ối với người dân Đông Phương, các nhà tu hành của
một đạo giáo là tiêu biểu cho đạo đức để cho mọi người coi đó như là một tâm
gường sáng noi theo mà hành xử. Cũng vì lẽ này mà khi nói đến các nhà tu hành
của bất kỳ một tôn giáo nào là người ta nghĩ ngay đến những thiện tính như thật
thà, hiền lành, ngay thẳng, thẳng thắn, quang minh chính đại, không nóng nẩy,
không háo thắng, không huênh hoang khoác lác, không ham lợi lộc, không ham phú
quý, không màng công danh. Vì lẽ này mà những ác tính như lươn lẹo, tráo trở,
gian xảo, háo sắc, háo danh, tham lợi và thèm khát quyền lực là những điều tối
cấm kỵ đối với các nhà tu hành. Thảng hoặc có một nhà tu hành nào vướng mắc vào
những thức cấm kỵ trên đây thì sẽ bị coi như là hạng người “mượn danh đạo đạo
tạo danh đời” hay “hạng người lưu manh buôn thần bán đội lốt thày tu”
và sẽ bị người đời khinh rẻ lánh xa như lánh những người mắc chứng bệnh phong
củi. Thiết tưởng rằng không mấy ai lại không biết cái quan niệm này của người
dân Đông Phương đối với các nhà tu hành.
Ấy thế mà đối với đạo Da-tô lại hoàn toàn khác
hẳn. Sự khác biệt này đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Mục III bằng
cả một chương sách có tựa đề là Bộ Máy Cai Trị Của Đế Quốc Ki-tô La Mã và Các
Vai Trò Của Giáo Sĩ Da-Tô. Đồng thời, hậu quả của chủ trương đào tạo các nhà
tu hành một cách khác thường này trong đạo Da-tô đã đưa đến thảm họa cho nhân
loại như chúng tôi đã trình bày đầy đủ ở trong Mục V và Mục VI ở sau.
Trong tiểu mục này, chúng tôi chỉ trình bày một
đặc tính vô cùng xấu xa của một vị giáo chủ của Giáo Hội La Mã là tráo trở và
lươn lẹo. Ác tính này là một trong những điều hết sức cấm kỵ đối với các nhà tu
hành theo quan niệm của người dân Đông Phương. Nó lại càng trở nên cấm kỵ hơn
đối với một vị giáo chủ của một tôn giáo cũng như đối với một nhà lãnh đạo quốc
gia.
Ấy thế mà một vị lãnh đạo tối
cao của Giáo Hội La Mã lại mang nặng ác tính ghê tởm này! Phần trình bày dưới
đây sẽ cho chúng ta thấy rõ sự thật của vấn đề:
Hầu như toàn thể nhân dân thế
giới đều biết rằng từ đầu thập niên 1980, Giáo Hoàng John Paul II thường luôn
luôn kêu gọi hòa hợp và hòa giải với các tôn giáo khác trên thế giới. Để biểu lộ
thành ý của Giáo Hội trong việc này, Ngài đã đích thân tham dự và chủ tọa buổi
cầu nguyện chung trong đó có một số khá nhiều các nhà lãnh đạo các tôn giáo khác
nhau được tổ chức tại Assise (Ý Đại Lợi) vào ngày 27/10/1986. Sự kiện này
được nhà trí thức Da-tô Trương Tiến Đạt ghi lại trong cuốn Trước Cơn Giông Tố
như sau:
“Về phần Giáo Hoàng đương kim
Gio-an Phao-lô Đệ Nhị, hiện nay hầu như ai cũng phải công nhận rằng ngài là một
người thánh thiện, nhưng nhiều hành vi của ngài trong quá khứ hoặc trong thời
gian gần đây chứng tỏ ngài mất đức tin hoặc đức tin rất lạng quạng. Thí dụ ngày
27/10/1986, ngài đã tổ chức buổi cầu nguyện tại Assise (Ý), trong đó
ngài mời các lãnh tụ của mọi tôn giáo tới để “cùng cầu nguyện với ngài”. Chủ đề
của buổi cầu nguyện chung này là “Thiên Chúa và mầu nhiệm của Người được thể
hiện nơi mỗi tôn giáo. Đức Giáo Hoàng có ý nói rằng đạo nào cũng có Thiên
Chúa trong đó, dưới hình thức này hay hình thức khác.” [1]
Lời nói “Thiên Chúa và mầu nhiệm của Người được
thể hiện nơi mỗi tôn giáo”vừa mới thốt ra khỏi cửa miệng Ngài chưa
ráo nước miếng, thì:
1.- Năm 1994, trong cuốn Crossing the
Threshold of Hope, ngài lại khẳng định rằng:
"Buddhism is in large measure
and "atheistic" system." (Đạo Phật là một hệ thống thuyết lý "vô thần") và
: “Islam is not a religion of redemption = Hồi giáo không phải là một tôn
giáo cứu độ.”[2].
2.- Rồi tới ngày 5 tháng 9 năm 2000, Giáo
Hội lại còn trâng tráo công bố Bản Tuyên Ngôn "Nulla Salus Extra Ecclesiam" nói
rằng "Không có cứu độ ngòai Giáo Hội La Mã". Khi viết câu nói trên đây,
Giáo Hội có ý muốn nói rằng, "chỉ có Giáo Hội mới có thể mang lại "ơn cứu độ"
cho người đời. "[3].
Cho đến ngày nay (2007) Giáo Hội vẫn còn khẳng
định rằng, “Giáo Hội La Mã là con đường độc nhất đưa đến sự được cứu rỗi” (The
only way to salvation is through the Catholic Church). Lời tuyên bố xấc xược
ngược ngạo này đã làm cho ngay cả những tín đồ Ki-tô La Mã thuộc loại thuần
thành cũng cảm thấy bối rối khó chịu, chứ đừng nói đến các tín đồ Ki-tô thuộc
các hệ phái khác. Sự kiện này được tác giả Steve Maynard ghi nhận trong bài viết
“Pope’s words won’t break local bond” [lời tuyên bố của Giáo Hoàng (Benedict
XVI) không làm cho mối thân tình (giữa các hệ phá Ki-tô) tan vỡ]. Bài viết
này được phổ biến trên tờ The News Tribune (Tacoma, Washington) ngày Thứ Hai
23/7/2007 trong đó có mấy đoạn với nguyên văn như sau:
“Mục sư David Alger, Giám Đốc
tổ chức Liên Hiệp Mục Vụ có căn cứ tại Tacoma nói, “Không phải chỉ có tín đồ Tin
Lành sửng sốt, kinh hoàng và bị tổn thương. Có rất nhiều tín đồ Ki-tô La Mã cũng
lo ngại và đang vật lộn để tìm hiểu lời tuyên bố này muốn nói cái gì.” Nguyên văn: “Protestants are not only ones shocked, dismayed and hurt by the
Vatican’s statement, said the Rev. David Alger, executive director of
Tacoma-based Associated Mininstries. “A lot of Catholics are deeply troubled
and are struggling with what this all means.” said Alger, an ordained
Prebyterian.”[4] -
Những hành động trên đây của Giáo Hội hoàn toàn
trái ngược với (hay phản lại) lời tuyên bố "Thiên Chúa và mầu nhiệm của
Người được thể hiện nơi mỗi tôn giáo” mà Giáo Hòang John Paul II đã lớn
tiếng công khai khẳng định khi Ngài chủ tọa buổi cầu nguyện chung với các nhà
lãnh đạo của các tôn giáo khác do chính Ngài tổ chức tại Assise ở Ý Đại Lợi vào
ngày 27/10/1986.
"Quân bất hí ngôn". Làm vua không nói
láo. Ấy thế mà Giáo Hội La Mã và ông Hoàng Đế của Đế Quốc Vatican thường
được gọi là "Giáo Hòang" lại nói láo như cuội. Khi kêu gọi hòa hợp
và hòa giải với tôn giáo khác cũng như khi ngồi cầu nguyện chung với các nhà
lãnh đạo các tôn giáo khác, thì Giáo Hoàng John Paul II nói rằng: “Thiên
Chúa và mầu nhiệm của Người được thể hiện nơi mỗi tôn giáo". Nhưng khi
viết cuốn Crossing The Threshol Of Hope, thì Ngài lại tuyên bố rằng, "Buddhism
is in large measure an athetistic system" (Trên một phạm vi rộng lớn, Phật
Giáo là một hế thống vô thần); khi tiếp xúc với ông Giám-mục Emmanuel
Milingo để xử lý vụ hôn nhân đi vào lịch sử này, thì ngài lại ra lệnh cho
ông giám-mục này phải: “từ bỏ cuộc sống chung với bà Maria Sung và cắt đứt
liên hệ với Mục Sư Moon cũng như tổ chức Family Federation For World Peace";
và đặc biệt nhất là ngày 5 tháng 9 năm 2000, Ngài lại cho công bố Bản
Tuyên Ngôn "Nulla Salus Extra Ecclesiam" nói rằng "Không có cứu độ
ngòai Giáo Hội La Mã".
Những hành động tiền hậu bất nhất, lươn lẹo, lật
lọng và tráo trở như vậy của Ngài khiến cho nhân dân thế giới phải đặt vấn đề về
tư cách đạo đức của Ngài và cũng là tư cách đạo đức của nhà lãnh đạo tối cao của
Giáo Hội La Mã.
VIII.- MỘT
HÀNH ĐỘNG DÃ MAN CỦA GIÁO HOÀNG JOHN PAUL II
Ngoài những hành động tráo trở và lật lọng trên
đây, Giáo Hoàng John Paul II còn chủ tâm phá nát hạnh phúc gia đình của vợ chồng
ông Giam-mục Emmanuel Milingo. Vấn đề này đã được trình bày đầy đủ trong một
chương sách trước cũng ở trong Mục IV này. Ở đây, chúng tôi chỉ xin ghi
lại văn tắt như sau:
Giám-mục Emmanuel Milingo 71 tuổi, nguyên gốc là
người nước Zambia (Châu Phi). Ngày 27/5/2001, ông giám mục này đã thành hôn với
bà Maria Sung 43 tuổi, một y sĩ người Nam Hàn. Họ đã thành vợ chồng có hôn phối
và đã làm phép cưới tại một nhà thờ Thiên Chúa Giáo (thuộc hệ phái khác) tại New
York do tu sĩ Sun Myung Moon làm chủ lễ.
Khi được tin này, Tòa Thánh Vatican cho người tiếp
xúc với Giám-mục Milingo và đòi ông phải đến gặp Giáo Hoàng vào ngày Thứ Ba
trong tuần đầu tháng 8/2001. Khi đến gặp Giáo Hoàng John Paul II, Giám Mục
Milingo bị cưỡng bách phải bỏ rơi bà vợ yêu quý của ông trước ngày 20/8/2001,
nếu không thì sẽ bị rút phép thông công. Sự kiện này được tờ The News Tribune
(Tacoma) loan tin như sau:
"Tòa Thánh Vatican đe dọa sẽ
phạt vạ tuyệt thông ông Milingo nếu ông không bỏ rơi người vợ cúa ông vào ngày
20/8; ra lệnh cho ông phải cắt đứt mối liện hệ với giáo phái của mục sư Moon,
phải công khai hứa sống đời độc thân, "phải biểu lộ lòng tuân phục đối với Giáo
Hòang." Nguyên văn: “Vatican had threatened to excommunicate Milingo
if he didn’t leave his wife by August 20, sever his ties with Moon’s movement,
publicly promise to remain celibate and “manifest his obedience to the Supreme
Pontiff."[5]
Đối với nền văn hóa Đông Phương, những kẻ nào có
dã tâm làm cho vợ chồng người ta bỏ nhau hay phá nát hạnh phúc gia đình của
người khác sẽ bị coi như là hạng người độc ác và dã man, dã man hơn cả loài súc
sinh. Như vậy là dưới con mắt của người dân Đông Phương, Giáo Hoàng John Paul II
là hạng người độc ác và dã man hơn cả loài súc sinh. Điều khôi hài là hạng người
súc sinh này lại Đức Thánh Cha của Giáo Hội và được Giáo Hội và tín đồ Da-tô tôn
phong như là ông thánh của Giáo Hội.
Giáo Hoàng John Paul II là một trong bốn giáo
hoàng [John XXIII (1956-1963), Paul VI (1963-1978), John Paul I (1978), John
Paul II (1978-2005)] được coi như là khá nhất về đức độ trong số 266 giáo hoàng
của Giáo Hội La Mã mà còn hành xử lật lọng, lá mặt lá trái và dã man như vậy,
thử hỏi những giáo hoàng thuộc loại trung trung và hàng trăm giáo hoàng thuộc
loại hung thần ác quỷ, thì chắc chắn là kinh khủng ghê gớm lắm! Vấn đề này sẽ
được trình bày đầy đủ trong Mục V và Mục VI tiếp theo Mục IV này..
IX.- HÀNH XỬ GIỐNG NHƯ MỘT TÊN LÁI BUÔN CHÍNH TRỊ
Giáo Hoàng John Paul II không những đã có những
hành động tráo trở, lật lọng, lá mặt lá trái và dã man như trên, mà Ngài còn có
những hành động của một tên lái buôn chính trị, hành xử theo sách lược “mềm rắn
nắn buông”. Dưới đây là bằng chứng:
Cũng trong năm 2001 ngày 24 tháng 10 vừa qua, Giáo Hoàng John Paul
II chính thức công khai xin lỗi Trung Hoa mà không thèm xin lỗi Việt Nam
trong khi tội ác của Giáo Hội đối với dân tộc Trung Hoa. Nếu đem so với những tội
ác của Giáo Hội đối với dân tộc Việt Nam, THÌ thì chẳng khác nào như đem mô đất
thấp lè tè để bên cạnh rặng núi Thái Sơn!
Người Việt Nam thường nói "ma bắt nạt tùy mặt" và
"mềm nắn rắn buông" để nói lên những hành động của những bọn du côn, bọn
ăn cướp đối với những người lép vế thế cô hay những hành động ăn cướp của các đế
quốc thực dân xâm lược đối với các tiểu nhược quốc. Việc Giáo Hội xin lỗi Trung
Hoa mà không xin lỗi Việt Nam ở vào trường hợp này. Giáo Hội tự phong là "Hội
Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo tông truyền" và là "Hỉền Thê của
Thiên Chúa Làm Người", tự phong là tôn giáo của bác ái, của tình thương mà
lại có thể hành động giống như bọn "du côn", "bọn ăn cướp", "bọn
ma xó" như vậy được sao? "Hỉền Thê của Thiên Chúa Làm Người" gì mà
lại khốn nạn như vây? Thật là tội nghiệp cho Chúa Kitô lại có người "Hiền
Thê" mà "nhân dân Âu Châu phải tránh xa như tránh hủi."[6]. Hành động như vậy, tức là Giáo Hoàng John Paul II đã bôi
nhọ cái đạo Ki-tô La Mã do chính Ngài là giáo chủ. Đây là một sự thật không ai
có thể phủ nhận được. Sự thật này được cụ Trần Văn Kha ghi nhận như sau:
"Bôi nhọ đạo Công Giáo chỉ
có thể là những người Công Giáo. Chúng tôi nghĩ là các linh mục hiếp dâm con
nít, hiếp dâm nữ tu, hiếp dâm lẫn nhau, hiếp dâm tín đồ trong nhà thờ, như đã
trình bày trong các bài "Lạm Dụng Tình Dục" và "Linh Mục Hiếp Dâm", trang 843 và
882, v.v.., mới chính là những người "bôi nhọ" đạo công giáo. Còn Giáo Hòang
John Paul II thì bôi nhọ việc phong thánh, phong thánh bừa bãi, khi Ngài phong
thánh cho 120 người trong đó 87 người Tàu và 55 thừa sai bị giết ở Tàu trong
khoảng từ năm 1648 đến 1930.
Sau khi bị Trung Cộng phản
đối (về việc Giáo Hội La Mã phong thánh cho 120 giáo sĩ và tín đồ Da-tô bị chính
quyền Trung Hỏa xử tử vào hồi đầu thế kỷ 20 về tội phá rối trị an - NMQ), Ngài
xin lỗi "Giáo Hòang Xin Lỗi Tàu vì Những Sai Lầm Của Thừa Sai" (Pope
Apologizes to China over Missionary Errors)":
"Giáo Hòang John Paul đã đưa
cành ô liu cho Tầu khi Tàu nổi giận cho những người tử đạo mà họ gọi là những
tên "tội phạm ma quỷ", bằng cách xin lỗi bất cứ những sai lầm nào của những thừa
sai Âu Châu trong thời kỳ thuộc địa". (Pope John Paul has extended an olive
branch to China, which is angry at the canonization of martyrs it calls
"evil-doing sinners", by apologizing for any errors committed by Western
missionaries in colonial times.)”
[7]
.
Đây không phải sự vô tình mà là hành động có chủ
tâm theo chính sách đã được hoạch định sẵn, và đây cũng không phải là lần đầu
tiên Giáo Hội mới bắt đầu thi hành chính sách này, mà là rất nhiều lần và nó đã
biến thành chủ trương của Giáo Hội. Hiển nhiên là cái chủ trương này của Giáo
Hội đã được thi hành từ thời Trung Cổ. Chính vì thế mới có chuyện văn hào
Voltaire gọi đạo Da-tô là "cái tôn giáo ác ôn[8] và học giả Henri Guillemin phải gọi Giáo Hội La Mã
là cái "Giáo Hội Khốn Nạn.".
[9]
X.- NHỮNG HÀNH ĐỘNG ĐÁNH PHÁ VIỆT NAM THEO KẾ SÁCH QUẬY CHO NƯỚC ĐỤC ĐỂ THẢ CÂU
Quỷ quyệt hơn nữa, Giáo Hội không những đã không
xin lỗi Việt Nam, mà lại còn có những thủ đoạn "ẩy chó bụi rậm" và "xúi
trẻ con ăn cứt gà" mà chúng ta đã từng thấy đã và đang được tiến hành qua
bọn cán bộ và tín đồ bồi bút người Việt của Giáo Hội tjai các cộng đồng nười
Việt hải ngoại ở Bắc Mỹ, Úc Châu và Âu Châu.. Phần trình bày dưới đây cho chúng
ta thấy rõ vấn đè này.
Giáo Hội La Mã là thế lực theo chế độ tăng lữ quân
chủ trung ương tập quyền (sarcerdotal monarchy) đã dạy dỗ tất cả mọi tu sĩ các
cấp và giáo dân rằng:
1.- Phải tuyệt đối tin tưởng vào tất cả những tín
lý Ki-tô.
2.- Phải triệt để tuân hành tất cả giáo luật, tập
tục, lời dạy và lệnh truyền của Giáo Hội.
3.- Giáo Hội là Hội Thánh duy nhất , thánh thiện,
công giáo và tông truyền, là Hiền Thê của Thiên Chúa Làm Người, và là đại diện
duy nhất của Chúa ở cõi trần gian này.
4.- Giáo hoàng là đại diện cho Chúa Bố Jehovah và
Chúa Con Jesus, giáo hoàng không bao giờ lầm lẫn. Vì thế, ở bất cứ trường hợp
nào, khi diện kiến cũng như khi vắng mặt hay những khi nhắc đến từ giáo hoàng
đều phải coi giáo hoàng như là Chúa thực sự ở trước mặt.
5.- Tất cả những giáo sĩ hay tu sĩ từ hồng y, tổng
giám mục, giám mục, đức ông cho tới các linh mục trong các dòng tu hay quản
nhiệm các họ đạo tại các địa phương đều là đại diện cho Chúa tại địa phương quản
nhiệm của họ. Tín đồ phải coi họ như là Chúa thực sự ở vào bất cứ trường hợp nào
khi đối diện cũng như khi vắng mặt, ở nhà thờ cũng như ở bất cứ ở đâu.
6.- Nếu các Ngài có làm gì không đúng hay sai
quấy, thì đã có Chúa phán xét; tín đồ không được phê phán; phê phán các Ngài tức
là phê phán Chúa và sẽ bị Chúa trừng phạt.
7.- Tất cả những gì giáo hoàng và các ông tu sĩ
nghĩ, nói và làm đều là nghĩ, nói và làm theo ý Chúa;
8.- Tất cả những gì giáo hoàng và các ông tu sĩ
nghĩ, nói và làm đều phải được tín đồ coi như là khuôn vàng thước ngọc theo đó
mà hành xử và hành xử theo hệ thống dọc từ trên xuống dưới theo quy luật càng
xuống cấp dưới càng rộng rãi và càng mạnh mẽ, giống như từ đỉnh A xuống tới đáy
AB cúa một tam giác cân hay từ đỉnh một kim tự tháp xuống tới đáy của nó.
HIỆU QUẢ CỦA NHỮNG LỜI DẠY CỦA GIÁO HỘI.-
Giáo dân Da-tô La Mã được các Ngài dạy dỗ (nhồi
sọ) rằng:
1.- Giáo hoàng là vị lãnh đạo tối cao của Giáo
Hội, được gọi là Đức Thánh Cha được coi như là hiện thân của Chúa và “không bao
giờ lầm lẫn”,
2.- Nhất cử nhất động từ lời nói cho đến hành động
(bất kể là đúng hay sai) cũng đều phải nhắm mắt coi như là tấm gương sáng để
noi theo mà hành xử bởi vì đó là lời nói và hành động của Chúa hay theo ý Chúa.
Tín đồ nào làm được như vậy sẽ được Giáo Hội gọi
là con chiên “ngoan đạo” hay “sống đạo theo đức tin Ki-tô.”, “sống theo lương
tâm công giáo”.
Do đó, khi Giáo Hoàng John Paul II có những hành
động tráo trở, lật lọng, lươn lẹo, dã man cùng với những thủ đoạn của bọn con
buôn chính trị “mềm nắn rắn buông” như đã trình bày trên đây và nói ngược (sẽ
nói rõ ở sau), tất nhiên là giáo dân Da-tô La Mã cũng phải hăng hái nỗ lực noi
gương ông mà hành xử giống như vậy. Đúng là nhà dột từ nóc dột xuống. Bởi thế,
chúng ta khống lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy trong bất kỳ phạm vi sinh hoạt
nào, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, tín đồ Da-tô người Việt cũng hành xử
giống y như Giáo Hoàng John Paul II và các giáo hoàng khác. Với hoàn cảnh hiện
nay, những hành động của họ đều nhắm vào một mục đích chửi bới, hạ nhục, nguyền
rủa chính quyền Việt Nam và gây rối trong xã hội theo kế sách “quậy cho nước đục
tạo cơ hội để cho Giáo Hội nhẩy vào để thả câu”, giống như họ đã làm trong thế
kỷ 19 để hỗ trợ cho việc Giáo Hội lúc bấy giờ đang nỗ lực vận động với chính
quyền Pháp liên minh với Giáo Hội xuất quân đánh chiếm Việt Nam. Dưới đây là một
số trường hợp điển hình:
Trường hợp 1.- Trong năm 2001, một tên tín
đồ bồi bút của Giáo Hội cho phát hành một cuốn sách có tựa đề là "Tổ Quốc Ăn
Năn" trong đó tác giả đặt ra một vấn đề ngược ngạo rất Da-tô như sau:
"Việc bách hại người Công Giáo
là một vết nhơ khó tẩy xóa trong lịch sử Việt Nam. Đó là sự kiện chính nhà nước
Việt Nam, chứ không phải một đoàn quân xâm lược nào, đã tàn sát một số lớn người
Việt Nam hoàn toàn vô tội. Thảm kịch còn lớn hơn nữa vì nhà nước đó biết họ vô
tội nhưng vẫn giết họ. Điều đáng ngạc nhiên là cho tới nay chưa có một chính
quyền nào, nhân danh sự liên tục của quốc gia, tổ chức một ngày để xin lỗi những
người Công Giáo về sự sai lầm kinh khủng đó." .
[10].
Rõ ràng là khi viết và công bố đoạn văn quái đản
trên đây trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn, tác giả đã:
1.- Phủ nhận hết tất cả những tội ác của Giáo Hội
La Mã trong việc vận động chính quyền Pháp cấu kết với Giáo Hội và xuất quân
đánh chiếm Việt Nam để cùng thống trị và cùng chia nhau lợi nhuận,
2.- Phủ nhận những việc làm của tín đồ Da-tô người
Việt trong việc bất tuân lệnh chính quyền và nổi loạn chống trều đình Huế để
tạo nên tình hình bất ổn theo đúng sách lược “Quậy cho nước đục để thả câu”
của Giáo Hội La Mã. Nhờ vậy Giáo Hội mới có cái cớ vận động chính quyền Pháp cấu
kết với Giáo Hội xuất quân đánh chiếm Việt Nam.
3.- Phủ nhận tội ác của tín đồ Da-tô tình nguyện
làm những công việc đưa đường, chỉ lối, thông ngôn và chỉ điểm cho Liên Quân
Pháp – Vatican trong các cuộc hành quân tấn công đánh chiếm Việt Nam và trong
các cuộc hành quân tổng càn tiêu diệt các lực lượng nghĩa quân chống giặc xâm
lăng của nhân dân ta.
4.- Phủ nhận việc tín đồ Da-tô người Việt trực
tiếp chỉ huy hay võ trang và tiếp viện cho liên Quân Pháp – Vatican trong các
chiến dich tổng càn và tiêu diệt các lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân
dân ta dưới quyền lãnh đạo của các nhà ái quốc như Trương Công Định, Nguyễn
Trung Trực, Mai Xuân Thưởng, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công
Tráng, Hoàng Hoa Thám, Lương Ngọc Quyến, Trịnh Văn Cấn, Nguyễn Thái Học,. v.v…
Ông Da-tô cuồng tín Nguyễn Gia Kiểng, tác giả cuốn
sách này, dù đã tốt nghiệp một đại học ở Pháp mà cũng không biết gì về việc Giáo
Hội đã phạm cả hàng chục rặng núi tội ác chống lại nhân loại trong gần hai ngàn
năm qua và đã liên tục chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam từ cuối thế kỷ 18
(từ năm 1784) cho đến ngày 30/4/1975, cho nên mới viết đoạn văn ngược ngạo trên
đây. Rõ ràng là giọng điệu ngược ngạo y hệt như giọng điệu ngược ngạo của Giáo
Hội đã hành xử từ thời Trung Cổ, ngược ngạo giống y như Giáo Hoàng John Paul II
khi ông tuyên bố trong buổi lễ cáo thú tội ác của Giáo Hội vào ngày Chủ Nhật
12/3/2000 rằng,"Chúng tôi xin tha thứ vì những..., vì việc sử dụng bạo
lực mà một số Kitô hữu đã dùng trong khi bảo vệ chân lý.(sịc)”
(Sẽ
được trình bày đầy đủ ở trong một tiết mục khác ở sau.)
Trường hợp 2.- Cũng trong
năm 2001, Lịnh-mục Nguyễn Văn Lý mở màn chiến dịch gây rối ở nhà thờ và xóm
đạo Nguyệt Biều tại làng Thủy Biều nằm trong giáo phận Huế từ tháng 11/1994 kéo
dài trong nhiều năm. Trong những hành động gây rối này, có cả yêu sách đòi lại
khối tài sản bất động sản của Giáo Hội La Mã đã bị chính quyền tịch thu. Ngoại
trừ những tín đồ Da-tô cuồng tín, ai cũng biết rằng khối bất động sản này là một
phần trong những khối tài sản kếch sù mà Giáo Hội đã dựa vào chính quyền Liên
Minh Pháp-Vatican trong thời kỳ 1862-1954, và Liên Minh Mỹ-Vatican trong những
năm 1954-1975 để cướp đọat tài nguyên, kinh tài bất chính và ăn chặn tiền ngoại
viện cho miền Nam Việt Nam (trong những năm 1954-1975). Sự kiện này đã được các
nhà viết sử trình bày khá đầy đủ trong các sách:
1.- Thập Giá Và Lưỡi Gươm của Linh
-mục Trần Tam Tỉnh (Paris, Sudestasie, 1978), tr 48-49
2.- Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan
Phao Lồ II của nhiều tác giả (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1996), tr 242-245.
3.- Vatican Thú Tội Và Xin Lỗi?
của nhiều tác giả (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1996), tr 184-199
4.- Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hoà Toàn
Thư 1954-1963 của Nguyễn Mạnh Quang (Houston, TX: Văn Hoá, 2000), tr.399-432 và
trong lá Thư Ngỏ gửi Giáo Hoàng John Paul II đề ngày 19/9/1999 in trong cuốn
sách này nơi các trang 547-558.
Vì hành động gây rối chống lại
tổ quốc Việt Nam như vậy, Linh-mục Lý bị chính quyền Việt Nam bắt giữ vào ngày
1/5/2001. Nhân việc Linh-mục Lý bị bắt giữ, Giáo Hội ra lệnh cho các cơ quan
truyền thông tay sai của Giáo Hội ở hải ngoại tuyên truyền rằng chính quyền Việt
Nam đang đàn áp tôn giáo. Dựa vào những việc làm này, Giáo Hội mới có lý do lên
tiếng đòi chính quyền Việt Nam phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo, rồi vận động
Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc tạo sức ép và gây khó khăn cho chính quyền và đất nước
Việt Nam.
Thế cũng chưa hết! Sau một
thời gian ngắn giam giữ, Nhà Nước tưởng rằng Linh-mục Nguyễn Văn Lý đã biết ăn
năn về việc làm tội ác của ông ta, cho nên đã khoan hồng giảm án và phóng thích
cho ông ta về sớm hơn. Thế nhưng, ngựa quen được cũ, không biết ông ta có bị các
đấng bề trên xúi giục tiếp tục hoạt động chống phá chính quyền hay không. Sự
thực như thế nào, chỉ có Toà Thánh Vatican và nhà cầm quyền Việt Nam biết rõ.
Nhưng có đỉều chắc chắn là ngày 18/2/2007, chính quyền đã bắt được tại tư gia
nhà Linh-mục Lý những đồ thiết bị và một khối tài liệu được coi như là trái với
luật pháp hiện hành qui định. Sự kiên này được Giáo-sư Trân Chung Ngọc ghi lại
đầy đủ trong bài viết “Vụ Án Nguyễn Văn Lý”, trong đó có mấy đoạn với nguyên
văn như sau:
“Ðêm 18-2, lực lượng Công an
tỉnh Thừa Thiên-Huế đã quyết định kiểm tra hành chính nơi ở của Nguyễn Văn Lý
trước sự chứng kiến của đại diện chính quyền cơ sở, Tòa Tổng Giám mục Huế và một
số người dân. Tại đây, đã thu được năm máy tính xách tay, một máy tính để
bàn đều đang kết nối in-tơ-nét thông qua máy điện thoại di động. Trong ổ cứng
của các máy tính đều đang chứa các tài liệu phản động. Ngoài ra, còn thu được
sáu máy in, bảy điện thoại di động, 136 sim điện thoại di động và một số linh
kiện, phương tiện khác mà Nguyễn Văn Lý dùng để in ấn, tán phát tài liệu phản
động. Tại phòng ngủ của Nguyễn Văn Lý, lực lượng công an thu được hơn 200 kg tài
liệu liên quan việc thành lập, công bố các tổ chức phản động.
Bây giờ thì những bí ẩn đã
dần dần sáng tỏ, và chúng ta đã có câu trả lời cho câu hỏi thứ ba: dựa vào
những gì mà công an Huế bắt giữ và truy tố Nguyễn Văn Lý ra tòa?Thật
ra, qua mẩu thông tin ở trên, câu trả lời đã có trong câu hỏi, nhưng để đi thêm
vào chi tiết, tôi lại phải dùng những thông tin khác trên Internet:
“Lý không chấp hành lệnh
quản chế, ngoan cố cấu kết với những thế lực phản động trong và ngoài nước để
chống phá chính quyền nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.”
“Với những tài
liệu thu được và lời khai của các đối tượng, cơ quan công an đã có đủ chứng cứ
khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Lý theo tội danh được quy định
tại điểm C, khoản 1, Ðiều 88 Bộ Luật hình sự, "Làm ra, tàng trữ, lưu hành các
tài liệu có nội dung chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam".
Giáo sư Thayler nhận định:
“ Việt Nam đã thấy xuất hiện
một mạng lưới chống đối tranh đấu cho dân chủ chưa từng thấy tại Việt Nam. Linh
mục Nguyễn Văn Lý nằm trong mạng lưới này và tội chính của ông là đã liên lạc
với người Việt ở nước ngoài và các tổ chức mà chế độ coi là thù nghịch.
Matt Steinglass:
“Linh mục Lý đã xuất bản
một tờ báo bị cấm và giúp thành lập Đảng Thăng Tiến Việt Nam như một đảng
thay thế Đảng Cộng sản cầm quyền của Việt Nam. Các bị cáo bị kết tội tuyên
truyền chống phá nhà nước Việt Nam. Trong những năm qua họ đã xuất bản một tờ
báo độc lập có tên “Tự do Ngôn luận”. Năm ngoái họ đã
thành lập đảng Thăng Tiến Việt Nam như một đảng thay thế, một đảng không
theo chủ nghĩa cộng sản.
Bản tin của AP trích lời
thẩm phán Bùi Quốc Hiệp nói rằng linh mục Lý “đáng bị xử phạt nặng” vì
những nỗ lực tổ chức tẩy chay cuộc bầu cử quốc hội sắp tới, thành lập đảng
chính trị bất hợp pháp, và âm mưu lật đổ chính phủ.
Trong khi đó bản tin của AFP
trích lời công tố viên Trần Lý Thảo nói rằng hành động của linh mục Lý là một
“sự vi phạm vô cùng nguy hiểm đối với an ninh quốc gia” và cũng vi phạm các qui định của nhà thờ.
Các công tố viên cũng nói
rằng linh mục Lý khai với cảnh sát rằng ông “làm việc ngày đêm”
để soạn thảo tài liệu chống chính phủ.
[Chúng ta nên để ý những
nhóm chữ sau đây: “xuất bản một tờ báo bị cấm”; “ một
đảng thay thế Đảng Cộng sản”; “nỗ lực tổ chức tẩy chay cuộc bầu cử quốc hội sắp
tới“ [Đây cũng là sự hô hào trên một số trang nhà ở hải ngoại.] “làm việc ngày
đêm” để soạn thảo tài liệu chống chính phủ”.][11]
Sự thật quá rõ ràng. Linh mục
Nguyễn Văn Lý, một cán bộ truyền giáo của Giáo Hội La Mã, nhưng lại không làm
nhiệm vụ linh-mục ở trước bàn thở Chúa ở trong nhà thờ, mà lại “xuất bản một
tờ báo bị cấm”; thành lập hay gia nhập“ một đảng thay thế Đảng Cộng sản”,
“nỗ lực tổ chức tẩy chay cuộc bầu cử quốc hội sắp tới“ [Đây cũng là sự hô
hào trên một số trang nhà ở hải ngoại.] và“làm việc ngày đêm”
để soạn thảo tài liệu chống chính phủ”.]. Hành động này hoàn toàn trái ngược
với tinh thần điều khoản “tôn giáo phải tách rời khỏi chính quyền” được
ghi rõ ràng trong các bản hiến pháp của các nước dân chủ tiền tiến ngày nay như
Hoa Kỳ, Canada, Mễ Tây Cơ, Pháp, Ý, Đức, Áo, v.v…
Bị bắt quả tang như vậy, ấy thế
mà khi bị đưa toà xử lý, Linh-mục Lý lại có những hành động khinh thường tòa án,
ăn nói lỗ mãng, công khai khinh thường luật pháp và chính quyền ở ngay trước
pháp đình:
“Khi chủ tọa phiên tòa đang đọc lời khai mạc
thì Lm Lý phản đối bằng cách đọc to bài thơ "Tòa án Cộng sản VN" . Nhưng mới
đọc được 4 câu đầu:
"Tòa án Cộng sản Việt Nam Trò hề bỉ ổi ngàn năm chê cười Quan tòa một lũ đười ươi Tay sai nô bộc xử người nào đây..."
Khi chủ tọa phiên tòa yêu
cầu lấy lời khai từng bị cáo thì Lm Lý lại được đưa vào phòng xử. Cha Lý lại
phản đối bằng cách hét ho: "Đả đảo đảng Cộng sản! Đả đảo đảng Cộng sản!" và
chuẩn bị tuyên bố Lời Chứng cuối cùng thì một công an nhào tới bịt miệng, hai
công an lại vào lôi ra cách ly, và cha ở mãi trong đó cho đến hết phiên tòa.”[12]
.,
Thiết tưởng rằng, nếu không bị
điều kiện hóa bới chính sách ngu dân của Giáo Hội La Mã, một em học sinh mới học
xong bậc tiểu học cũng thấy rằng những hành động phạm pháp của Linh-mục Nguyễn
Văn lý trên đây hoặc là thiếu văn hóa, hoặc là có vấn đề về tâm thần. Chẳng lẽ
một người đã được thụ phong chức linh-mục, một chức vụ được cả Giáo Hội và giáo
dân kính trọng gọi là “mang chức thánh” và được coi là “đại diện Chúa Toàn Năng
Toàn Thiện, lại có thể ăn nói và hành động lỗ mãng, thiếu văn hóa như vậy được
sao?
Điều ngạc nhiên là bất kể là
Linh-mục Nguyễn Văn Lý đã có những hành động chống chính quyền và hành xử lỗ
mãng thiếu văn hóa ở trước pháp đình như vậy, mà tại hải ngoại, các hội đoàn và
cơ quan truyền thống của người Da-tô lại mở chiến dịch vừa ca ngợi Linh-mục
Nguyễn Văn Lý như là một anh hùng dân tộc, vừa chửi bới và hạ nhục chính quyền
Việt Nam bằng những lời lẽ vô cùng tục tằn, và hết sức thiếu văn minh.
Ở đây chúng ta thấy có sự ăn
khớp giữa những việc làm của Linh mục Nguyễn Văn Lý ở trong nước và những việc
làm của tín đồ Da-tô ở hải ngoại. Nó giống như hồi giữa thế kỷ 19, tín đồ Da-tô
người Việt được các ông truyền giáo xúi giục phải nỗ lực phá rối trị an và chống
chính quyền triều đình nhà Nguyễn, trong khi đó thì các cơ quan truyền thông
(báo chí) của Giáo Hội ở Pháp làm rùm beng la lối rằng triều đình Huế bách hại
các nhà tuyền giáo và giáo dân với chủ đích là để hỗ trợ cho các ông giáo sĩ như
Giám-mục Pellerin, Linh-mục Huc, Linh-mục Le Grand De La Liraye và Tổng Giám Mục
Bonnechose vận động chính quyền Pháp liên kết với Vatican (thành lập Liên Minh
Pháp–Vatican) và xuất quân chinh phục Việt Nam làm thuộc địa để cùng khai thác
và chia nhau lợi nhuận.
(Cũng nên biết là hồi đó, trong
nỗ lực vận động chính quyền Pháp liên kết với Giáo Hội thành Liên Minh
Pháp-Vatican, các ông Giám-mục Pellerin, Linh-mục Huc, Linh-mục Le Grand De La
Liraye đi vào cửa trước, hoặc là đến trực tiếp thuyết phục triều đính Pháp và
Hoàng Đế Napoléon III, hoặc là gửi thư trình bày những lợi điểm để lôi cuốn và
dụ khị chính phủ Pháp xuất quân chinh phục Việt Nam làm thuộc địa). Còn Tổng
Giám Mục Bonnechose thuộc địa phận Rouen đi cửa sau đến thuyết phục Hoàng Hậu
Eugénie trẻ đẹp mới 27 cái xuân xanh (sinh năm 1826 tại Tây Ban Nha) để thuyết
phục ông chồng vừa già vừa xấu trai là Hoàng Đế Napoléon III (sinh năm 1808).
Nhờ vậy mà Hoàng Đế Napoléon mới siêu lòng đồng ý việc liên kết với Giáo Hội và
xuất quân đánh chiếm Việt Nam.
Napoléon III tên thật là Louis
Napoléon, cháu gọi Hoàng Đế Naopleon I (1769-1821) là chú ruột. Năm 1815, Chính
quyền của Hoàng Đế Napoléon I bị Liên Minh Thánh của Giáo Hội La Mã lật đổ, dòng
họ Napoléon và tất cả những người tham gia hay ủng hộ chính quyền Cách Mạng
Pháp 1789 đều bị tân chính quyền và giáo dân Da-tô trả thù hết sức dã man. Louis
Napoléon phải trốn ra khỏi nước sang sống lưu vong ở Thụy Sĩ. Trong thập niên
1820, ông thường đến thăm bà con ở miền Nam nước Đức và ở Ý. Ở đây ông quen biết
rất nhiều nạn nhân của chính quyền Pháp đạo phiệt Da-tô thời Louis XVIII
(1814-1824) và Charles X (1824-1830). Đặc biệt là vào năm 1830, phong trào Cách
Mạng bùng nổ ở Pháp và ở nhiều nước Âu Châu khác. Hoàn cảnh đã đưa đẩy ông tham
gia cuộc nổi dậy chống chính quyền của Giáo Hội ở Rome vào năm 1831. Phong trào
này bị quân đội Áo (thân Giáo Hội) dẹp tan, nhưng ông được cứu thoát nhờ có sự
can thiệp của thân mẫu ông: “Accordingly, he took part in an unsuccessful plot
against the papal government in Rome in 1830 and in the rebellion in central
Italy in 1831, in which his beloved brother perished. He himself was saved from
the Austrian troops only by his mother’s bold intervention.”)[13]
Trở lại chuyện Linh-mục Nguyễn Văn Lý đòi lại tài
sản của Giáo Hội La Mã tại Việt Nam bị chính quyền tịch thu, trong lịch sử,
chính quyền Anh thời Anh Hoàng Henry VIII trong những năm 1534-1547 cũng đã từng
tịch thu tài sản của Giáo Hội, và trong thời kỳ tiến hành cuộc Cách Mạng Vinh
Quang (The Glorious Revolution), năm 1691, chính quyền Anh còn ban hành Đạo Luật
Ổn Định (the Act of Settlement of 1691) quy định rằng không một người Anh nào
theo đạo Da-tô La Mã được đưa lên cầm quyền. Theo gương nước Anh, Cách Mạng Pháp
1789, Cách Mạng Ý Đại Lợi 1870, Cách Mạng Mễ Tây Cơ 1857, Cách Mạng Nga 1917,
Cách Mạng Trung Hoa 1949, Cách Mạng Cuba 1959, Cách Mạng Nicaragua 1979, v.v...
cũng đều phải ban hành những biện pháp mạng:
1.- Tịch thu toàn bộ ruộng đất cùng các tài sản
khác của Giáo Hội;
2.- Tước bỏ hết tất cả những đặc quyền đặc lợi mà
Giáo Hội vốn được đặc hưởng trong thời các chế độ cũ;
3.- Giúp đỡ giáo dân học tập để
nhìn ra bộ mặt thật ghê tởm của Tòa Thánh Vatican;
4.- Trừng trị nghiêm khắc những
phần tử ngoan cố vẫn còn tiếp tục gây rối hay chống lại chính quyền của nhân
dân;
5.- Ban hành hiến chế dân sự cho
giới sĩ Da-tô theo đó họ phải trung thành với hiến pháp, chứ không phải trung
thành với Tòa Thánh Vatican;
6.- Ghi vào hiến pháp điều khoản
“tôn giáo phải tách rời khỏi chính quyền.”
Riêng tại Anh quốc, còn có đạo luật không cho tín
đồ Da-tô La Mã lên cầm quyền.
Như vậy là ở đâu Giáo Hội đã có những hành động ăn
cướp ruộng đất và các tài nguyên khác của đất nước thì ở đó khi mà nhân dân vùng
lên làm cách mạng cũng đều sử dụng những biện pháp mạnh để đối phó với Giáo Hội
La Mã, chứ không phải chỉ có Việt Nam mới làm như vậy.
Trường hợp 3.- Cũng trong năm 2001, một cán
bộ cao cấp của Giáo Hội là Giám-mục Nguyễn Văn Thuận đến California đưa ra lời
tuyên bố nhằm khích động giáo dân người Việt chống lại tổ quốc Việt Nam. Nguyên
văn lời tuyên bố vừa ngu xuẩn vừa xấc xược này được tờ tuần báo Việt Báo Miền
Nam ghi lại như sau:
"Còn Đức Hồng Y Nguyễn Văn
Thuận, tại Giáo Phận Orange County ngày 15/3/2001, nói theo kiểu rất Việt Nam
"Vatican không nói, mà làm. Làm ra sao thì cứ nhớ lại biến cố Đông Âu thì rõ."[14]
Cũng nên biết , Giám-mục Nguyễn Văn Thuận là cháu
gọi ông Ngô Đình Diệm là cậu ruột, rất được tín đồ Da-tô người Việt kính trọng,
tin tưởng là hiện thân của con đường phục hồi quyền lực của Giáo Hội La Mã và
của tín đồ Da-tô người Việt ở Việt Nam. Khi đưa ra lời tuyên bố trên
đây,Giám-mục Nguyễn Văn Thuận đang nắm giữ chức vụ Bộ Trưởng Thánh Bộ Truyền
Giáo trong giáo triều Vatican và sắp sửa được thăng lên chức hồng y. Với địa vị
quan trọng trong giáo triều Vatican như vậy và với uy tín rất lớn trong cộng
đồng giáo dân người Việt, lời tuyên bố trên đây của Giám-mục Nguyễn Văn Thuận
hiển nhiên là có tác dụng hết sức mãnh liệt đối với họ (giáo dân Việt Nam). Rõ
ràng đây là ý đồ xúi giục giáo dân Việt Nam rằng hãy mạnh dạn đứng lên chống
chính quyền Việt Nam vì Vatican đang tích cực làm việc này giống như Vatican đã
làm ở Đông Âu trước kia.
XI.- THÀNH TÍCH NÓI XUÔI NÓI NGƯỢC
VÀ LÝ LUẬN LƯƠN LẸO
Nói về những thành tích nói
xuôi nói ngược và lý luận lươn lẹo của Giáo Hội La Mã, Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ
viết:
“Giáo Hội nhờ ở sự “tin
lưỡng”, “nói lưỡng” nên có thể giải thích được mọi vấn đề, có thể biện minh được
mọi thái độ của Giáo Hội. Chúa vừa ở trên thiên đường vừa ở khắp mọi nơi. Vừa ở
khắp mọi nơi vừa không ở trong tâm hồn mọi người. Chúa vừa nhân từ vừa công
thẳng. Chúa Giê Su vừa là Thượng Đế toàn năng vừa là Tạo Hóa, vừa là “Trưởng tử
giữa mọi thụ sinh”. Con người vừa cao siêu vì là ảnh tượng Chúa, vừa là hết sức
xấu xa vì đã sa đọa. Chúa vừa cai trị thế gian, nhưng Satan lại là vua của trần
thế này. Chúa Giê Su vừa là Chúa, vừa là Người. Tận thế sắp sửa tới nơi, tận thế
còn lâu nữa mới xẩy ra. Nước Trời không đến một cách lộ liễu. Nước Trời sẽ đên
trong rầm rộ huy hoàng. Nước Trời ở trong tâm. Nước Trời ở ngoài xã hội. Ngũ
Kinh là của Maisen viết. Ngũ Kinh không phải là của Maisen viết, v.v… Từ thế kỷ
XVII đến thế kỷ nghiêm cấm không được tôn thờ tổ tiên. Ngày nay được tôn thờ tổ
tiên (nhang đèn, cúng kỵ, v.v…). Có lúc nghiêm cấm ăn thịt vào ngày Thứ Sáu, có
lúc cho ăn thịt thả giàn. Tất cả đều tùy thuộc giáo hoàng.
Thánh Kinh vừa đúng từng
chữ, vừa là Chân Lý tuyệt vời, vừa không có ý dạy khoa học nên có nhiều điều
không chính xác; vừa tin chắc chắn rằng mọi người ngoài Giáo Hội đều xuống hỏa
ngục, vừa tuyên bố mọi người sống ngoài Giáo Hội có thể lên thiên đường. Khi cần
dịu ngọt, thì Giáo Hội đề cao sự nhân từ bác ái của Phúc Âm, khi cần tàn nhẫn
thì khoe đang thi triển sấm sét của hai ông thánh Peter và Paul; vừa chủ trương
Chúa nổi cơn thịnh nộ oán phạt loài người, vừa tuyên bố đó là những kiểu “nhân
cách hóa” Thiên Chúa. Tất cả các văn kiện viết ra phải được đắn đo, viết lách
làm sao để có thể giải thích xuôi ngược được. Thật là biến hóa tuyệt vời. Chẳng
những thế lại còn có cả một đạo binh văn học chỉ có nhiệm vụ bào chữa cho Công
Giáo, bảo vệ Thánh Kinh mà ta gọi là những nhà Thần Học, những nhà Bảo Vệ Tín Lý
(Apologetists).”[15]
.
Những điều bác-sĩ Thọ nêu lên
trên đây cho chúng thấy rằng cái gì Giáo Hội cũng có thể nói xuôi cũng được và
nói ngườc cũng được. Để biện minh và bào chữa cho những hành động nói xuôi nói
ngược này Giáo Hội đã chuẩn bị sẵn một đạo binh văn nô Da-tô mà đoạn văn
trên gọi là “đạo binh văn học chỉ có nhiệm vụ bào chữa cho Công Giáo, bảo vệ
Thánh Kinh mà ta gọi là những nhà Thần Học, những nhà Bảo Vệ Tín Lý .”
Nguyên tắc của các nhà viết sử
chân chính là khi trình bày một vấn đề gì thì phải trưng dẫn bằng chứng đúng
theo nguyên tắc "nói có sách, mách có chứng", lời nói phải rõ ràng, minh
bạch và rạch ròi, không được phép “nói xuôi nói ngược” như trên, không
được "nói trổng, nói vô trách nhiệm", không được "chụp mũ" hoặc "vu
khống" cho bất kỳ cá nhân hay thế lực được đề cập đến trong đề tài mà mình
đang chống đối. Ấy thế mà trong những ấn phẩm của bọn văn nô, đặc biệt là những
ấn phẩm của tín đồ Da-tô người Việt, đều có những hiện tượng nói trổng (tuyên bố
võ đoán,) nói vô trách nhiệm, chụp mũ và vu khống những người hay thế lực liên
hệ đến đề tài mà họ không ưa thích với mục đích chửi bới, mạ lị và khủng bố tinh
thần những nạn nhân này, giống như Giáo Hội đã làm ở Âu Châu và các vùng ven
Biển Địa Trung Hải trong thời Trung Cổ. Ngoài ra, họ lại còn có những lý
luận cùi nhầy, lươn lẹo, cãi chày cãi cối, cãi bựa và nói ngược với chủ tâm:
1.- Lấp liếm những rặng núi
tội ác của Giáo Hội trong gần hai ngàn năm qua;
2.- Chạy tội cho những hành
động của Giáo Hội liên kết với đế quốc Pháp trong việc đánh chiếm và thống trị
Đông Dương từ năm 1858 cho đến năm 1954 và việc cấu kết với Hoa Kỳ trong việc vi
phạm Hiệp Định Genève 1954 bằng cách không cho tổ chức tổng tuyển của vào năm
1956 để thống nhất đất nước với dã tâm duy trì Việt Nam mãi mãi ở trong tình
trạng bị chia đôi thành hai miền Nam và Bắc;
3.- Đánh bóng Giáo Hội và các
chế độ đạo phiệt Da-tô.
Những đặc tính và thói quen rất
Da-tô này (lý luận cùi nhầy, lươn lẹo, cãi cối cãi chày và nói ngược) đã và đang
xẩy ra ở tất cả những nơi nào có bọn văn nô Da-tô hoạt động trong ngành truyền
thông hoặc là có bàn tay quyền lực của Giáo Hội La Mã vươn tới.
Tại hải ngoại có cả một binh
đoàn văn nô Da-tô người Việt đã và đang hoạt động trong các ngành truyền thống
(viết báo, viết sách, làm việc tại các đài truyền thanh, truyền hình và các
trung tâm sản xuất các băng nhạc văn nghệ). Nếu nhà ái quốc Ý Đại Lợi Giuseppe
Baribaldi (1807-1882) đã lớn tiếng khẳng địnhi rằng, “linh mục là hiện thân của
gian trá” (The priest is the personification of falsehood) Trần Chung Ngọc,
Đức Tin Công Giáo (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr. 300, thì người
viết cũng xin khẳng định rằng tất cả những phần tử trong binh đoàn văn nô Da-tô
người Việt ở hải ngoại này đều là “hiện thân của lưu manh, gian dối và xảo trá.”
. Đặc tính này thường hiện ra trên nét mặt, trong ánh mắt, qua giọng nói, trong
lời nói và trong văn phong của họ. Tất cả đều giống nhau vì rằng Giáo Hội La Mã
có chủ trương đào tạo ra những hạng người như vậy.
Người viết chọn ông Tú Gàn làm một
trường hợp điển hình tiêu biểu cho bọn văn nô Da-tô này với tất cả những đặc
tính diễn dịch những sự kiện (facts) một cách lươn lẹo, xuyên tạc hay bóp méo
sự thật lịch sử, cắt xén hay bịa đặt ra những chuyện hoàn toàn không có hoặc là
để tô vẽ những cá nhân và thế lực mà họ tôn thờ hoặc là đê bêu riếu hạ nhục
những cá nhân và thế lực mà họ không ưa và thù ghét..
Tú Gàn là một tín đồ Da-tô, tên
thật Nguyễn Cần, có một bút hiệu khác là Lữ Giang (khi viết sách), có bằng cử
nhân luật (có lẽ tốt nghiệp trường Luật ở Sàigòn), đã từng hành nghề thẩm phán
nhiều năm ở Saigòn trước ngày 30/4/1975. và đã viết báo nhiều năm ở hải ngọai.
Trong bài viết bài “Chuyện Thiền Sư Nhất Hạnh Về Việt Nam” đăng trên tờ
Sàigòn Nhỏ số ra ngày 24/12/2004, ông ta viết:
1.- “Năm 1961 ông (Thích
Nhất Hạnh) được chính phủ Ngô Đình Diệm cho đi học về môn tôn giáo đối chiếu
(comparative religion) tại Princeton University ở New Jersey, Hoa Kỳ…”
2.- “Theo tài liệu của cơ
quan tình báo VNCH, Sư Cô Chơn Không có tên thật Fleurette Cao Ngọc Phượng, con
của ông Cao Văn Mộc làm ở Ty Công Chánh Bến Tre, mẹ là Elizabeth Bùi Kim Tiên là
cháu của ông Bùi Văn Nho, một Trung Úy Pháp. Cả gia đình đều có quốc tịch Pháp.”
3.- “Cô Phượng có một người
tình là Đại Úy Nguyễn Khá, phục vụ ở An Ninh Quân Đội. Năm 1965 cô đi hoạt động
cho Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội và “thọ giới tiếp hiện” với Đại Đức Thích
Nhất Hạnh, sinh được một đứa con trai rồi giao cho người anh là Cao Thái nuôi.
…”[16]
Khi viết 3 đọan văn trên đây,
ông Tú Gàn tin rằng ông đã viết đúng. Cũng như ông Tú Gàn, có rất nhiều người
Việt đồng đạo với ông Tú Gàn cũng cho rằng ba đọan văn trên đây không có gì sai
cả.
Thế nhưng, đối với những người
đã tiếp nhận sở học qua chính sách giáo dục khai phóng và tự do, ba đoạn văn
trên đây vừa có gian ý vừa có những lỗi lầm do hậu quả của chính sánh ngu dân và
giáo dục nhồi sọ gây ra:
Người viết xin phân tách câu
văn 1, ông Tú gàn viết: “Năm 1961 ông (Thích Nhất Hạnh) được chính phủ
Ngô Đình Diệm cho đi học về môn tôn giáo đối chiếu (comparative religion)
tại Princeton University ở New Jersey, Hoa Kỳ…”
Trong câu văn này, ông Tú Gàn
sử dụng động từ “cho đi học”. Viết như vậy, rõ ràng là ông Tú Gàn
có hàm ý muốn nói rằng thày Nhất Hạnh được chính phủ Ngô Đình Diệmcho đi du học ở Hoa Kỳ về môn tôn giáo đối chiếu. Bình thường, ai cũng
hiểu như vậy.
Hiểu như vậy có nghĩa là chính
phủ Ngô Đình Diệm dùng tiền bạc thuộc ngân quỹ quốc gia đài thọ tất cả các phí
tổn gồm có vé mấy bay khứ hồi và tất cả các phí khoản khác như học phí, sách
vở, ăn ở, bảo hiểm y tế và tiền chi phí vặt cho thày Nhất Hạnh trong suốt thời
gian theo học tại Hoa Kỳ cho đến ngày hoàn tất chương trình học hay tốt nghiệp,
ít nhất là từ 3 năm đến 7 năm.
Thực tế có như vậy không? Chắc chắn là không.
Sự thực là thầy Nhất Hạnh hoặc
là được trường Princeton University ở New Jersey hoặc là đượcchính phủ Hoa Kỳ cấp học bổng toàn phần để theo học môn học Tôn Giáo Đối Chiếu
tại trường này. Đây là một lọai học bổng hoặc là của riêng trường Priceton hoặc
là nằm trong chương trình viện trợ chung của chính quyền Hoa Kỳ cho các nước
được Hoa Kỳ viện trợ như Nam Triều Tiên, Đài Loan, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái
Lan, Phi Luật Tân, Ai Cập, miền Nam Việt Nam, v.v.. Vì được cấp học bổng toàn
phần, nhà trường hay chính phủ Hoa Kỳ đài thọ tất cả mọi phí tổn như đã nói ở
trên cho thày Nhất Hạnh trong suốt thời gian từ ngày bước chân lên máy may rời
Việt Nam đi Hoa Kỳ cho đến ngày hòan tất chương trình học.
Được biết vào đầu thập niên
1960, ông Ngô Vĩnh Long (hiện nay là giáo sư phụ trách dạy môn sử tại University
of Maine (Đại Học Maine) nằm trong tiểu bang Maine cũng được một học bổng toàn
phần của Hoa Kỳ, nhưng bị chính phủ Ngô Đình Diệm có ý đồ chặn lại, không cho đi
bằng cách không cấp giấy thông hành cho ông Ngô Vĩnh Long xuất ngoại đi Hoa Kỳ.
Tình cờ, chính người Hoa Kỳ đã giúp cho ông Ngô Vĩnh Long được cấp học bổng này
biết rõ tự sự liền đến Phủ Tổng Thống trực tiếp can thiệp. Nhờ vậy mà ông Ngô
Vĩnh Long mới được chính phủ Diệm cấp giấy thông hành để đi du học ở Hoa Kỳ.
Chuyện này do chính Giáo-sư Ngô Vĩnh Long kể lại cho người viết biết nhân dịp
chúng tôi đến tham dự buổi nói chuyện về Cuộc Chiến Việt Nam vào cuối tháng 4
năm 2005 được tổ chức tại trường MIT (Massachusetts Institute of Technology) và
diễn giả là ông và Giáo-sư Noam Chomsky. Độc giả có thể liên lạc với Giáo-sư
Ngô Vĩnh Long để kiểm chứng sự kiện này.
Năm 1966, người viết
được cấp học bổng du học ở Hoa Kỳ là do bà AlaDyce, trưởng ban cứu xét hồ sơ của
những ứng viên nộp đơn xin học bổng USAID. Vì thời gian này, ông Linh-mục Cao
Văn Luận không còn có quyền lực ở Nha Du Học nữa, chính những nhân viên USAID lo
hết tất cả mọi thủ tục và giấy tờ cho người viết. Đến ngày sắp khởi hành đi Hoa
Kỳ, họ gửi thư thông báo đến lớp học ESL tại Hội Việt Mỹ ở Đường Mạc Đĩnh Chi
cho biết phải đến văn phòng sở USAID tại số 71 Đường Hồng Thập Tự, Sàigòn để
nghe họ dặn dò, cũng là để lãnh nhận mọi thứ giấy tờ cần thiết cùng vé máy bay
và cái check 240 Mỹ kim để lên đường đi Hoa Kỳ.Tất cả những người khác được học
bổng của USAID trong những năm 1965-1969 cũng đều được họ lo đầy đủ như vậy. Có
thể có những ngoại lệ thì người viết không biết.
Người viết nghĩ rằng trường hợp
thày Nhất Hạnh được cấp học bổng đi du học Hoa Kỳ cũng giống như trường hợp của
người viết hay trường hợp ông Ngô Vĩnh Long, chứ không phải như ông Tú
Gàn đã viết như trên.
Như vậy là khi viết câu văn, “được
chính phủ Ngô Đình Diệm cho đi học về môn tôn giáo đối chiếu (comparative
religion) tại Princeton University ở New Jersey Hoa Kỳ”, ông Tú Gàn đã có
hai gian ý:
Gian ý thứ nhất: Sử dụng
nhóm chữ “(Thày Nhất Hạnh) được chính phủ Ngô Đình Diệm cho đi
học…”), ông Tú Gàn đã lươn lẹo với gian ý lạc dẫn (mislead),
cố ý làm cho người đọc hiểu lầm rằng chính quyền Ngô Đình Diệm bỏ tiền ra đài
thọ hết tất cả mọi phí khoản như học phí, ăn ở, vé máy bay khứ hồi, di chuyển
thường ngày, sách vở, bảo hiểm y tế, v.v.. trong suốt thời gian thầy Nhất Hạnh
lưu trú tại Hoa Kỳ.
Gian ý thứ hai, khi cố ý
nói rõ “đi họcvề môn tôn giáo đối chiếu (comparative religion) tại
Princeton University ở New Jersey Hoa Kỳ.”, ông Tú Gàn đã ngầm để cho độc
giả hiểu rằng chính quyền Ngô Đình Diệm không kỳ thị Phật Giáo, mà trái lại,
còn bỏ tiền ra đài thọ tất cả mọi khỏan phí tổn cho thày Nhất Hạnh du học ở Hoa
Kỳ trong thời gian dài cả mấy năm trời!
Cái lối viết quay quắt, lắt
léo, lươn lẹo và nhập nhằng như kiểu ông Tú Gàn viết trên đây là nằm trong sách
lược chung của Giáo Hội La Mã mà bọn văn nô Da-tô thường sử dụng. Trước đây,
trong bộ sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã (Tacoma, WA: TXB, 1999), người viết
đã trình bày khá rõ ràng về sở học cùng những thành tích viết lách lươn lẹo và
bóp méo những sự thật lịch sử của ông Tú Gàn ở trong các Chương 17, 18,19 và
20.
Trở lại vấn đề TẠI SAO chính
quyền Ngô Đình Diệm lại “cho” thày Nhất Hạnh đi học môn tôn giáo đối
chiếu ở Princeton University “?
Dưới đây là lời giải thích của
người viết:
Thành thật mà nói, Hoa Kỳ là
cha đẻ ra các chính quyền miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Ông Ngô
Đình Diệm được Giáo Hội La Mã cho Giám-mục Ngô Đình Thục dẫn sang Mỹ giao cho
Hồng Y Francis Spellman chạy chọt với các nhân vật có thế lực trên sân khấu
chính trị Hoa Kỳ để xin xỏ cho về Việt Nam cầm quyền làm tay sai cho Hoa Kỳ với
chủ đích là Nếu thành công, THÌ Giáo Hội La Mã sẽ dựa vào đó để củng cố quyền
lực và mở mang nước Chúa bằng tất cả các phương tiện của chính quyền. Như vậy,
trong thực tế, thân phận ông Ngô Đình Diệm chỉ là một kẻ làm tay sai cho
cả Hoa Kỳ và Vatican ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1965-1963 không khác
gìthân phận ông Bảo Đại làm tay sai cho Pháp và Vatican ở Việt Nam
trong những năm 1948-1954, và cũng không khác gì thân phận Tổng Thống Hamid
Kazai của nước Afghanistan và thân phận Thủ Tướng Ayad Allawi của nước
Irak làm tay sai cho Hoa Kỳ hiện nay (2004).
Để cho rõ ràng hơn, ta có thể
nói như thế này: Ông Chủ Hoa Kỷ bảo (sai) thằng đầy tớ Ngô Đình Diệm (giữ vai
trò quản lý tại Việt Nam) phải làm thủ tục giấy tờ cho một sinh viên có đủ điều
kiện mà Hoa Kỳ đã tuyển chọn cho sang du học ở Hoa Kỳ, tất nhiên là thằng đầy tớ
Ngô Đình Diệm phải tuân hành mà làm theo. Trong trường hợp thằng đầy tớ này kiếm
cớ làm khó dễ đương sự, và Nếu ông chủ Hoa Kỳ biết được như trường hợp
ông Ngô Vĩnh Long, THÌ nó sẽ được nhắc nhở cho biết rằng cái thân phận
làm đầy tớ là phải nghe lời ông chủ, bằng không, thì sẽ bị khiển trách. Đây cũng
là những trường hợp của ông Ngô Vĩnh Long, của thày Nhất Hạnh, và cũng là của
nhiều người khác được chính quyền Hoa Kỳ cấp học bổng cho sang Mỹ du học mà
chính quyền Ngô Đình Diệm miễn cưỡng phải tuân hành lệnh của người Mỹ làm thủ
tục cho họ xuất ngoại sang Hoa Kỳ du học.
Trong trường hợp thằng đầy tớ
này vì lòng đố kỵ cá nhân hay đó kỵ về tôn giáo mà cứ khăng khăng làm trái ý
(không nghe lời) ông chủ Hoa Kỳ, thì tất nhiên là nó sẽ bị phế thải. Nói theo
ngôn ngữ chính trị là “phải ra đi”. Sự kiện này được Phó Đô Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại
ghi nhận với nguyên văn như sau:
“Một việc làm cho tôi suy
nghĩ rất nhiều, tôi được nghe tận tai ba người lãnh đạo không đồng ý với chính
sách của Mỹ tại Việt Nam. Cả ba vị này đều phải ra đi bằng cách này
hay cách khác, một cách đột ngột. Đó là tổng thống Ngô Đình Diệm, đại tướng
Nguyễn Khánh và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.”[17]
Một trong những cách phải ra
đi (cho phế thải) có thể là “bắn nhầm” như trường hợp “bắn nhầm” dưới đây:
“Căn Cứ Hải Quân Cửa Việt và
Duyên Hải Đoàn 11 tuy bi tấn công liên tiếp, nhưng đơn vị trưởng nhất định không
rủt, mặc dầu có phép của Tư Lệnh Quân Khu 1, trung tướng Hoàng Xuân Lãm và của
Tư Lịnh Vùng 1 Duyên Hải. Một tiểu đoàn dân công địch bao vây căn cứ và một số
nhân viên căn cứ bị thương. Một trực thăng của cố vấn Hoa Kỳ chở tôi và cố vấn
trưởng ra căn cứ Cửa Việt để quan sát và nhận định tình hình. Khi đến nơi, tôi quyết định ở lại duyên đoàn và để một nhân viên bị thương nặng nhứt lên trực
thăng về Đà Nẵng cùng với cố vấn trưởng. Cố vấn trưởng không tán đồng
việc tôi ở lại căn cứ này nhưng tôi không nghe ông ta. Ngay hôm sau,
trung tướng Lãm cho lịnh gọi tôi về Đà Nẵng không nhớ vì lý do gì, nhưng ngay
chiều hôm đó, một phi cơ khu trục phản lực từ hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ, trong
khi duyên đoàn treo quốc kỳ lớn nhứt trên cột cờ, đâm xuống thả bom và tác xạ
vào hệ thống phòng thủ của duyên đoàn làm cho các mìn “claymore” nổ hết và hàng
rào kẽm gai bị cuộn lại, cho nên hệ thống phòng thủ không còn hiệu quả. Vài
tiếng đồng hồ sau, từ Bộ Tư Lịnh Lực Lượng Hoa Kỳ Thái Bình Dương ở Hawaii, đo
đốc McCain gởi công điện xin lỗi đô đốc Chơn và Tư Lịnh Hải Quân Vùng 1 Duyên
Hải về việc phi cơ Hoa Kỳ bắn nhầm.. Cũng may là chỉ có một quân nhân
bị thương. Trong đêm đó, nhân viên căn cứ và gia đình rút ra biển trên các hải
thuyền để được đưa về Thuận An.”[18]
Nói đến bắn nhầm, chúng
ta nhớ đến chuyện bắn nhầm xẩy ra vào chiều ngày 2 tháng 6 năm 1968, một chiếc
trực thăng của phe ta bắn nhầm vào bộ chỉ huy hành quân của nhóm sĩ quan
cao cấp thân Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đang họp tại Trường Trung Học Phước
Đức ở Chợ Lớn. Vụ bắn nhầm này làm cho hầu hết các sĩ quan cao cấp thân Phó
Tổng Thống Kỳ đang họp ở đây bị thiệt mạng. Chuyện này được tác giả Nguyễn Kỳ
Phong ghi lại trong cuốn Vũng Lầy Của Bạch Ốc với nguyên văn như sau:
“Các sĩ quan chết trong lần
bắn lầm tại trường Trung Học Phước Đức ở Chợ lớn là trung tá Nguyễn Văn Luận,
giám đốc Cảnh Sát Đô Thành; Lê Ngọc Trụ, trưởng Ty Quận Sát Quận 5; Phó Quốc
Chụ, giám độc Nha Thương Cảng Chợ Lớn (em vợ phó tổng thống Kỳ); Đào Bá Phước,
chỉ huy trưởng Liên Đoàn BĐQ; các thiếu tá Nguyễn Bảo Thùy, chánh Sở An Ninh Đô
Thành (em trung tướng Nguyễn Bảo Trị); Nguyễn Ngọc Sinh, phụ tá giám đốc Cảnh
Sát Đô Thành. Bị thương là hai đại tá Văn Văn Của, Đô Trưởng Sàigòn, Nguyễn Văn
Giám, tư lệnh phó Biệt Khu Thủ Đô…”[19]
Độc giả nên hiểu hai chữ “bắn
lầm” theo ngôn từ chính trị thì mới biết được những sự thật lịch sử.
Viết đến đây, người viết nhớ
đến mấy đoạn văn trong cuốn Những Ngày Buồn Nôn của Giáo-sư Lý Chánh Trung nói
về cảm nghĩ của ông về cái chết của ông Ngô Đình Diệm. Dưới đây là là mấy đoạn
văn này:
“Ông đã tưởng mình có thể lệ
thuộc Mỹ một phần nào thôi, còn phần kia thì vẫn “độc lập”, ông đã tưởng mình có
thể nhẩy vào vòng tay người Mỹ trong một giai đoạn ngặt nghèo rồi thoát khỏi
vòng tay đó khi tình hình sáng sủa hơn, ông đã tưởng có thể chấp nhận làm con cờ
trong một ván cờ rồi ngay trong ván cờ đó, có thể tự động đi một nước cờ riêng
của ông.
Khi ông nhìn thấy đó chỉ là ảo
tưởng thì đã quá trễ: Ông đã chết vì ảo tưởng đó. Và cái chết bi thảm của ông
cho thấy một sự thật hết sức tầm thường: Không một con cờ nào có thể tự động
đi một nước cờ cho riêng nó, dầu con cờ đó mang tên Ngô Đình Diệm, và không
một nước nhỏ nào có thể lợi dụng một nước lớn, nhất là nước đó mang tên Hoa Kỳ.
Bẩy năm đã qua và ngày nay, dư
luận quần chúng có vẻ khoan hồng hơn đối với ông Diệm và chế độ cũ của ông, ngay
cả những nơi nạn nhân của chế độ ấy. Lý do giản dị: với thời gian, kỷ niệm đã mờ
nhạt, hận thù được xoa dịu, những ẩn ức dồn nén được giải tỏa. Trong khi đó, cái
thực trạng của xã hội miền Nam mỗi ngày thêm xấu xa tệ hại, khiến cho người ta
có khuynh hướng chỉ nhớ tới những nét tương đối dễ coi của chế độ Ngô Đình Diệm,
mỗi khi so sánh thời này với thời trước.
Nhưng từ đó mà cho rằng chế độ
ông Diệm là một thời đại hoàng kim và chỉ cần bắt chước ông Diệm là có thể giải
quyết những vấn đề đất nước, như một số chân ta bộ hạ của ông đang tuyên bố rùm
beng thì thật là lố bịch và vô liêm sỉ.
Những người đang hò hét khóc
lóc chung quanh cái tên Ngô Đình Diệm như bầy quạ trên một xác chết. Với cái âm
mưu tái lập một chế độ Diệm không Diệm trong đó họ sẽ phè phỡn bòn rút như xưa,
xin họ nhớ cho rằng giòng lịch sử không bao giờ chẩy ngược chiều.
Và nếu họ không còn một chút tự trọng, xin họ dầu sao cũng thương dùm
ông Diệm, Tội nghiệp ông! Tôi ứa nước mắt mà viết câu này, xin họ hiểu cho.” [[20]
.
Trở lại chuyện ông Tú Gàn cố
tình bóp méo sự thật về việc thày Nhất Hạnh được cấp học bổng du học ở Hoa Kỳ,
thực ra, khi được lệnh (nói cho oai là được yêu cầu) làm thủ tục cho thày Thich
Nhất Hạnh đi du học ở Hoa Kỳ, thâm tâm ông Da-tô Ngô Đình Diệm cũng như anh em
nhà Ngô và tất cả những tín đồ Da-tô làm việc trong chính quyền lúc bấy giờ đã
tìm đủ mọi cách ngăn cản, nhưng không được. Lý do, vì lúc đó chính quyền Hoa Kỳ
muốn có một vài tu sĩ Phật giáo được cấp học bổng du học ở Mỹ để tạo ra cái bề
ngoài chứng tỏ với nhân dân Hoa Kỳ rằng chính quyền Hoa Kỳ viện trợ đồng đều cho
nhân dân Việt Nam, chứ không phân biệt tôn giáo, và cũng là để vớt vát thể diện
cho Hoa Kỳ, bớt phải mang tiếng là bảo trợ cho một chế độ đạo phiệt Da-tô bạo
ngược đang ra công chèn ép và bách hại Phật Giáo mà gần như toàn thể nhân dân
thế giới đều biết và lên án kịch liệt. Bằng chứng rõ rệt về cả bản chất và thành
tích bạo ngược của chế đô đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm là sử gia Nigel
Cawthorne đã quy liệt Ngô Đình Diệm vào trong cuốn sách “Một Trăm Tên Bạo Chúa
Độc Ác Nhất Trong Lịch Sử Nhân Loại” (History ‘s 100 Most Evil Despots &
Dictators (London: Arcturus 2004).
Những người mang căn bệnh cuồng
tín thuộc loại “Thà mất nước, chứ khồng thà mất Chúa” và “Nhất Chúa,
nhì Cha, thư ba Ngô Tổng Thống” chắc chắn là không đủ trình độ thông minh để
nhìn ra sự thực này.
Ai cũng biết rằng, Nếu
không có Hoa Kỳ tích cực can thiệp, THÌ bằng cách nào đi nữa, thày
Nhất Hạnh cũng không được chính quyền Sàigòn cấp giấy thông hành xuất
ngoại sang Hoa Kỳ du học. Trường hợp của ông Ngô Vĩnh Long cũng như vậy. Ngay cả
trường hợp sang Mỹ du học của người viết cũng vậy. Có lẽ vì đã có quá nhiều kinh
nghiệm với chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm, người Hoa Kỳ đã biết rõ bản
chất của bọn Việt gian “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” làm tay sai
người ngoại quốc và Vatican thường có tâm địa xấu xa như vậy, cho nên trong
những năm 1964-1969, chính phủ Hoa Kỳ mới giao cho sở USAID trực tiếp tổ chức
các kỳ thi tuyển chọn các ứng viên có đủ điều kiện để cấp học bổng và trực tiếp
lo đủ mọi thứ giấy tờ cho những ứng viên đã được chấp thuận cho đi du học mà
chính quyền Sàigòn không có quyền nhúng tay vào. Nhờ vậy mà người viết và hàng
ngàn những người khác mới thoát khỏi được bàn tay ngăn chặn của các ông kẹ người
Việt Nam trong chính quyền Sàigòn trong việc đi du học ở Hoa Kỳ.
Trên đây là gian ý của Tú
Gàn khi viết câu văn 1.
Về hai đoạn văn số 2 và số 3,
thú thực, người viết không thể ngờ rằng một người có bằng cử nhân luật, đã từng
giữ chức vụ thẩm phán tại Sài gòn ở miền Nam Việt Nam trong nhiều năm trước ngày
30/4/1975, đã sinh sống ở Hoa Kỳ có tới từ 15 năm hay lâu hơn, cũng là một nhà
báo và một nhà văn lâu năm mà lại có thể viết hai đọan văn thiếu thông minh như
trên!
Nếu được theo học ở một quốc
gia thi hành chính sách giáo dục tự do và khai phóng, thì dù chỉ mới học hết lớp
8 thôi, chắc chắn là ông Tú Gàn cũng sẽ không viết những đọan văn như vậy. Nhưng
vì bị ảnh hưởng sâu nặng của chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội
La Mã ngay từ thuở mới chào đời cho đến khi học hết 3 hay 4 năm luật ở Sàigòn,
rồi lại được cho làm thẩm phán để cầm giữ cán cân công lý thuận lợi cho Giáo Hội
trong nhiều năm, cho nên ông ta mới viết như vậy mà không biết là sai trái.
Người viết tin rằng, khi đọc
hết hai đoạn văn trên đây của ông Tú Gàn, có rất nhiều người đồng đạo với ông ta
cũng không nhận thấy có gì là sai trái cả! Vậy thì sai trái ở chỗ nào?
Dưới đây là nhận xét của người
viết về hai đọan văn trên đây:
Thứ nhất: bất ổn - Việc sử dụng
cụm từ “Theo tài liệu của cơ quan tình báo VNCH” ở đầu đọan văn số 2,
người viết thấy có điều bất ổn. Bất ổn ở chỗ là chỉ “nói trổng”, không nêu ra
nguồn gốc của tài liệu này. Tài liệu này mang số mấy? Được
ban hành hay công bố vào ngày, tháng, năm nào? Trích dẫn từ tài liệu nào?
Từ tháng 4/1975 cho đến nay,
tại hải ngoại, có một số tín đồ Da-tô “ngoan đạo” thuộc lọai “tuyệt đối trung
thành với Vatican” ưa thích sử dụng cụm từ “Theo tài liệu của cơ quan
tình báo VNCH” hay “Theo nguồn tin tình báo của Hoa Kỳ” rồi kèm theo
một mệnh đề hay một câu văn hàm chứa dã tâm chụp mũ “Cộng Sản” cho những người
khác tôn giáo bất đồng chính kiến với họ để khủng bố tinh thần nạn nhân. Chính
bản thân người viết cũng đã từng là nạn nhân của cái “mửng” này vào những tháng
cuối năm 1997, sau khi viết bài Tướng Nguyễn Chánh Thi Với Cuộc Chính Biến
11/11/1960 in trong cuốn Nhìn Lại Biến Cố 11/11/1960 (Houston, TX: Văn Hóa,
1997). Người viết đã cho in cả bản văn chụp mũ này ở trang 237 trong cuốn Việt
Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Tòan thư 1952-1963 (Tacoma, WA: txb, 1999)
Tín đồ Da-tô người Việt và
những người được hưởng ân sủng của các chính quyền đạo phiệt ở miền Nam Việt Nam
trong những năm 1954-1975 thường gọi miền Nam Việt Nam trong những năm
1954-1975 là "Việt Nam Cộng Hòa và có hiến pháp bảo đảm quyền tự do dân chủ
cho người dân."
Nói như vậy, có phải là một lối nói lừa bịp dư luận và nhân dân thế giới hay
không? Lối nói này
giống y hệt như Toà Thánh Vatican và tín đồ Da-tô vẫn thường bô bô cái miệng
tranh đấu cho dân chủ tự do và tôn trọng quyền tự do tôn giáo của những người
thuộc các tôn giáo khác, nhưng chính quốc gia Vatican lại theo chế độ chính trị
tăng lữ quân chủ chuyên chế (sacerdotal monarchy) và vẫn còn chủ trương đòi hỏi
những người thuộc các tôn giáo khác Nếu muốn thành hôn với tín đô Da-tô,
THÌ phải từ bỏ tôn giáo cổ truyền của gia đình, phải theo học lớp giáo lý
và phải làm lễ rửa tội theo đạo Da-tô rồi mới được tiến hành làm lễ thành hôn.
Đó là chỉ là một trường hợp nhỏ
nhoi trong khu rừng những thủ đoạn đại bịp của Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô
người Việt mà không ai có thể phủ nhận được. Ấy thế mà nếu có người nào bảo Giáo
Hội La Mã là một tổ chức ĐẠI BỊP, và tín đồ Da-tô ngoan đạo người Việt viết
sách, viết báo hay làm trong ngành truyền thông đều là những tên ĐẠI BỊP, thì họ
giẫy nẩy lên như đỉa phải vôi, rồi la lối rùm beng lên rằng Giáo Hội La Mã và
họ bị vu khống. Sở dĩ họ phủ nhận và làm rùm beng như vậy là vì họ không đủ khả
năng nhìn ra sự mâu thuẫn giữa những lời nói và hành động của Giáo Hội La La Mã
và sự mâu thuẫn hay đá ngược nhau giữa những lời nói trước và lời nói sau của
Giáo Hội hay của chính bản thân họ.
Mâu thuẫn ở những điểm sau đây.
a.- KHI họ muốn
miệt thị chính quyền miền Bắc là chế độ độc tài cộng Sản, THÌ họ lớn
tiếng cao rao rằng miền Nam theo chế độ dân chủ tự do, có hiến pháp bảo đảm tất
cả mọi thứ quyền tự do của người dân. Nhưng trong thực tế, các chính quyền miền
Nam trong những năm 1954-1975 đều là do Hoa Kỳ và Vatican tạo dựng nên với bản
chất là một chế độ đạo phiệt Da-tô giống y hệt như chế độ đạo phiệt Da-tô Ante
Pavelich ở Croatia trong những năm 1941-1945; cụ thể là các nhà viết sử Âu Mỹ và
Việt Nam đều khẳng định Ngô Đình Diệm là một tên bạo Chúa như sử gia Nigel
Cawthorne đã nói rõ nơi các trang 167-168 trong cuốn History ‘s 100 Most Evil
Despots & Dictators (London: Arcturus 2004), và rõ ràng hơn nữa là tín đồ Da-tô
ở hải ngoại đối xử với người Việt hải ngoại thuôc các tôn giáo khác bất đồng
chính kiến với họ bằng những hành động khủng bố chẳng khác gì chính sách Khủng
Bố Trắng trong thời các chính quyền của Vua Louis XVIII (1814-1824) và Charles
X (1824-1830) ở Pháp.
Nạn nhân đã bi họ khủng bố như
thế nào?:
Chưa kể đến những hành động
ngược ngạo của tín đồ Da-tô người Việt ở trong nước từ cuối thế kỳ 18 cho đến
tháng 4/1975, chỉ nói tới những hành động này của họ ở hải ngoại từ năm 1975
cho đến ngày nay, chúng ta cũng đã thấy rõ đặc tính ngu xuẩn trong việc “triệt
để vâng lời và thi hành lệnh truyền của các đấng bề trên” của tín đồ Da-tô người
Việt qua những hành động ngược ngạo của họ trong những trường hợp dưới đây:
1.- Cố gắng phá thối buổi ra
mắt cuốn sách Đối Thoại Với Giáo Hoàng John Paul II do anh em trong
nhóm Giao Điểm tổ chức ở Westminster, California vào ngày 19/8/1995.
2.- Mưu đồ biểu tình và phá thối
buổi hội thảo văn hóa của anh em văn nghệ sị Bắc Mỹ do Tiến-sĩ Vũ Ngự Chiêu và
người viết tổ chức tại Seattle, Washington vào ngày 20/12/1997.
3.- Tổ chức biểu tình và bao
vây ngôi chùa Đức Viên ở San Jose khởi đầu vào buổi chiều ngày 18/5/1998 và kéo
dài trong nhiều ngày, khi Đại Lão Hòa Thượng Thích Dũng từ Việt Nam qua Hoa Kỳ
tham quan và lưu trú tại đây.
4.- Tổ chức biểu tình chống Bà Minh Anh Hodge, Giám đốc Chương Trình ESL, Ngoại Ngữ và Tiểu Học tại Nha Học
Chánh Tacoma, Washington và tháng 7 năm 2001, chỉ vì, khi được mời thuyết trình
về đề tài Người Việt Tị Nạn Ở Washington vào cuối tháng 4/2000 tại Tacoma
Community College (kỷ niệm 25 năm của nguời Việt tị nạn), bà đã cho trình chiếu
nhiều tấm hình về cuộc chiến Việt Nam trong đó có tấm hình Hòa Thượng Thích
Quảng Đức tự thiêu, hình Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đang nhắm bắn một tù nhân hai
tay bị trói ké quặt lại sau lưng và hình em bé Kim Phúc bị cháy phỏng bởi bom
lửa với thân hình trần truồng vừa chạy vừa khóc trong kinh hoàng. (Độc giả có
thể kiểm chứng sự kiện này bằng cách tiếp xúc với bà Minh Anh Hodge hay các nhân
viên trong ban giảng huấn ESL hay nhân viên văn phòng ESL và Ngoại Ngữ tại Sở
Học Chánh Tacoma).
5.- Việc ông Da-tô Nguyễn Xuân
Tùng hai lần chỉ huy đoàn người đồng đạo mà họ gọi là Diến Đàn Ki-tô Hữu đến bao
vây ngôi Chùa Việt Nam tại 12292 Magnolia Street Garden Grove để khủng bố tinh
thần thày Thích Pháp Châu chỉ vì nhà sư này vừa là chủ bút tạp chí Hoa Sen vừa
là trường ban điều hành Đài Phát Thanh Quê Hương Việt Nam: Lần thứ nhất
xẩy ra vào 27/10/2002, lần thứ hai xẩy ra vào ngày 24/4/2004
và kéo dài tới ngày 31/5/2004 (tất cả là 55 ngày), trong đó có ngày đại
lễ Phật Đản vào ngày 30 5/2004. (Độc giả có thể kiểm chứng sự kiện này bằng các
tiếp xúc với thày Pháp Châu ở ngôi chùa này).
6.- Biểu tình, khủng bố và mưu
đồ phá thối buổi ra mắt cuốn sách Trả Ta Sông Núi của Cựu Đại Tá Phạm
Văn Liễu được tổ chức ở San Jose, California vào tháng 7 năm 2003.
7.- Chửi bới và hạ nhục những
văn nghệ sĩ trình diễn những bản nhạc hay những người sản xuất những băng nhạc
mà họ cho rằng tuyên truyền cho Cộng Sản, rồi gièm pha và chửi bới cả những
người ái mộ những nhạc sĩ và ca sĩ đã bị họ lên án. Từ khi cuốn băng Thúy Nga
Paris 40 được phát hành vào năm 1996, nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, MC Nguyễn Cao Kỳ
Duyên, các ca sĩ Hương Lan, Ái Vân, Băng Kiều, Thanh Tuyền, Thanh Lan, Ngọc
Huyền, Hồng Nhung, Trần Thu Hà, Thu Phương, Lam Trường, Phương Thanh, v.v...
cũng đã trở thành nạn nhân của bọn người cuồng nô vô tổ quốc này. Tệ hại hơn
nữa, cả những người ái mộ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng bị chúng ghét cay ghét
đắng và bị chụp mũ là thân Cộng hay Cộng Sản nằm vùng.
8.- Chửi bới
và hạ nhục những người Việt hải ngoại về thăm quê hương. Điển hình là vụ tổ chức
một buổi lễ tẩy chay ông Nguyễn Cao Kỳ chỉ vì ông ta về thăm Việt Nam trong dịp
Tết Giáp Thân 2004. Những hành động thiếu văn minh và độc tài này còn tệ hơn chế
độ Phát xít Ý và Đức Quốc Xã.
9.- Mở chiến dịch viết bải chửi
bới và hạ nhục vợ chống ông Trịnh Hội - Nguyễn Cao Kỳ Duyên chỉ vì hai vợ chồng
nạn nhân này nhận lãnh vai trò làm MC cho một số ca sĩ từ Việt Nam qua trình
diễn buổi văn nghệ được tổ chức ở Úc Đại Lợi vào đầu năm 2007.
10.- Mở chiến dịch viết bài
chửi bới và tổ chức biểu tình buổi trình diễn Văn Nghệ Hát Với Thần Tượng do
Trung Tâm Băng Nhạc Asia chỉ vì buổi trình diễn văn nghệ này được tổ chức vào
ngày 19/5/2007, ngày mà họ cho rằng ngày sinh nhật cụ Hồ Chí Minh.
11.- Mở chiến dịch chửi bới
phái đoàn Thủ Tướng Việt Nam Phan Văn Khải sang thăm Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 2005
và hành hung một nhân viên của phái đoàn Việt Nam tại một nhà hàng và hung thủ
đã bị truy tố ra tòa vì tội trạng này.
12.- Mở chiến dịch tố khổ chửi
bới và hạ nhục khoảng một ngàn người Việt hải ngoại tham dự bữa cơm thân mật
với ông Chủ Tịch Việt Nam Nguyên Minh Triết trong một khách sạn ở Dana Point,
California vào ngày 22 tháng 6 năm 2007, đặc biệt là họ sử dụng những lời lẽ vô
cùng mất dạy đối với ông Nguyễn Cao Kỳ. Vấn đề này đã được Giáo-sư Trần Chung
Ngọc trình bày khá đầy đủ trong bài viết Tản Mạn Xung Quanh Vụ Tố Khổ Ông Nguyễn
Cao Kỳ đăng trên sachhiem.net tháng 7/2007.
13.- Chống đối tờ Việt Weekly
bằng cách, một mặt, họ tổ chức những cuộc biểu tình bao vây văn phòng làm việc
của tờ báo này nhiều ngày trong tháng 7/2007 và tháng 8/2007 với dã tâm khủng bố
và dồn tờ báo này vào tình trạng phá sản, mặt khác, họ tổ chức một cuộc họp tố
khổ tờ báo này vào ngày 15/7/2007 tại một hội trường trong thành phố Wesminster
(California), giống như một phiên tòa của Tòa Án Dị Giáo xử lý tội nhân dị giáo
trong thời Trung Cổ.
Chuyện này đuợc tác giả Thiên Lôi ghi lại trong bài viết
có tựa đê là “Bolsa, Xóm Đạo” trong đó có mấy đoạn với nguyên văn như sau:
“Vào chiều Chủ Nhật 15 tháng
7 năm 2007, một Liên Ủy ban chống Cộng đã tổ chức một cuộc họp tại hội trường
thành phố Westminster có mục đích là tường trình những hoạt động chống chủ tịch
nhà nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết, và thảo luận hành động của ông Nguyễn Cao
Kỳ và vụ tuần báo Việt Weekly “thân cộng”.
Tờ Việt Weekly vốn sinh sau
đẻ muộn do các người trẻ thuộc thế hệ di dân thứ hai thứ ba điều hành theo cung
cách vô tư đa chiều ở Mỹ. Báo này bỗng nỗi bật nhờ tháp tùng phái đoàn Mỹ đến
Việt Nam dự hội nghị APEC tại Hà-Nội trước đây. Tờ báo lại có can đảm nói lên sự
lem nhem tài chính của nhiều tổ chức, đoàn thể; đụng chạm đến những chính khách,
dân cử người Việt có hành động sai trái ở đây. Tờ báo còn có những bài phỏng vấn
các ông to bà lớn đang cầm quyền ở Việt Nam làm các tờ báo “già nua chống cộng
theo đơn đặt hàng” ở quận cam bị “quê một cục” nên cấu kết với đám chuyên nghề
biểu tình kinh niên quyết đem Việt Weekly ra làm thịt ở “tòa án nhân dân” nơi
“thành đồng chống cộng” nam Cali.
Trước đó không lâu, xóm
Bolsa đã nhận được một bản Lên Tiếng Về Lập Trường Thân Cộng Của Tuần Báo Việt
Weekly, mà thành phần nồng cốt lại là những nhân vật nằm trong các tổ chức thuộc
các nhà thờ Ca-tô La-mã như Diễn Đàn Kitô-hữu, Nguyệt San Chính Việt, Diễn Đàn
Giáo Dân, Phong Trào Giáo Dân Nam Cali, Phong Trào Giáo Dân Hải Ngoại, Diễn Đàn
Kitô-hữu, VNCH Foundation (do dư đảng Cần Lao dựng lên), Tuần Báo Saigon Nhỏ,
Tiếng Nói Giáo Dân vv... Đọc đến chóng mặt! Nhưng chung lại cũng chỉ là ... giáo
dân. Sao lại mang nhiều danh hiệu quá vậy cà? Hay một mạng đứng trong hai, ba
cái tổ chức khác nhau đánh lận con đen cho xôm tụ?
Qua cuộc họp kể trên, chủ
tọa đoàn gồm ông thợ thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi giữa, hai bên tả hữu có những
người như các ông Phạm Kim Long, từng ứng cử tranh ghế hụt Hạ viện tiểu bang; Đỗ
Thái Nhiên, Phan Kỳ Nhơn, Lê Ngọc Diệp, Cao viết Lợi, Trần Phong Vũ, Nguyễn Xuân
Tùng và Trần Sơn Hà, các bà Trần Thanh Hiền, Võ thị Thu Vân. Lại có cả ông sư
“chùa một cột” Thích Thiện Dũng vừa ở tù ra vì tội hiếp dâm và ông Linh mục
Nguyễn Thanh khai có bệnh tâm thần.
Theo chương trình, phần
chính là tường trình thành quả việc chống chủ tịch Nguyễn Minh Triết; còn phần
phụ là thảo luận về ông Nguyễn Cao Kỳ và báo Việt Weekly. Nhưng mục nói về ông
Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Cao Kỳ được chủ tọa đoàn cho qua cái rẹt sau mấy phút;
vì như họ tuyên bố là “nói mãi cũng bằng thừa”. Sau đó họ quay sang mục tố khổ
tờ tuần báo Việt Weekly đến hết khoảng thời gian còn lại mất mấy tiếng đồng hồ.”[21] .
14.- Đặc biệt là họ lại còn
trưng ra những thành tích tích phản quốc hại dân, cái quá khứ nhục nhã đã từng
cúi đầu gục mặt “cõng rắn cắn gà nhà” rước giặc Pháp và Vatican về đánh chiếm
và thống trị tở quốc Việt Nam trong suốt thời gian từ năm 1858 cho đến năm 1954
và làm tay sai cho liên quân xâm lăng Mỹ trong những năm 1954-1975 để hãnh diện.
Bản văn viết trong mục Thời Sự đăng trên tờ Viễn Đông ngày Chủ Nhật 29/7/2007
của ông Da-tô Nguyễn Đạt Thịnh cho chúng thấy rõ sự thật trơ trẽn về thực trạng
mất hết cả lương tâm, mất hết cả liềm sỉ đến nỗi không biết rằng của họ việc làm
bán nước cho người ngoại bang là nhục nhã:
“Chưa bao giờ Việt Cộng lâm
vào thế khó bí hơn bi giờ. Cái khó phải đối diện với cuộc nổi dậy của lực lượng
công giáo vô cùng đoàn kết và có tổ chức…
Tôi chưa ngớt lời ca tụng
đức hồng y Phạm Minh Mẫn về lá thư viết cho linh mục Nguyễn Thái Hợp, yêu cầu
nghiên cứu hai thái độ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, thái độ thứ nhất, cương
quyết không cộng tác với Việt Cộng từ 1954 đến 1975, và thái độ thứ nhì, nhân
nhượng cộng tác với Việt Cộng từ 1975 đến nay, để tìm xem thái độ nào đúng, và
đem kết quả cuộc nghiên cứu này ra làm kim chỉ nam cho đường hướng lãnh đạo giáo
hội trong tương lai.
Thật ra còn phải kể đến một thái độ nữa của
giáo hội công giáo Việt Nam: thái độ quyết liệt và võ trang chống cộng sản trong
thời gian từ 1945 đến 1954…”
[22] .
Trong khi ông Da-tô Nguyễn Đạt
Thịnh chủ tâm viết ra và cho phổ biến những thành tích của nhóm thiểu số tín đồ
Da-tô vong bản phản quốc đã cúi đầu gục mặt bán nước làm tay sai cho quan thày
Pháp và Vatican để lấy đó là niềm hãnh diện khoe khoang với đời, thì chính quan
thày người Pháp lại cho khinh bỉ họ và coi họ như là hạng người lưu manh, du thủ
du thực:
“Chúng tôi chỉ có với mình”, Đô
Đốc Rieunier sau này nói, “những giáo dân và bọn du thủ du thực”. “Bọn lang
bạt bị trục xuất khỏi làng vì đói rét hoặc vì tội phạm,” Đại Tá Bernard viết, xô
về đây với cái lưng mềm dễ uốn, họ tham sống sợ chết; họ hoàn toàn hững hờ với
cuộc đấu tranh của dân tộc mình, sẵn sàng phụng sự bất cứ những ông chủ nào.
Người ta sẽ tuyển dụng trong số họ tất cả nhân viên hành chính cần thiết cho nhà
nước, hoặc những người giúp việc gia đình: làm đầy tớ, làm phu khuân vác, làm
người chạy giấy và cả những tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép được đào
tạo thô sơ qua các nhà trường của Hội Truyền Giáo. Chính là qua sự tiếp xúc với
những kẻ khốn nạn này mà bọn thực dân và công chức, vừa mới đổ bộ lên, làm quen
với dân tộc Việt Nam …”[23]
Chắc chắn là ông Da-tô Nguyễn Đạt Thịnh chưa bao
giời đọc đoạn văn trên đây, cho nên ông mới viết những lời lẽ khoe khoang cái
thành tích phản quốc bán nước của cái Giáo Hội Công Giáo Việt Nam như vậy mà
không biết nhục.
Khi có những thái độ, ngôn từ
và hành động xấc xược ngược ngạo đến độ mất dạy như vậy, chắc chắn là những
người tự xưng là “dân Chúa” hay “có đạo” hoặc là “được Chúa soi sáng” này không
biết làm như vậy là vô liêm sỉ, không cảm thấy ngượng với lương tâm và cũng
không biết rằng làm như vậy là phản dân chủ và phản quốc bởi vì những hạng người
này có biết liêm sỉ là cái gì đâu, họ cũng không còn có lương tâm để mà ngượng
và cũng không có đủ trình độ kiến thức để biết làm như vậy là phản dân chủ. Đây
là sự thành công tuyệt vời của chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ do Tòa
Thánh Vatican chủ trương và được thi hành triệt để ở miền Nam Việt Nam trong
những năm 1954-1975.
Trong khi làm những hành động
tội ác vi phạm nhân quyền, vi phạm quyền tự do dân chủ và tự do tôn giáo của
những đồng hương bất đồng chính kiến và khác tôn giáo với họ như vây, bọn người
này đều tự xưng là “những người quốc gia chân chính yêu nước”, đều trương
cao “lá cờ vàng ba sọc đỏ” và đều lớn tiếng cao rao rằng họ “cương
quyết bảo vệ chính nghĩa quốc gia của họ.” Tất cả những nạn nhân trong
trường hợp trên đây đều bị họ gán cho là "Cộng Sản" hoặc "Công Sản nằm
vùng" hay "tiếp tay cho Cộng Sản" và “cán bộ tuyên vận của Cộng
Sản”, giống y như trong thời Trung Cổ, tất cả hàng trăm triệu nạn nhân của
Giáo Hội La Mã đều bị gán cho là “tà giáo”, là “phù thủy”, là “rối
đạo”, là “vô thần”. Sự kiện này cho chúng ta thấy rõ là:
1.- Những ngượi tự nhận là
những người Quốc Gia hay quốc gia chân chính thực sự chỉ là nhóm thiểu số tín đồ
Da-tô cấu kết với nhóm thiểu số tàn dư phong kiến phản động.
2.- Cái mà họ cao rao ra
chính nghĩa quốc gia chỉ là chủ trương củng cố và mở rộng quyền lực của Giáo
Hội Lã Mã vào trong tay một chính quyền đạo phiệt Da-tô với danh xưng tùy theo
hòan cảnh lịch sử của đất nước.
a.- Trong những năm
1948-1954, chính quyền này có danh xưng là chính quyền quốc gia với hình thức hổ
lốn, nửa nạc nửa mỡ, quân chủ không ra quân chủ, dân chủ không ra dân chủ vì
chẳng có hiến pháp gì cả. Thực sự bản chất của chính quyền này chỉ là một chính
quyền bù nhìn do Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican nặn ra để
làm tay sai cho cả hai thế lực Pháp và Vatican.
b.- Trong những năm
1954-1975, chính quyền này có danh xưng là Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hoà và Việt Nam
Đệ Nhị Cộng Hòa, nhưng bản chất vẫn là một chế độ đạo phiệt Da-tố do Liên Minh
Mỹ - Vatican đẻ ra để làm tay sai phục vụ quyền lợi cho cả Mỹ và Vatican.
3.- Lá cờ vàng ba sọc đỏ do
người của Tòa Thánh Vatican là Linh-mục Trần Hữu Thanh họa kiểu với “ba sọc
đỏ tượng trung cho ba xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ và cũng là tượng trung cho
Chúa Ba Ngôi” (The three red stripes represent the three regions of Vietnam
– Tonkin, Annam, and Cochin-China – but also the Trinity.,”[24]….
Lá cờ này cùng với chính
quyền quốc gia bù nhìn trên đây được liên minh giặc xâm lăng cho ra đời vào ngày
5/6/1948. Kể từ đó, nó trở thành biểu tượng của nhóm thiểu số Da-tô và tập đoàn
tàn dư phong kiến phản động có mục đích:
a.- Chống lại cuộc kháng
chiến đánh đuổi Liên Minh Xâm Lăng Pháp – Vatican giành lại chủ quyền độc lập
của dân tộc Việt Nam.
b.- Duy trì và củng cố
quyền lực của Giáo Hội La Mã tại Việt Nam và của bất cứ đế quốc thực dân xâm
lăng nào cấu kết với Giáo Hội La Mã.
Thì ra, những người quốc gia
chân chính yêu nước ở hải ngoại và chính nghĩa quốc gia của họ là như vậy! Và lá
cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng cho cái chính nghĩa quốc gia của họ là như vậy!
Đây là một thứ chính nghĩa quốc gia bất chấp cả quyền lợi tối thượng của dân
tộc, bất chấp cả các quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do
tôn giáo, tự do di chuyển, v.v… của mọi người dù là những thứ tự do này đã được
hiến pháp và luật pháp Hoa Kỳ triệt để bảo vệ. Cái thứ chính nghĩa quốc gia như
vậy của họ quả thật là vô cùng kinh tởm, kinh tởm giống như cái đạo bác ái và
cứu rỗi của Giáo Hội La Mã, kinh tởm đến nỗi học giả Da-tô Henri Guillemin đã
phải gọi Giáo Hội La Mã là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn” (Malheureuse Église)[25]
và văn hào Voltaire đã phải dã phải gọi nó là “cái tôn giáo ác ôn!” .[26]
Căn cứ vào bản chất độc tài
chuyên chính và phong kiến của chế độ giáo hoàng (papacy) với những rặng núi tội
ác chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua, căn cứ vào những hành động vi
phạm nhân quyền một cách trầm trọng và những hành động chà đạp các quyền tự do
dân chủ trong đó có quyền tự do tôn giáo của những thành phần thuộc các tôn giáo
khác (do tín đồ Da-tô người Việt chủ động ) như đã trình bày ở trên đây, chúng
ta có thể lớn tiếng khẳng định rằng Giáo Hội La Mã và tất cả tín đồ Da-tô người
Việt không có tư cách gì để đòi hỏi chính quyền Việt Nam hiện nay phải thực thi
dân chủ, phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo của Giáo Hội La Mã và tin đồ Da-tô.
LÝ DO rất dễ hiểu là KHI mà chính mình không tôn trọng quyền tự do tôn giáo
và các quyền tự do khác của những người khác, THÌ không có quyền đòi hỏi những
người khác phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo và các quyền tự do khác của riềng
mình. Nguyên tắc này đã được chính quyền Anh áp dụng bằng cách ban hành một
đạo luật vào năm 1691 không cho tín đồ Da-tô La Mã lên cầm quyền ở nước Anh (đã
trình bày ở trên), và chính quyền của nước Nga hiện nay cũng đã triệt để áp
dụng:
"Tin của "The Register" số
ra ngày Thứ Bảy 20/ 9/1997 cho biết: "Đạo luật đã chấp nhận "Chính Thống Giáo"
là tôn giáo chính, kính trọng các tôn giáo khác, như Hồi Giáo, Phật Giáo và Do
Thái Giáo. Đạo luật tạo ra một hàng rào ngăn cản đối với những giáo phái toàn
trị (Gia-tô, Tin Lành) và hạn chế sự hoạt động của những nhà truyền giáo ngoại
quốc. Các nhà phản đối cho rằng Chính Thống Giáo cũng ủng hộ đạo luật này như là
một cách để ngăn cấm những người Kitô khác như Gia-tô và Tin Lành, không cho họ
được tự do họat động ở Nga." Vào ngày Thứ Sáu 19/9/1997, các nhà làm luật ở Hạ
Viện đã bỏ phiếu chấp thuận (đạo luật trên đây) với 358 phiếu thuận và 6 phiếu
chống." Nguyên văn: "The bill enshrines Russia's Orthodox Church as
the country's preeminent religion, but also pledges repect for religions such as
Islam, Buddhism and Judaism. It creates a barrier for totalitarian sects and
limits the activity of foreign missionaries. But critics say the Orthodox Church
also is backing the measure as a way to prevent other Christians, such as
Catholics and Protestants, from operating freely in Russia. On Friday, September
19, 1997, lawmakers in the lower house, or Duma, voted 356-6 in favor of the
bill.”
[27]
Trông nguời lại nghĩ đến ta.
Mong rằng chính quyền Việt Nam hiện nay hãy theo gương nước Anh và nước Nga mà
hành động giống như hai nước này và theo gương Trung Quốc nhất định không bang
giao với Vatican.
Mong lắm thay!
B.- KHI họ muốn chụp mũ
“cộng sản” cho những người khác tôn giáo bất đồng chính kiến với họ, THÌ
họ sử dụng cụm từ “Theo tin tức tình báo của VNCH.” (lừa bịp dư luận) để
làm cơ sở chụp mũ cho nạn nhân là “cộng sản” hay “phá rối an ninh trật
tự.” Sự kiện này chứng tỏ họ tự thú nhận rằng các chính quyền miền Nam Việt
Nam thực sự là một chế độ đạo phiệt Da-tô, và chế độ đạo phiệt này còn tệ hại
gấp ngàn lần chế độ độc tài Cộng Sản.
Đã cao rao miền Nam theo chế độ
dân chủ tự do và có Hiến pháp bảo đảm quyền tự do dân chủ của người dân mà TẠI
SAO lại có tình báo theo dõi người dân như theo dõi quân thù vậy?
Như vậy có phải là mâu thuẫn
không? Nói một cách khác là lời nói sau đá ngược lời nói trước.
Qua cung cách viết của họ,
những người đã từng sống ở các chế độ tự do dân chủ thực sự như ở Bắc Mỹ, Nhật
Bản hay Âu Châu và những người am hiều các chế độ dân chủ không thể nào lại
không đặt vấn đề:
TẠI SAO miền Nam Việt Nam hay
Việt Nam Cộng Hòa là một nước dân chủ tự do có hiến pháp bảo đảm các quyền tự do
căn bản cho người dân, mà ại cho tình báo viên theo dõi nhân dân, theo dõi cả
một tu sĩ Phật giáo như trường hợp thày Nhất Hạnh và dùng mật vụ theo dõi một
học giả viết lịch sử như trường hợp sử gia Nguyễn Hiến Lế?
Ai cũng biết rằng, bất kỳ quốc
gia nào cũng vậy, ngoài các bộ và các sở hay các cơ quan chuyên biệt khác, bộ
máy cai trị của nhà nước còn có:
1.- Tổ chức (nha hay bộ) công
an (giống như FBI ở Hoa Kỳ) có nhiệm vụ điều tra và theo dõi những tội ác xã hội
ở trong lãnh thổ.
2.- Tổ chức tình báo hay mật vụ (giống như CIA của
Hoa Kỳ, 2ème Bureau của Pháp, KGB của Nga) có trách nhiệm tung nhân viên vào
vùng địch để thâu thập những tin tức họat động của địch có phương hại đến quyền
lợi của đất nước.
Căn cứ vào sự phân nhiệm của tổ
chức tình báo trên đấy, căn cứ vào lời thú nhận của ông Da-tô Tú Gàn qua lời
viết, “Theo tin tức tinh báo của VNCH…” và căn cứ vào việc mật vụ theo
dõi sử gia Nguyễn Hiến Lế chỉ vì ông viết bộ sử thế giới, chúng ta có thể khẳng
định rằng chế đồ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm thực sự đã coi Phật giáo và nhân
dân như thù địch, và chỗ nào có những người dân không phải là tín đồ Da-tô cư
ngụ đều là vùng địch cả. Vì thế chính quyền Ngô Đình Diệm mới tung nhân viên
tình báo theo dõi nhà sư Thích Nhất Hạnh và phái nhân viên mật vụ theo dõi sử
gia Nguyễn Hiên Lê.
Việc sử dụng tình báo hay mật vụ để theo dõi nhân
dân như vậy cho chúng ta thấy rằng chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ coi tín đồ
Da-tô mới là người dân đáng tin tưởng của chế độ, và coi đại khối nhân dân không
phải là tín đồ Da-tô đều là kẻ đich cả. Đồng thời, nó cũng cho chúng ta thấy là
các tổ chức tình báo, mật vụ và công an của chính quyền Ngô Đình Diệm hết sức đồ
sộ và vô cùng ghê gớm.
Trong thực tế, các nhà viết sử
đều ghi nhận là các tổ chức máy mật vụ và công an của chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô
Đình Diệm thật là vô cùng khủng khiếp! Các tổ chức này đã được sử gia Joseph
Butinger nói rõ nơi trang 959 Volume 2 trong bộ sách Vietnam: A Dragon Embattled
(New York:Frederick A. Praeger, 1967) và cụ Đỗ Mậu cũng trình bày đầy đủ nơi
trang 645 trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ,
1993).
Người viết đã từng sống ở miền
Nam từ tháng 3 năm 1955 cho đến ngày 30/4/1975, đã từng chứng kiến tận mắt các
ông mật vụ tác oai tác quái ở Sàigòn và các vùng Gia Định và Chợ Lớn, đã từng
tìm đọc các tài liệu sử do các nạn nhân của chế độ Ngô Đình Diệm ghi lại, và đã
từng đọc những sách sử nói về các tổ chức mật vụ công an của chế độ này, cho
nên mới biết khá rõ về mức độ tinh vi và mức độ tàn ác của nó ghê gớm và kinh
khủng như thế nào!. Độc giả có thể tìm đọc các sách như Chín Năm Máu Lửa Dưới
Chế Độ Ngô Đình Diệm của hai tác giả Nguyệt Đam và Thần Phong, sách Những Bí Ẩn
Lịch Sử Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm của tác giả Lê Trọng Văn, bộ sách Biến Cố 11
của Giáo-sư Trần Tương, sách Việt Nam Phật Giáo Trânh Đấu Sử của tác gỉa Tuệ
Giác, sách Công Và Tội của ông Nguyễn Trân (Los Angeles, CA: Xuân Thu, 1992)
v..v… thì sẽ thấy rõ bộ mặt thật vô cùng ghê tởm của chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô
Đình Diệm.
THỨ HAI, đọc qua hai
đoạn văn số 2 và số 3 trên đây, một em bé học sinh mới học xong cấp hai hay lớp
9 ở Hoa Kỳ có thể cho rằng tác giả của hai đoạn văn trên đây chưa học xong lớp
9, cho nên mới viết càn như vậy. Người viết xin hỏi ông Tú Gàn rằng TẠI SAO ông
lại đem những chuyện trong đời sống riêng tư của cá nhân bà Cao Ngọc Phượng và
cả đến cha lẫn mẹ và ông nội của bà ấy ra phơi bày và rao bán cho độc giả? Là
người có bằng cử nhân luật và đã hành nghề thẩm phán ở miền Nam Việt Nam trong
nhiều năm trước tháng 4 năm 1975, ông có biết rằng viết như vậy là mang tội bới
móc đời tư của một cá nhân để hạ nhục người ta không?
Người viết xin đặt ngược vấn đề
như thế này: Nếu có một người nào đó đem đời tư của ông Tú Gàn và vợ ông
Tú Gàn ra viết giống như ông Tú Gàn đã viết về đời tư của thày Nhất Hạnh và bà
Cao Thị Phượng với những chuyện bịa đặt nhằm mục đích bêu riếu và sỉ nhục, THÌ ông Tú Gàn và vợ ông Tú Gàn sẽ có cảm nghĩ như thế nào?
Nói như vậy để khai trí ông Tú
Gàn và những người bị độc kế ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã mà
thôi. Chứ ở Hoa Kỳ hay ở bất kỳ quốc gia nào theo chế độ tự do dân chủ (dân chủ
thực sự, chứ không phải dân chủ giả hiệu như miền Nam Việt Nam trong những năm
1954-1975), luật pháp không cho phép bất kỳ người nào được đem chuyện đời tư của
một cá nhân nào ra bêu riếu như ông Tú Gàn đã viết hai đọan văn số 2 và số 3
trên đây.
Sự kiện này cho chúng ta thấy
rằng chỉ những hạng người dốt nát mới có thể viết như vậy. Nhưng ông Tú Gàn có
bằng cử nhân luật tốt nghiệp tại Phân Khoa Luật của Trường Đại Học Sàigòn, là
một nhân viên có địa vị của một ông thầm phán trong chính quyền miền Nam trước
tháng 4/1975, chứ đâu có phải là một tên vô học hay ngu dốt!. Điều này chứng tỏ
rằng, vì ông ta đã được tiếp nhận sở học qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi
sọ của Giáo Hội La Mã ở Việt Nam ngày từ thuở chào đời cho đến khi tóc đã đổi
mầu, cho nên ông ta mới không biết viết như vậy là viết sai, viết càn, viết ẩu,
và không biết rằng viết như vậy có thể bị đưa ra tòa vì cái tội đem đời sống
riêng tư của một cá nhân ra phơi bày trước công luận. Điều này tất cả những
người đã học hết chương trình trung học ở các quốc gia theo chính sách giáo dục
và khai phóng đều biết cả.
Như vậy, ta có thể kết luận
rằng chính sách kế ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã đã làm cho
ông Tú Gàn dốt nát viết càn, viết ẩu như thế!
CHÚ THÍCH
[1] Trương Tiến Đạt, Trước Cơn Giông Tố (San Jose, California: TXB, 1995, tr 7.)
[2] John Paul II, Crossing The Threshold Of Hope (New York: Alfred A.
Knopf, 1994), pp92.
[3] Phan Đinh Diệm "Tuyen Ngôn "NullaSalus Extra Ecclesiam" Bài 1
Của Giáo Hội Công Giáo Roma Ngày 5 tháng 9 nam 2000 - Thánh Bộ Ðức Tin Công Bố
Tài Liệu Về Vấn Đề "Không Có Cứu Độ Ben Ngoai Giáo Hội." tanvien@giesugiao.com
Ngày 19/9/2000.
[4] Steve Maynard. “ Pope’s words won’t break local bond.” The New
Tribune [Tacoma, Washington] July 23, 2007: Morning Edition: A1 & A8.
[5] Nicole Winfield “Archishop’s wife pleads with Vatican”. The News Tribune [Tacoma, WA]. August 12, 2001: A5.
[22] Trần Chung Ngọc. “Tản Mạn Xung Quanh Một Chuyến Về Việt Nam.”
sachhiem.net Ngày 22/8/2007.
[23] Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc
Địa Pháp ở Việt Nam 1858-1897 (Saint Raphael, (Pháp), TXB, 1994),
tr.101-102.."
[24] Xin xem cuốn Giải Phóng: The Fall and Liberation of Saigon của
tác giả Tiziano Terzani (New York: Martin’s Press, 1976), p. 261 hay cuốn Tâm
Thư của Cụ Đỗ Mậu (Houston, TX: Đa Nguyên, 1995), tr. 336-339.
[25] Nhiều tác giả, Vatican Thú Tội và Xin Lỗi? (Garden Grove,
CA: Giao Điểm, 2000), tr. 92.
[26] Bùi Ðức Sinh, Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo, Phần Nhì (Sàigòn: Chân
Lý, 1972), tr. 165
[27]Nguyễn Mạnh Quang, Nói Chuyện
Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004), tr. 50.