những con dân
của Pháp Quốc, mau hơn và hữu hiệu hơn...Sự thành lập những trrường
học đích thực là cách tốt nhất để thuộc địa hóa và tuyên truyền tôn
giáo.”
(Sur le plan religieux, l'urgent est de
construire l'organisation des vicariats et d'affermir la présence
catholique notamment par le système d'éducation...Mgr Puginier en a pris
conscience et consolide les institutions en place. Dans sa mission,
c'est à dire, dans le vicariat du Tonkin occidental, chaque prêtre doit
élever chez lui un certain nombre d'enfants, choisis dans les meilleurs
familles chrétiennes, parmi les plus intelligents et les plus doués.
Ces enfants commencent, vers dix ou douze ans, à servir le père et à
étudier les caractères chinois et les premiers éléments du latin. Vers
l'âge de seize à dix-huit ans, ils sont sélectionnés, selon leurs
capacités et leur conduite, soit pour enter au séminaire, soit pour
entrer à l'école des catéchistes, soit pour rester au service du père.
Par ailleurs, les missionnaires aprrennent aux élèves la doctrine
chrétienne en employant le quoc ngu. Le Quoc ngu présente deux
avantages: d'une part, il concourt à détacher les esprits de la
philosophie confucéenne, d'autre part, cette transcription est plus
facile à assimiler que les caractères chinois...
Si les pères des Missions Étrangères accordent beaucoup d'importance
à l'enseignement des enfants dans leurs écoles, ils pensent alors que
l'intérêt de l'évangélisation s'identifie à celui de la colonisation.
Pour eux, les écoles constituent le meilleur moyen de propagation de la
foi chrétienne mais aussi d'affermissement de la colonisation. Citons,
de nouveau, le père Wibaux: "Il n'y a pas d'ailleurs d'autre moyen
d'entrer plus rapidement et plus efficacement en relations avec les
indigènes, sujets de la France...La création des écoles est donc le
meilleur moyen de colonisation et de propagande religieuse.")
Và ông Nguyễn Trường Tộ đã đề nghị
triều đình đặt sự canh tân của xứ sở, sự quản cố các trường học, viện
dục anh vào trong tay những giám mục mà ông tin rằng "họ chỉ lấy việc
mở rộng đạo giáo, chống gian tà???, làm trách nhiệm, chẳng liên quan gì
đến việc tranh thành tranh đất cả" (Điều trần số 1). Những đề nghị
này có nằm trong sách lược Ca Tô hóa Việt Nam của các giáo sĩ thừa sai
ngoại quốc hay không, và ông Nguyễn Trường Tộ có biết đến những sách
lược này hay không? Muốn giải đáp nghi vấn này chúng ta cần phải luận
về hai thuộc tính mà "người ta" thường gán cho ông Nguyễn Trường Tộ: một
kiến thức uyên bác và một lòng yêu nước cao độ.
Về phương diện luận lý, chúng ta có
thể khẳng định rằng, kiến thức uyên bác và lòng yêu nước của ông Nguyễn
trường Tộ là hai thuộc tính có tính cách loại trừ hỗ tương (mutual
exclusive), nghĩa là có cái này thì không thể có cái kia. Thật vậy, nếu
kiến thức của ông Nguyễn Trường Tộ thuộc loại "bác học", nghĩa
là, theo linh mục Thiện Cẩm, "tinh thông uyên bác về mọi vấn đề",
hay nói khác đi, biết đúng và sâu rộng về mọi vấn đề, mà ông vẫn đưa ra
những ý kiến, đề nghị v..v.. mà ông biết rằng sai sự thực để lạc dẫn
triều đình Tự Đức, đưa nước nhà sớm vào cảnh nô lệ ngoại bang, đẩy mạnh
mưu đồ Ca Tô hóa Việt Nam song song với chính sách xóa bỏ nền văn hóa cổ
truyền Việt Nam, thì thực chất của ông là một tay sai đắc lực cho ngoại
bang và cho một thế lực tôn giáo Tây phương mà ông được huấn luyện, đào
tạo trong đó, chứ không phải là người yêu nước. Ngược lại, nếu ông là
người yêu nước và cho rằng những ý kiến, đề nghị của mình là đúng và có
thể giúp được nước trong giai đoạn sôi bỏng của đất nước, thì qua mấy
điểm phân tách về những ý kiến đề nghị của ông ở trên, không có cách nào
chúng ta có thể coi ông là một người có một kiến thức "tinh thông
uyên bác về mọi vấn đề" vì nhiều đề nghị quan trọng của ông được đặt
trên những căn bản hiểu biết thiếu sót và sai lầm. Có nhiều bằng chứng
chứng tỏ ông Nguyễn Trường Tộ chẳng phải là người yêu nước (xin đọc bài
của Nguyễn Kha trong cuốn sách này) và cũng chẳng phải là người có một
kiến thức tinh thông uyên bác. Phân tích những đề nghị có hại cho quốc
gia, không hợp thời và bất khả thi chúng ta thấy rõ như vậy.
Nhưng cái nghịch lý ở đây là: ông
Nguyễn Trường Tộ đã được đánh bóng một cách ồn ào là: nổi tiếng là
người thông minh, học đâu nhớ đó, là "Trạng Tộ". Vậy, cho rằng ông
không biết cả những điều sai lầm có thể nói là sơ đẳng trong những nhận
định của ông thì chẳng hóa ra tất cả những điều được viết về khả năng
của ông chỉ là những lời huênh hoang không đúng sự thực hay sao? Điều
này cũng có thể đúng, vì những người cùng thời với ông không đủ kiến
thức để đánh giá ông một cách trung thực. Đối với dân chúng hồi đó thì
ông Nguyễn Trường Tộ biết chút ít về khoa học thường thức Tây phương như
nhận định của Linh Mục Trương Bá Cần ở trên cũng có thể coi là bậc vô
thượng thiên tài được rồi. Nhưng qua những bản điều trần mà người ta
cho là của ông, chúng ta thấy ông cũng có một số kiến thức chính xác
liên quan đến xã hội và nền giáo dục nước nhà, nếu áp dụng thì cũng có
lợi ích trong việc phát triển đất nước, thí dụ như bỏ lối học từ chương,
khuyến khích học khoa học kỹ thuật, cải tiến nông nghiệp, khai thác tài
nguyên v...v... Nhưng đây là những chương trình dài hạn để mở mang đất
nước mà kết quả chỉ có thể thấy sau một vài thế hệ, không thể áp dụng để
đối phó hoặc lật ngược tình trạng sôi bỏng của đất nước thời bấy giờ.
Điều khó hiểu là nếu thực sự ông là người yêu nước như người ta thường
quảng cáo thì tại sao những nhận định về thời thế của ông lại luôn luôn
đề cao quá lố khả năng của Pháp, hạ quá thấp khả năng của ta, và chứa
những thông tin sai lạc có tác dụng làm nhụt nhuệ khí của nhân dân ta.
Từ bé tới lớn sống với Tây, lớn lên lúc nào cũng dính liền với giám mục
Gauthier mà những tài liệu lịch sử đã chứng minh rằng là một gián điệp
chủ trương Pháp đánh chiếm và Ca Tô hóa Việt Nam, phải chăng những
bản điều trần trong những năm đầu của ông Nguyễn Trường Tộ đã
được duyệt và cho phép phổ biến (Imprimatur)?
Một mặt khác, ông Nguyễn Trường Tộ
được mô tả như là một nhân vật đặc biệt, uyên bác và nổi tiếng như vậy,
đã tháp tùng giám mục Gauthier sang Pháp và được Giáo Hoàng tiếp kiến,
mà chúng ta không thấy ông để lại một dấu vết gì trong các văn khố của
Pháp. Những nhận định về ông, tất cả chỉ là từ trong nước và là những
khẳng định vô trách nhiệm (affirmations gratuites). George Boudarel
viết như sau trong cuốn Catholicisme et Sociétés Asiatiques,
trang 160:
"Tộ thực sự là một trong những người
Việt Nam đầu tiên đến Paris vào giữa thế kỷ 19. Tuy nhiên, không có một
cuộc nghiên cứu nào về tiểu sử của ông trong những văn khố Pháp mà đáng
lẽ người ta phải tìm thấy dấu vết về cuộc qua Pháp này của ông. Một vài
giai đoạn trong đời ông vẫn còn mù mờ".
(Tô fut en effet l'un des tout premiers
Vietnamiens à se rendre à Paris au milieu du 19e siècle. Sa biographie
n'a pourtant fait l'objet d'aucune recherche connue dans les archives
francaises, où l'on devrait trouver trace de son passage. Certains
épisodes mineurs de sa vie restent encore obscures).
Như vậy, những thông tin về đời ông
có chính xác hay không, có lẽ chúng ta cần nghiên cứu sâu rộng hơn nữa.
Từ những sự phân tích về một số điểm
ở trên, điều chắc chắn là, ông Nguyễn Trường Tộ không phải là người có
một kiến thức "tinh thông uyên bác về mọi vấn đề" (đây là một lời nói
huênh hoang lố bịch không thể dùng để mô tả bất cứ một nhân vật nào ở
trên đời, kể cả Thượng Đế ở trong Thánh Kinh Ca Tô). Nếu dễ dãi,
chúng ta có thể cho ông là người có can đảm dám nói lên những điều mình
biết mà ông cho là có thể giúp được nước. Nhưng chúng ta cũng lại biết
rằng, đằng sau ông luôn luôn có giám mục Gauthier, và đằng sau giám mục
Gauthier là cả một hội truyền giáo có súng ống, tàu chiến của các lực
lượng xâm lăng làm hậu thuẫn. Cho nên, phải chăng ông ở cái thế mà
triều đình nhà Nguyễn cũng phải nể vì, vì khi đó Việt Nam đã mất đi hoặc
3, hoặc 6 tỉnh Nam Kỳ, và đang chịu áp lực nặng nề của Pháp. Một mặt
khác, ông đã đệ trình lên vua Tự Đức tất cả là 58 bản điều trần, con số
này cần được kiểm chứng, trong vòng 8 năm trời, từ 1863 tới 1871, và ông
hoàn toàn không bị một khó dễ nào về phía triều đinh, trong khi, theo
như lời lên án của Pháp và những tín đồ Ca Tô Việt Nam, thì vua Tự Đức
đã ban hành những đạo Dụ cấm đạo và tàn sát giáo dân rất khắc nghiệt.
Có sự mâu thuẫn ở đây không? Có lẽ Mark W. McLeod đã viết đúng, trong
cuốn "The Vietnam Response To French Intervention, 1862-1874":
"Sau đó, những đạo Dụ khắc nghiệt hơn
được ban hành mỗi khi vua Tự Đức phải đối diện với bằng chứng là các
giáo sĩ Ca Tô và các giáo dân dính líu vào những cuộc nội loạn hay đứng
về phía một quyền lực ngoại quốc"
(Subsequent, more severe edicts were issued whenever Tu Duc was
confronted with evidence that the Catholic missionaries or the
indigeneous Catholics were involved in internal rebellions or were in
league with a foreign power.)
và chúng ta có thể suy ra là triều đình
vua Tự Đức đã rất sáng suốt trong việc đối xử với những tín đồ Ca Tô
Việt Nam, tuyệt đối không có chuyện giết bừa bãi những người đi đạo,
bằng chứng là Nguyễn trường Tộ và một số linh mục Việt Nam vẫn được
triều đình ưu đãi, và những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ vẫn được
vua Tự Đức và quần thần đọc. George Boudarel đã trích dẫn nhận xét sau
đây của sử gia Trần Văn Giàu:
"Vào thời đó, ở triều đình Huế, đa
số tin chắc rằng Nguyễn Trường Tộ là một đầy tớ của Pháp. Trong
hai lần tới kinh đô, sự an ninh của ông đã có thể bị nguy hiểm nếu ông
không được sự che trở của vua Tự Đức và Thần Tiễn Thành."
(À l'époque, à la Cour de Huê,
écrit-il, la majorité des gens le considéraient comme un incontestable
valet des Francais. Lors de ses deux séjours dans la capitale, sa
sécurité aurait été bien compromise s'il n'avait bénéficié de la
protection de Tu Duc et de Trân Tiên Thanh.)
và kết luận:
"Chế độ quân chủ không hẳn là một chế
độ chuyên quyền và Tự Đức không phải là một bạo chúa."
(La monarchie d'alors n'etait pas exactement un dépotisme et Tu Duc
n'était pas un tyran.)
Trên đây tôi đã phân tích một số ý
kiến, nhận định và tư tưởng của Nguyễn trường Tộ cùng đưa ra vài khía
cạnh về cuộc đời của ông. Qua sự phân tích về những đề nghị của Nguyễn
Trường Tộ trong bối cảnh lịch sử của Việt Nam thời đó và tính cách khả
thi của những đề nghị của ông, chúng ta có thể khẳng định vài điểm:
1. Kiến thức của ông Nguyễn Trường
Tộ về nhân sinh, vũ trụ, ngũ hành, thời thế, tình hình thế giới v...v..
không có gì đặc biệt nếu không muốn nói là hạn hẹp một chiều.
2. Những đề nghị của ông về quân sự
cũng không có gì đặc biệt, tựu trung chỉ là những hiểu biết sơ đẳng.
Nếu không biết những nguyên tắc sơ đẳng này và nhiều hơn nữa thì lịch sử
Việt Nam làm gì có những trận Chương Dương, Bạch Đằng, Đống Đa, khoan
nói đến chuyện Điện Biên Phủ, đường mòn Hồ Chí Minh và đường hầm Củ Chi.
3. Những đề nghị của ông về dùng
giám mục để canh tân đất nước, đặt giáo dục, cứu tế xã hội vào tay các
giám mục là những đề nghị nguy hiểm, nếu thi hành thì Việt Nam sẽ mất
hẳn nền văn hóa đặc thù của mình.
4. Đề nghị của ông đào một con kênh
từ Hải Dương đến Huế là một đề nghị không tưởng, không thực tế và không
xét đến khả năng kỹ thuật, nhân lực và tài lực của nước ta vào thời đó.
5. Những đề nghị của ông về cải
cách xã hội, giáo dục có phần nào giá trị trong việc xây dựng đất nước
trong tương lai dài hạn nhưng không thể áp dụng ngay để đối phó với giặc
ngoài giặc trong, trong tình hình sôi bỏng của đất nước.
6. Kế hoạch đánh úp Gia Định và xin
được chỉ huy cuộc đánh úp này trong khi đang nằm ngửa trên giường bệnh
viết điều trần và chưa hề có một kinh nghiệm binh bị trực tiếp nào là
một điều hoang tưởng, nhiều phần thất bại hơn là thắng, chưa kể là kế
hoạch này có thể đã lọt vào tay giám mục Gauthier rồi. Một mặt khác, kế
hoạch này mâu thuẫn với nhận định của ông trong một bản điều trần đã đệ
trình trước: "Quân Pháp rất anh hùng, dũng cảm; Quân ta mới nghe danh
họ đã phách lạc, hồn xiêu". Vậy lấy gì mà đánh? Tư tưởng của ông
thay đổi hay là quân Pháp đã tụt hậu và quân ta đã anh dũng trở lại chỉ
trong vòng có vài năm?
7. Ông cho rằng triều đình là Việt
gian hoặc ngu lắm hay sao mà phải dặn đừng tiết lộ với các giám mục
những điều ông "mật báo" với triều đình.
8. Dù sao thì Ông cũng có 3 công
lớn, một đối với quốc gia: đào kênh Sắt, và hai đối với Giáo hội: xây
một nhà thờ ở Xã Đoài và nhà thờ Thánh Phao Lồ ở Saigon.
9. Có thể vào lúc sắp mãn cuộc đời
ông đã nhận ra phần nào thực chất của các giám mục và thực chất của Pháp
cho nên đã để lộ ra một tâm trạng day dứt nhưng đáng tiếc là không có gì
rõ rệt và dứt khoát.
Nhìn Nguyễn Trường Tộ dưới góc cạnh
nào là tùy theo cảm tính cá nhân. Chúng ta có thể nhìn riêng vào một
góc cạnh nào đó và ca tụng ông theo cái góc nhìn đó, nhưng những lời
xưng tụng ông như:
"Nguyễn Trường Tộ, một thiên tài của
đất nước, xứng danh hiệu là một nhà "bác học", hiểu theo nghĩa là một
người tinh thông uyên bác về mọi vấn đề...
Khí trời là biểu tượng của Thần Khí, của Tinh Thần. Thần Khí ấy
là Thần Khí Đức Ki Tô. Chính Thần Khí hay Tinh Thần ấy làm cho Nguyễn
Trường Tộ trở thành một người Công giáo yêu nước, yêu dân tộc.”
của LM Thiện Cẩm trong bài "Trông
Người Lại Nghĩ Đến Ta", Nguyễn Trường Tộ Với Vấn Đề Canh Tân Đất
Nước, thì nghe có vẻ cải lương và có nhiều tính chất khôi hài. Có
thể ông Nguyễn Trường Tộ là một người yêu nước, điều này cũng còn có
nhiều nghi vấn, nhưng lòng yêu nước này chẳng dính dáng gì tới Thần Khí
Đức Ki Tô cả, vì trải qua hơn 4 ngàn năm lịch sử, không phải chỉ có
Nguyễn Trường Tộ là người yêu nước duy nhất. Thần khí nào đã tạo nên
hơn 90% người dân Việt Nam phi- Ki Tô mà lòng yêu nước đã được chứng
tỏ xuyên suốt chiều dài của lịch sử? Vả chăng, thổi phồng quá lố ông
Nguyễn Trường Tộ rồi cho rằng Thần Khí Đức Ki Tô đã làm cho ông trở
thành một người Ca Tô yêu nước, thì một câu hỏi được đặt ra: tại sao
Thần Khí Đức Ki Tô không làm cho những người mà địa vị trong giáo hội
cao hơn Nguyễn Trường Tộ nhiều, thí dụ như Nguyễn Bá Tòng, Trần Lục, Lê
Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Ngô Đình Thục, Hoàng Quỳnh, hoặc những tín đồ nổi
danh như Trần Bá Lộc, Pétrus Trương Vĩnh Ký v...v...thành những người
Ca Tô yêu nước mà lại làm họ trở thành những người nổi tiếng chắc chắn
không phải vì lòng yêu nước nếu không muốn nói ngược lại. Và Thần khí
nào đã làm cho đầu óc LM Thiện Cẩm trở thành lẩm cẩm để viết một câu lạc
lõng có tính cách coi thường cả ông bà tổ tiên như trên?
Lịch sử cho thấy rằng, Thần Khí Ki
Tô đã đưa Âu Châu vào thời đại đen tối trí thức hơn 1000 năm ở Âu Châu,
đã đưa đến 8 cuộc Thánh Chiến và 400 năm của các tòa hình án, trong
những thời gian này, hàng chục triệu người đã bị giết hại, hoặc bị tra
tấn và thiêu sống. LM Thiện Cẩm, “nhà nghiên cứu tôn giáo nổi danh của
Giáo hội Gia Tô Việt Nam”, chắc không thể không biết đến những sự kiện
lịch sử này.
Trong các tín đồ Ca Tô Việt Nam
không thiếu gì những người yêu nước và đóng góp cho xứ sở. Nhà
cách mạng Phan Bội Châu cũng đã khẳng định như vậy, và sự đóng góp của
giáo dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp khi Pháp trở lại Việt Nam gần
đây cũng đã chứng tỏ như vậy. Thời Ngô Đình Diệm ở Việt Nam cũng có
nhiều Linh mục và tín đồ Ca Tô đứng về phía dân tộc để đạp đổ một chế độ
độc tài, gia đình trị, tôn giáo trị. Những thí dụ về lòng yêu nước của
người Ca Tô và những đóng góp của họ cho nền văn hóa Việt Nam cũng không
thiếu. Nhưng đề cao quá lố Nguyễn Trường Tộ và nhấn mạnh vào cái gốc Ca
Tô của ông để quảng cáo cho cái Thần Khí của Đức Ki Tô thì không những
lạc đề mà còn trả lời làm sao trước những sự kiện lịch sử liên quan đến
giáo hội Ca Tô toàn cầu và giáo hội Ca Tô Việt Nam?
Một con én không thể làm nổi cả một
mùa Xuân. Hi vọng một con én Nguyễn Trường Tộ có thể làm cả một mùa
xuân trên đất Việt là một hi vọng hão huyền. Huống chi, phân tích kỹ
thì Nguyễn Trường Tộ cũng không hẳn là một con én, mà có thể thực chất
chỉ là một con chim sẻ. Có nhiều bằng chứng lịch sử chứng tỏ như vậy.
Và, một họa sĩ có đôi chút hiểu biết thì chẳng bao giờ nên vẽ con chim
sẻ Ca-Tô đậu trên cành trúc Việt Nam.
Mời đọc bài khác về NTT của Trần Chung Ngọc
- Lại Vẫn Là Huyền
Thoại “Nguyễn Trường Tộ”
- Nhân Đọc Cuốn "Nguyễn Trường Tộ: Thời Thế & Tư Duy Cách Tân"
Của Hoàng Thanh Đạm
Các bài lịch sử cùng tác giả
▪
Nhận Định Về DVD “Sự Thật Về Hồ Chí Minh” -
Trần Chung Ngọc
▪
Vài Nét Về Cụ Hồ -2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Ôn Lại Vài Nét Về Sự Thật Lịch Sử Để Tưởng Niệm Đại Tướng Võ Nguyên Giáp -
Trần Chung Ngọc
▪
Ai Là Ác Nhân Nhất Thế Kỷ 20 ? -
Trần Chung Ngọc
▪
ĐIỆN BIÊN PHỦ, hay Đâu Là “Sự Thật Lịch Sử” Của Lữ Giang -
Trần Chung Ngọc
▪
ĐIỆN BIÊN PHỦ, hay Đâu Là “Sự Thật Lịch Sử” Của Lữ Giang -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giết Mọi Thứ Di Động: Cuộc Chiến Thực Sự Của Mỹ Ở Việt Nam -
Nick Turse/ Trần Chung Ngọc gt
▪
Ký Giả Wilfred Burchett Viết Về Cụ Hồ Chí Minh -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện 50 Năm Trước -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện 50 Năm Trước -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Vẫn Là Huyền Thoại “Nguyễn Trường Tộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Nguyễn Trường Tộ - Từ Huyền Thoại Đến Thực Chất -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhìn Lại Hai Cuộc Chiến Ở Việt Nam - Một Khảo Luận Qua Các Tài Liệu -
Trần Chung Ngọc
▪
Phần II - Nhìn Lại Hai Cuộc Chiến Ở Việt Nam - Cuộc Chiến 20 Năm Chống Mỹ: 1955-1975 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tôi Đọc Bài Của PCD Về ĐT Võ Nguyên Giáp -
Trần Chung Ngọc
▪
Tôi Đọc: “Việt Nam Cộng Hòa - Nạn nhân của chính sách 'Ngậm máu phun người'” của Đặng Chí Hù -
Trần Chung Ngọc
▪
Tâm Viên Ý Mã - Đặc San Trưng Vương Houston 2000 -
Trần Chung Ngọc
▪
Thêm Vài Nét Về “Cụ Hồ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Thư mục chọn lọc để tham khảo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 ▪
>>>