 |
23-Sep-2012 |
Hãy vinh danh Phạm Phú Thứ thay vì Nguyễn Trường Tộ !
Có hai nhân vật cùng thời với Nguyễn Trường Tộ nhưng vượt trội
Nguyễn Trường Tộ về nhiều phương diện, từ đạo đức cá nhân, lòng
yêu dân yêu nước, cho đến những tư tưởng canh tân và những hoạt
động thiết thực cho đất nước, nhưng tiếc thay, vì hoàn cảnh đất
nước thời bấy giờ, cũng không thể thực hiện được. Đó là Phạm Phú
Thứ, và Nguyễn Lộ Trạch, đặc biệt là Phạm Phú Thứ, sinh trước
Nguyễn Trường Tộ 9 năm. Công nghiệp của Phạm Phú Thứ thật là vĩ
đại nhưng lại được ít người nhắc tới, trong khi người ta cứ tiếp
tụng ca tụng ồn ào và huênh hoang những điều không thực về Nguyễn
Trường Tộ. (TCN)
Vài Lời Nói Đầu:
Đàn Chim Việt online là một trong vài ba trang nhà mà lâu lâu
tôi ghé vào thăm xem có gì lạ. Gần đây vào https://dcvonline.net/modules.php? name=News&file=article&sid=9336 tôi
thấy có bài “Nguyễn Trường Tộ phải chết” của Đặng Ngữ,
nội dung là góp ý kiến về bài “Học gì từ Nguyễn Trường Tộ?”
của tác giả Giáp Văn Dương.
Trong bài “Học gì từ Nguyễn Trường Tộ?” tác giả Giáp
Văn Dương viết:
Mỗi khi nói về sự canh tân của nước Nhật, ta không khỏi nghĩ đến Fukuzawa
Yukichi. Mỗi khi nghĩ đến Fukuzawa Yukichi, ta không khỏi nghĩ đến Nguyễn Trường
Tộ". Cả Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ đều là những nhà tư tưởng
về cải cách, sống cùng giai đoạn lịch sử. Nhưng một người thành công, một người
thất bại. Câu hỏi đặt ra là: Vì sao Fukuzawa Yukichi thành công, còn Nguyễn
Trường Tộ thì thất bại?
Thật ra thì lịch sử đã trả lời cho câu hỏi này rồi, nếu chúng
ta biết chút ít về lịch sử. Hơn nữa những tư tưởng cải cách tự
lực tự cường của Fukuzawa Yukichi là để xây dựng nước
trong niềm tự hào. Còn phần lớn những tư tưởng cải cách trông
cậy vào ngoại quốc và ngoại nhân của Nguyễn Trường Tộ thực
chất là có hại cho đất nước, nếu không muốn nói là bán nước. Tôi
sẽ trở lại vấn đề này trong một phần sau.
Đặng Ngữ, trong bài “Nguyễn Trường Tộ phải chết” thì
cho rằng, Fukuzawa Yukichi của Nhật Bản thành công vì:
- Nhật Bản có tinh thần cải cách.
- Nhật Bản có tinh thần dung hóa.
- Nhật Bản có tinh thần quốc gia.
Còn Nguyễn Trường Tộ của Việt Nam thất bại vì, Đặng Ngữ viết: tôi
dám cả gan mà xác nhận (sic) rằng (tương tự như ý kiến
của Nguyễn Gia Kiểng):
- Việt Nam mình hoàn toàn không có tinh thần dung hóa.
- Người Việt Nam mình hủ lậu, bảo thủ, cố chấp... Nói tóm lại, người Việt
Nam chứa đầy tinh thần “bất dung".
- Việt Nam mình hoàn toàn không có tinh thần quốc gia.
Không hiểu Đặng Ngữ lấy tư cách gì để mà “cả gan xác nhận”
như trên, gan của ông ta to như gan bò. Điều chắc là Đặng Ngữ
không biết gì về nền văn hóa và lịch sử Việt Nam.
Thật tình tôi chẳng muốn trở lại cái huyền thoại về Nguyễn Trường
Tộ này, vì trước đây tôi là người đã từng nghiên cứu về nhân vật
Nguyễn Trường Tộ, và đối với tôi, Nguyễn Trường Tộ không phải
là nhân vật mà tôi coi trọng, về kiến thức cũng như về tư tưởng,
bất kể là người ta ca tụng ông ta như thế nào. Nhưng tới thời
buổi này mà người ta còn cứ mang Nguyễn Trường Tộ ra để nói những
chuyện hoang đường về những tư tưởng canh tân của ông ta, làm
như những tư tưởng canh tân đó cũng có giá trị tương đương với
những tư tưởng của Fukuzawa Yukichi, cho nên tôi nghĩ cần phải
có vài nhận định về câu hỏi của Giáp Văn Dương và những điều “xác
nhận” (sic) của Đặng Ngữ về Việt Nam. Trước hết, chúng ta cần
trở lại “Huyền Thoại Nguyễn Trường Tộ”.
I. Huyền Thoại Nguyễn Trường Tộ:▲
Tôi gọi là huyền thoại vì tất cả những gì nói về Nguyễn trường
Tộ phần lớn chỉ là lưu truyền, hoặc dựng lên, trong cộng đồng
Ca-tô Giáo ở Việt Nam, rất khó có thể kiểm chứng. Hơn nữa, tôi
không thể biết những gì người ta nói về ông ta hay về những cái
gọi là bản điều trần hay di thảo của ông ta là thật hay là giả.
Những gì chúng ta biết về Nguyễn Trường Tộ là dựa trên những bản
điều trần đã được dịch ra chữ quốc ngữ từ nguyên bản bằng tiếng
Hán. Nhưng tôi thắc mắc là những bản dịch này có đúng không, và
trong số những bản điều trần này có bao nhiêu bản đích thực là
bút tích của Nguyễn Trường Tộ? Sử gia Trần Trọng Kim viết: "Nguyễn
Trường Tộ có làm mấy bản (có nghĩa là vài bản) điều trần" và
các tác giả trong cuốn Lịch Sử Việt Nam, Tập II, nxb
Khoa Học Xã Hội, 1989, viết, trang 61: "Từ năm 1863 đến
1871, Nguyễn Trường Tộ đã đệ trình Vua Tự Đức 14 bản điều trần";
Nguyễn Thế Anh đưa ra con số "mười mấy bản điều trần";
Đặng Huy Vận và Chương Thâu đưa ra con số 43 bản điều trần trong
đó có những bản không có tên, không có ngày tháng; Thái Văn Kiểm
đưa ra con số 18 bản điều trần trong đó có 3 bản không
kê ngày tháng, Linh mục Trương Bá Cần đưa ra 58 bản di thảo trong
cuốn Nguyễn Trường Tộ: Con Người Và Di Thảo, và theo
Georges Boudarel, đại học Paris VII, trong cuốn “Chủ thuyết
Ca-tô và các Xã Hội Á Châu” (Catholicisme et Sociétés Asiatiques),
trang 200, thì "không có bản chữ quốc ngữ nào ghi xuất
xứ của văn bản gốc viết bằng chữ Hán " (Aucun des textes
en quoc ngu consultés ne donne l'origine du manuscrit original
en caractères chinois.). George Boudarel còn viết như sau trong
cuốn Catholicisme et Sociétés Asiatiques, trang 160:
"Tộ thực sự là một trong những người Việt Nam đầu tiên đến Paris vào
giữa thế kỷ 19. Tuy nhiên, không có một cuộc nghiên cứu nào về tiểu sử của
ông trong những văn khố Pháp mà đáng lẽ người ta phải tìm thấy dấu vết về cuộc
qua Pháp này của ông. Một vài giai đoạn trong đời ông vẫn còn mù mờ".
(Tô fut en effet l'un des tout premiers Vietnamiens à se rendre
à Paris au milieu du 19e siècle. Sa biographie n'a pourtant fait
l'objet d'aucune recherche connue dans les archives francaises,
où l'on devrait trouver trace de son passage. Certains épisodes
mineurs de sa vie restent encore obscures).
Mặt khác, Tiến sĩ sử học Vũ Ngự Chiêu, người đã từng sang Pháp
sưu tầm nhiều tài liệu lịch sử từ những thư viện và văn khố Pháp
cũng viết như sau trong cuốn “Các Vua cuối Nhà Nguyễn, Tập
I”.:
...Cuộc đời Nguyễn Trường Tộ phần lớn gồm những mẩu truyện kể khó kiểm
chứng... Điều có thể kiểm chứng là Nguyễn Trường Tộ từng theo hầu Giám mục
Gauthier (Ngô Gia Hậu), người cai quản giáo phận Xã Đoài (Nghệ An). Chi tiết
thứ hai là Nguyễn Trường Tộ đã theo Gauthier lưu lạc qua Hong Kong, rồi trở
lại Sài-gòn năm 1861 trên hạm đội của Charner.
Và về những di thảo của Nguyễn Trường Tộ thì LM Trương Bá Cần,
tác giả cuốn khảo cứu công phu: Nguyễn Trường Tộ: Con Người
Và Di Thảo, đã khẳng định như sau, trang 14-15, về các bản
Di Thảo mà ông sưu tầm được:
"Dĩ nhiên đây chỉ là những bản sao chép lại. Bản gốc, gồm các văn
bản chính thức được gửi cho Triều đình Huế và những bản thảo, bản sao được
giữ trong gia đình Nguyễn Trường Tộ, theo ông Đào Duy Anh, thì đã bị chính
ông làm thất lạc, không biết là có ai đó còn giữ được hay đã trở thành bùn
đất."
và ở trang 104-105:
Những tài liệu quý này, hoặc đã bị hư mất hoặc đã được cất giữ một nơi
nào đó mà chúng ta chưa biết. Nhưng khả năng trở thành hư vô là rất lớn. Có
một điều chắc chắn là tại kho Lưu Trữ Khu vực II, ở thành phố Hồ Chí
Minh, trong CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN, không thấy có một văn bản nào của Nguyễn
Trường Tộ.
Những văn bản của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta có hiện nay đều là những
bản đã được sao chép lại.
Như vậy, trong tinh thần phân tích khoa học trong lãnh vực học
thuật, vài câu hỏi cần được đặt ra: những bản sao chép lại có
đúng với những bản gốc với thủ bút của Nguyễn Trường Tộ hay không?
Có gì bảo đảm đó chính thật là của Nguyễn Trường Tộ? Ai là những
người đã sao chép lại, khả năng của họ ra sao, thuộc tôn giáo
nào, và trong khi sao chép có thêm bớt gì không? v..v.. Nếu trong
những bản điều trần có những đoạn không phải của Nguyễn Trường
Tộ mà chỉ là thêm thắt vào hay thay đổi về sau, hay có những điều
sai lầm về lịch sử, về khoa học, và những điều có hại cho đất
nước v…v…, những điều mà chúng ta có thể chứng minh không khó
khăn, mà chúng ta lại dựa vào đó để ca tụng Nguyễn Trường Tộ thì
sự ca tụng đó có đúng hay không? Những nhận định về Nguyễn Trường
Tộ, phần lớn của những người Ca-tô mà chúng ta đã biết là có chiều
hướng chung là “đề cao bất cứ nhân vật Ca-tô Việt Nam có tiếng
nào”, kể cả những Việt Gian nổi tiếng như Giám mục Nguyễn Bá Tòng,
Linh mục Trần Lục, Pétrus Ký v…v…, tất cả chỉ là từ trong nước
và chọn lọc từ những bản văn xuất xứ không rõ ràng. Những nghi
vấn này cần được giải đáp qua những công cuộc nghiên cứu lịch
sử nghiêm chỉnh, và luôn luôn vẫn là những nghi vấn cho đến khi
chúng ta kiếm được những bản di thảo gốc của Nguyễn Trường Tộ
viết bằng chữ Hán và chắc chắn là thủ bút của Nguyễn Trường Tộ..
Vậy mà, trước những thông tin không rõ ràng và không biết đúng
hay sai về Nguyễn Trường Tộ, một số trí thức “nổ” Ca Tô như Võ
Đức Hạnh, Thiện Cẩm, Trương Bá Cần, Phan Phát Huồn v..v.., và
một số tác giả khác như Hoàng Thanh Đạm, Giáp Văn Dương v…v…,
đã lên tiếng ca tụng Nguyễn Trường Tộ là “một bậc vô thượng
thiên tài về đủ các lãnh vực: thi sĩ, lý thuyết gia chính trị,
lý thuyết gia kinh tế, nhà cải cách xã hội và giáo dục, kỹ sư
cầu cống, kiến trúc sư, giáo sư khoa học, tư tưởng gia tiền tiến,
nhà ngoại giao, nhà ái quốc bậc nhất, và ... thiên tài quân sự
v...v...” Mục đích ca tụng Nguyễn Trường Tộ như trên có lẽ
không phải thực sự để tôn vinh Nguyễn Trường Tộ. Những lời khoa
trương về Nguyễn Trường Tộ như trên thực chất là muốn dùng Nguyễn
Trường Tộ để nói lên điều là người Ca-tô Việt Nam cũng yêu nước,
cũng đóng góp trí tuệ cho đất nước, và làm nhẹ bớt sự kiện là
Ca-tô Giáo ở Việt Nam đã là một đoàn thể làm tay sai cho Pháp
và có công lớn với Pháp trong sự thiết lập được nền đô hộ ở Việt
Nam. Những sự kiện lịch sử này nay đã rất rõ ràng. Nhưng tại sao
kiến thức của Nguyễn Trường Tộ lại có thể bao la rộng rãi như
vậy? Giáp Văn Dương giải thích: vì Nguyễn Trường Tộ đã “tiếp
thu nền văn minh phương Tây” [sic], và, theo như lời tự nhận
của Nguyễn Trường Tộ: "Tế cấp luận [của tôi: Nguyễn
Trường Tộ] thâu tóm trí khôn của thiên hạ 500 năm nay [sic],
và... Bài Tế cấp luận của tôi [Nguyễn Trường Tộ] nếu
đem ra thực hành hàng trăm năm cũng chưa hết" [sic].
Linh Mục Thiện Cẩm cũng ca tụng Nguyễn Trường Tộ là một nhà “bác
học, hiểu theo nghĩa là một người tinh thông uyên bác
về mọi vấn đề...”. Đây chỉ là những khẳng định vô trách nhiệm
(affirmation gratuite) hoàn toàn sai với sự thực.
Thật vậy, trước hết chúng ta hãy đọc tiểu sử Nguyễn Trường Tộ:
Ông sinh năm 1830. Từ 10 đến 16 tuổi ông học với cha ở nhà, cha
ông là một đông y sĩ; từ 16 đến 22 tuổi ông theo cụ Lê Thước và
học với thầy Tú Giai; từ 22 đến 25 tuổi ông theo học với thầy
Cử Hữu; từ 25 đến 28 tuổi ông có học với quan huyện Địa Linh;
năm 28 tuổi (1858) ông được mời dạy chữ Hán ở nhà Chung Xã Đoài
[LM Trương Bá Cần ghi: “đây chỉ là ước đoán, không có cơ sở”,
điều này có thể đúng vì các Giám mục Ca-tô chủ trương phổ biến
chữ Quốc Ngữ để thay thế chữ Hán, một sách lược nhằm mục đích
loại trừ giới sĩ phu, Văn thân, vì trong giới này không ai chịu
theo đạo, theo như nhận định của Toàn Quyền De Lanessan], và cũng
trong thời gian này ông được Giám Mục Gauthier (Ngô Gia Hậu) để
mắt tới và dạy ông tiếng Pháp và giúp ông một số hiểu biết về
các khoa học thường thức ở Tây Phương, vì cũng theo Trương Bá
Cần, ngay kiến thức của các giám mục cũng chỉ là thông thường,
cho nên, căn bản học thức của ông từ nhỏ cho tới 28 tuổi không
ngoài cái học từ chương mà Nguyễn Trường Tộ lên án là "Tống
nho hủ lậu". Đầu tháng 9, 1858, Rigault de Genouilly
chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ba Nha tấn công chiếm Đà Nẵng. Theo
Trương Bá Cần trong cuốn “Nguyễn trường Tộ: Con Người Và Di
Thảo”, trg. 22, thì Nguyễn Trường Tộ theo giám mục Gauthier
và linh mục Croc đến đón đội quân của Rigault de Genouilly ở Đà
Nẵng khi Genouilly tấn công Đà Nẵng. Tài liệu do Trương Bá Cần
đưa ra về tình hình Đà Nẵng khi đó như sau:
Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà Nẵng, đứng đầu là giám mục
Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng
dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến
đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài Gòn. Do đó, trước khi đem quân vào Sài
Gòn, Đô đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc
trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hong Kong. Giám mục Gauthier cùng với
Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi sang Hong Kong trong những
điều kiện như thế vào đầu năm 1859.
Cũng theo Trương Bá Cần thì trong thời gian ở Hồng Kông khoảng
2 năm, 1859-1861, có thể Nguyễn Trường Tộ đã được tháp tùng Giám
Mục Gauthier đi Singapore và Mã Lai, nơi có những Hội Truyền Giáo
Ca-tô. Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Saigon trên hạm đội
của Charner để mở rộng vùng chiếm đóng. Năm 1867, Nguyễn Trường
Tộ được cùng với Giám Mục đi Pháp để mua sách vở và dụng cụ cho
phòng thực nghiệm của một trường Kỹ Thuật, dự định được mở ở Huế.
Trên đường đi Pháp, ông và Giám mục Gauthier có ghé Rome, được
Giáo hoàng tiếp kiến và được hân hạnh hôn gối Giáo hoàng. Theo
Trương Bá Cần thì Nguyễn Trường Tộ có mặt ở Pháp vào cuối tháng
3/1867 cho đến ngày 25 tháng 11, 1867 thì lên tàu cùng Giám mục
Gauthier trở về Việt Nam. Tính ra thì thời gian Nguyễn Trường
Tộ ở ngoại quốc là khoảng 2 năm ở Hồng Kông và khoảng
8 tháng ở Pháp.
Tuy vậy, theo giới ca tụng Nguyễn Trường Tộ thì thời gian hai
năm ở Hồng Kông và 8 tháng ở Pháp đã biến ông thành một bậc vô
thượng thiên tài về mọi lãnh vực, đã “tiếp thu nền văn minh
phương Tây” [sic] và đã “thâu tóm trí khôn của thiên
hạ 500 năm nay” [sic], tuy trong thời gian này ông chỉ
đi theo hầu Giám mục Gauthier chứ không nhập học bất cứ một trường
Trung Học hay Đại Học nào ở Hồng Kông hay ở Pháp.. Nguyễn
Trường Tộ được ca tụng là có lòng yêu nước cao độ, có một kiến
thức sâu rộng về nhiều ngành học có thể nói là khó khăn như thiên
văn, kỹ sư cầu cống, một kiến thức mà người học cần có một vốn
liếng về toán học, vật lý học v..v… cao cấp, tích lũy trong nhiều
năm và cần một thời gian khá dài, ít ra là 4, 5 năm học chuyên
ngành trong đại học để có thể có được một trình độ hiểu biết căn
bản tương đối nhưng không phải là rốt ráo về cơ học các thiên
thể, vật lý học, kỹ thuật v...v... Bất cứ người nào đã học ở Đại
Học về những môn khoa học này đều biết như vậy. Và, với vốn liếng
trong đầu chứa “nền văn minh phương Tây” và “trí
khôn của thiên hạ trong 500 năm”, và nắm vững “cái cao
của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự,
cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách
trí, thuật số v…v…”, theo lời tự nhận của Nguyễn Trường Tộ,
bậc thiên tài Ca-tô này, do Thần Khí Đức Ki-tô tạo thành (theo
lời của LM Thiện Cẩm), Nguyễn Trường Tộ trở về nước năm 38 tuổi
(1868), để...cứu nước bằng cách đi làm...từ dịch cho Tây,
phụ trách dịch những văn bản bằng chữ Hán cho Tây. Nhưng
nước không cứu được, vì vua quan thời đó thuộc loại Tống Nho ngu
muội, đầu óc tối tăm mù mịt, không chịu nghe theo những đề nghị
cải cách, canh tân của ông, thí dụ như: không chịu noi gương canh
tân của Nhật Bản, không chịu hòa (một nghĩa khác của đầu
hàng theo tình hình thời bấy giờ) với Pháp, cưỡng lại mệnh
(Chúa) Trời vì (Chúa) Trời đã an bài để Tây (Kim) diệt Đông (Mộc),
không chịu nhờ Giáo Hoàng can thiệp cứu nước Việt Nam, không chịu
để cho Pháp canh giữ hộ quốc gia, không chịu dùng những "kiến
thức chuyên môn" của giới Giáo sĩ trong việc giáo dục và
canh tân đất nước, và nhất là cứ giết hại giáo sĩ, không để cho
họ tự do "mở rộng đạo, chống gian tà" (có nghĩa
là mạ lỵ những truyền thống và tôn giáo phi Ca-tô của dân tộc
Việt Nam đều thuộc loại gian tà, vì Ca Tô Giáo chống lại tất cả
những truyền thống và tôn giáo này) để mở mang đầu óc và
cứu vớt linh hồn nhân dân Việt Nam.
Đó là huyền thoại Nguyễn Trường Tộ đã được truyền tụng trong dân
gian, từ thời Pháp thuộc, qua thời Ngô Đình Diệm ở miền Nam, và
kéo dài cho tới ngày nay qua những "tác phẩm nghiên cứu" trích
dẫn chọn lọc từ những bản điều trần không rõ xuất xứ, thiếu hẳn
một sự phân tích khoa học có tính cách tổng hợp, và có vẻ như
không hề biết đến những tài liệu lịch sử hiện hữu. Và từ cái huyền
thoại này, nhiều tác giả đã đặt nó như một tiền đề và tìm cách
chứng minh đó là thật qua những đoạn trích dẫn vụn vặt trong những
bản điều trần hay di thảo mà không ai biết rõ có phải thật sự
là của Nguyễn Trường Tộ hay không, và diễn giải theo chiều hướng
tôn vinh một thiên tài Ca-tô của đất nước.
Chúng ta tạm tin rằng những bản điều trần mà các tác giả trên
đưa ra, nhất là của LM Trương Bá Cần, đồng đạo với Nguyễn Trường
Tộ, đúng là của Nguyễn Trường Tộ. Nhưng tin như vậy thì lại vấp
phải vài vấn đề không sao giải quyết được. Trước hết là một đoạn
văn trong bản Di Thảo số 1, Bàn Về Những Tình Thế Lớn Trong
Thiên Hạ (Thiên Hạ Đại Thế Luận), mà Nguyễn Trường Tộ
viết vào năm 1863, lập lại ý kiến trong bài Hòa Từ viết
năm 1861, câu ở trang 87 và 108 trong cuốn của Trương Bá Cần:
Nếu họ dùng hỏa thuyền chia nhau đánh cắt các tỉnh dọc bờ
biển [sic], lại cho các tàu đậu ngoài cửa sông lớn để triệt sự vận
tải đường biển của ta, lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chặn đường
tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương [sic], rồi
lại đổ bộ tiến đánh các chỗ xung yếu, gấp rút truyền hịch [sic] khắp
Nam Bắc, chiêu mộ bọn giặc cướp ẩn náu [phần chắc chỉ là tín đồ Ca-tô
như lịch sử đã ghi] dùng làm bọn dẫn đường, thì thủy binh của ta [sic] sẽ
trở thành vô dụng.
Trên đây là một trong nhiều tư tưởng tương tự, thí dụ như, “Khi
họ (lính Pháp) đến gần thì dùng lưỡi lê xung phong một
người đương được cả 100 người (của ta) , xông
lên như nước sông chảy xiết, phản ánh “thiên tài quân
sự” của Nguyễn trường Tộ mà người ta thường ca tụng.
Theo lời ca tụng có vẻ cải lương và đượm nhiều tính chất khôi
hài của LM Thiện Cẩm trong bài "Trông Người Lại Nghĩ
Đến Ta" (Nguyễn Trường Tộ: Kỷ Yếu..), thì:
"Nguyễn Trường Tộ, một thiên tài của đất nước, xứng danh hiệu là một
nhà "bác học", hiểu theo nghĩa là một người tinh thông uyên bác về
mọi vấn đề...
Khí trời là biểu tượng của Thần Khí, của Tinh Thần. Thần Khí ấy là Thần
Khí Đức Ki Tô. Chính Thần Khí hay Tinh Thần ấy làm cho Nguyễn Trường Tộ trở
thành một người Công giáo yêu nước, yêu dân tộc.”
Văn tài của Nguyễn trường Tộ như trên, do tác dụng của "Thần
Khí Đức Ki-Tô", nên mới có thể viết lên một câu hoàn
toàn vô nghĩa, ý không ra ý, từ không ra từ. Nhưng tôi không nghĩ
rằng sự "tinh thông uyên bác về mọi vấn đề" của
ông Nguyễn Trường Tộ và tác dụng của "Thần Khí Đức Ki-Tô" có
thể làm cho ông Tộ tiên đoán là 22 năm sau, nghĩa
là tới 1885, 14 năm sau khi ông Tộ đã chết vào năm 1871, sẽ
có phong trào Cần Vương, để viết một câu về đội quân
Cần Vương vào năm 1861 và nhắc lại năm 1863. Hơn nữa, với
những tài liệu hiện hữu và với sự phân tích những bản điều trần
trong bối cảnh lịch sử Việt Nam, ngày nay, qua sự phân tích tổng
hợp của Bùi Kha và của Trần Chung Ngọc trên Giao Điểm và trong
hai cuốn sách kể trên, chúng tôi cho rằng vấn đề đã được giải
quyết dứt khoát với nhận định: Nguyễn Trường Tộ không phải
là người yêu nước, và kiến thức của Nguyễn Trường Tộ cũng chẳng
có gì có thể gọi là đặc biệt, cao xa, đi trước thời gian v..v.. như
người ta thường ca tụng. Nên để ý là những nhận định
này, cho tới nay, chưa có ai phản bác về bất cứ luận cứ và kết
luận nào của chúng tôi. Vì sao? Vì chúng tôi hoàn toàn dựa
trên các tài liệu khả tín, những chứng cớ mà khó có ai có thể
phản bác. Mặt khác, nhìn theo những việc làm của Nguyễn Trường
Tộ thì theo "lý luận" của linh mục Thiện Cẩm, Thần Khí
Đức Ki Tô đã làm cho Nguyễn Trường Tộ, thay vì là một người yêu
nước, yêu dân tộc, thực chất lại là một tay sai đắc lực cho giặc
ngoại xâm Pháp, giống như Thần Khí Đức Ki Tô đã làm cho những
Trần Bá Lộc, Trần Lục, Pétrus Ký v.v... và vô số giáo dân đã trở
thành những người tiếp tay với giặc ngoại xâm, phản bội quốc gia.
Lịch sử đã ghi rõ như vậy. Điều này chắc Linh Mục Thiện Cẩm chưa
bao giờ nghĩ tới.
Mặt khác, sự “tinh thông uyên bác về mọi vấn đề “ (sic)
và tinh thần “yêu nước, yêu dân tộc” của Nguyễn trường
Tộ có thể thấy rõ như sau khi ông hù dọa triều Nguyễn trong bản Thiên
Hạ Đại Thế Luận:
"Ngày nay các nước phương Tây, đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến
Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên trúc, Miến Điện,
Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống,.Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc…
Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi
qua, mặt trời mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt
chân tới, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với
họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại dùng binh lực giao tranh;
trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ. Như thế, nếu đó không phải là
ý trời định, địa thế xoay vần, thì sao không lấy số đông của bốn đại châu mà
kháng cự lại người Tây Phương? Huống hồ nước Việt ta là một nước bé nhỏ, tại
sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được...
Nhận định về tình hình thế giới của ông Nguyễn trường Tộ hoàn
toàn sai lầm một cách cố ý và rõ ràng là có dụng ý lừa dối vua
quan triều Nguyễn và làm nhụt chí khí chống xâm lăng của nhân
dân Việt Nam, chấp nhận một hòa ước giai đoạn để đi đến sự thống
trị của Tây Phương. Vì, thực tế là, Xiêm La (Thái Lan), Cao Ly
(Đại Hàn), Nhật Bản và Trung Quốc không hề bị các nước Tây phương
bao chiếm. Sau đây là một tài liệu chứng minh sự kiện trên, "Missionaries",
BBC Books, 1990, p. 175:
“Ở Á Châu, các thừa sai không bao giờ được hưởng sự tự do như là họ đã
hưởng ở Phi châu. Phần lớn lục địa - Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, Đại Hàn
- chưa bao giờ rơi vào vòng đô hộ của các đế quốc Tây phương, trừ nước Phi
Luật Tân..."
(In Asia, the missionaries never enjoyed the same freedom as they
did in Africa. Large parts of the continent - Japan, China, Thailand,
Korea - never fell within the European empires and, with the exception
of the Philippines....)
Nguyễn Trường Tộ đã để lộ sự tiền hậu bất nhất của mình ra qua
bài Di Thảo số 55: "Nên Mở Cửa Chứ Không Nên Khép Kín" mà
tác giả Trương Bá Cần cho là ông Tộ viết vào năm 1871, và tác
giả Hoàng Thanh Đạm gọi là "Bản Điều Trần Dở Dang".
Trong bài này, ông Tộ bàn về sự mở rộng thông thương của
Trung Hoa, Nhật Bản, và Xiêm La (Thái Lan) và coi đó như là một
yếu tố quyết định để giữ nước. Qua sự trình bày của ông, rõ ràng
là ông thừa biết những nước trên vẫn giữ được nền độc lập của
họ. Nhưng trong bản "Thiên Hạ Đại Thế Luận" ông
Tộ lại hù dọa vua quan triều Nguyễn là "Ngày nay các
nước phương Tây, đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc,
toàn lãnh thổ... Xiêm La, Nhật Bản, Trung Quốc... và
khuyên triều đình nên hòa với Pháp, có nghĩa là đầu hàng để cho
Pháp cai trị, theo tình hình thời bấy giờ. Sự mâu thuẫn hiển nhiên
này và nhiều mâu thuẫn khác trong những bản điều trần đã có thể
cho chúng ta thấy rõ con người thật của Nguyễn Trường Tộ, như
chúng tôi, Bùi Kha và Trần Chung Ngọc, đã phân tích chi tiết trong
những công cuộc nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ đã được phổ biến
trong những sách đã xuất bản và trên trang nhà Giao Điểm.
Với đầu óc thiên về suy lý khoa học của tôi, thì trước những thông
tin rất khó tin như đoạn trên viết về phong trào Cần Vương từ
năm 1863 mà người ta cho là của Nguyễn Trường Tộ, và những điều
sai lầm cố ý về tình hình thế giới, thì tôi làm sao có thể tin
được những lời ca tụng Nguyễn Trường Tộ là một thiên tài trong
mọi lãnh vực? Nhưng đối với một số người thì đây là vấn đề đức
tin, không dính dáng gì đến lô-gíc hay hiểu biết. Nếu ngày nay
mà vẫn còn nhiều người vinh danh Ngô Đình Diệm thuộc gia đình
Tam Đại Việt Gian, bao năm lê gót trong các nhà Dòng nơi quê người
để cứu nước, là chí sĩ Ca-tô yêu nước, thì ca tụng Nguyễn Trường
Tộ là một thiên tài Ca-tô, là người yêu nước, yêu dân tộc thì
cũng đâu có gì là lạ !
Trong thế giới văn minh tự do ngày nay, lẽ dĩ nhiên, ai muốn tin
những điều ca tụng hay tự nhận của Nguyễn Trường Tộ như trên thì
cứ việc tin, nhưng đối với tôi và với những người có đôi chút
hiểu biết thì những lời ca tụng và tự nhận đó là những điều
hoang đường chưa từng thấy trên hành tinh. Tại sao? Vì
tôi xuất thân là một nhà khoa học, và trong lãnh vực học thuật
với tinh thần khoa học thì những yếu tố như lô-gíc, phân tích
và tổng hợp tài liệu không thể thiếu. Và dùng phương pháp luận
khoa học tôi đã có thể chứng minh những lời ca tụng hay tự nhận
của Nguyễn Trường Tộ như trên chỉ là những lời huênh hoang vô
lối, trái hẳn với sự thật. Quý đọc giả có thể đọc bài: “Nguyễn
trường Tộ: Từ Huyền Thoại Đến Thực Chất” của Trần Chung Ngọc
trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ: Con Người Và Di Thảo”,
viết chung với Nguyễn Kha, alias Bùi Kha, Giao Điểm xuất bản,
1998, hoặc bài “Xét Lại Huyền Thoại Nguyễn Trường Tộ”
trên https://giaodiemonline.com/2008/12/ngtruongto2.htm
II. Sự Thật Về Con Người Và Kiến Thức Của Nguyễn
Trường Tộ: ▲
Vậy thực chất con người, và những hiểu biết, tư tưởng, đề nghị
canh tân của Nguyễn Trường Tộ ra sao? Muốn giải đáp câu hỏi này
chúng ta cần có một cuộc nghiên cứu sâu rộng trên mọi khía cạnh,
một cuộc nghiên cứu toàn bộ các vấn đề dựa trên các tư liệu và
trên sự phân tích khoa học. Trong lãnh vực nghiên cứu sâu rộng
về Nguyễn Trường Tộ thì phải kể đến những công cuộc nghiên cứu
của Bùi Kha. Tôi có thể nói, từ trước tới nay, chưa có một ai
đã nghiên cứu sâu rộng về Nguyễn Trường Tộ bằng Bùi Kha để đưa
ra những sự thực lịch sử bất khả phủ bác, dựa trên rất nhiều tài
liệu chính xác, và những phân tích về con người thực và tư tưởng
của Nguyễn Trường Tộ, dựa trên chính những điều viết trong những
bản điều trần. Bùi Kha đã trình bày rất nhiều sự thật về Nguyễn
Trường Tộ cũng như đã phản biện những quan điểm về Nguyễn Trường
Tộ của một số tác giả trí thức Ca-tô mà cho tới nay tôi chưa
thấy ai lên tiếng phản biện hay phản bác lại. Người ta
vẫn tiếp tục ca tụng sai lầm Nguyễn Trường Tộ và lẽ dĩ nhiên người
ta không bao giờ dám nhắc đến những nghiên cứu hàn lâm của Bùi
Kha về Nguyễn Trường Tộ.
Những nghiên cứu sâu rộng về Nguyễn Trường Tộ của Bùi Kha, Trung
Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, đã được in thành sách: “Nguyễn
Trường Tộ & Vấn Đề Canh Tân”, Nhà Xuất Bản Văn
Học, 2011, và có trên trang nhà Giao Điểm. Muốn biết thực chất
con người và kiến thức của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta không thể
không biết đến những bài sau đây của Bùi Kha trên Giao Điểm, và
tôi tin rằng tác giả sẽ rất hoan hỉ tiếp nhận những phản biện
trí thức công cuộc nghiên cứu của tác giả.
(SH - Toàn bộ các bài viết về Nguyễn Trường Tộ của tác giả Bùi Kha đã đăng trong website SH: https://sachhiem.net/BUIKHA/BK_NTT.php)
Ngoài ra, Bùi Kha còn viết chung với Trần Chung Ngọc trong hai
cuốn về Nguyễn Trường Tộ: Nguyễn Trường Tộ: Thực Chất Con
Người Và Di Thảo, Giao Điểm xuất bản, 1998, và “Nguyễn
Trường Tộ Yêu Nước?”, Giao Điểm 2002. Những tài liệu trong
các tác phẩm nghiên cứu trên về Nguyễn Trường Tộ cũng đủ để cho
chúng ta thấy rõ thực chất con người, và kiến thức, tư tưởng,
kể cả lòng yêu nước, nếu có, của Nguyễn Trường Tộ.
III. Trả Lời Câu Hỏi Của Giáp Văn Dương. ▲
Sau vài nhận định về những thông tin về Nguyễn trường Tộ và các
bản di thảo, bây giờ tôi xin sang phần câu hỏi của Giáp Văn Dương:
Vì
sao Fukuzawa Yukichi thành công, còn Nguyễn Trường Tộ thì thất
bại?
Đặt câu hỏi này, tác giả chứng tỏ là mình rất thiếu
hiểu biết về sự khác biệt về bối cảnh lịch sử của Nhật và Việt
Nam, sự khác biệt giữa kiến thức và những tư tưởng canh tân của
Fukuzawa Yukichi và của Nguyễn Trường Tộ, và sự khác biệt giữa
con người Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ.
a. Khác Biệt Về Bối Cảnh Lịch Sử: ▲
Chúng ta có thể nhận thấy một khía cạnh khác biệt căn bản giữa
Nhật Bản và Việt Nam trong thế kỷ 19 qua nhận định sâu sắc của
Hal Dareff trong cuốn The Story of Vietnam, trg. 28:
"Đóng cửa biên giới, họ (triều đình Gia Long. TCN) sẽ tránh
được sự xâm nhập của người ngoại quốc với những lối sống xa lạ của họ. Bất
hạnh thay, trong nước Việt Nam đã có những người ngoại quốc rồi - Các giáo
sĩ thừa sai."
(By sealing off their borders, they would keep out the foreigner
and his alien ways. Unfortunately, there were already foreigners
in Vietnam - The Missionaries.)
Muốn hiểu điều này, chúng ta cần phải biết ít nhiều về lịch sử
Nhật Bản và lịch sử Việt Nam. Căn bản, Việt Nam và Nhật đều không
chống đạo. Từ thế kỷ 16, cả hai nước đều để cho các giáo sĩ tự
do vào truyền đạo và người dân được tự do theo đạo. Nhưng tại
sao về sau cả Nhật lẫn Việt Nam đều có chính sách cấm đạo và bạo
hành những thừa sai ngoại quốc và người dân theo đạo.? Lý do là
Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô giáo nói riêng, không phải là những
tôn giáo theo đúng nghĩa của tôn giáo, nghĩa là với mục đích cải
thiện và thăng tiến hiểu biết, tâm linh của tín đồ. Bản chất truyền
đạo của Ki Tô Giáo là mê hoặc những người đầu óc yếu kém
và ít hiểu biết bằng những chuyện hoang đường về một
nhân vật Do Thái và một đời sống ở trên một thiên đường giả tưởng
sau khi chết. Hơn nữa, sách lược truyền đạo của Ki Tô Giáo luôn
luôn tìm cách phá hủy nền văn hóa và những tín ngưỡng địa phương
nào không phải là tín ngưỡng Ki-tô giáo.
Ở đây, tôi xin trích dẫn tóm tắt nhận định tổng quát về thực chất
truyền giáo của Ca Tô Giáo Rô Ma tại Á Châu của Bá Tước người
Anh, Avro Manhattan, trong cuốn "Chủ Nghĩa Đế Quốc của
Ca Tô Giáo Và Sự Tự Do Của Thế Giới" ("Catholic
Imperialism and World Freedom", Watts & Co., London,
1952. pp. 341 – 365). Tất cả những gì tác giả viết sau đây chúng
ta đều thấy rõ ở Việt Nam:
“Những công vụ truyền giáo của Ki Tô Giáo không bao giờ chỉ là thuần túy
truyền giáo. Những công vụ truyền giáo này luôn luôn hoặc theo sau, hoặc đồng
hành, hoặc làm đạo quân tiền phong cho những kho hàng Tây phương, ngoại giao
Tây phương, và những binh đội Tây phương. Bất kể sự diễn tiến như thế nào,
kết quả đều giống nhau: những dân tộc Á châu mất đi hoặc một phần, hoặc toàn
phần sự tự do của họ, bất cứ khi nào và ở nơi nào mà cây Thập giá cùng cái
mũ Tây phương xuất hiện. Sự chấp nhận, do tự nguyện hay do cưỡng bức, hai thứ
trên được tuyên dương là chiến thắng của nền văn minh Ki Tô, và văn minh Ki
Tô có nghĩa là bất cứ cái gì có tính cách thống trị - hay nói khác đi, bất
cứ cái gì của Tây phương - sự thành công thường thường tùy thuộc ở sự hiện
diện của những hạm đội ở ngoài khơi.
Những dân tộc chậm tiến nhưng có nền văn minh cao mất đi nền độc lập của
họ, văn hóa của họ bị chế nhạo, màu da của họ bị coi như là dấu vết của nhục
nhã, quá khứ, hiện tại và ngay cả những khả năng thành đạt trong tương lai
của họ bị khinh miệt và coi thường... Trong lúc đó thì tôn giáo Tây phương
thuyết giáo về "tứ hải giai huynh đệ", nền dân chủ Tây phương, nhân
quyền của mọi người, và lý tưởng Tây phương về sự bình đẳng của mọi sắc dân.
Thực ra, từ khi được cấy vào từ Judea, Ki Tô giáo đã trở thành tôn giáo
của Tây phương, và từ đó trở nên tôn giáo lớn nhất trên thế giới, không do
sức mạnh của những nguyên lý tinh thần mà do sự thống trị vật chất của
người da trắng... Ki Tô giáo hiện còn bị hầu hết Á Châu bác bỏ vì tôn giáo
này được coi như biểu thị sự tham tàn của thế giới Tây phương, của chủ nghĩa
đế quốc Tây phương và của sự "ưu việt của người da trắng".
Tuy nhiên,cho rằng Á Châu đã loại bỏ Ki Tô Giáo chỉ vì nó là một phó sản
của Tây phương là sai lầm. Khoa học và Kỹ nghệ cũng là những phó sản của Tây
phương, nhưng chúng được đón nhận. Chủ nghĩa Marx là một phó sản của tư tưởng
Tây phương, tuy nhiên chỉ trong vài thập niên đã đủ để nó gây mầm mống khắp
lục địa trong đó gần hai ngàn năm nỗ lực của Ki Tô Giáo chỉ đưa tới một kết
quả ảm đạm.
Chủ nghĩa Cộng Sản, như là nguồn cảm hứng cách mạng của thế giới, có ích
hay có hại là tùy theo quan niệm mỗi người. Nhưng sự lan tràn kỳ lạ của nó
là một sự kiện. Nó đã góp phần cho một sự thức tỉnh nhanh chóng hơn của Á Châu,
cho sự nổi giậy mau hơn của tinh thần quốc gia của Á Châu, và cho sự chống
lại Ki Tô Giáo của Á Châu quyết liệt hơn. (Chẳng trách là, cho tới bây
giờ, Ca Tô Giáo Rô Ma vẫn coi CS là kẻ thù nguy hiểm nhất, cần phải tiêu diệt
bằng mọi thủ đoạn lũng đoạn chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa v..v..., TCN)
Có thể nào một sự rao truyền Ki Tô Giáo thuần khiết hay nguyên lý căn bản
về "tứ hải giai huynh đệ" đã gây nên cái phản ứng sâu rộng ở Á Châu
như vậy? Nếu không thì cái nguyên nhân căn bản nào đã, và đang gây nên phản
ứng như vậy? Câu trả lời là: chính trị Ki Tô Giáo. Chính trị Ki Tô Giáo đã
đầu độc những sự giao thiệp Âu Á. Ngay từ khi khởi đầu của Ki Tô Giáo ở Viễn
Đông, Ki Tô Giáo, xuất hiện dưới bộ áo tôn giáo, đã luôn luôn vươn lên như
một lực lượng chính trị phục vụ cho những cá nhân và quốc gia Tây phương. Tin
Lành Giáo cũng phạm tội như là Ca-tô Giáo. Giống như Ca Tô Giáo, các thừa sai
Tin Lành luôn luôn làm tiền phong hoặc theo gót các con buôn, tàu chiến, và
những đoàn quân xâm lăng. Tuy nhiên, chính trị Tin Lành Giáo, dù phạm tội,
không thể nào đồng hạng với Ca Tô Giáo. Sự tác hại gây nên bởi chính trị Ca
Tô Giáo (Công Giáo) ở Á Châu thì to lớn một cách không thể
nào so sánh được, hơn tất cả những sự tác hại gây nên bởi mọi giáo hội Ki Tô
khác góp chung lại với nhau.
Không giống như Tin Lành, những hoạt động của các thừa sai Ca Tô được phối
hợp hoàn toàn và với những mục tiêu tôn giáo - chính trị chuyên biệt. Với chủ
ý dùng quyền lực chính trị để khuất phục những dân tộc Á Châu trong lãnh vực
tôn giáo, Ca Tô Giáo đã đầu độc những mối liên hệ giao thiệp Âu Á ngay từ lúc
bắt đầu, và sự đầu độc này đã góp phần hơn gì hết cho sự nghi ngờ bẩm sinh
của dân tộc Á Châu đối với Tây phương âm dội trong mọi lãnh vực cho tới ngày
nay.
Những yêu sách chính trị của Giáo hội Ca Tô trên những quốc gia phi-KiTô
bao giờ cũng liên kết với những yêu sách tôn giáo. Bởi vì, bất cứ khi nào Giáo
hội gửi các thừa sai đi đến các nơi này, mục đích của Giáo hội là biến những
người tân tòng thành những tín đồ của Giáo hội và là thuộc hạ của Giáo hoàng.
Hai điều này không thể tách rời nhau được. Cũng như ở Tây phương, ở phương
Đông, bất cứ nơi nào mà có Giáo hội Ca Tô là ở đó có Vatican; nghĩa là, quyền
lợi ngoại giao và chính trị của Ca Tô Giáo.
Cho nên, những thừa sai Ca Tô được tự động biến đổi thành những "tác
viên chính trị" tạo thành nền tảng quyền lực chính trị của Ca Tô Giáo
bất cứ nơi nào họ dựng lên những cộng đồng Ca Tô.
Những hoạt động tôn giáo - chính trị của Ca Tô Giáo như vậy thường tạo
nên những ảnh hưởng sâu rộng, với bản chất ghê tởm nhất, trên lịch sử nhân
loại. Những hoạt động này đã trở nên nguyên nhân trực tiếp của những thảm họa
chính trị và quân sự trong những sự giao dịch giữa Tây phương và Á Châu, những
thảm họa mà người ta thường tin là do những sai lầm, tham lam, và thiển cận
của những quốc gia đế quốc, và không bao giờ do sự lì lợm tôn giáo của Giáo
hội Ca Tô, đường lối ngoại giao lá mặt lá trái của Vatican, hoặc khát vọng
thống trị cả hai lục địa của Vatican mà thường khi làm nhơ nhuốc lịch sử hiện
tại và góp phần làm cho sự phương hại đến những giao dịch hòa bình của các
dân tộc trên thế giới kéo dài bất tuyệt.”(1)
Trên đây chính là thực chất của Ca Tô Giáo Rô Ma, thực chất của
các Giáo sĩ, thực chất những hoạt động truyền đạo của các Giáo
sĩ Ca Tô tại Á Châu, và thực chất các tín đồ Ca-tô, nhất là các
tín đồ Việt Nam. Những vụ Ca-tô giáo làm loạn ở Việt Nam gần đây,
như ở Tòa Khâm Sứ bất chấp luật pháp quốc gia rồi líu ríu rút
lui theo lệnh của ông Hồng Y vô đạo đức Bertone ở Vatican, ở Thái
Hà, Cồn Dầu và tác phong của những linh mục như Nguyễn Văn Lý,
Ngô Quang Kiệt v…v… đã chứng tỏ hơn gì hết nhận định của Bá Tước
Avro Manhattan không hề sai. Tôi chắc sẽ có người cho rằng những
tài liệu trên lạc đề, không liên quan gì đến nhân vật Nguyễn Trường
Tộ. Không hẳn vậy, chúng được đưa ra để chứng minh một điều: Bản
chất của Ca Tô Giáo Rô Ma là thống trị, là chinh phục, là mở mang
nước Chúa chứ không phải mở mang các nước trên thế gian, không
phải để giải phóng con người mà trái lại, dùng mọi thủ đoạn để
nô lệ hóa con người vào một niềm tin không suy luận về một viễn
tượng huyễn hoặc về một đời sau, chứ không phải dạy con người
yêu nước, yêu dân tộc. Hãy nhìn vào tình trạng kinh tế, xã hội
tại các nước ở Phi Châu, Nam Mỹ, Mễ Tây Cơ, nơi đây có hơn 70%
số tín đồ Ca Tô trên hoàn cầu sống, và tinh thần nô lệ Vatican
của các tín đồ địa phương thì chúng ta có thể thấy đâu là sự thực.
Trở về vấn đề tại sao Nhật Bản canh tân được. Mới đầu, các thừa
sai Ca Tô được sự ủng hộ nồng nhiệt của Nobugata, một lãnh chúa
Nhật Bản (1573-1582). Nobugata, ngoài việc cho phép các giáo sĩ
tự do truyền đạo còn cấp đất cho họ ở Kyoto, cùng hứa hẹn cấp
cho họ một khoản tiền mỗi năm. Do đó, Ca Tô giáo lan tràn khắp
nước, hàng ngàn người theo đạo và các trung tâm Ca Tô mọc lên
ở nhiều nơi trong nước Nhật. Điều này cũng giống như ở Việt Nam
trong thời các thừa sai Ca-tô đến Việt Nam truyền đạo lúc đầu.
Nếu các giáo sĩ Ca Tô chỉ giới hạn trong việc truyền bá tình thương
của đạo Chúa, nếu đạo Chúa thực sự có một tình thương theo đúng
nghĩa của tình thương, thì chắc chắn Nhật Bản và các nước khác
ở Á Châu sẽ để cho họ tự do, nhất là Việt Nam, một dân tộc đã
nổi tiếng là hiếu khách và không hề có chuyện kỳ thị tôn giáo.
Nhưng, trên thực tế, tình thương của đạo Chúa chỉ áp dụng cho
dân Chúa, và do sự cực đoan tôn giáo của Ca Tô giáo, tự nhận là
một tôn giáo thánh thiện, duy nhất, tông truyền, và cho rằng Giáo
hội Ca Tô phải có nhiệm vụ chiếm lãnh đất đai trên thế giới, tiêu
diệt những kẻ dị giáo, thống trị giáo dân trong tất cả những lãnh
vực tôn giáo, đạo đức, xã hội, chính trị v..v.., kết quả là các
cộng đồng Ca Tô ở Nhật Bản đều phải đặt dưới quyền thống trị của
Vatican, và đã gây ra những hành động kỳ thị tôn giáo không thể
chấp nhận được.. Thật vậy:
Cuối thế kỷ 15, (1493), Giáo hoàng Alexander VI, tự cho Ca Tô giáo cái
quyền thống trị hoàn cầu, đã chia thế giới ra làm hai vùng ảnh hưởng:
toàn thể Mỹ Châu, trừ Ba Tây, thuộc Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha thì được Ba
Tây và tất cả những đất đai nào chiếm được ở Á Châu và Phi Châu. Sắc lệnh phân
chia vùng ảnh hưởng này quy định rằng, song song với việc chiếm cứ đất đai
là bổn phận phải kết hợp các dân địa phương vào trong giáo hội Ca Tô. Do đó,
đi cùng với những đoàn quân xâm lăng là những linh mục. Sự có mặt của giới
linh mục đã biện minh cho những hành động áp chế dân địa phương cũng như bất
cứ thủ đoạn cưỡng ép nào được coi là cần thiết để kéo họ vào niềm tin Ca Tô.
(Missionaries, pp. 132-133: By the end of the fifteenth century,
Pope Alexander VI created two spheres of influence; he determined
that the whole of the Americas with the exception of Brazil, should
belong to Spain, while Portugal would take Brazil and whatever
could be seized in Asia and Africạ It was decreed that along with
territorial gains would go the duty to incorporate any native
peoples into the Catholic Church...With the invading armies came
priests and friars whose presence justified the subjugation of
the people and the use of whatever coercion was judged necessary
to bring them to the faith.)
Theo giáo điều Ca Tô, Giáo hội không cho phép những người dân
Nhật theo đạo phục tùng những người cầm quyền như là một người
dân trong một nước. Điều này cũng đã từng áp dụng cho giáo dân
Việt Nam. Những người gia nhập Giáo hội Ca Tô đương nhiên tự biến
họ thành những thuộc hạ của Giáo Hoàng. Một khi sự trung thành
đã chuyển sang một thế lực ngoại quốc ở ngoài đất Nhật, các giáo
dân trở thành bất trung đối với những nhà cầm quyền Nhật Bản.
Điều này rất nguy hại cho sự an ninh của Nhật, quốc nội cũng như
quốc ngoại.
Vì Ca Tô Giáo dạy rằng đạo Ca Tô là đạo duy nhất chân thật, các
tín đồ Nhật đã phát động tinh thần bất khoan nhượng tôn giáo,
và khi ở vị thế có quyền hành, tìm cách xóa bỏ các tôn giáo khác
bằng bạo lực. Điều này đã gây nên những xáo trộn trong xã hội.
Bất cứ ở nơi nào mà Ca Tô giáo chiếm đa số trên đất Nhật thì ở
nơi đó Phật Giáo và các tôn giáo khác đều bị chèn ép. Chùa chiền
bị phá hủy, đóng cửa hay chiếm đoạt để làm nhà thờ. Trong nhiều
trường hợp, Phật tử bị cưỡng bách theo đạo, từ chối có thể bị
tịch thu gia sản hay xử tử. (Những cảnh này cũng đã từng xẩy ra
ở Việt Nam, và những người sống ở miền Nam, nhất là vùng Nam,
Ngãi, dưới triều Ngô Đình Diệm chắc chắn chưa quên những cảnh
này).
Trước tình thế quốc gia như vậy, những nhà cầm quyền Nhật Bản,
Hideyoshi rồi Ieyasu, thay đổi thái độ, và bắt đầu từ năm 1614
Ieyasu đưa ra một chính sách cấm đạo để đối phó với những xáo
trộn mà các giáo sĩ và giáo dân Ca Tô giáo đã gây ra.
Nhân vụ các linh mục dòng Tên tổ chức một đạo quân khoảng 30.000
giáo dân Nhật, với cờ xí mang tên Giê-Su, Maria, Thánh Iago, nổi
loạn chống chính quyền dân sự và quân sự ở vài địa phương, chính
quyền Nhật đã san thành bình địa nơi cố thủ của các giáo dân và
hầu như tất cả các giáo dân trong đó đều bị tàn sát.
Với những biện pháp quyết liệt và tàn nhẫn đối với Ca Tô Giáo
nói riêng và Ki Tô Giáo nói chung, Nhật Bản đã giữ nước khỏi bị
cái họa Ki Tô Giáo trong suốt hơn 200 năm, trong thời gian này
trên đất Nhật không hề có bóng dáng của ngay cả một linh mục thừa
sai và con chiên bản địa, đỡ hẳn mối lo âu về một số tín đồ Ca
Tô sẵn sàng theo lệnh các thừa sai Tây phương phản quốc, cho tới
khi Đô Đốc Perry của Mỹ dùng 10 tàu chiến tấn công và uy hiếp
Nhật phải mở cửa giao thương và cho truyền đạo lại vào năm 1854.
Trước mối nhục vì bị thua kém về kỹ thuật và súng ống này, Nhật
Bản đã quyết tâm canh tân. Năm 1866 Nhật còn là một dân tộc thuộc
loại Trung Cổ. Chỉ trong vòng 33 năm, tới năm 1899, Nhật đã trở
thành một cường quốc không kém các nước Tây phương. Ngoài lòng
yêu nước cao độ và quyết tâm, yếu tố chính trong sự thành công
canh tân của Nhật là một tình trạng xã hội, chính trị ổn định,
trong nước không có các thừa sai gián điệp chuyên gây xáo trộn
trong các quốc gia để thủ lợi về mặt tôn giáo cũng như về vật
chất thế tục cũng như một đạo quân thứ 5 nằm vùng trong lòng dân
tộc. Kết quả là:
“Trong 24 năm đàn áp Ki Tô Giáo ở Nhật Bản, 62 thừa sai Tây phương đã bị
hành quyết cùng với hàng ngàn giáo dân Nhật. Phải tới hơn 200 năm sau Nhật
mới lại mở cửa cho các thừa sai trở lại, nhưng lòng của họ vẫn khép kín.”
(Missionaries: During the twenty-four years of the great Japanese
persecution, sixty-two European missionaries were put to death
together with thousands of Japanese Christians. It was to be more
than 200 years before the Japanese would again open their doors
to missionaries but even then, they did not open their hearts.)
Nhưng kết quả của công cuộc canh tân này đã đưa Nhật rơi vào giấc
mộng muốn làm một đế quốc, bá chủ Đông Nam Á, không khác gì giấc
mộng thực dân thuộc địa của các nước Tây phương, và mở trục phát
xít ở Đông Nam Á trong Đệ Nhị Thế Chiến. Giấc mộng bá vương bị
xẹp dưới hai cây nấm nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki. Nhật đầu
hàng và Đại Tướng MacArthur của Mỹ tiên đoán Nhật sẽ trở thành
một nước theo Ki Tô Giáo chỉ trong vòng một thập niên, và bộ máy
tuyên truyền của La Mã cũng tiên đoán là Ca Tô Giáo sẽ là lực
lượng tôn giáo chủ chốt ở Nhật Bản. Trong vòng 5 năm, (từ 1945-50),
Mỹ đã bỏ ra hơn 10 triệu đô la trong những hoạt động với mục đích
cải đạo dân chúng Nhật nhưng dân chúng vẫn thờ ơ. Và cho tới ngày
nay, số tín đồ Ki Tô Giáo nói chung ở
Nhật chưa tới 1% trên tổng số dân số (gần 1 triệu trên tổng
số 127 triệu). Số tín đồ Ki Tô ở Thái Lan cũng chưa tới 1%, ở
Trung Quốc, chỉ vào khoảng 4 phần ngàn (4%o) và không trực thuộc
Vatican. Các nước này ngày càng phát triển kinh tế làm cho dân
giàu hơn, nước mạnh hơn. Ai dám khẳng định rằng phải theo Ki Tô
Giáo nói chung thì đất nước mới có thể trở nên giàu mạnh, theo
như những lời tuyên truyền của những người ngu đạo?
Cùng trong thời gian Nhật Bản, một nước độc lập tự do, trong nước
không có bóng dáng của một giáo sĩ ngoại quốc hay một con chiên
bản địa nào, bắt đầu canh tân từ năm 1866, dù khi đó Thiên Hoàng
Minh Trị mới có 14 tuổi, để đi đến thành công, thì ở Việt Nam,
bất hạnh thay đã có những giáo sĩ thừa sai trong đó, những tên
thực dân dưới lốt áo chùng thâm, đã cố sức ngăn cản các cuộc hòa
đàm, và đẩy mạnh chủ trương xâm chiếm Việt Nam để biến Việt Nam
thành một quốc gia Pháp da vàng ở Đông Nam Á. Đọc những tài liệu
về các giám mục Retord, Huc, Gauthier, Pellerin và nhất là Puginier
v…v… chúng ta thấy rõ như vậy. Và chúng ta đừng quên là Nguyễn
Trường Tộ, thuộc một gia đình đạo gốc, chúng ta đã hiểu thế nào
là một người đạo gốc, đã luôn luôn theo hầu giám mục Gauthier.
Và chúng ta cũng đừng quên là trong cấu trúc toàn trị của Ca-tô
Giáo, các con chiên phải có bổn phận theo “đức vâng lời” các “bề
trên”. Cho đến nay mà Giáo hoàng Benedict XVI
cũng như Linh mục Bùi Đức Sanh vẫn nhắc đi nhắc lại là con chiên
phải theo “đức vâng lời”, con đường duy nhất để được lên thiên
đường. Ngoài ra, trong tình trạng sôi bỏng trước sự xâm lăng của
Pháp, đã mất ba tỉnh miền Đông, rồi ba tỉnh miền Tây, khoan kể
là thực dân Pháp đang âm mưu lấn chiếm Việt Nam và các giáo sĩ
Ca-tô đang xúi giục giáo dân nổi loạn khắp nơi. Vậy thì khi đó
Việt Nam phải theo Nguyễn Trường Tộ canh tân như thế nào, và cần
bao nhiêu tài nguyên nhân lực, bao nhiêu thời gian để có thể cứu
nước, ngoài con đường trước mắt là phải chống ngoại xâm, khoan
kể là những tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ có bao nhiêu
giá trị, và có khả thi không? Nhưng trong giai đoạn lịch sử đó,
không phải chỉ có Nguyễn Trường Tộ mới đưa ra những đề nghị canh
tân mà thực chất phần lớn những đề nghị đó thực sự có hại cho
đất nước. Những đề nghị canh tân của các nhân vật khác cùng thời
như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ Trạch… thiết thực
hơn và có giá trị hơn những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ nhiều,
nhưng cũng không được thực hiện, vì hoàn cảnh của đất nước bấy
giờ. Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong phần cuối.
"Người ta" thường trách vua quan thời Tự Đức ngu muội, không biết
nghe những đề nghị canh tân của Nguyễn Trường Tộ, nếu không thì Việt Nam cũng
đâu có kém gì Nhật Bản. Trách như vậy là không nghiên cứu kỹ về tình hình xã
hội, chính trị của Nhật Bản và của Việt Nam, và nhất là không nghiên cứu về
những đề nghị canh tân dỏm, hời hợt của Nguyễn Trường Tộ. Trên đất Nhật,
xuyên suốt gần 250 năm, không hề có bóng dáng của một thừa sai Ki Tô Giáo nào,
và tín đồ Ca-tô Nhật đã bị tận diệt, do đó không bị những xáo trộn xã hội chính
trị hay nội loạn nào do các thừa sai Ca Tô xúi giục hoặc cầm đầu, tương tự
như ở Việt Nam, vụ Cố Marchand cầm đầu đám nổi loạn Lê Văn Khôi, vụ giám mục
Retord xúi dục Pierre Lê Duy Phụng nổi loạn ở ngoài Bắc, và không có mấy trăm
ngàn giáo dân sẵn sàng nghe lệnh các vị thừa sai ngoại quốc qua những tay sai
bản địa để phản bội quê hương, cộng tác và hỗ trợ cho những đoàn quân viễn
chinh tại Việt Nam (Đầu tháng 9, 1858, Rigault de Genouilly chỉ huy liên
quân Pháp - Tây Ba Nha tấn công chiếm Đà Nẵng. Genouilly chờ đợi một đoàn quân
của Việt Nam tới tiếp viện Đà Nẵng vì đã được các thừa sai (gián điệp trá hình)
thông báo là có một đoàn quân Việt Nam ít nhất là 10.000 người kéo tới Đà Nẵng.
(Tsuboi: "Il attend l'armée Vietnamienne parce que les missionnaires lui
ont fait savoir qu'au moins dix mille hommes doivent marcher contre lui").
Sau khi chiếm đóng Đà nẵng vài tháng, Genouilly vẫn luôn luôn chờ đợi sự nổi
giậy của giáo dân. (Tsuboi: "Après quelques mois d'occupation, il attend
toujours que les chrétiens se soulèvent").
Nay chúng ta đã hiểu tại sao Hal Dareff đã viết trong cuốn The
Story of Vietnam, trg. 28:
"Đóng cửa biên giới, họ (triều đình Gia Long. TCN) sẽ tránh
được sự xâm nhập của người ngoại quốc với những lối sống xa lạ của họ. Bất
hạnh thay, trong nước Việt Nam đã có những người ngoại quốc rồi - Các giáo
sĩ thừa sai."
Trong tình hình ở ngoài thì ngoại quốc đang xâm lăng, ở trong
thì loạn lạc do các giáo sĩ Ca-tô xúi giục, Việt Nam phải làm
gì? Chống xâm lăng, lo ổn định xã hội hay dùng nhân lực, tài nguyên
giới hạn của quốc gia để canh tân theo những đề nghị hoang tưởng
và có hại cho đất nước Việt Nam của Nguyễn Trường Tộ? Tôi tưởng
câu trả lời đã rõ ràng.
Cho nên, trách các triều Nguyễn không chịu cải cách canh tân xứ
sở là không xét đến bối cảnh lịch sử Việt Nam trong giai đoạn
hậu bán thế kỷ 19 và trước đó. Thực ra, so với Nhật Bản, các triều
Nguyễn đã quá nhân từ, phải chăng là bị ảnh hưởng Tống Nho hủ
lậu, để rồi phải đối phó một cách tiêu cực với ngoại xâm bên ngoài,
cùng lúc với nội ứng bên trong, kết quả là nước nhà rơi vào vòng
đô hộ của Pháp gần 100 năm mà yếu tố quyết định để Pháp thành
công là do tinh thần phi dân tộc, phản bội quốc gia của tập đoàn
giáo dân Ca-tô bản địa, theo như nhận định của chính Giám mục
Puginier.
b. Khác Biệt Giữa Chủ Trương Canh Tân. ▲
Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu những đề nghị canh tân của Fukuzawa
Yukichi rồi so sánh với những đề nghị canh tân của Nguyễn Trường
Tộ để thấy tại sao Nhật canh tân thành công, còn Việt Nam thì
không thể canh tân theo những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ. Tại
sao Nhật canh tân được? Vì Fukuzawa Yukichi chủ trương tự lực
tự cường. Tại sao Việt Nam không thể canh tân theo Nguyễn
trường Tộ. Vì nếu theo Nguyễn Trường Tộ thì Việt
Nam sẽ hoàn toàn làm nô lệ cho ngoại bang: nhờ quân Pháp giữ
gìn đất nước, nhờ các giám mục phụ trách giáo dục quần
chúng, để cho các giáo sĩ tự do "mở rộng đạo, chống
gian tà" v…v…
Chúng ta biết rằng, vào hậu bán thế kỷ 19, trước sự uy hiếp quân
sự của Mỹ, rồi Pháp, Anh, Đức, Nhật Bản phải nhượng bộ, ký những
hiệp ước bất bình đằng, để cho người ngoại quốc vào buôn bán và
truyền đạo. Triều đình Minh Trị đưa ra khẩu hiệu "Phú
quốc cường binh" nhằm khai thác tâm lý lo sợ Nhật Bản
sẽ trở thành thuộc địa của phương Tây nếu không chịu canh tân.
Trên cơ sở đó, giới trí thức Nhật họ đã thuyết phục được Thiên
hoàng tuyên bố từ bỏ những tập tục có hại và sẵn sàng học hỏi
phương Tây, họ cũng thuyết phục được những lãnh chúa giầu có góp
tài vật cho cuộc canh tân. Một trong những người chủ trương canh
tân chính là Fukuzawa Yukichi.

Fukuzawa Yukichi -
Muséum national d'histoire
naturelle in Paris, 1862
Fukuzawa
Yukichi được coi là nhà tư tưởng chủ chốt trong cuộc “canh tân”
thời Minh Trị, biến Nhật bản từ một quốc gia lạc hậu và cô lập trở
thành một cường quốc trên thế giới. Fukuzawa đã từng hai lần tham
quan nước Mỹ và đi khắp châu Âu tìm hiểu những nền tảng căn bản
của xã hội hiện đại đang phát triển và nhận thấy tiến bộ kỹ thuật
có vai trò quyết định mang lại sự thịnh vượng ở phương Tây. Fukuzawa
tin rằng những thay đổi cách mạng trong suy nghĩ và kiến thức của
con người là yêu cầu cơ bản nhất đối với quá trình hiện đại hóa
Nhật bản.
Fukuzawa hiểu rằng sứ mạng của mình là sự nghiệp giáo dục, và nghề làm báo
là cách để ông đưa tư tưởng của mình đến với công chúng. Ông tin rằng ông có
nhiệm vụ giáo dục quần chúng để có thể chống lại chủ nghĩa đế quốc Âu Châu
(He believes he has the mission to educate the Japanese people to be able to
resist European Imperialism) Vì thế, suốt đời ông ra sức giới thiệu tình hình
các nước Phương Tây, đề xướng dân quyền, xúc tiến “văn minh khai hoá”. Các
tác phẩm chủ yếu của Fukuzawa là về Thực trạng các nước Tây phương, Khuyến
học, đặt trọng tâm vào giáo dục nhất là giáo dục kỹ thuật, Lý thuyết
về sự văn minh, dịch cuốn “Kinh tế chính trị’ của J.H Burton
trình bày những nguyên tắc cơ bản cho việc cấu thành một xã hội văn minh. Fukuzawa
cũng dịch và viết những cuốn sách về phương Tây, viết những sách giáo khoa
cơ bản về rất nhiều lĩnh vực như vật lý, địa lý, về Nghị viện Anh và quan hệ
quốc tế v…v… Những tác phẩm này được dân Nhật nhiệt thành đón nhận vì nội dung
có những chủ đề mới lạ và cách hành văn cách tân rất bình dị. Nhờ những quyển
sách này, người Nhật có cơ hội hiểu biết về nền văn minh mới.
Không chỉ dừng lại ở việc vận động viết sách, viết báo. Năm 1858, Fukuzawa Yukichi
đã thành lập trường tư thục Keio để truyền bá tư tưởng của mình. Về sau, 1890,
trường này trở thành một đại học bậc nhất của Nhật. Thành công lớn nhất của Fukuzawa
Yukichi là thay đổi tư duy của giới trí thức Nhật, và ngay của cả các
lãnh chúa, để cùng nhau thay đổi nền giáo dục từ chương cổ truyền, đi
vào nền giáo dục kỹ thuật thực tiễn, hiện đại hóa đất nước, đưa Nhật đến phú
cường.
Đó là sơ lược những tư tưởng và sản phẩm trí tuệ của Fukuzawa Yukichi, những
yếu tố đã giúp cho Nhật Bản thành công trong chương trình canh tất đất nước.
Nhưng yếu tố chính là xã hội Nhật thời đó khá ổn định, không có sự can
thiệp của ngoại quốc, không có sự phá rối của các giáo sĩ và giáo dân Ca-tô,
cho nên Nhật có thể đi vào con đường tự lực, tự cường không mấy khó khăn. Bây
giờ chúng ta hãy xét đến những tư tưởng và đề nghị canh tân của Nguyễn Trường
Tộ để xem sản phẩm trí tuệ của ông ta ra sao, và những đề nghị của ông có bao
nhiêu giá trị, có hại hay có lợi cho đất nước.
Trước hết, tất cả những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đều viết bằng chữ
Hán và gửi cho triều đình. Do đó chỉ có một số rất ít người đọc được và biết
đến. Giới trí thức, Văn thân, không hề biết đến những bản điều trần này. Làm
sao tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ có thể phổ biến rộng rãi trong quần chúng để
có thể gây nên một phong trào canh tân đất nước như ở Nhật. Đọc những bản điều
trần của Nguyễn Trường Tộ đã được dịch ra quốc ngữ, tôi thấy rằng phần lớn kiến
thức của ông là một loại kiến thức phiến diện, hời hợt, hẹp hòi và có nhiều khiếm
khuyết. Ngoài ra, những tư tưởng, nhận định của ông nhiều khi mâu thuẫn đến độ
buồn cười, và thay đổi khá nhiều theo thời gian. Vì được đào luyện trong cái
nôi của Ca Tô Giáo Rô Ma, cho nên với một kiến thức thu hẹp trong chương trình
đào luyện của Ca Tô Giáo Rô Ma mà mục đích không phải là để mở mang trí óc, ông
Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra một số ý kiến, nhận định, đề nghị mà ông tin là chính
xác và có thể giúp được nước mà không biết rằng những nhận định sai lạc của ông chỉ
có hại cho đất nước và một số lớn những đề nghị canh tân của ông cũng không
hợp thời và chỉ có tác dụng sớm đưa đất nước vào vòng nô lệ. Thật vậy,
nếu triều đình tin và thi hành một số đề nghị "cải cách, canh tân" của
ông thì kết quả không thể nào lường được, nước Việt Nam có còn là nước Việt Nam
không, hay là sẽ cùng chung số phận với một số quốc gia ở Phi Châu, Nam Mỹ hay
của Phi Luật Tân, mất hẳn nền văn hóa của mình. Sau đây là phần chứng minh. Lẽ
dĩ nhiên tôi không thể phê bình tất cả những ý kiến và đề nghị của Nguyễn Trường
Tộ mà chỉ luận trên một số điểm có tính cách tổng quát và được coi là quan trọng
nhất trong những bản điều trần của ông. Nhưng trước hết chúng ta hãy duyệt qua
phần kiến thức của Nguyễn Trường Tộ.
c. Vài Nét Về Kiến thức của Nguyễn Trường Tộ: ▲
Ông Nguyễn Trường Tộ mở đầu bản điều trần số 5, Kế Hoạch Làm Cho Dân Giàu
Nước Mạnh, bằng một khẳng định:
"..Tạo vật sinh ra muôn vật để cho con người sử dụng mà không tiếc một
thứ gì.. Kể từ khi có loài người, loài vật đến nay đã gần 7000 năm ..."
Đây không phải là một sự hiểu biết qua học hỏi mà chỉ là một niềm tin
tôn giáo dựa theo Thánh Kinh hoặc theo những điều "Giáo hội dạy
rằng", theo sách lược đúc nặn đầu óc tín đồ của Ca Tô Giáo. Giáo hội dạy
rằng, theo Thánh Kinh thì Thượng Đế tạo ra mọi sinh vật để phục vụ con người.
Có lẽ ông Nguyễn Trường Tộ được dạy như vậy mà không bao giờ tự đặt cho mình
một câu hỏi: những sinh vật như khổng long chỉ xuất hiện một thời rồi biến mất
trên thế gian, những con hùm beo, rắn rết, những con vi trùng và siêu vi trùng
sinh ra đủ mọi thứ bệnh, phục vụ con người như thế nào? Câu hỏi này, từ xưa tới
nay chưa có nhà Thần học Ca Tô nào giải thích được. Cách "giải thích" duy
nhất của họ là "có những việc làm của Thượng Đế, đầu óc con người không
thể nào hiểu nổi".
Lẽ dĩ nhiên chúng ta không thể trách ông Nguyễn Trường Tộ là không biết đến những
khám phá của khoa học ngày nay, rằng tuổi của vũ trụ là khoảng 13.7 tỷ năm và
tuổi của trái đất là 4.5 tỷ năm, và các sinh vật hiện hữu là do sự tiến hóa qua
nhiều tỷ năm của những tế bào nguyên thủy đơn giản, và không có một căn bản thuyết
lý nào có thể chứng minh là "muôn vật được sinh ra để cho con người sử dụng".
Nhưng ngay cả với những tiến bộ khoa học trước và trong thời ông, ông cũng không
biết đến.
Trong bản điều trần số 3, ông Nguyễn Trường Tộ khoe rằng:
"Về việc học không môn nào tôi không để ý tới, cái cao của thiên văn,
cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền,
tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào là tôi không khảo
cứu, nhất là để nghiên cứu về sự thể dọc ngang, tan hợp trong thiên hạ", và
nhất là, theo lời tự nhận của ông: “đã thâu tóm trí khôn của thiên hạ trong
500 năm nay.”
Chúng ta hãy tạm bỏ qua nghi vấn: mức độ hiểu biết của ông Nguyễn Trường Tộ về
những bộ môn kể trên tới đâu trong khi ông chỉ có vài ba năm để "để ý tới"?
Tôi không gạt bỏ điều có thể ông là một thần đồng, học một biết mười. Nhưng điều
hiển nhiên là ông không hề biết đến những công cuộc nghiên cứu của Newton, Buffon,
và Darwin. Isaac Newton (1642-1727), đã dựa trên tình trạng đương thời của trái
đất và độ nguội của các thể đặc và tính ra tuổi của trái đất là 50.000 (năm mươi
ngàn) năm. Vì là một tín đồ Ca Tô, Newton cho rằng mình đã tính sai ở chỗ nào
đó, vì kết quả không phù hợp với Thánh Kinh. Nhưng sau đó, Georges Louis Leclerc,
Comte de Buffon (1717-1788) dựa trên những kết quả thí nghiệm về độ nguội của
các vật thể hình cầu, đã tính lại và cho rằng con số 50.000 năm của Newton là
quá thấp, và đưa ra một con số cao hơn về tuổi của trái đất là 74.832 năm (bảy
mươi bốn ngàn tám trăm ba mươi hai năm); Charles Darwin xuất bản cuốn Nguồn
Gốc Các Chủng Loại (The Origin of Species) năm 1859, gây nên một cuộc tranh
luận sôi nổi khắp Âu Châu và dồn Ki Tô Giáo nói chung vào một thế thủ Thần học,
chẳng lẽ ông Nguyễn Trường Tộ, khi đó ở Pháp, không biết đến sự kiện này. Có
thể ông không biết đến vì ông chỉ được nghe những gì giáo hội muốn ông nghe,
nói những gì giáo hội muốn ông nói, đọc những gì Giáo hội hay bề trên cho phép
đọc. Đó là chủ trương “dân ngu dễ trị” của Giáo hội. Ngay vào thời đó,
trong giới trí thức không còn ai tin là thế giới này là do một đấng toàn năng
sáng tạo ra trong 6 ngày và cách đây 6, 7 ngàn năm như được viết trong Thánh
Kinh. Lẽ dĩ nhiên ông cũng không đọc Spinoza, Thomas Paine, Voltaire, Montesquieu
v..v.. vì tác phẩm của những tác giả này đều bị Tòa Thánh cho vào danh sách những
cuốn sách cấm tín đồ đọc (Index of banned books). Ông nói là ông học cả luật
lịch, nhưng luật mà ông học là luật của Giáo hội, của Tòa Thánh, luật của Thượng
Đế (bản điều trần số 13), chứ không phải là Tinh Thần Luật Pháp (L'Esprit des
Lois) của Montesquieu, người đã đưa ra nguyên tắc phân quyền mà các nước tiến
bộ, văn minh nhất trên thế giới ngày nay đều áp dụng. Cho nên, ông tự nhận là
đã nghiên cứu đủ mọi môn học nhưng tôi chắc ông chỉ nói phét, vì ngay chính kiến
thức của các giám mục về khoa học, nhân văn v..v.. vào thời đó cũng thuộc loại
hạn hẹp một chiều, nói chi đến kiến thức của một tín đồ ở một nước mà các thừa
sai ngoại quốc thường cho là lạc hậu, chậm tiến. Ông đưa ra những kế hoạch làm
cho dân giàu nước mạnh, nhưng những kế hoạch của ông lại dựa trên những căn bản
hiểu biết hoặc sai lầm, hoặc thiếu sót, hoặc không phù hợp với sự tiến bộ của
khoa học ngay trong thời đại của ông, vậy nếu triều đình thi
hành những kế hoạch của ông thì đất nước sẽ đi về đâu? Lẽ dĩ nhiên, nếu mang
kiến thức của Nguyễn Trường Tộ so sánh với kiến thức của đa số người dân ít học
hoặc không có học thì quả thật là kiến thức của ông hơn họ, vì ông đã được học
chữ Hán và chút tiếng Pháp trong thời gian đi theo hầu Giám mục Gauthier, và
có cơ hội đi theo Giám mục Gauthier ra nước ngoài, dù chỉ trong một thời gian
ngắn, có cơ hội đọc được Tân Thư của Tàu. Nhưng nếu so sánh với bộ kiến thức
của nhân loại cùng thời ông, thì kiến thức của ông không có gì độc đáo, đặc biệt,
nếu không muốn nói là hạn hẹp, một chiều, và thiếu sót rất nhiều.
Không những thế, một số những lời tự nhận của Nguyễn Trường Tộ chứng tỏ ông ta
là người thích khoe khoang khoác lác, thuộc hạng người "đi xa về thường
hay nói phét". Danh từ hiện đại chỉ hạng người như Nguyễn Trường Tộ
là “nổ”, nghĩa là huênh hoang quá mức về thực chất của mình.
Thật vậy, trong Di Thảo số 30, Mục Đích Của Sứ Bộ Đi Pháp, ngày 9 tháng
3, 1868, ông Tộ viết:
Mấy chục năm nay, tôi bôn tẩu trong thiên hạ, thu thập những
tình thế biến thiên xưa nay đem những điều đã đọc trong sách nghiệm ra việc đời.
Chúng ta hãy tự hỏi, mấy chục năm nay là bao nhiêu năm tất cả? Đọc tiểu sử của
Nguyễn trường Tộ trong cuốn sách của Trương Bá Cần, chúng ta biết:
Nguyễn Trường Tộ chỉ ở Pháp có 8 tháng trong chuyến đi cùng với giám mục Gauthier,
và khi Giám mục Gauthier bị đuổi đi Hồng Kông thì ông đi theo hầu ở đó trong
khoảng gần 2 năm. Đó là những thời gian ông ở ngoại quốc. Vậy thì cái "Mấy
chục năm nay, tôi bôn tẩu trong thiên hạ" của
ông Tộ ở đâu mà ra, và cái thiên hạ của ông là những chỗ nào?
Vậy thì ông Tộ nói láo hay nói thật? Câu trả lời nằm trong câu hỏi.
Cái tính nói phét để lòe thiên hạ của ông Tộ còn hiện rõ trong câu ông tự nhận
trong bài "Trần Tình Khải", một bài mà theo tác giả Hoàng
Thanh Đạm, đẹp như một áng văn viết bằng nước mắt, như sau:
"Đến lúc lớn lên tôi chu du các nước, những điều mắt thấy tai nghe
góp lại thành một sự ích dụng lớn. Về việc học không môn nào tôi không để ý tới,
cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến
luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn
nào là tôi không khảo cứu, nhất là để nghiên cứu về sự thể dọc ngang, tan hợp
trong thiên hạ".
Quý độc giả có thấy ở trên đời này có ai huênh hoang khoác lác như vậy không?
Nguyên câu đầu: "Đến lúc lớn lên tôi chu du các nước" cũng
đủ cho chúng ta thấy ông Tộ đã “nổ” như thế nào. Chu du các nước? Những nước
nào, bao giờ và bao lâu? Không thấy ông nói. Nhưng đó là thủ đoạn “nổ” của ông
Tộ. Trong phần lớn những bản điều trần, ông toàn viết một điệu mập mờ như vậy,
không có gì rõ ràng, không có những chi tiết chứng thực. Xét hoàn cảnh đất nước
thời bấy giờ, đâu có phải ai muốn đi ra nước ngoài thì đi. Phương tiện và tiền
bạc, ông có không? Ông chỉ có thể xuất ngoại bằng cách đi theo hầu giám mục Gauthier,
vì ông vốn là người được Gauthier nuôi nấng và dạy dỗ, và Giám mục tin cậy...
Thời gian ông ở ngoại quốc, Hong Kong và Pháp, tổng cộng tất cả là chưa đầy 3
năm. Trong 3 năm này ông học được những gì, đọc bao nhiêu sách, những sách nào.
Trong 8 tháng ông cùng giám mục Gauthier sang Pháp vào năm 1867 ông còn có nhiệm
vụ lo mua những dụng cụ cần thiết để mở trường kỹ thuật ở Huế. Ông còn bao nhiêu
thì giờ để đọc sách và những sách nào? Kiến thức của ông về các môn học trước
khi ông tự nhận đã "để ý tới" là ở trình độ nào, học ở đâu, ai
dạy. Lối học của Tây phương là lối học tích lũy, từng trình độ một, không phải
với cái vốn học tiếng Pháp trong vài năm do giám mục dạy mà có thể đọc bất cứ
một cuốn sách thuộc một bộ môn nào là có thể hiểu được ngay những vấn đề trong
bộ môn đó. Chính linh mục Trương Bá Cần cũng phải thú nhận trong cuốn “Nguyễn
trường Tộ: Con Người và Di Thảo”, rằng, trang 63: "Còn về Tây học,
thì ông quả có được các linh mục thừa sai và, đặc biệt, giám mục Gauthier dạy
cho tiếng Pháp và truyền đạt một số kiến thức khoa học, chỉ có thể là, rất
phổ thông. Bởi vì các thừa sai thuộc Hội truyền Giáo Nước Ngoài của Paris
(M.E.P) tuyệt đại bộ phận chỉ học xong chương trình phổ thông, rồi vào các đại
chủng viện học làm linh mục để được gửi đến các nước truyền đạo."
Với cái vốn liếng về một số kiến thức khoa học, chỉ có thể là, rất
phổ thông này, ông Tộ có đủ trình độ để đọc những tác phẩm khoa học
Tây phương về các bộ môn mà ông kể hay không? Chúng ta không hề thấy Nguyễn Trường
Tộ dịch bất cứ một tác phẩm khoa học hay chính trị nào của Tây phương. Trong
58 bản điều trần mà người ta thường cho là của ông, ông không hề nhắc đến bất
cứ một tác phẩm Tây phương nào hay tác phẩm nào của "thiên hạ" trừ
vài cuốn của Tàu. Bùi Kha đã chứng minh là Nguyễn trường Tộ đã chép hầu như nguyên
văn một số tư tưởng từ cuốn Tân Thư của Tàu ra và tất cả chỉ là những
khoa học mô tả, thuộc loại "vật lý học cho các thi sĩ" (Physics for
poets) để cho họ đọc và có một khái niệm sơ khởi tổng quát về vấn đề chứ không
thể hiểu sâu xa để có thể áp dụng trong việc canh tân đất nước. Cuốn Tân
Thư này, Quan Phụ Chính Trần Tiễn Thành cũng đã có và triều đình Nguyễn
không phải là không biết. Đọc những đoạn ông Tộ viết về khoa học, những người
không ở trong các ngành khoa học có thể cho đó là những kiến thức sâu sắc. Riêng
tôi, tôi thấy kiến thức của ông về khoa học rất hời hợt, phiến diện. Những điều
ông mô tả về quang học, cơ học, hóa học v..v.. chỉ là những khái niệm thông thường
về các bộ môn trên trong thời đó mà người ta có thể thấy trong bất cứ một cuốn
sách khoa học phổ thông nào. Đi sâu vào những bộ môn khoa học, đặc biệt là thiên
văn, vật lý và kỹ thuật, ngay trong thời ông Tộ, bất cứ người nào cũng cần phải
có một vốn kiến thức tích lũy về toán học ở trình độ đại học, nhất là về đại
số học, toán vi phân và tích phân. Và tôi không tin rằng ông Tộ có thể có những
kiến thức như vậy, xét những chi tiết về tiểu sử của ông. Văn chương, thơ phú,
sử ký, địa lý, tứ thư, ngũ kinh thì may ra ông Tộ, nếu là người thông minh, có
thể đọc và hiểu lấy được, chứ khoa học và toán học thì "không thầy đố mày
làm nên". Tôi có thể chứng minh điều nhận xét trên qua sự phân tích vấn
đề như sau.
Trong di thảo số 5, Kế Hoạch Làm Cho Dân Giàu Nước Mạnh, ông Tộ chỉ
tán hươu tán vượn chứ chẳng trình bày một kế hoạch nào rõ ràng. Nhất là trong
Mục 1 với đầu đề: Xin Kê Ra Các Phương Pháp Làm Hột Nổ Và Đúc Súng, Đúc Kim
Loại Cùng Các Môn Quang Học, Cơ Học, Hóa Học, Khai Thác Mỏ Than. Tôi đố
ai có thể tìm trong các bản điều trần sự mô tả những "phương pháp" đó
là như thế nào, qua những giai đoạn nào, cần những vật liệu nào v…v… và dựa vào
những "phương pháp" của ông Tộ trong bài này, ai có thể đúc được súng,
làm hột nổ v..v..? Sau cái đầu đề như trên, ông Tộ bắt đầu bằng câu:
Điều cốt yếu để thực hiện các phương pháp trên, trước hết phải có khí cụ.
Các môn ấy phải được thi hành thực sự. Việc học lý thuyết thực ra không khó (thật
vậy sao?), mà thực hành thì khó, hơn nữa phí tổn rất nhiều, nhưng thu lợi
cũng rất lớn.
Việc học tập và sắm khí cụ phải thực hiện đồng thời, không thể thiếu một.
Nếu đã được học qua loa như tôi mà không có khí cụ khi gặp khó khăn lại
không có người chỉ vẽ thì cũng chỉ biết lý thuyết và công dụng mà thôi, và cũng
còn khó đem ra thực hành được...
Nói tổng quát thì phương pháp đúc súng đạn và chế hột nổ cần nhất ở cơ
học, và có cả quang học giúp vào. Còn phép đúc kim loại và khai thác mỏ than
thì cần nhất về cơ học và có hóa học giúp vào. Về phép lái tàu thì cốt ở quang
học và có trắc lượng học, toán học giúp vào...
Đọc những đoạn trên tôi phì cười vì rõ ràng là ông Tộ chẳng biết gì về cơ học,
quang học, hóa học v...v... Ông chỉ viết lăng nhăng làm ra vẻ ta hiểu nhiều hiểu
rộng, nhưng tuyệt đối không có một chi tiết nào để chỉ rõ những "phương
pháp" mà ông đề xướng nó như thế nào, theo những giai đoạn nào, cần cơ học,
quang học như thế nào v..v... Ông tự nhận là ông chỉ được học qua loa,
đọc qua loa thì đúng hơn vì ông đâu có theo học trường khoa học kỹ thuật nào,
cho nên những "phương pháp" của ông cũng chỉ có tính cách qua loa.
Theo lời ông viết ở trên thì muốn thực hiện các phương pháp của ông, trước hết
phải biết về cơ học, quang học, hóa học, và toán học. Vậy thì phải gửi người
đi học các bộ môn trên. Phải có trình độ khoa học như thế nào mới có thể học
các bộ môn trên, và học trong bao nhiêu năm, để có thể áp dụng chúng, và áp dụng
trong những lãnh vực nào?
Cái dỏm của ông Tộ còn thể hiện rõ trong di thảo số 58, Bài Tựa Sách Đàm
Thiên Luận trong đó ông bàn về thiên văn học và chép ở một cuốn sách nào
đó đoạn chứng minh về thuyết trái đất chuyển động. Ông kết luận bài này bằng
câu:
Những ai có chí với dân tộc hãy nên tìm tòi nghiên cứu trong môn học này
(thiên văn), do đó cũng có thể hiểu được đại cương những bí mật của trời đất.
Những người có chí với dân tộc là những người yêu nước, muốn cho dân tộc mình
hùng cường, dân giàu, nước mạnh. Môn thiên văn học giúp ích gì trong việc canh
tân đất nước, làm cho dân giàu nước mạnh? Thiên văn học là bộ môn khoa học
khảo sát vũ trụ ngoài trái đất, đặc biệt là sự quan sát, tính toán, và diễn giải
lý thuyết về vị trí, kích thước, sự phân bố, chuyển động, cấu tạo, và sự tiến
hóa của những thiên thể. Vậy môn học này giúp ích gì trong việc làm cho quốc
gia trở nên phú cường mà ông Tộ khuyên những ai có chí với dân tộc hãy nên tìm
tòi nghiên cứu môn học này? Môn học này chỉ để tăng sự hiểu biết của con người
về nguồn gốc và sự cấu tạo của vũ trụ, nó hầu như là một môn học có tính cách
xa xỉ trong những xã hội giàu có Âu Mỹ để thỏa mãn óc tìm tòi, tìm hiểu về vũ
trụ của con người. Khoan kể là muốn hiểu về thiên văn tạm gọi là vững, ít ra
ngưòi học cũng phải đủ vốn liếng để đọc "Principia" của Newton, biết
những kết quả khảo cứu của Galileo, Huyghens, phải biết giải một số những phương
trình vi phân đồng thời (simultaneous differential equations), phải nắm vững
những bài toán về 2 vật, 3 vật, n vật (problems of 2 bodies, 3 bodies, n bodies),
phương trình Lagrange v..v.., liên hệ đến môn cơ học các thiên thể (celestial
mechanics). Ngay trong thời đại này, những sinh viên khoa học trình độ cao học
(sau cử nhân) còn cảm thấy khó khăn trước những bài toán trên, huống chi là Nguyễn
Trường Tộ chỉ có vài năm vốn liếng tiếng Pháp, học với vài thừa sai, và trình
độ khoa học toán học có thể nói là con số không. Ngoài ra, tác dụng có ích
trực tiếp duy nhất của môn thiên văn học cho nhân loại là nó phá đổ thuyết sáng
tạo như được viết trong Thánh Kinh, kéo con người ra khỏi vòng mê tín dị đoan
của một nền Thần học Ki Tô Giáo đã lỗi thời. Lẽ dĩ nhiên, môn học này một
trong toàn bộ sự tiến hóa kiến thức của con người và không thể thiếu sót trong
học trình, nhưng nó chẳng có gì đặc biệt hơn, nếu không muốn nói là thứ yếu so
với nhiều môn học khác, mà những người có chí với dân tộc phải để tâm học hỏi
mới có thể giúp nước.
Những đề nghị canh tân của Nguyễn Trường Tộ đã được Bùi kha phân tích khá chi
tiết và đầy đủ trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ & Vấn Đề Canh Tân”,
và trong những bài phản biện đối luận của ông đã nêu ở trên. Ở đây tôi chỉ muốn
nói đến vài đề nghị điển hình của Nguyễn Trường Tộ mà nếu triều Nguyễn thực thi
thì nước nhà chắc chắn sẽ rơi vào nền đô hộ của ngoại nhân và mất đi nền văn
hóa truyền thống của mình.
Trước hết, thật là nực cười, trong khi "người ta" đổ tội mất nước lên
đầu vua quan thời Tự Đức là không nhìn sự việc "sáng suốt" như Nguyễn
Trường Tộ, nghĩa là không biết thời thế, không biết rằng Pháp đang bá chủ hoàn
cầu, không chịu hòa với Pháp, không tuân theo vận trời từ Tây sang Đông, không
chấp nhận Kim (Tây) khắc Mộc (Đông), không chịu canh tân cải cách, không biết
quân Pháp rất anh dũng, quân ta chưa đánh đã chạy v...v... thì Giám Mục Puginier
lại khẳng định rằng:
"Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì người Pháp cũng giống
như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc
nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và
giáo dân Ki Tô Giáo, người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù, họ sẽ không
thể tin cậy vào một ai, họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung
cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ, họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể
hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh
chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời
khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện hữu của họ sẽ bị nguy hại."
(Alain Forest & Yoshiharu Tsuboi: Sans les missionnaires et les chrétiens,
écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait
cassé toutes les pattes. La comparison, pour être triviale, ne manque pas de
justesse et de force. En effet, sans les missionnaires et les chrétiens, les
Francais se verraient entourés d'ennemis; ils ne pouraient se fier à personne;
ils ne recevraient que de faux renseignements, méchamment donnés pour compromettre
leur situation; ils se trouvaient donc réduits à l'impossibilité d'agir et seraient
rapidement exposés à des vrais désastres. Leur position ici ne serait plus tenable,
et ils se verraient forcés de quitter un pays où leurs intérêts et leur existence
même serait compromis.)
Và chúng ta cũng đừng nên quên rằng, Pháp đã mang 2250 binh sĩ với 25 khẩu đại
bác, 4 tàu chiến, dưới sự chỉ huy của đại tá Metzinger, tấn công trung tâm kháng
chiến Ba Đình do Đinh Công Tráng cầm đầu, nhưng liên tiếp bị đẩy lui. Nhưng rồi
Trần Lục, linh mục xứ Phát Diệm, phó tướng đặc trách "bình định" các
tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tịnh, được giám mục Puginier ban phép lành, kéo
5000 (năm ngàn) giáo dân Ca Tô đến giúp quân Pháp đánh lại chính đồng bào ruột
thịt yêu nước của mình, do đó Ba Đình bị thất thủ (LM Trần Tam Tĩnh: Dieu et
César).
Như vậy thì cái nguyên nhân chính để Việt Nam rơi vào vòng đô hộ của Pháp là
từ đâu? Nhật Bản không có những quốc nạn này nên rảnh tay, yên tâm canh tân xứ
sở. Việt Nam, vào thời đó, cùng lúc phải đối phó với giặc trong nội ứng cho
giặc ngoài, làm sao canh tân xứ sở trong một tình trạng nhiễu thương như
vậy? Khi đất nước bị ngoại xâm cùng lúc có những con nội trùng bán nước tiếp
tay với quân xâm lược thì vấn đề ưu tiên hàng đầu là chống ngoại xâm và thanh
trừng nội bộ hay là canh tân xứ sở? Điều ngạc nhiên đối với tôi là, cho tới thời
buổi này, trước những sự kiện lịch sử rõ ràng như vậy, mà người ta vẫn còn giữ
những lập luận hoang đường để chạy tội: là Quân, Thần các Triều Nguyễn ngu dốt,
không chịu canh tân xứ sở để làm mất nước.
d. Nguyễn Trường Tộ Đề Nghị Dùng Giám Mục, Linh Mục Trong Việc Canh Tân Đất Nước:
▲
Thế kỷ 19, trong khi ở nước Pháp, các trí thức Pháp đã nhận thức được sự quan
trọng của một nền giáo dục khai phóng cho nên đã cương quyết chống lại nền giáo
dục của Ca Tô Giáo Rô Ma mà họ cho rằng đã "dạy dỗ những đứa trẻ
để chống lại tổ quốc của chúng và cản sự tiến bộ của chúng" (Élever
des enfants contre leur pays et contre leur temps) và họ đã thành công trong
việc "Giật con em ra khỏi bàn tay giáo dục của các linh mục, vạch
trần những đạo đức giả của Giáo hội” (Arracher l'enfant au moine, dévoiler
les hypocrisies de l'Église) và nhà đại văn hào Victor Hugo đã đưa ra nhận định:
"Nền văn minh, ánh sáng này, có thể bị tắt đi bởi hai sự chìm ngập,
hai sự xâm lăng nguy hiểm đối với nền văn minh, sự xâm lăng của các quân lính
và sự xâm lăng của các linh mục. Sự xâm lăng của các quân lính đe dọa mẹ chúng
ta: Tổ quốc; sự xâm lăng của các linh mục đe dọa con chúng ta: Tương lai"
(La civilisation, cette lumière, peut être éteinte pasr deux modes de submersion,
deus invasions lui sont dangereuses, l'invasion des soldats et l'invasion des
prêtres. L'une menace notre mère, la patrie; l'autre menace nos enfants, l'avenir.)
thì ở Việt Nam, ông Nguyễn Trường Tộ lại đề nghị dùng các Giám mục, Linh mục
trong việc canh tân đất nước, và "cho phép các giáo hội Tây phương cứ
tới nước mình mà lập hội cứu tế", "cho phép mỗi tỉnh lập ra một viện
dục anh, giao cho một giám mục quản cố".
Văn Tân cho rằng:
"Những đề nghị này cộng với những đề nghị trông nhờ vào các hội kinh
doanh ngoại quốc để phát triển kinh tế, nếu được thi hành, sẽ mở của nước Việt
Nam cho người Pháp kéo vào nắm giữ các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội của
nước Việt Nam."
Một mặt khác, kiến thức của các giám mục, linh mục có thể dùng vào việc canh
tân đất nước được hay không? Ngay cả ngày nay, kiến thức của giới này cũng chẳng
ra gì, nhiều nhất là có cái bằng về thần học, một chứng chỉ về sự ngu dốt của
mình, theo nhận định của một người Ca-tô đạo gốc: Charlie Nguyễn, alias Bùi Văn
Chấn, cựu thẩm phán của VNCH. Nhận định sau đây của Linh Mục Trương Bá Cần cũng
cho chúng ta một tia sáng về trình độ của các thừa sai Ca-tô trong thế kỷ 19:
"Về Tây học, thì ông (Nguyễn Trường Tộ) quả có được các linh mục thừa
sai và, đặc biệt, Giám mục Gauthier dạy cho tiếng Pháp và truyền đạt một số kiến
thức khoa học, chỉ có thể là, rất phổ thông...vì các thừa sai thuộc Hội Truyền
Giáo Nước Ngoài (MEP) tuyệt đại bộ phận chỉ học xong chương trình phổ thông,
rồi vào các đại chủng viện học làm linh mục để gởi đến các nước truyền đạo".
Với những đầu óc mà mục đích duy nhất là kiếm thêm tín đồ cho Chúa, vơ vét tài
nguyên, kiếm thêm đất đai cho Chúa, họ có thể dùng vào được việc gì trong vấn
đề canh tân xứ sở? Canh tân bằng cách nào, biến dân chúng Việt Nam thành những
người nghiện thuốc phiện, đầu óc lúc nào cũng lơ mơ về một cái “bánh vẽ trên
trời” hay một viên thuốc độc "sống đời đời " ở trên trời?
Và thực chất những hội cứu tế, viện dục anh v..v... của Ca Tô Giáo Rô Ma, thường
được dùng làm bình phong để quảng cáo lòng bác ái của đạo Ca-tô, được tóm tắt
trong nhận định sau đây của B. S. Rajneesh, trong cuốn "Linh Mục và
Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn" ("Priests & Politicians:
The Mafia of the Soul", The Rebel Publishing House GmbH, Cologne, West Germany,
1987, trg. 25):
"Nếu con người nghèo đói, họ có thể dễ bị dụ vào KiTô giáo, đặc biệt
là Ca Tô giáo. Những trường học, nhà thương, và viện mồ côi của họ chẳng qua
chỉ là những xưởng để dụ người ta trở thành tín đồ CaTô."
(If people are poor and hungry, they can be easily converted to Christianity,
particularly into the Catholic Church. Their schools, their hospitals, their
orphanages are nothing but factories for converting people into Catholics.)
Riêng ở Việt Nam, tưởng chúng ta cũng nên biết rõ sách lược của các giáo sĩ thừa
sai dùng trường học, giáo dục để Gia Tô hóa Việt Nam và sớm đưa Việt Nam vào
vòng đô hộ của Pháp như thế nào. Trong bài "Le Rôle Des Missionnaires
au Viêt-Nam: Un Décalage Dans Le Temps et Dans L'Espace", đăng trong
cuốn "Catholicisme et Sociétés Asiatiques", Yoshiharu Tsuboi
đã viết một cách rõ ràng về sách lược trên như sau:
"Trên bình diện tôn giáo, điều cấp bách là phải xây dựng tổ chức những
giáo xứ và củng cố sự hiện diện của Ca Tô Giáo bằng hệ thống giáo dục... Giám
mục Puginier ý thức được điều này và đã củng cố được nhiều cơ sở tại các nơi
đây. Trong nhiệm vụ của ông, nghĩa là, trong giáo xứ Bắc Kỳ miền tây, mỗi linh
mục phải nuôi nấng tại nhà một số trẻ nào đó, được chọn từ những gia đình Ki
Tô tốt nhất, trong những đứa thông minh nhất và có khả năng nhất. Từ 10 hoặc
12 tuổi, những đứa trẻ trên bắt đầu phục vụ ông linh mục và học chữ Nho và chữ
la tinh nhập môn. Tới 16 hay 18 tuổi, chúng được lọc lựa, tùy theo khả năng và
hạnh kiểm, để hoặc gửi đi các trường Dòng, hoặc vào các trường huấn luyện những
người dạy giáo lý, hoặc ở lại tiếp tục phục vụ ông linh mục...
Một mặt khác các ông linh mục cũng dạy học trò chủ thuyết Ki Tô, dùng chữ
Quốc Ngữ. Dùng Quốc Ngữ có hai lợi điểm: một mặt có thể tách biệt tinh thần triết
lý của Khổng Tử, mặt khác chữ này dễ học hơn.
Nếu những linh mục trong Phái bộ Truyền Giáo Hải Ngoại đặt nặng tầm quan
trọng vào giáo dục những đứa trẻ ở trong các trường học của họ, đó là vì họ nghĩ
rằng quyền lợi truyền giáo thì đồng nhất với quyền lợi thuộc địa. Đối với họ,
trường học là phương tiện tốt nhất để truyền bá niềm tin Ki Tô nhưng cũng là
để củng cố chính sách thuộc địa. Chúng ta hãy dẫn chứng thêm nơi đây lời của
linh mục Wibaux:
"Thật ra không có cách nào khác để đi vào dân bản xứ, những con dân
của Pháp Quốc, mau hơn và hữu hiệu hơn...Sự thành lập những trrường
học đích thực là cách tốt nhất để thuộc địa hóa và tuyên truyền tôn giáo.” (2)
Và ông Nguyễn Trường Tộ đã đề nghị triều đình đặt sự canh tân của xứ sở, sự quản
cố các trường học, viện dục anh vào trong tay những giám mục mà ông tin rằng "họ
chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo, chống gian tà???, làm trách nhiệm, chẳng liên
quan gì đến việc tranh thành tranh đất cả" (Điều trần số 1). Những
đề nghị này nằm ngay trong sách lược Ca Tô hóa Việt Nam của các giáo sĩ thừa
sai, và ông Nguyễn Trường Tộ có biết đến những sách lược này hay không? Lẽ dĩ
nhiên, Nguyễn Trường Tộ là bậc "tinh thông uyên bác về mọi vấn đề",
hay nói khác đi, biết đúng và sâu rộng về mọi vấn đề, nên không thể không biết,
nhất là ông ta được sự tin cậy của Giám mục Gauthier, luôn luôn cho ông theo
hầu suốt hơn 20 năm. Muốn giải đáp nghi vấn này chúng ta cần phải luận về hai
thuộc tính mà "người ta" thường gán cho ông Nguyễn Trường Tộ: một
kiến thức uyên bác và một lòng yêu nước cao độ. Đề nghị trên là một đề nghị ngu
xuẩn, trong khi chính nước Pháp, trưởng nữ của Giáo hội Ca-tô, đã lên tiếng loại
bỏ vai trò của các giám mục, linh mục trong lãnh vực giáo dục quần chúng, cùng
lúc chứng tỏ Nguyễn trường Tộ chỉ là một tín đồ Ca-tô ngu muội, chẳng có gì có
thể gọi là tinh thông uyên bác về mọi vấn đề.
e. Một Tư Tưởng Canh Tân Khác Rất Đặc Biệt Của Nguyễn Trường Tộ: ▲
Nguyễn Trường Tộ viết: Nay có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi.
Họ chỉ xin mình miếng đất mà thôi, nếu cứ kiên quyết không cho, họ sẽ lập mưu
cướp hết...
► Không thấy một nước Trung Hoa to lớn là thế mà còn phải cắt đất
cầu hòa... Việc cống nạp của Tống (nước Tống bên Tàu thời xưa nộp tiền và
hàng hoá cho nước khác, BK), tất cả đều lấy việc không đánh là hơn...
► Theo cách ngày nay thì nên để cho quân lính nghỉ ngơi, rồi làm
theo chước Hán Cao Tổ ngày xưa cắt Quan Trung cho hạng Võ (*) để họ
giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng
tới...
► Còn như các giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống lại gian
tà, làm trách nhiệm, chẳng liên quan gì đến những việc tranh thành tranh đất
cả...
Chương Thâu lấy làm tiếc là những tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ không
được đưa ra trước Đại Hội Đàng để Đảng học tập và áp dụng. Áp dụng tư tưởng của
Nguyễn Trường Tộ thì Đảng nên cho quân lính nghỉ ngơi, nhường ít đất cho Trung
Quốc rồi mời quân Tàu vào giữ bờ cõi giùm cho Việt Nam. Trong lúc Tổ-Quốc lâm
nguy, đang bị thực dân Pháp xâm lăng cướp nước với sự hỗ trợ của giáo dân bản
địa, toàn dân nổi lên chống Pháp khắp nơi, dù không có phương tiện chiến đấu
như Pháp, nhưng cũng làm cho quân Pháp sính vính, thì Nguyễn Trường Tộ lại khuyên
triều đình để cho quân lính nghỉ ngơi, không đánh, nhường đất để họ giữ
bờ cõi cho mình... Chắc Nguyễn Trường Tộ đã quen thuộc với “chiến thuật”
của Lê Chiêu Thống hay Trần Ích Tắc. Nhưng mà Nguyễn Trường Tộ thường được ca
tụng là người thông minh tuyệt đỉnh, là “Trạng Tộ”, và có lòng yêu nước không
ai bì kịp !
Đây là một nghịch lý, vì chúng ta không có cách nào có thể hòa hợp cái mà chúng
ta được bảo là “kiến thức uyên bác” và “lòng yêu nước của ông Nguyễn trường Tộ”
với những gì ông viết trong những bản điều trần. Thật vậy, nếu kiến thức của
ông Nguyễn Trường Tộ thuộc loại "bác học", nghĩa là, theo
linh mục Thiện Cẩm, “tinh thông về mọi vấn đề”, mà ông vẫn đưa ra những
ý kiến, đề nghị v..v.. mà ông không thể không biết là sai sự thực để lạc dẫn
triều đình Tự Đức, đưa nước nhà sớm vào cảnh nô lệ ngoại bang, đẩy mạnh mưu đồ
Ca Tô hóa Việt Nam song song với chính sách xóa bỏ nền văn hóa cổ truyền Việt
Nam, thì thực chất của ông là một tay sai đắc lực cho ngoại bang và cho
một thế lực tôn giáo Tây phương mà ông được huấn luyện, đào tạo trong
đó, chứ không phải là người yêu nước. Ngược lại, nếu ông là người yêu nước và
cho rằng những ý kiến, đề nghị của mình là đúng và có thể giúp được nước trong
giai đoạn sôi bỏng của đất nước, thì qua mấy điểm phân tách về những ý kiến đề
nghị của ông ở trên, không có cách nào chúng ta có thể coi ông là một người có
một kiến thức "tinh thông uyên bác về mọi vấn đề" vì nhiều
đề nghị quan trọng của ông được đặt trên những căn bản hiểu biết thiếu sót và
sai lầm. Có nhiều bằng chứng chứng tỏ ông Nguyễn Trường Tộ chẳng phải là người
yêu nước và cũng chẳng phải là người có một kiến thức tinh thông uyên bác. Phân
tích những đề nghị có hại cho quốc gia, không hợp thời và bất khả thi chúng ta
thấy rõ như vậy.
IV. Về Vài Xác Nhận Của Đặng Ngữ: ▲
Đặng Ngữ cho rằng Nguyễn Trường Tộ thất bại ở Việt Nam trong khi Fukuzawa Yukichi
thành công ở Nhật là vì, Đặng Ngữ viết: tôi dám cả gan mà xác nhận (sic) rằng:
- Việt Nam mình hoàn toàn không có tinh thần dung hóa.
- Người Việt Nam mình hủ lậu, bảo thủ, cố chấp... Nói tóm lại, người Việt
Nam chứa đầy tinh thần “bất dung".
- Việt Nam mình hoàn toàn không có tinh thần quốc gia.
Xin ông Đặng Ngữ đừng phiền nhé. Tên Ngữ ông nên viết theo tiếng Anh không dấu
thì tên này mới có vẻ thích hợp hơn. Tôi chẳng muốn phê bình những “xác nhận”
(sic) tầm bậy trên vì tôi thấy rõ Đặng Ngữ không biết gì về văn hóa lịch sử nước
nhà, tương tự như con chiên Nguyễn Gia Kiểng. Chắc mấy ông chưa bao giở biết
đến tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên của Việt Nam. Mấy ông cũng không biết là 1000
năm đô hộ mà Tàu cũng thể đồng hóa được Việt Nam. Và còn nhiều nữa. Chữ Quốc
Ngữ nguyên thủy nằm trong mưu đồ của các thừa sai thực dân để Ca-tô hóa Việt
Nam đã được Việt Nam dùng như một vũ khí để mở mang dân trí, vô hiệu hóa mưu
đồ trên và cuối cùng cũng đã đuổi bọn thừa sai, khâm sứ ra khỏi nước. Đặng Ngữ
nên tìm hiểu thêm về lịch sử Việt Nam. Phật Giáo vào Việt Nam trở thành Phật
Giáo Việt Nam trong khi Ca-tô Giáo vào Việt Nam vẫn giữ nguyên hình Ca-tô La
Mã. Trong cuốn Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm, đây là cuốn sách Đặng
Ngữ cần đọc để có một hiểu biết tối thiểu về lịch sử, văn hóa Việt Nam, tác giả
viết, trang 290:
Một trí thức Công giáo là ông Nguyễn Tử Lộc (1968) đã viết: “Sự truyền đạo
Công giáo vào Việt Nam và sự phát triển của đạo.., có một tính cách rất ngoại
quốc đối với phần còn lại của dân tộc. Tính chất ngoại quốc gồm cả hình thức
đến nội dung, từ lễ nghi, nghệ thuật đến lối sống, tín ngưỡng. Đạo Công giáo
có vẻ rất Tây, từ câu La Tinh đến ảnh tượng thờ, đến kiểu kiến trúc giáo đường,
đến quan niệm con người và vũ trụ.”
Ngoài ra chúng ta đã biết, hoạt động truyền giáo của các thừa sai đều làm tiên
phong hoặc đồng hành với quân thực dân xâm lược. Chính sách truyền đạo tai hại
của Ca-tô Giáo là biến các tín đồ bản địa thành một đám nô lệ, tuyệt đối cúi
đầu tuân phục các “bề trên” bất kể bề trên đã bắt họ phải phản quốc. Đây là những
sự kiện lịch sử không ai có thể chối cãi. Bởi vậy cho đến ngày nay, Ca-tô Giáo
vẫn còn xa lạ với dân tộc Việt Nam, điều mà có thể Đặng Ngữ cho rằng “không có
tinh thần dung hóa” hay “bất dung”. Không ai có thể phủ nhận là trên cơ thể Việt
Nam, Ca-tô giáo là một tế bào, sống cùng với Việt Nam. Nhưng coi chừng, tế bào
này có sẵn mầm mống, một loại gen, có thể biến thành một loại ung thư bất cứ
lúc nào, khi có cơ hội và điều kiện. Cho nên, bổn phận của nhà Nước và của cộng
đồng người “Lương”, là làm sao để cho tế bào này lành mạnh. Phương pháp duy nhất
là giáo dục.
Tạm kết luận:▲
Trên đây tôi đã phân tích một số ý kiến, nhận định và tư tưởng của Nguyễn trường
Tộ cùng đưa ra vài khía cạnh về cuộc đời của ông. Qua sự phân tích về những đề
nghị của Nguyễn Trường Tộ trong bối cảnh lịch sử của Việt Nam thời đó và tính
cách khả thi của những đề nghị của ông, chúng ta có thể khẳng định vài điểm:
1. Kiến thức của ông Nguyễn Trường Tộ về nhân sinh, vũ trụ, ngũ hành, thời thế,
tình hình thế giới v.v... không có gì đặc biệt nếu không muốn nói là hạn hẹp
một chiều.
2. Những đề nghị của ông về quân sự cũng không có gì đặc biệt, tựu trung chỉ
là những hiểu biết sơ đẳng. Nếu không biết những nguyên tắc sơ đẳng này và nhiều
hơn nữa thì lịch sử Việt Nam làm gì có những trận Chương Dương, Bạch Đằng, Đống
Đa, khoan nói đến chuyện Điện Biên Phủ, đường mòn Hồ Chí Minh và đường hầm Củ
Chi.
3. Những đề nghị của ông về “nhờ quân Pháp canh giữ đất nước giùm”,
“dùng giám mục để canh tân đất nước, đặt giáo dục, cứu tế xã hội vào tay
các giám mục”, để cho các “giáo sĩ tự do mở rộng đạo, chống gian tà”
là những đề nghị nguy hiểm, nếu không muốn nói là hại dân hại nước, vì nếu thi
hành thì Việt Nam sẽ mất hẳn nền độc lập và nền văn hóa đặc thù của mình.
4. Đề nghị của ông đào một con kênh từ Hải Dương đến Huế là một đề nghị không
tưởng, không thực tế và không xét đến khả năng kỹ thuật, nhân lực và tài lực
của nước ta vào thời đó.
5. Những đề nghị của ông về cải cách xã hội, giáo dục có phần nào giá trị trong
việc xây dựng đất nước trong tương lai dài hạn và trong tình trạng một xã hội
ổn định, nhưng không thể áp dụng ngay để đối phó với giặc ngoài giặc trong, trong
tình hình sôi bỏng của đất nước.
6. Kế hoạch đánh úp Gia Định và xin được chỉ huy cuộc đánh úp này trong khi đang
nằm ngửa trên giường bệnh viết điều trần và chưa hề có một kinh nghiệm binh bị
trực tiếp nào là một điều hoang tưởng, nhiều phần thất bại hơn là thắng, chưa
kể là kế hoạch này có thể đã lọt vào tay giám mục Gauthier rồi. Một mặt khác,
kế hoạch này mâu thuẫn với nhận định của ông trong một bản điều trần đã đệ trình
trước: "Quân Pháp rất anh hùng, dũng cảm; Quân ta mới nghe danh họ đã
phách lạc, hồn xiêu". Và “một lưỡi lê của Pháp có thể đương được
cả 100 người của ta”. Vậy lấy gì mà đánh, đánh có được không?
7. Ông cho rằng triều đình là Việt gian hoặc ngu lắm hay sao mà phải dặn đừng
tiết lộ với các giám mục những điều ông "mật báo" với triều đình,
dù rằng có phần chắc là ông đã mật báo với giám mục Gauthier.
Nhìn Nguyễn Trường Tộ dưới góc cạnh nào là tùy theo cảm tính cá nhân. Chúng ta
có thể nhìn riêng vào một góc cạnh nào đó và ca tụng ông theo cái góc nhìn đó.
Nhưng dù những lời ca tụng đó có thật đi chăng nữa thì một con én Ca-tô cũng
không thể làm nổi cả một mùa Xuân Ca-tô trên đất Việt. Huống chi, phân tích kỹ
thì Nguyễn Trường Tộ cũng không hẳn là một con én, mà có thể thực chất chỉ là
một con chim sẻ. Có nhiều bằng chứng lịch sử chứng tỏ như vậy. Và, một họa sĩ
có đôi chút hiểu biết thì chẳng bao giờ nên vẽ con chim sẻ Ca-Tô đậu trên cành
trúc Việt Nam.
* * *
Hãy vinh danh Phạm Phú Thứ thay vì Nguyễn Trường Tộ !
Có hai nhân vật cùng thời với Nguyễn Trường Tộ nhưng vượt trội Nguyễn Trường
Tộ về nhiều phương diện, từ đạo đức cá nhân, lòng yêu dân yêu nước, cho đến những
tư tưởng canh tân và những hoạt động thiết thực cho đất nước, nhưng tiếc thay,
vì hoàn cảnh đất nước thời bấy giờ, cũng không thể thực hiện được. Đó là Phạm
Phú Thứ, và Nguyễn Lộ Trạch, đặc biệt là Phạm Phú Thứ, sinh trước Nguyễn Trường
Tộ 9 năm. Công nghiệp của Phạm Phú Thứ thật là vĩ đại nhưng lại được ít người
nhắc tới, trong khi người ta cứ tiếp tụng ca tụng ồn ào và huênh hoang những
điều không thực về Nguyễn Trường Tộ. Tôi sẽ không đi vào chi tiết tiểu sử của
Phạm Phú Thứ mà chỉ kể sơ lược công nghiệp của ông mà tôi nghĩ cũng đủ để cho
thấy sự khác biệt về con người, kiến thức và tinh thần dân tộc của Phạm Phú Thứ
và của Nguyễn Trường Tộ. Nếu muốn đặt câu hỏi cho đúng thì trong đoạn trên của
Giáp Văn Dương, chúng ta phải thay Nguyễn Trường Tộ trong đó bằng Phạm Phú Thứ.
Vì giữa Phạm Phú Thứ và Fukuzawa Yukichi có khá nhiều điểm tương đồng, từ chủ
trương tự lực tự cường, đề nghị canh tân, lòng yêu nước cho đến những hành động
cụ thể xây dựng đất nước, như dịch các tác phẩm ngoại quốc v..v… mà chúng ta
sẽ thấy trong phần sơ lược tiểu sử Phạm Phú Thứ ngay sau đây, trong khi giữa
Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ không có gì giống nhau.
Theo tài liệu của https://vi.wikipedia.org/wiki/Phạm_Phú_Thứ về
Phạm Phú Thứ, và bài viết của Hữu Ngọc trên Internet:
Phạm Phú Thứ
Phạm Phú Thứ là một danh sĩ, danh thần triều Nguyễn, dưới thời Vua Tự
Đức. Ông đỗ đầu trong cả ba kỳ thi Hương , thi Hội, và thi Đình (đậu
Tiến Sĩ). Sau khi thi đỗ, ông vinh qui năm 1844 và được bổ làm quan
tại triều với chức Hành tẩu ở Nội các. Năm sau, thăng tri phủ Lạng Giang
(thuộc tỉnh Bắc Ninh). Năm Tự Đức 2 (1849), ông được đề bạt làm chức
Khởi cư chú (thư ký ghi lời nói và hành động của vua) ở Viện Tập hiền
rồi ở toà Kinh diên (phòng giảng sách cho vua). Tại đây, vì thấy vua
trẻ ham vui chơi, lơ là triều chính, trong lúc đất nước bắt đầu bị đe
dọa bởi giặc ngoài, ông mạnh dạn dâng sớ can gián nhà vua với những
lời lẽ thiết tha và thẳng thắn. Ông bị kết tội phạm thượng, bị cách
chức và đi đầy. Về sau, vua Tự Đức cho là ông chỉ nóng nẩy nên năm 1852,
ông được khôi phục hàm biên tu (hàm lúc sơ bổ) và năm 1854, được cử
làm tri phủ Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Tại đây,
ông
tổ chức và vận động dân chúng lập được hơn năm mươi kho nghĩa thương
để lo cứu tế cho dân gặp lúc hạn hán, bão lụt tại nhiệm
sở (Tư Nghĩa). Với việc làm đó ông được đề bạt giữ chức Viên ngoại bộ
Lễ năm 1855, được điều sang công tác quân sự để giải quyết cuộc bạo
động của người Thượng ở Đá Vách (thuộc tỉnh Quảng Nghĩa). Sau khi hoàn
thành nhiệm vụ ông được thăng chức án sát sứ (chánh án) tỉnh Thanh Hóa
(1856), rồi Hà Nội (1857).
Ngày 31-8-1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy
của trung tướng Rigault de Genouilly đã có mặt tại cửa Hàn (Đà Nẵng)
chuẩn bị tấn công .
Năm 1858, ông được chuyển về làm việc ở Nội các. Lúc bấy giờ, tàu
chiến Pháp và Tây Ban Nha vào bắn phá cửa Đà Nẵng lần thứ ba (lần
thứ hai năm 1856) và lần này tàn khốc hơn hai lần trước nhiều. Khi
đó, ông dâng sớ xin các quan lại, thân sĩ quê Quảng Nam, đang làm
việc tại Kinh về tỉnh nhà lập đội Nghĩa quân chống
giặc ngoại xâm, nhưng không được vua Tự Đức chấp thuận.
Năm 1858, nhân chuyến về quê dưỡng bệnh và cải táng mộ thân sinh,
khi trở về triều ông dâng sớ xin đắp đê Cu Nhí, đào sông Ái Nghĩa
đồng thời xây dựng công sự bố phòng và luyện tập quân sự ở
tỉnh nhà nhằm bảo vệ hải cảng Đà Nẵng.
Trong năm 1862, ông được cử làm phó sứ, cùng với chánh sứ Phan Thanh
Giản (link: https://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_Thanh_Gi%E1%BA%A3n )
và bồi sứ (sứ thứ ba) Ngụy Khắc Đản, sang Pháp và Tây Ban Nha với
nhiệm vụ xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Trong khi ở Pháp
phái bộ và ông còn đi thăm các nước ở Châu Âu như: Tây Ban Nha, Anh
Cát Lợi, Bồ Đào Nha...

Phái bộ đi Tây của Phan Thanh Giản
Về đến Huế, ông dâng lên triều đình và vua Tự Đức một số tài liệu
cùng bản tường trình trong chuyến công cán, trong đó có Tây hành
nhật kí và tập Tây phù thi thảo (tập này sau được xếp
vào quyển 8/26 của bộ Giá Viên toàn tập) ghi chép những
điều tai nghe mắt thấy và những cảm nghĩ về văn minh phương Tây, nhằm thuyết
phục nhà vua mạnh dạn canh tân đất nước hầu theo kịp văn minh thế
giới. Sau đó, ông được thăng thực thụ hàm Tả Tham tri
(bộ Lại) và được cử vào Viện cơ mật (cơ quan đầu não của Triều đình),
kiêm trông coi Viện Tập hiền. Ở cương vị này, ông dâng lên triều
đình nhiều đề nghị cải cách có ý nghĩa tích cực, nhằm làm
cho dân giàu, nước mạnh: nội dung các đề nghị trên gồm
các vấn đề:
– Ban bố sách của Nhà nước để việc học hành được thiết thực.
– Lập khoa thủy học (hàng hải) để chấn chỉnh việc quản lí ghe thuyền.
– Dịch sách nước ngoài để theo dõi tình hình thế giới.
– Khuyến khích các nghề thủ công, cho tự do dùng sắt, gỗ.
– Cấm người Hoa buôn bán gạo, bỏ thuế nấu rượu, giảm các khoản chi
phí về tuần tra ngoài biển.
– Mở rộng việc buôn bán với nước ngoài.
– Khai thác quặng và than đá.
Năm 1865, ông được thăng chức Thự Thượng thư (Bộ trưởng) bộ Hộ (Tài
chánh), đồng thời sung chức Cơ mật viện đại thần. Trong thời gian
này tuy bận công vụ quan trọng ông vẫn đề ra hai chủ trương nhằm bảo
vệ biên giới phía Tây Tổ quốc:
– Đặt Nha Thương Chánh ở Ninh Hải và cùng với lãnh sự Pháp mở cảng
ngoại thương (lịch sử cảng Hải Phòng chính thức bắt đầu từ đây).
– Khai rộng sông ở Bình Giang.
– Mở trường học tiếng Pháp ở Ninh Hải (đây là trường ngoại ngữ đầu
tiên do chính quyền mở trên đất nước ta).
Năm Nhâm Ngọ (1882), ông mất, hưởng thọ 61 tuổi.
Phạm Phú Thứ để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm có giá trị:
- Tây hành nhật ký (Nhật ký đi sứ phương Tây). Tập văn
này và tập thơ trên, ghi lại khá tỉ mỉ những điều mắt thấy tai
nghe về kinh tế, chính trị, phong tục, tập quán của người phương
Tây, trong chuyến đi sứ dài ngày vào năm 1863.
- Trúc Đường thi văn tập (Tập thơ văn của Trúc Đường)
- Giá Viên toàn tập (Toàn tập Giá Viên). Cả thảy có 26
quyển: 13 quyển thơ, 13 văn; gồm đủ các thể loại thơ,
tấu, phú, văn
tế, ký...
- Bản triều liệt thánh sự lược toản yếu
- Thuật tiên đức
- Lịch triều thống hệ niên phả toát yếu
- Bác vật tân biên (Sách khảo về các môn khoa học tự
nhiên).
- Khai môi yếu pháp (Phương pháp khai mỏ).
- Hàng hải kim châm (Kỹ thuật đi biển).
- Vạn quốc công pháp (Công pháp các nước).
Ngoài ra, ông còn cho khắc in để phổ biến một số sách thực dụng
do người Trung
Quốc dịch từ sách tiếng
Anh ra chữ
Hán, như: Bác vật tân biên (sách nói về khoa học), Khai
môi yếu pháp sách nói về cách khai mỏ), Hàng hải kim châm (sách
nói về cách đi biển), Vạn quốc công pháp (sách nói về cách
thức giao thiệp quốc tế). Nhận thấy đây đều là những sách cần thiết, tháng
3 nhuận (âm
lịch) năm 1879,
vua Tự
Đức đã “khiến quan tỉnh Hải
Dương (chỉ Phạm Phú Thứ) in cho nhiều mà bán, để quan lại và
học trò học tập. Đến tháng
7 nhuận (âm
lịch) năm 1881,
lại khiến tỉnh Hải Dương khắc in 4 bộ sách ấy để ban cấp cho các
trường học trong ngoài”.
Tương truyền kiểu xe nước ngày nay còn thông dụng ở các tỉnh miền
Trung là loại xe nước ở Ai Cập vào thế kỉ trước do ông vẽ lại mang
về áp dụng vào thời điểm ấy.
Hiện nay, lăng mộ cụ Phạm Phú Thứ ở tại quê nhà tại làng Đông Bàn
thôn Nam Hà 1 xã Điện Trung huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, đã được
chính quyền địa phương cùng con cháu dòng tộc Phạm Phú tôn tạo lại,
và đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Tên
ông cũng đã được dùng để đặt tên cho hai Trường trung học phổ thông
Phạm Phú Thứ tại Quảng Nam và Đà Nẵng, và được đặt tên đường Phạm
Phú Thứ ở nhiều tỉnh thành.
Trước những sự kiện về con người, về lòng yêu nước yêu dân, về những
tư tưởng canh tân thiết thực của một danh sĩ, danh nhân như Phạm Phú
Thứ, những ai còn có thể ca tụng lòng yêu nước của Nguyễn trường Tộ
thể hiện qua những đề nghị như “nhờ quân Pháp canh giữ đất nước
giùm”, “dùng giám mục để canh tân đất nước, đặt giáo dục,
cứu tế xã hội vào tay các giám mục”, để cho các “giáo sĩ
tự do mở rộng đạo, chống gian tà” v…v… hay những đề nghị canh
tân mơ hồ, hời hợt, không rõ rệt của Nguyễn Trường Tộ, xin cứ việc
lên tiếng. Sẽ không có ai phán xét trừ chính lương tâm trí thức của
mình.
Trần Chung Ngọc
Viết xong ngày 23 tháng 5, 2012
Mời đọc bài khác về NTT của Trần Chung Ngọc
- Nhân Đọc Cuốn "Nguyễn
Trường Tộ: Thời Thế & Tư Duy Cách Tân" Của Hoàng Thanh Đạm
- Nguyễn Trường Tộ
- Từ Huyền Thoại Đến Thực Chất
Chú thích Anh ngữ:
(1) (Christian missions were never solely Christian missions. They
were invariably preceded, accompanied, or followed by Western
warehouses, Western diplomacy, and Western armies. Whichever the
sequence, the result was eternally the same: the partial or total
loss of the regional, national, and racial liberty of the Asiatics,
wherever and whenever the Cross and the Western Hat had made their
appearance. The voluntary or forced acceptance of both was proclaimed
to be the victory of Christian civilization, and Christian civilization
came to mean whatever tended to be dominant - in other words,
whatever was Western - success very often depending on the appearance
of naval squadrons off the coasts.
Backward and highly civilized peoples lost their independence;
their cultures were ridiculed, the color of their skin became
a mark of opprobium; their past, present, and even potential future
achievements were scorned and despised... This while, at the same
time, Western religion preached universal brotherhood, Western
democracy, the rights of all men, and Western idealism the equality
of all races...
In fact, since its transplantation from Judea, Christianity had
become Western, and since then had become the dominant world religion,
not through the strength of its principles but through the physical
dominance of the White race... Christianity is still spurned by
most of Asia as being hopelessly identified with the rapacity
of the Western world, of Western Imperialism and of Western "White
supremacy".
To think, however, that Asia has rejected Christianity simply
because it is a by-product of the West would be erroneous. Science
and industrialism are Western by-products; yet they are welcome.
Marxism is a by-product of Western thought, yet a few decades
have sufficed to plant its seeds throughout the continent in which
almost two thousand years of Christian efforts were spent with
the most dismal result...
Whether Communism, as the inspirer of a world revolution, is beneficial
or harmful is anyone's opinion. Its phenomenal spreading, however,
is a fact. It has contributed to a swifter awakening of Asia,
to a quicker emergence of Asian nationalism, to a fiercer Asian
opposition to Christianity.
Could the mere preaching of an unadulterated Christianity or of
the basic principle of brotherhood (tứ hải giai huynh đệ) of man
have provoked such far-reaching Asiatic reaction? If not, what
was, and, indeed what is, its fundamental cause? The reply is:
Political Christianity.
Political Christianity has poisoned, at the very source, Asiatic-Western
relations. Since its inception in the Far East, Christianity,
having appeared in the apparel of religion, has always emerged
as a political force at the service of Western individuals and
nations. Protestantism is as guilty as Catholicism. Like the Catholic,
so also the Protestan missionaries were invariably preceded or
followed by traders, gun-boats, or military expeditions. Political
Protestantism, however, although guilty, cannot be put on a par
with Catholicism. The damage caused by political Catholicism in
Asia has been incommensurably greater than anything done by all
the other Christian Churches put together.
Unlike those of Protestantism, all its missionaries' activities
were fully co-ordinated and had specific religious-political goals.
By purposely employing political power to subdue Asiatic people
in the religious field, Catholicism poisoned Asiatic-Western relations
from the very beginning, and this poisoning has contributed, perhaps
more than anything else, to the inborn suspicions of the Asiatic
people towards the West, which has reverberated in all fields
to our present day.
The political claims of the Catholic Church upon non-Christian
lands are inseparable from her religious one. This owing to the
fact that, whenever sending out her missionaries, her aim is to
make the newly converted people simultaneously members of the
Church and subjects of the Pope. The two are inseparable. As in
the West, so also in the East, wherever there is the Catholic
Church there also is the Vatican; that is to say, Catholic diplomatic
and political interests.
Catholic missionaries, therefore, are automatically transformed
ito "political agents" and ultimately become the foundation
stones of the political power of the Catholic Church wherever
they erect Catholic communities...
Such Catholic religious-political activities have often produced
far-reaching effects, of a most nefarious nature, upon the history
of mankind. They became the direct cause of political and military
disasters in Western dealings with Asia; disasters popularly believed
to be due merely to the blunders, rapacity, and short-sightedness
of imperalistic nations, and never to the religious intransigence
of the Catholic Church, to the diplomatic duplicity of the Vatican,
or to the thirst for domination of both which, very often, by
befouling the current of history, have contributed to the perennial
detriment of the peaceful relationship of the peoples of the world.)
(2)
(Sur le plan religieux, l'urgent est de construire l'organisation des vicariats
et d'affermir la présence catholique notamment par le système d'éducation...Mgr
Puginier en a pris conscience et consolide les institutions en place. Dans sa
mission, c'est à dire, dans le vicariat du Tonkin occidental, chaque prêtre doit
élever chez lui un certain nombre d'enfants, choisis dans les meilleurs familles
chrétiennes, parmi les plus intelligents et les plus doués. Ces enfants commencent,
vers dix ou douze ans, à servir le père et à étudier les caractères chinois et
les premiers éléments du latin. Vers l'âge de seize à dix-huit ans, ils sont
sélectionnés, selon leurs capacités et leur conduite, soit pour enter au séminaire,
soit pour entrer à l'école des catéchistes, soit pour rester au service du père.
Par ailleurs, les missionnaires aprrennent aux élèves la doctrine chrétienne
en employant le quoc ngu. Le Quoc ngu présente deux avantages: d'une part, il
concourt à détacher les esprits de la philosophie confucéenne, d'autre part,
cette transcription est plus facile à assimiler que les caractères chinois...
Si les pères des Missions Étrangères accordent beaucoup d'importance à l'enseignement
des enfants dans leurs écoles, ils pensent alors que l'intérêt de l'évangélisation
s'identifie à celui de la colonisation. Pour eux, les écoles constituent le meilleur
moyen de propagation de la foi chrétienne mais aussi d'affermissement de la colonisation.
Citons, de nouveau, le père Wibaux: "Il n'y a pas d'ailleurs d'autre moyen
d'entrer plus rapidement et plus efficacement en relations avec les indigènes,
sujets de la France...La création des écoles est donc le meilleur moyen de colonisation
et de propagande religieuse.")
Các bài lịch sử cùng tác giả
▪
Nhận Định Về DVD “Sự Thật Về Hồ Chí Minh” -
Trần Chung Ngọc
▪
Vài Nét Về Cụ Hồ -2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Ôn Lại Vài Nét Về Sự Thật Lịch Sử Để Tưởng Niệm Đại Tướng Võ Nguyên Giáp -
Trần Chung Ngọc
▪
Ai Là Ác Nhân Nhất Thế Kỷ 20 ? -
Trần Chung Ngọc
▪
ĐIỆN BIÊN PHỦ, hay Đâu Là “Sự Thật Lịch Sử” Của Lữ Giang -
Trần Chung Ngọc
▪
ĐIỆN BIÊN PHỦ, hay Đâu Là “Sự Thật Lịch Sử” Của Lữ Giang -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giết Mọi Thứ Di Động: Cuộc Chiến Thực Sự Của Mỹ Ở Việt Nam -
Nick Turse/ Trần Chung Ngọc gt
▪
Ký Giả Wilfred Burchett Viết Về Cụ Hồ Chí Minh -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện 50 Năm Trước -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện 50 Năm Trước -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Vẫn Là Huyền Thoại “Nguyễn Trường Tộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Nguyễn Trường Tộ - Từ Huyền Thoại Đến Thực Chất -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhìn Lại Hai Cuộc Chiến Ở Việt Nam - Một Khảo Luận Qua Các Tài Liệu -
Trần Chung Ngọc
▪
Phần II - Nhìn Lại Hai Cuộc Chiến Ở Việt Nam - Cuộc Chiến 20 Năm Chống Mỹ: 1955-1975 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tôi Đọc Bài Của PCD Về ĐT Võ Nguyên Giáp -
Trần Chung Ngọc
▪
Tôi Đọc: “Việt Nam Cộng Hòa - Nạn nhân của chính sách 'Ngậm máu phun người'” của Đặng Chí Hù -
Trần Chung Ngọc
▪
Tâm Viên Ý Mã - Đặc San Trưng Vương Houston 2000 -
Trần Chung Ngọc
▪
Thêm Vài Nét Về “Cụ Hồ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Thư mục chọn lọc để tham khảo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 ▪
>>>