Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam
Nguyễn Mạnh Quang
https://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_13b.php
|
bản in |
¿ trở ra mục lục
| 31 tháng 12, 2009
PHẦN III
◎◎◎
CHƯƠNG 13
NHỮNG VIỆC LÀM "SÁNG DANH CHÚA" CỦA GIÁO HỘI
(tiếp theo)
III.- Những Hành Động Bạo Ngược và Dã Man Của Nhà Thờ Vatican Và Tín Đồ Ca-Tô
Chính sách bạo ngược và bản
chất dã man này của Nhà Thờ Vatican và của tín đồ Ca-tô đã khiến cho chúng lao
vào hố sâu tội ác với những hành động cực kỳ man rợ mà chúng gọi là “sự trả
thù của Chúa”. Sự kiện này được sách The Decline And Fall of The Roman
Church ghi lại như sau:
"Một chế độ quân phiệt
ra đời: Các nước có người cầm quyền là tín đồ của Giáo Hội La Mã phải được bảo
vệ bằng những tín đồ của Giáo Hội La Mã (Quân Thập Ác). Phải tiến hành những
cuộc thánh chiến và chiến tranh là nhiệm vụ thần thánh. Tàn bạo đối với những kẻ
thù của Chúa Jesus ở trong hay ở ngoài các vùng đất do Giáo Hội La Mã kiểm soát
là sự trả thù của Thượng Đế.”
[1]
Có hàng rừng tài liệu trong
các thư viện cũng như trong văn khố tại các nước Âu Mỹ và trên internet nói về
những hành động trả thù cho Chúa của Nhà Thờ Vatican một cách cực kỳ man rợ.
Những hành động này thường được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau và thường
được tiến hành vào những khi quyền lực đã lọt vào trong tay chúng (Nhà Thờ
Vatican). Theo sách Deceptions And Myths of the Bible (New York:Bell Publishing
Company 1979, p. 463) của tác giả Lloyd M. Graham, thì con số nạn nhân bị Nhà
Thờ Vatican và các ông bà Dân Chúa sát hại lên tới trên 250 triệu người. Vấn đề
này đã được người viết trình bày khá đầy đủ với khá nhiều chi tiết trong Chương
8 (Mục III, Phần II) của bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã.
Chương sách này có tên là Hủy Diệt Nền Văn Minh Nhân Loại và Thành Tích Tàn Sát
Lương Dân, và đã được đưa lên sachhiem.net từ ngày 16/2/2008. Dưới đây là một số
hoạt cảnh những hành động dã man này:
A.- "TRẢ THÙ CHO CHÚA" BẰNG CÁCH TÀN SÁT NGƯỜI TẬP THỂ
Con số trên 250 triệu nạn
nhân bị Giáo Hội sát hại trên đây rải rác từ năm 325 cho đến một vài năm trước
khi sử gia Lloyd Graham biên soạn xong cuốn Deceptions and Myths of the Bible
vào năm 1979, trước khi chính quyền đạo phiệt Ca-tô của tên bạo chúa Giám-mục
Augustin Misago tàn sát hơn 800 ngàn dân Tutsis ở Rwanda trong mấy tháng mùa hè
năm 1994. Dưới đây là một vài con số nạn nhân bị Giáo Hội sát hai theo từng biến
cố đã được các nhà viết sử sưu tầm và công bố.
1.- Con số nạn nhân bị sát
hại trong thời kỳ mấy chục năm sau khi Hội Nghị Nicaea nhóm họp vào ngày
20/5/325. Theo
ông Chalrie Nguyễn (một linh mục đã tỉnh ngộ ), con số nạn nhân trong thời kỳ
này vào trên 3 ngàn người.
[2]
2.- Con số giáo sĩ và tín đồ Ki-tô Do Thái bị
Giáo Hội La Mã sát hại sau vụ tàn sát những tín đồ Ki-tô theo phe
Giám-mục Arius. Không ai biết rõ
con số nạn nhân này là bao nhiêu. Trong cuốn The Decline And Fall of the Roman
Church, cựu giáo-sĩ Martin Malachi có nói về thảm cảnh của họ như sau:
“Họ cố gắng để tồn tại cho đến mấy chục năm
đầu của thế kỷ thứ 5. Rồi thì họ biến mất từng người một. Một số thì nhập vào
Giáo Hội La Mã – luôn luôn là tư cách cá nhân, không bao giờ có trường hợp cả
cộng đồng hay toàn thể các nhà thờ Kitô Do Thái. Một số khác lẩn vào trong khối
người theo nghi lễ mới của Giáo Hội Đông Phương - người Syriac, người Assyrian,
người Hy Lạp, người Armenian. Nhưng rất nhiều ngươi đã chết, chết vì lưỡi gươm
(của quân lính La Mã truy lùng họ như những hạng người sống ngoài vòng pháp
luật), chết đói (vì bị tước đoạt mất ruộng đất để sinh nhai và không thích nghi
được với cuộc sống ở các nơi đô thị). Một yếu tố khác nữa là sinh suất của họ
lại giảm xuống tới số không. Vào khi tiểu sử của ông Jesus (khác hẳn với Phúc
Âm) được viết bằng tiếng Trung Hoa và lưu hành ở Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ 7,
thì không còn tín đồ Kitô Do Thái tồn tại nữa và “dòng dõi bà con của Chúa” cũng
không còn nữa. Khắp mọi nơi, Giáo Hoàng La Mã đều ra lệnh phải tôn trọng và
hành xử quyền hành.”
[3]
3.- Con số nạn nhân bị sát
hại vì những cuộc chém giết thanh toán lẫn nhau để giành chiếm ưu thế và ngôi vị
giáo chủ trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 325 cho đến ngày nay.
Không ai biết chắc con số
nạn nhân này lên đến bao nhiêu triệu. Xem danh sách giáo hoàng trong cuốn Vicars
of Christ, chúng ta thấy có tới 37 ông ngụy giáo hoàng (anti-popes). Như vậy là
trong lịch sử Giáo Hội, ít nhất là có tới 37 lần các ngài mang chức thánh trong
hàng giáo sĩ cao cấp trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội chia phe lập đảng,
chém giết và thanh toán lẫn nhau để tranh giành ngôi vị. Mấy bản văn lịch sử
dưới đây trích ra từ sách Vicars of Christ cho chúng ta thấy rõ sự kiện này:
"Khi có cuộc họp của một số đông các tu sĩ
của Giáo Hội La Mã, thì địa điểm nhóm họp phải là nơi gần sông hay hồ lớn để
liệng xác người (bị thanh toán) xuống đó. Hồ Constance đã tiếp nhận tới hơn năm
trăm xác người (bị thanh toán); Con sông Rhine cũng là nơi tàng chứa rất nhiều
bí mật." [“When the clergy met in large number, it
was always wise to choose a town near water – lake or river – for disposing of
the bodies. Lake Constance received over five hundred while the Council was in
ssession; the Rhine, too, hid many secrets."]
[4] .
Cũng trong sách Vicars of Christ, nơi trang
11, có đọan văn sau đây:
"Họ băng qua con sông Tiber, con sông mà
trong nhiều thế kỷ đã được sử dụng vừa làm cống rãnh tiêu thụ rác rưởi của Kinh
Thành Rome, vừa làm mồ chôn người không chính thức. Có lẽ, ngoài Trung Hoa ra,
Tiber là con sông có nhiều xác người nhất bị nhận chìm trong một ngày. Sáng hôm
nay, dòng sông này lờ đờ mang mầu xám giống như màu áo của một giáo sĩ
Franciscan." [5]
Cũng trong sách này, nơi trang 38, tác giả
viết:
"Sự thù nghịch bộc phát thành những cuộc
chiến đấu đá nhau thường xẩy ra vào khi có giáo hoàng qua đời. Thí dụ, khi (Giáo
Hoàng) Liberius (352-366) chết vào năm 366, giáo triều chia làm hai phe, mỗi phe
chọn một người của phe mình lên kế vị. Ursinus là giáo hoàng của một phe và
Damasus là giáo hoàng của phe khác. Sau khi đánh nhau ở ngoài đường phố, phe
Ursinus yếu thế, chạy vào trong nhà thờ St Mary Major (thường gọi là Thánh Đường
Đức Bà Bạch Tuyết) rồi đóng cửa lại tử thủ. Phe Damasus tiến tới, trèo lên nóc
nhà thờ đục lỗ, rồi dùng ngói và đá liệng xuống tấn công phe Ursinus. Đồng thời,
một toán khác của phe Damasus tấn công vào bên trong qua cửa chính. Khi lọt được
vào trong, hai bên ra sức chém giết lẫn nhau liên tiếp trong ba ngày. Cuối cùng,
có tới 137 xác chết được khiêng ra ngoài. Tất cả xác chết này đều là người của
phe Ursinus. Ursinus bị bắt cho đi sống lưu vong, nhưng tội ác ở trong thánh
đường Mary Major là vết nhơ trong thời Giáo Hoàng Damasus mãi mãi vẫn còn ghi
trong sách sử."
[6]
4.- Con số nạn nhân bị tàn sát trong hai trăm
năm thập tự chiến. Cuộc chiến tôn
giáo này là do Giáo Hoàng Urban II (1088-1099) phát động vào năm 1095, đem quân
lính Ca-tô tiến vào vùng Cận Đông tàn sát các dân tộc theo đạo Hồi, Chính Thống
Giáo và Do Thái Giáo, rồi tiến vào miền Nam nước Pháp tàn sát giáo phái Cathari
(cũng thờ ông Jesus nhưng không chịu khuất phục Giáo Hội La Mã). Không ai biết
rõ con số đích thực là bao nhiệu triệu nạn nhân. Theo sách Công Giáo Chính Sử,
con số nạn nhân bị Giáo Hội tàn sát trong các cuộc chiến này lên tới 20 triệu:
"Tín điều về sự đầy đọa vĩnh viễn là tín
điều của những kẻ ác ôn. Hãy nghĩ tới hàng ngàn trẻ con và những người vô tư mà
đời sống của họ chất đầy ảm đạm. Những giáo lý này phải trải phủ trái đất với
những đống xương vàng của những người dị giáo và học giả. Chúng ta thấy sự đàn
áp ngoại đạo của Constantine, Clovis, Justinian, Theodosius và Charlemagne;
chúng ta thấy những cuộc thánh chiến trong đó có tới 20 triệu người bị giết;
chúng ta thấy sự tàn sát bừa bãi đàn ông, đàn bà, trẻ con ở Jerusalem bởi
Godfrey..."[7]
5.- Con số nạn nhân bị các
tòa án dị giáo sát hại.-
Cho đến ngày nay, chưa ai biết chắc con số nạn nhân bị các Tòa Án Dị Giáo của
Giáo Hội La Mã tra tấn, gây thương tật và sát hại là bao nhiêu triệu người. Sách
Smokescreens được biên soạn và phát hành vào năm 1983 (năm này Giáo Hoàng John
Paul II chưa mở kho mật hàm cho các nhà viết sử đến tham khảo) cho biết là con
số nạn nhân trong thời kỳ các Tòa Án Dị Giáo của Tây Ban Nha hoạt động
(1232-1820) là 68 triệu:
"Chỉ nội trong thời kỳ
thi hành chương trình Inquisition ở Tây Ban Nha, Giáo Hội La Mã đã tra tấn, gây
thương tật và sát hại là 68 triệu, và nhiều nạn nhân này cũng là những
người Thiên Chúa Giáo tin tưởng vào Thánh Kinh."
“The
Roman Catholic Institution tortured, maimed and murdered 68 million people
during the Spanish Inquisition alone, and many these were Bible-believing
Christians."[8]
Ngoài con số 68 triệu nạn
nhân trên đây, còn bao nhiêu chục hay trăm triệu nạn nhân khác nữa ở ngoài tầm
tay của chính quyền Tây Ban Nha, nhưng vẫn nằm trong ách thống trị bạo tàn của
Tòa Thánh Vatican mà chúng ta chưa biết được. Việc kho mật hàm của Giáo Hội
(Vatican' secret Archives) mới được mở cho các nhà viết sử đến tham khảo, trong
tương lai rất gần, sẽ có những ấn phẩm mới nói về chuyện này. Khi đó nhân dân
thế giới sẽ được biết rõ hơn về con số nạn nhân bị Giáo Hội La Mã sát hại và mức
độ tàn ác của Tòa Thánh Vatican như thế nào.
6.- Con số nạn nhân bị chế độ đạo phiệt
Gia-tô Bloody Mary sát hại tại Anh quốc trong những năm 1553-1558.-
Chúng ta biết rằng, ngày nay, đại khối dân tộc Anh theo Anh giáo hoàn toàn biệt
lập với Giáo Hội La Mã. Đây là một sự thực của lịch sử. Tuy nhiên, trước khi đi
đến tình trạng như ngày nay, nhân dân Anh cũng phải trải qua một thời kỳ khốn
đốn với nhà cầm quyền cuồng tín muốn Ca-tô hóa toàn dân Anh bằng bạo lực của nữ
bạo chúa Mary I. Sách sử ghi rõ con số nạn nhân bị sát hại lên tới 300 người.
Sử gia Thomas P. Neil viết:
"Mary đã được khuyến cáo là nên đối xử tử tế với những
người đã bỏ đạo Gia Tô, nhưng vây cánh bên cạnh bà vô cùng quá khích, cương
quyết chống lại những người tà giáo. Trong thời gian 5 năm tại vì của bà, có
tới khoảng ba trăm người bị hành hình vì tín ngưỡng của họ khác với đạo
Gia Tô…Thực ra, Nữ Hòang Mary không tệ hơn các nhà cầm quyền đồng thời với bà,
nhưng vì chính sách bách hại những người khác tôn giáo của bà gây nên cuộc phản
kháng chống lại bà và chống lại đạo Ki-tô La Mã. Các nhà viết sử đặt cho bà
biệt danh là "Bloody Mary" (Mụ Mary khát máu)" "Mary was advised to be
lenient with those had left the faith. The queen was not personally inclined to
be severe, but many of her subordinates went to extrems against "heretics."
About three hundred were executed for their anti-Catholic beliefs during her
reign..... Mary was no worse than other rulers of the time, but the persecution
caused a reaction against the queen and Catholicism, and historians soon dubbed
her "Bloody Mary."
[9]
7.- Con số nạn nhân người Pháp bị sát hại
trong các cuộc quân thập tự Pháp tấn công những tín đồ Tin Lành trong các thế kỷ
16 cho đến ngày 26 tháng 7 năm 1830 (thời điểm chế độ đạo phiệt Ca-tô Charles X
bị nhân dân Pháp vùng lên đạp đổ). Không ai biết rõ con số nạn nhân trong thời
kỳ này là bao nhiêu triệu người.
8.- Con số người Phi Châu bị tàn sát và bị bắt
đem sang Mỹ Châu bán làm nô lệ.-
Cho đến ngày nay, không ai biết rõ có bao nhiêu triệu dân Phi Châu bị tàn sát và
bị bắt cóc đem sang Mỹ Châu bán làm nô lệ cho người Da Trắng ở Mỹ Châu. Các học
giả mới tìm ra con số nạn nhân bị bắt đem đi bán cho người ta làm nô lệ ước
chừng là 60 triệu. Sự kiện này được sách Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm ghi lại
như sau:
"Sau khi chiếm được Mexico, thực dân Tây
Ban Nha và tu sĩ nhà thờ lập nên các đồn điền và các khu khai thác mỏ và biến
thổ dân thành nô lệ. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, thực dân đến Phi Châu bắt cóc
người da đen đem đến Mỹ Châu khoảng 60 triệu người để tăng cường nhân lực
nô lệ cho các đồn điền và hầm mỏ. Ngay từ những năm đầu của cuộc xâm lược vào
Mexico, riêng một mình Herman Cortez đã chiếm 250 héc ta đồn điền và làm chủ
200.000 (200 ngàn) nô lệ da đỏ!"
[10]
9.- Con số người da đỏ bị
tàn sát và bị bắt làm nô lệ.-
Thực ra, cho đến nay, người viết chưa tìm thấy con số đích thực là có bao nhiêu
triệu người da đỏ bị sát hại và bị cưỡng bách làm nô lệ. Trong bài viết Tản Mạn
Về Ngày Lễ Tạ Ơn đăng trên www.giaodiem.com tháng 11 năm 2001, Giáo-sư Trần
Chung Ngọc cho biết con số người Da Đỏ ở Bắc Mỹ trong vòng 270 năm tính từ năm
1620, giảm từ 15 triệu xuống còn có 250 ngàn người (bị giảm đi mất 14
triệu 750 ngàn người).
[11]
10. Con số nạn nhân bị chế độ đạo phiệt Gia-tô
Ante Pavelich sát hại.- Trong những
năm 1941- 1945, chế độ đạo phiệt Ca-tô này đã sát hại khoảng từ 700 ngàn đến 800
ngàn người trong những chiến dịch "làm sáng danh Chúa". Hầu hết nạn nhân
là tín đồ Do Thái Giáo, Chính Thống Giáo và Hồi Giáo. Sự kiện này được sử gia
Avro Manhattan ghi lại trong cuốn The Vatican Holocaust như sau:
"Trong thời kỳ Croatia là quốc gia độc lập
và lấy đạo Gia Tô làm quốc giáo, có trên 700 ngàn đàn ông, đàn bà và trẻ em
bị giết hại. Nhiều người bị hành hình, bị tra tấn, bị bỏ cho chết đói, bị
thiêu sống cho đến chết. Hàng trăm người bị cưỡng bách phải theo đạo Gia Tô
(Thiên Chúa La Mã). Các ông linh-mục của Giáo Hội La Mã làm quản giáo tại các
trại tù tập trung; nhiều tu sĩ khác của Giáo Hội là sĩ quan trong các đơn vị
quân đội đã phạm các tội ác tàn bạo. 700 ngàn trong tổng số dân có mấy triệu
người, tức là khoảng 1/3 dân số bị các đoàn lính dân quân Gia Tô giết hại."
[12]
11.-
Con số nạn nhân bị chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm sát hại trong những
năm 1954-1963.- Trước khi nói đến con số nạn nhân bị bạo quyền Ngô Đình Diệm
giết hại và cầm tù, thiết tưởng chúng ta nên nhớ lại lời tuyên bố của ông Ngô
Đình Nhu, em ruột của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cũng là người nắm quyền chủ
chốt thi hành kế hoạch Inquisition tại Việt Nam thời bấy giờ. Lời tuyên bố này
như sau:
"Tôi có cả một chương trình, đã bàn tính kỹ
với Đức Tổng Giám Mục (Thục) là sẽ lần hồi tiến tới chỗ mà Hội Truyền Giáo hoạt
động một thế kỷ mới đạt tới. Còn chúng ta chỉ cầm quyền mười năm thôi là cả Miền
Nam này sẽ theo Công Giáo hết"
[13]
Muốn làm cho cả miền Nam theo Công Giáo hết
trong vòng mười năm là phải dùng đến tất cả phương tiện của Nhà Nước để hoặc là
dùng đến chức vụ trong chính quyền làm miếng mồi câu nhử những phường háo danh
và thèm khát quyền lực chạy theo bắt mồi “theo đạo để tạo danh đời”,
hoặc là dùng tiền tài, của cải cướp đoạt của nhân dân và ăn chặn các tài khoản
ngoại viện để dùng làm miếng mồi dụ khị những người nghèo khổ tham lợi “theo
đạo lấy gạo để ăn”, hoặc là dùng bạo lực để tàn sát những người bất khuất
không chịu theo đạo. Cho tới nay, chưa có sử gia nào công bố con số nạn nhân
đích thực bị sát hại bởi bạo quyền Ngô Đình Diệm. Đây là những nạn nhân bị sát
hại trong những chiến dịch “làm sáng danh Chúa”, được tàng hình dưới
chiêu bài “tố Cộng và diệt Cộng”. Những nạn nhân này bị sát hại bởi bàn
tay máu của quân lính (vốn là tín đồ Ca-tô) trong các cuộc hành quân chỉ vì họ
không phải là tín đồ Ca-tô, và bị sát hại bởi bàn tay của những tín đồ Ca-tô nắm
giữ những chức vụ chỉ huy trong các cơ quan các cơ quan cảnh sát, công an, mật
vụ và trong quân đội trong những năm 1954-1975. Tổng số nạn nhân bị sát hại
trong những năm 1954-1963 lên đến hơn 300 ngàn người. Sách Đảng Cần Lao viết:
"Ngồi tại Dinh Độc Lập, Ngô Đình Diệm có
ngờ đâu em mình đã nhân danh Đảng Cần Lao Nhân Vị mà nhúng tay vào máu một cách
khủng khiếp đến thế. Số người mà tại Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn
và Khánh Hòa… đã bị cán bộ Cần Lao giết vì bị vu cho là Cộng Sản, phá hoại chế
độ… đã được kiểm kê vào các năm 1964 và 1965 là 300,000 (300 ngàn) người!"
[14]
12.- Con số nạn nhân bị Giáo Hội La Mã sát hại
ở Rwanda (Phi Châu) vào năm 1994.-
Chỉ trong vòng 100 ngày trong năm 1994, chính quyền đạo phiệt Ca-tô của Giám-mục
Augustin Misago tại Rwanda đã sát hại tới hơn 800,000 (800 ngàn) những người
thuộc các tôn giáo khác. Bản tin phổ biến vào ngày 5/ 11/ 2000 trên mạng
http:/www.vietnamdaily.com loan truyền như sau:
"Tin Quốc Tế.-
Giám Mục Thiên Chúa Giáo Có Thể Bị Tử Hình Tại
Rwanada: Kigali, Rwanda (TH).- Một công tố viên nói hôm Thứ Tư là
ông đã yêu cầu lên án tử hình một giám mục Thiên Chúa Giáo La Mã về tội diệt
chủng trong năm 1994 liên hệ tới các
vụ tàn sát ít nhất nửa triệu người, gồm cả nhiều
người bị chém tại các nhà thờ nơi họ chạy vào lánh nạn.
Giám Mục Augustin Misago, 56 tuổi, là chức sắc đầu tiên của Giáo Hội bị
truy tố về tội diệt chủng liên hệ tới các cuộc tàn sát sắc dân thiểu số Tutsis
trong 90 ngày. Giám Mục kêu vô tội về tội cáo buộc diệt chủng và các tội chống
nhân loại.
Trong vụ xử gây căng thẳng quan hệ giữa Rwanda và Tòa Thánh Vatican,
Giám-mục Misago bị cáo buộc đã đẩy ba linh mục và trên 10 học sinh tới chỗ chết
vì không cho họ tá túc trong giáo xứ của giám mục.
Kết từ phần buộc tội hôm Thứ Ba, công tố viên Edward Kayihura cũng yêu
cầu Giám-mục Misago và chính phủ bồi thường 93,750 Mỹ kim cho các gia đình nạn
nhân.
Các cuộc tàn sát bắt đầu hồi tháng 4/1994, khi ấy Giám-mục Misago là
chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội ở giáo xứ Gikongoro nơi hàng chục ngàn người
bị giết. Giám mục Misago là chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo
trong số trên 20 linh mục và nữ tu bị truy tố về tội diệt chủng. Hai linh mục đã
bị kết án tử hình.
Các cuộc tàn sát chấm dứt với chiến thắng của Mặt Trận Ái Quốc Rwanda do
sắc dân Tutsi lãnh đạo lật đổ chính phủ của sắc dân Hutu.
Trên 125,000 can phạm diệt chủng bị tù tại Rwanda. Trên 1500 người đã
được đưa ra tòa xét xử và 300 người bị án tử hình."
[15]
Tất cả những con số nạn nhân bị Giáo Hội La Mã
và các chế độ đạo phiệt Ca-tô tay sai của Giáo Hội tàn sát đã được trình bày
(khá đầy đủ với nhiều dẫn chứng bằng những nguồn tài liệu lịch sử) ở trong
Chương 8 (Mục III, Phần III) trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội
La Mã. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.
B.- "TRẢ THÙ CHO CHÚA" BẰNG CÁCH TRA TẤN VÀ HÀNH HẠ CỰC KỲ MAN RỢ
Nói đến những hành động "trả thù cho Chúa” của
Nhà Thờ Vatican và của tín hữu Ca-tô thì tất cả những người bình thường đều cảm
thấy vô cùng ghê sợ đến kinh hoàng! Không ai có thể tưởng tượng được trong xã
hội loài người lại có thể xẩy ra những chuyện cực kỳ dã man như thế! Có một điều
cực kỳ nghịch thường lànhững chuyện cực kỳ dã man này lại do một tổ chức tôn
giáo thường tự phong là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông
truyền”, là “Hiền Thê của Thiên Chúa Hiện Làm Người”, là “đạo của
bác ái”, “đạo của tình thương” chủ trương, và dạy dỗ tín đồ phải
làm như vậy, và có làm như vậy thì mới được gọi là “con chiên ngoan đạo”,
là “sống đạo theo đức tin Ki-tô” và hành xử “theo lương tâm Công Giáo”.
Xin mời quý vị theo dõi những bản văn sử dưới đây sẽ thấy rõ vấn đề này:
1.- Tân giáo hoàng đào mả giáo hoàng tiền
nhiệm, lấy xác cho ngồi vào ghế bị cáo rồi lập phiên tòa xử và hành hạ xác chết
để trả thủ. Sự kiện này được sách The Decline and Fall of The Roman Church ghi
lại với như sau:
“Giáo Hoàng Formosus (891-896) chết và đã
chôn được hơn 11 tháng rồi. Theo ý muốn của bà Agiltruda (một bà Hoàng có thế
lực trong giáo triều Vatican), tân Giáo Hoàng Stephen VII (896-897) ra lệnh quật
mồ Ngài, lấy xác đem về Dinh Lateran cho mặc áo choàng của Giáo Hoàng và để ngồi
vào chiếc ngai vàng của giáo triều, rồi cùng các ông hồng y và giám mục trong
Tòa Thánh Vatican tiến hành phiên tòa xử tội. Đây là một phiên tòa lừng danh về
việc xử một cái xác chết của người bị thù ghét. Bà Agiltruda muốn có phiên tòa
này đã từ lâu. Đó là lý do khiến cho bà đem theo cô bé Morozia cùng đi với bà
tới Dinh Lateran và bà vui cười sung sướng vào lúc này. Trong phòng xử, mọi sự
việc đều tiến hành đúng như dự trù. Chính Giáo Hoàng Stephen VII và một công tố
viên của giáo triều đối chất với xác chết đã rữa thối này. Có một thanh niên trợ
tế 18 tuổi run rẩy đứng bên cạnh để trả lời thay cho xác chết theo lời đã dặn
trước. Phiên xử bắt đầu khi Giáo Hoàng Stephen VII quát tháo với vẻ mặt xanh xám
trong cơn giận dữ: “Tại sao mày lại tiếm đoạt ngôi vị giáo hoàng?” Cậu thanh
niên trợ tế trả lời thay cho xác chết của Giáo Hoàng Formosus: “Vì tôi là kẻ
xấu.”
Vào lúc gay cấn nhất của phiên tòa, các ông
Hồng Y Sergius, Benedict, Paschalis, Leo, John và nhiều nhân vật khác trong hàng
giáo phẩm chạy ào tới xác chết lột bỏ áo choàng (dành riêng cho giáo hoàng) và
xé rời 3 ngón tay của bàn tay mặt ra khỏi bàn tay. (Giống như các ông giáo hoàng
khác, khi còn sống, Giáo Hoàng Formosus thường dùng 3 ngón tay này để ban phước
lành trong khi làm lễ.) Sau đó, họ lôi xác chết này ra khỏi phòng xử. Khi các
ông hồng y và tu sĩ khác xúm nhau lôi xác chết này ra khỏi Dinh Lateran và kéo
lê theo dọc đường phố thì cô bé Marozia cũng có mặt ở đó… Rồi thì họ liệng cái
xác chết đó xuống sông Tiber làm cho nước sông bắn tung tóe lên. Sau đó, Giáo
Hoàng Stephen VII sai Hồng Y Sergius đem 3 ngón tay đã xé rời khởi xác chết dâng
lên cho bà Agiltruda theo lời yêu cầu của bà ta.”
[16]
2.- Giáo sĩ của nhà thờ Vatican đào mả những
người đã chết lấy xác rồi đốt thành tro để trả thù. Chuyện này được ông Trần Quý
kể lại trong cuốn Lòng Tin Âu Mỹ Đấy! như sau:
“Vào thế kỷ 13, dân ở vùng Toulouse, miền Nam
nước Pháp ngày nay nhận thấy Giê-hô-va độc ác, đúng là quỉ Satan mạo nhận là
Thiên Chúa, chớ không phải là Thiên Chúa thật. Họ thấy vị thần ấy gớm ghiếc quá,
bỏ không thờ nữa tuy họ vẫn kính thờ Jesus. Họ lập thành Giáo Hội Ca-tha-ri.
Giáo Hội Công La (Giáo Hội La Mã) kết tội họ là tà đạo. Năm 1209, Giáo Hoàng
Innocent III (1198-1216) ra lệnh thánh chiến để diệt họ. Vua chúa ở miền Bắc đất
Pháp, ở đất Đức tuân lời, phái binh lính đến làm thành Thập Tự Quân để đánh bọn
tà đạo. Rất đông tín đồ Jesus phe giáo hoàng tới trợ lực Thập Tự Quân. Đám quân
này dưới quyền chỉ huy của giáo sĩ Amaud Amauri, đại diện giáo hoàng, bao vây
thành Béziers. Thành bị hạ vào ngày 22 tháng 7 năm 1209. Toàn dân ở trong
thành bị giết hết kể cả đàn bà và trẻ con. Tòa án đạo Jesus theo đuổi trừng
phạt cả những người bị kết tội là tà đạo dù họ đã chết rồi. Chẳng hạn,
năm 1329, tòa án đạo Jesus ở Carcassonne cho đào mả bẩy người phạm tội
tà đạo, móc xác lên đốt đi; của cải của họ bị tịch thu, dòng dõi họ bị trừng
phạt.”
[17]
3.- Tàn sát những người
thuộc các tôn giáo một cách cực kỳ dã man gọi là trả thù cho Chúa. Chuyện được
sách The Decline And Fall of The Roman Church ghi lại như sau:
"Vị tướng chỉ huy chiến dịch tiêu diệt dân
tà giáo Albigences tuyên bố: "Bất kể nam hay nữ, già hay trẻ, chức vụ lớn hay
nhỏ, trước lưỡi gươm, họ đều như nhau." Hiệp sĩ ngoan đạo Ca-tô tên là Roland,
khi chỉ huy đạo quân tiêu diệt người Moors (Hồi Giáo) đã hô lớn khẩu hiệu "Tà
giáo là những người xấu xa. Tín đồ Ca-tô là những người công chính ngay thẳng."
Khi tiến tới bao vây kinh thành Jerusalem, những người lính thập ác trong
cuộc chiến Thập Ác Thứ Nhất hăng say với niềm tin rằng thiên thần đại diện cho
Chúa đang chiến đấu bên cạnh họ. Thành tích của họ là 17 ngàn dân Hồi Giáo bị
tàn sát dưới lưỡi gươm của họ ở ngay nơi đền thờ Solomon và tất những người Do
Thái ở trong các giáo đường đều bị thiêu sống."
[18]
4.- Tàn sát dã man những
người cùng thờ ông Jesus như họ, nhưng không chịu thuần phục Nhà Thờ Vatican.
Chuyên này được sử gia Jack T. Chick ghi lại như sau:
“Ngày 22-8-1572 (Nhiều sách khác ghi là ngày
24/8/1572) bắt đầu xẩy ra một cuộc tàn sát đẫm máu ở nhà thờ St.
Bartholomew. Đây là một trong những vụ tàn sát ghê gớm để tiêu diệt phong trào
Tin Lành ở Pháp. Pháp Hoàng đã khôn khéo sắp đặt cuộc hôn nhân giữa người em gái
của nhà vua với Đô Đốc Coligny, một nhân vật lãnh đạo của Tin Lành. Một bữa tiệc
lớn được tổ chức ăn mừng lễ cưới. Sau bốn ngày, quân lính của tân lang Coligny
được cho ăn uống no say, một hiệu lệnh được ban hành. 12 giờ đêm hôm đó, tất
cả nhà cửa của những người Tin Lành ở trong thành phố đều bị bắt buộc phải mở
cửa. Đô Đốc Coligny bị giết. Thi hài của ông bị liệng qua cửa sổ ra ngoài đường.
Thủ cấp của ông bị cắt đem gửi cho giáo hoàng. Hai cánh tay và bộ phận sinh dục
của ông cũng bị cắt. Rồi chúng lôi kéo phần còn lại của xác chết đi khắp các
đường phố cả ba ngày trời. Sau đó, chúng treo ngược cái xác chết không đầu,
không tay, không bộ phận sinh dục ở một nơi ngoại ô thành phố. Đồng thời, chúng
còn tàn sát nhiều người Tin Lành khác nữa. Trong 3 ngày, hơn mười ngàn dân Tin
Lành (ở Paris) bị giết hại. Những xác chết này bị liệng xuống sông và máu nạn
nhân lênh láng chẩy thành dòng ra tới tận cửa sông giống như một dòng máu. Trong
cơn hung hãn này, chúng có thể giết cả những người đồng đạo của chúng nếu nạn
nhân bị nghi ngờ là không mạnh tin vào Giáo Hoàng. Từ Paris, bịnh dịch tàn sát
vì lòng cuồng tín như vậy lan tràn ra khắp nơi trong nước Pháp. Tính ra có
tới hơn tám ngàn nạn nhân nữa bị sát hại. Rất ít người Tin Lành thoát khỏi
tai họa trong cơn hung hãn của chúng."
[19]
5.- Chuyện “Trả thù của Chúa ở Ái Nhĩ Lan vào
năm 1641”. Chuyện này cũng được sách Smokescreens ghi lại với
như sau:
“Một vụ tàn sát người tập thể tương tự như
vậy cũng xẩy ra ở Ái Nhĩ Lan vào năm 1641. Bọn tín đồ Da-tô chủ mưu chọn ngày 23
tháng 10 là ngày lễ kỷ niệm Ignatius Loyola, người sáng lập ra Dòng Tên: Chúng
dự trù một cuộc tổng nổi dậy trong toàn quốc. Tất cả những người theo đạo Tin
Lành đều phải bị giết ngay tức thì. Để làm cho những người Tin Lành không chú ý
đến việc làm của chúng, chúng tỏ ra rất là tử tế với họ. Sáng sớm ngày vùng dậy,
bọn chủ mưu đều có võ trang đi lùng bắt những người Tin lành. Gặp người nào là
chúng giết người đó, không một chút thương xót. Những người Tin Lành này chưng
hửng trong kinh hoàng. Họ đã sống trong yên bình từ nhiều năm. Giờ đây, gặp cảnh
ngộ như vậy, họ không biết phải chạy trốn đi đâu. Những kẻ tàn sát họ lại là
những người láng giềng, bạn bè và bà con của họ. Phụ nữ bị trói vào cọc (cột) lột trần đến
thắt lưng, vú bị cắt đứt ra để máu chẩy cho đến chết. Những đàn bà mang thai thì
bị trói và treo vào cành cây. Chúng mổ bụng nạn nhân lấy thai nhi ra để cho chó
ăn. Trong khi đó thì những ông chồng của nạn nhân bị cưỡng bách phải đứng nhìn
những cảnh dã man như vậy.” [20].
Qua chuyện tàn sát dân Tin Lành ở Ái Nhĩ Lan,
chúng ta mới hiểu được tại sao anh em ông Ngô Đình Diệm và bọn Cần Lao Công Giáo
lại chọn ngày 23/10/1955 để làm ngày truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại.
6.- Đào mả lấy xương cốt
của kẻ cựu thù chính trị để trả thù một các cực kỳ dã man.
Vụ này xẩy ra ở nước Anh.
Vào năm 1661, họ đào mả của ông Oliver Cromwell (lãnh đạo chính quyền Anh từ
ngày 16/12/1653 đến ngày 3/9/1658)
chôn ở Wesminster Abbey lấy
xác đem xiềng và treo vào một cây trụ tại Tyburn. Sau một thời gian (không biết
là bao lâu), họ chặt lấy đầu đem cắm vào một cái sào, rồi đem bêu ở ngoài Tòa
Thị Sảnh Wesminster (Westminster Hall). Còn cái xác thối rữa của ông thì họ đem
quẳng xuống một cái hố. Cái đầu của ông vẫn bị bêu tại chỗ này cho đến năm 1685,
rồi được thay đổi nhiều lần, trong đó có một lần được đem bán vào năm 1814 trước
khi được đem chôn ở trong khuôn viên trường Đại Học Sidney Susex ở Cambridge vào
năm 1960.
[21]
7.- Đào mà cụ Phan Đình
Phùng lấy xác để trả thù:
Giữa thập niên 1890, Nguyễn
Thân và Ngô Đình Khả (thân phụ của Ngô Đình Diệm) là hai người chỉ huy cuộc hành
quân tấn công lực lượng nghĩa quân kháng chiến Văn Thân dưới quyền chỉ huy của
nhà ái quỗc Phan Đình Phùng ở Ngàn Trươi. Khi tiến được vào trong căn cứ nghĩa
quân, họ được biết rằng cụ Phan đã qua đời vào ngày 21/1/1895 vì bệnh kiết lỵ.
Vì không trả thù được khi cụ Phan còn sống, Ngô Đình Khả liền ra lệnh cho bọn
lính đạo dưới quyền quật mồ cụ Phan lên, lấy xác đốt thành tro, lấy tro trộn vào
thuốc súng bắn xuống sông Lam Giang để trả thù đúng theo truyền thống của Nhà
Thờ Vatican. Chuyện dã man này được Wikipedia, the free encyclopedia ghi lại
như sau:
“Di hài của cụ Phan cũng
bị hủy diệt. Ngô Đình Khả, một vị quan lại theo đạo Ca-tô và là thân phụ của Ngô
Đình Diệm - Tổng Thống đầu tiên của Miền Nam Việt Nam – cũng là một viên chức
trong chính quyền thuộc địa Pháp. Khả cho người quật mồ cụ Phan rồi sử dụng di
hài của cụ làm thuốc súng để hành hình các nhà cách mạng.”
[22]
Sự kiện này được nhà viết sử Chính Đạo tức Vũ Ngự
Chiêu ghi nhận một cách ngắn gọn trong cuốn Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí với như sau:
“
6/1/1895.
(Ngô Đình Khả - NMQ) theo Nguyễn Thân đánh dẹp tổ chức Văn Thân của Phan Đình
Phùng ở Hà Tĩnh/ Nghệ An. Tháng 12/1895:
Ngự Sử Phan Đình Phùng chết bệnh, (Ngô Đình Khả - NMQ) đào mộ Phan Đình Phùng,
đốt xác, trộn tro với thuốc súng mà bắn đi.”
[23]
8.- Chuyện “trả thù cho Chúa” vô cùng rùng rợn
này mới xẩy ra trong thời Đệ Nhị Thế Chiến và cũng do sách Smokescreens ghi lại
như sau:
“Nạn
nhân của bọn mật vụ Ustachi (đạo phiệt Gia-tô Croatia trong thời bạo chúa Ante
Pevalich) không những bị tra tấn tàn nhẫn về thể xác, mà còn bị hành hạ đau đớn
về tinh thần và lương tâm nữa. Một trường hợp vô cùng dã man và tàn ác chưa từng
thấy như trường hợp dưới đây đã được ghi lại và phối kiểm qua nhiều nhân chứng
có tuyên thệ: “Tại Nevesinje, bọn mật vụ Ustachi càn bắt hết tất cả cha mẹ (vợ
chồng) và bốn người con của một gia đình người Serb (theo đạo Chính Thống).
Người cha bị giam riêng ở một chỗ khác, người mẹ và 4 người con bị giam ở một
chỗ khác. Suốt trong 7 ngày giam giữ, chúng không cho nạn nhân ăn uống gì hết.
Rồi thì chúng mang đến cho người mẹ và 4 đứa con mỗi người một miếng thịt nướng
khá lớn và nước uống thừa thãi. Sau nhiều ngày không được ăn uống, những người
bất hạnh này ăn hết sạch miếng thịt nướng đó. Sau khi ăn xong, bọn mật vụ
Ustachi mới nói với gia đình nạn nhân rằng đó là thịt người cha của họ."
[24]
9.- Trong thời Kháng Chiến 1945-1954, lính đạo
Phát Diệm dưới quyền chỉ huy của Linh-mục Hoàng Quỳnh bắt được ba người ngoại
đạo ở các làng bên. Chúng cho rằng nạn nhân là Việt Minh và tra tấn họ cực kỳ dã
man. Sáng hôm sau, các nạn nhân bị điệu ra cột cờ ở trước sân chợ và bị đánh đập
hết sức man rợ với chủ tâm để khủng bố tinh thần những người trong chợ. Sau đó,
chúng đâm chết một trong ba nạn nhân này, phanh ngực, móc mật đem hòa với rượu
và moi lấy gan đem nướng, rồi ngồi nhậu hả hê với nhau. Sau đó, hai nạn nhân còn
lại bị bắn chết, và cả ba nạn nhân đều bị chúng chặt lấy đầu đem xâu vào một cái
sào, rồi đem cắm ở bên vệ đường ở đầu làng. Dưới đây là một phần trong bản văn
do một chứng nhân tại chỗ kể lại cái hoạt cảnh “trả thù cho Chúa” cực kỳ dã man
này:
“Lúc đó, chợ đã họp đông. Đi sau mấy người tù
là mấy tên lính giải tù cùng viên thiếu úy trưởng đồn. Cùng đi hộ tống viên
trưởng đồn, có một tên mang lon cai xếp (hạ sĩ nhất). Đôi mắt tên cai xếp đỏ
ngầu, không hiểu đỏ vì rượu hay đỏ vì say máu người. Đến một cái bệ xây bằng xi
măng thì tên cai xếp hô: "Chúng bay quỳ xuống". Có một hai người tù hình như
cưỡng lại, không chịu quỳ. Tên cai xếp đến bên lấy báng súng đánh cái chát vào
đầu gối. Người tù kêu ối một tiếng rồi quỵ xuống. Mấy tên lính lôi ba người tù
đặt quỳ thành hàng ngang. Tên cai xếp lại nói: "Bọn bay muốn được các ông tha để
về ăn Tết với vợ con, khôn hồn thì hô theo chúng ông". Tức thì tên cai xếp hô:
"Đả đảo Việt Minh! Đả đảo Hồ Chí Minh!" Hình như chỉ có một người hô theo một
cách yếu ớt. Hai người còn lại cứ trơ ra. Tên cai xếp bước đến trước mặt một
người tù rồi nói to: "Mày là tên đầu xỏ. Cứng đầu thì ông cho một nhát dao về
chầu ông bà, ông vải bây giờ. Khôn hồn thì hô theo ông, hô mau đi: "Đả đảo Việt
Minh! Đả đảo Hồ Chí Minh!" Người tù này như vận dụng hết sức mình, bèn hô lớn:
"Đả đảo bọn Việt gian bán nước! Việt Nam Độc Lập muôn năm! Hồ Chí Minh muôn
năm!"
Có tiếng lao xao của một vài người đàn ông
trong chợ: "Đập bỏ mẹ chúng nó đi". Lại có tiếng hét to: "Cứ giết hết bọn đi
lương". Các lời xúi giục như dầu đổ vào lửa, làm tên trưởng đồn tức giận. Hắn
rút con dao găm đeo bên hông, bước lại trước mặt người tử tội vừa hô đả đảo,
vung dao lên, đâm một nhát, nghe cái "bóp", rồi rút dao ra đâm tiếp thêm mấy
nhát, máu ở ngực người tử tội đỏ lòm tuôn ra xối xả. Người tử tội ngã vật xuống
nền chợ như cây chuối bị tróc gốc. Tên cai xếp tiến đến thưa với tên trưởng đồn:
"Thiếu Úy đi rửa tay đi. Để chúng nó đấy cho em". Tên cai xếp quay sang một tên
lính đứng bên, nói như ra lệnh: "Mày chạy đi kiếm cái thau, mau đi!" Tên lính
nghe thấy thế liền ba chân bốn cẳng chạy vào chợ. Phút chốc, hắn mang đến một
cái thau nhôm nhỏ. Tên cai xếp gật đầu rồi đến bên người tử tội, hắn cúi xuống,
đưa dao lên cao rồi đâm mạnh một nhát vào giữa bụng người tử tội. Người tử tội
không nhúc nhích, hình như đã chết vì mấy nhát dao của tên trưởng đồn. Tên cai
xếp nắm chặt cán dao, rạch một đường dài ở bụng nạn nhân. Đoạn, hắn thò cả hai
bàn tay hộ pháp dùng sức mạnh banh toạc da thịt chỗ bụng nạn nhân mà hắn vừa mới
rạch, rồi thò tay vào lôi ra một lá gan bầy nhầy còn bám cả máu đỏ tươi. Những
tế bào của gan bị va chạm và đứt lìa khỏi thân thể con người nên lớp màng của lá
gan trồi lên, trụt xuống tựa hồ như con ếch đang thở. Hắn bỏ lá gan vào trong
cái thau nhôm, rồi quay lại hỏi tên trưởng đồn bằng một giọng nịnh bợ: "Còn hai
tên kia Thiếu Úy Trưởng Đồn tính xử cách nào?" Tên trưởng đồn chưa kịp trả lời
thì vợ hắn ở đâu không biết chạy đến bên, nói như hét vào tai hắn: "Giê-su-ma!
Các ông giết người dã man như thế không sợ sa hỏa ngục hay sao?" Phần tôi, tôi
cảm động rơm rớm nước mắt. Tôi như cảm thấy một cái lạnh từ sau ót chạy dài
xuống xương sống và thấy nằng nặng ở nơi lồng ngực. Vợ tên trưởng đồn nói tiếp:
"Muốn xử tử người ta thì bắn một phát cho người ta chết. Đừng làm bậy mà phải
tội". Nói xong, chị ta lườm nguýt anh chồng một cái rồi bỏ đi một mạch. Không
biết vì sợ lời nói phải của vợ hay vì sợ tội sa địa ngục, tên trưởng đồn ra lệnh
cho đàn em mang hai người tử tội còn lại ra ngoài đầu làng để bắn. Rồi hắn bỏ
đi, để mặc cho tên cai xếp và bọn lính còn lại muốn làm gì thì làm.
Hai người tử tội được ba tên lính dẫn đi. Sau
khi tên trưởng đồn đi khỏi, tên cai xếp ra vẻ ta đây làm lớn. Hắn đằng hắng lên
giọng: "Thằng nào đi lấy cho tao chai rượu và mượn một cái lò than của chị bán
bánh đa mang lại đây mau". Hai tên lính đứng gần đấy có vẻ mặt dữ tợn. Một tên
có cái sẹo lớn nơi má, hình như là lốt chém. Tên kia thì mắt lác. Cả hai tên
cùng chạy vào chợ. Chỉ một thoáng, một tên cầm trên tay hai chai rượu trắng, tên
kia bê cái thau có than hồng đang cháy, bên trên có cái vỉ sắt, rồi đặt trên một
cái bệ trống. Mặt tên cai xếp lúc ấy trông rất cô hồn. Hắn vẫn tỉnh táo, chứ
chưa say vì lúc đó hắn chưa uống một ngụm rượu nào. Hắn lấy con dao găm lẻo cái
gan ra thành nhiều miếng, đặt lên chiếc vỉ sắt rồi ra lệnh cho một tên lính quạt
cho than cháy đỏ. Còn cái mật người, hắn khẽ lấy mũi dao dí dí cho thủng lỗ rồi
nhét cái mật vào chai rượu. Rồi hắn dùng một tay vừa bịt miệng chai vừa xóc xóc
chai cho nước mật bắn tung ra. Màu đen của mật hòa lẫn với rượu trắng biến chai
rượu thành một thứ màu xám không ra xám, xanh không ra xanh, đen không ra đen.
Mặt hắn vênh vênh, váo váo. Hắn thản nhiên xem làng nước không ra gì vì ở đây
không ai lớn bằng Cha Tổng của hắn. Cha đã xuống lệnh giết thì hắn có quyền muốn
giết bằng cách nào là tùy ý ở bọn hắn, miễn là giết chết được Việt Minh thì
thôi! Ngoài Cha Tổng và tên trưởng đồn ra, lúc này hắn không còn kiêng sợ ai
nữa. Hắn đưa chai rượu lên uống ừng ực. Mắt hắn đỏ hơn trước. Hắn gọi bọn đàn em
lại uống với hắn, nhưng chỉ có hai tên vừa rồi đến để uống chia sẻ chiến công
của bọn hắn. Uống xong, bọn hắn bốc mấy miếng gan người bỏ vào mồm nhai ngấu
nghiến như con cá sấu nuốt mồi. Mùi khét lẹt của gan người tanh nồng trải ra làm
tôi muốn nôn, nhưng phải ráng nuốt cái nước chua chua ở cổ họng xuống, sợ bọn
đầu trâu mặt ngựa kiếm chuyện vì chúng đang say máu người. Không chịu nổi cảnh
tượng vừa xẩy ra, tôi từ từ rút lui. Ra khỏi làng bỗng nghe nhiều tiếng súng.
Tôi tự nhủ thầm: "Lại thêm hai mạng người vô tội gục ngã. Tôi những tưởng bọn
hắn sẽ tha cho người hô đả đảo theo bọn hắn. Không ngờ chúng giết tất cả, không
chừa một ai". Ba bốn hôm sau, trên đường trở về, đi qua làng thì thấy ba cái đầu
lâu người được xuyên vào ba cái sào tre được cắm ngay bên vệ đường. Ruồi nhặng
đã bắt đầu bu lại. Tôi cắm đầu bước nhanh, đi cho khuất cảnh tượng hãi hùng đó.
Ôi! Thật là dã man! Không còn tình người nữa. Lương tâm con người ở đâu? Đức
Chúa Trời của họ dạy nhân từ, bác ái, thương người bằng cách ấy hay sao? Lòng
lành của những người Gia Tô là
như vậy đó!”
[25] (Xin đọc thêm "Tôi Đã Gặp Kẻ Ăn Thịt Người" của Nguyễn Hồng Hải)
10.- Phương cách tra tấn cực kỳ dã man của tín
đồ Ca-tô trong ngành mật vụ, công an và cảnh sát trong chế độ đạo phiệt Ca-tô
Ngô Đình Diệm. Chuyện này được
triết gia kiêm học giả Bertrand Russell ghi những lời kể lại của một nạn nhân có
tên là Nguyễn Thị Thơ (người Thủ Đầu Một) nơi các trang 166-177 trong cuốn War
Crimes In Vietnam (New York: George Allen & Unwin Ltd. 1967). Ông Chu Văn Trình
chuyển dịch bản văn này và ghi lại trong cuốn Hội Chứng Việt Nam. Dưới đây là
một vài đoạn nói về những hoạt cảnh man rợ này:
“
Rắn độc được nhét vào âm hộ của phụ nữ.
Nhiều phụ nữ bị đau đớn đến cực độ rồi chết. Viên chức chính quyền sử dụng
chai vỡ đâm mạnh vào âm hộ phụ nữ đến bất tỉnh và chết. Những tên cai tù dùng
đinh sắt đóng vào đầu các ngón tay tù nhân. Rồi chúng băng các ngón tay bị
thương và nhúng vào gasoline (set xăng) rồi châm lửa đốt. Chúng bơm nước vào mồm
vào mũi. Nước trộn lẫn với nước mắm và ớt cực cay. Chúng cũng dùng sà bông và
chất “Crezil” loại thuốc rửa ống cống cực mạnh để rửa cầu tiêu sát hại vi trùng.
Những chất ấy đốt các màng trong cơ thể. (Poisonous snakes were put in the
vaginas of the women. Women died agonizingly. The authorities used broken
bottles, which forced into the vaginas of the women. The women became
unsconscious and usually died. The guards used iron nails, which they drove
under the finger nails of all fingers of the prisoners. They, then bandaged the
fingers, soaked them in gasoline and set them alight. They pumped water into our
mouths and noses. The water was mixed with fish sauce which was extreme spiced.
It burned the membrane.)
Tra tấn em bé 5 tuổi:
“Tôi có thể nói thế nào với
ông về vụ này?
Có nhiều người từng nói đến
vụ chúng bắt hụt ông Kiểm, nên chúng bắt bà vợ và đứa con gái nhỏ của ông. Bà vợ
ông Kiểm bị tra tấn trong nhiều giờ nhưng không phát hiện được gì về người
chồng. Chúng mang một thùng chứa đầy nước và đặt đứa con gái Nga 5 tuổi vào
thùng nước và nhận chìm đứa nhỏ, rồi chúng đánh mạnh ngoài thùng. Áp suất nước
làm chảy máu tai, mũi và mồm đứa nhỏ. Tôi nhìn thấy điều này bằng chính mắt tôi.
Theo lời bà Thơ là nhân chứng bất đắc dĩ. Có 150 phụ nữ bị nhốt trong một căn
phòng rộng 12 ft, dài 21 ft. Chúng tôi không có cầu tiêu. Chúng đặt một thùng
trong phòng (để làm cầu tiêu). Mùi hôi thối tràn ngập trong một nơi (căn phòng)
bé nhỏ. Hầu hết những kẻ sống sót khi được thả ra đều trở thành vô dụng, không
đi được. Họ bị bệnh thần kinh đau đớn và bất tỉnh định kỳ. (Almost all those who
survived and were eventually released are now invalids, incapable of walking.
They suffer from nervous diseases and from periodic loss of consciousness.)
Ngày đầu tiên tôi bị tra
tấn liên tiếp 8 giờ, chúng thay phiên nhau tra tấn tôi bằng nhiều kiểu. Trước
nhất, chúng đánh tôi bằng cây gậy gỗ hình chữ nhật, bốn cạnh sắc. tôi bị đánh
vào ngực và vào lưng đến chết ngất. Khi tỉnh dậy, tôi bị trói bằng lạt tre chắc
và sắc. Chúng treo ngược hai chân lên trần nhà. Mỗi cái đấm làm tôi tưởng như
chân tay tôi rời khỏi cơ thể. Sự đau đớn và phản ứng của hệ thần kinh làm tim
tôi đau nhói. Trận đòn thứ nhất kéo dài hơn một giờ.
Khi tôi hồi tỉnh, chúng lại
đánh tiếp. Khi chúng cởi trói, hạ tôi xuống sàn nhà, tôi đứng không nổi. Chúng
lột hết quần áo và trói chặt tôi vào một cái bàn. Chúng bịt miệng và mũi tôi
bằng một tấm vải mỏng. Chúng dùng ống nước bằng cao su bơm nước vào mồm và mũi
tôi. Tôi bị ngộp thở và bụng đầy nước, dạ dầy trương phồng lên. Lúc đầu, chúng
chỉ dùng nước, sau chúng trộn nước lạnh với nước mắm và nước sà bông. Trận tra
tấn (kiểu đi tầu ngầm) này kéo dài 40 phút. Rồi tôi cảm thấy tất cả tối sập. Tôi
bị ngất. Chúng ép bụng tôi và lắc mạnh đầu làm cho nước trong bụng ộc ra tại mồm
và mũi. Tôi hồi tỉnh.”[26]
11.- Một chứng tích tội ác
dã man của chế độ đạo phiệt Ngô Đình Diệm:
Chứng tích này có danh xưng là “Khu Nhà Giam Chín Hầm” dùng để giam người bị
chính quyền bắt giam vì nhiều lí do khác nhau. Những bản văn dưới đây của các
nhà sử học và chứng nhân tại chỗ cho chúng ta thấy rõ những hành động tội ác của
anh em Nhà Ngô và băng đảng Ki-tô. Xin mời đọc bài mô tả địa ngục này trong bài "Chín hầm địa ngục trần gian thời Ngô Đình Diệm" của tác giả Ngô Diệp đăng trên sachhiem.net (Xem trong chú thích [27]
Phụ Lục:
Nick Schou. “Lịch Sử Bạo Động Của Giới Chống Cộng Tại Mỹ.”
Người Việt Nam ta có câu “Được làm vua, thua làm
giặc”. Cuối năm 1949, trước sức tấn công mãnh liệt của Hồng Quân Trung Hoa, hàng
triệu Quốc Quân Trung Hoa dưới quyền lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch bỏ chạy thục
mạng để thoát thân: (1) Một mớ chạy ra Đài Loan ẩn náu sống dưới cái dù che chở
của Hoa Kỳ. (2) Một mớ buông súng đầu hàng đi theo Cộng Quân. (3) Một mớ (khoảng
12 ngàn) chạy sang miền Bắc Miến Điện giáp ranh với Thái Lan và Ai Lao làm giặc
và biến thành một tổ chức tội ác quốc tế, chuyên sản xuất thuốc phiện bán ra cho
các tổ chức buôn lậu thuốc phiến quốc tế khác trong đó có anh em Ngô Đình Diệm
và Ngô Đình Nhu, biến chính quyền miền Nam thành một tổ chức tội ác của trung
tâm mua thuốc phiên lậu của tổ chức tội ác này và bán lại cho trung tâm tội ác
biến chế thuốc phiện sống thành bạch phiến ở Marseille. (4) Một mớ vượt biên
giới chạy sang Bắc Việt bị chính quyền Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican tước
khi giới, trong đó có một số gia nhập vào đạo quân đánh thuê cho liên minh giặc
này.
Tương tự như vậy, từ ngày 10/3/1975 cho đến ngày
30/4/1975, trước sức tiến mạnh mẽ của quân đội miền Bắc, đạo quân đánh thuê miền
Nam Việt Nam cũng tháo chạy thục mạng để thoát thân giống y hệt như tình trạng
trốn chạy của Quốc Quân Trung Hoa hồi cuối năm 1949, và cũng có một mớ chạy
thoát thân, một mớ khác chạy không thoát bị chính quyền Việt Nam cầm tù một thời
gian rồi được phóng thích và được Mỹ cho sang sống lưu vong ở Mỹ. Tuy đã sống ở
Mỹ khá lâu, nhưng vì nhuốm căn bệnh Ca-tô quá nặng, cho nên chúng không thể
thích nghi được với nếp sống trong xã hội dân chủ tự do ở Mỹ. Vì thế mà chúng
vẫn tiếp tục hành xử đúng theo cái tinh thần “được làm vua, thua làm giặc”.
Tình trạng này đã khiến cho chúng thực sự trở thành một thứ giặc, Xin tạm gọi là
“giặc cờ vàng”. Chúng thường nhân danh là “người Việt Quốc Gia”,
lớn tiếng cao rao là chiến đấu cho “chính nghĩa Quốc Gia”, quyết tâm
“giữ vững lằn ranh Quốc Cộng” và tôn vinh “cờ vàng ba sọc đỏ”. Chẳng
biết cái “chính nghĩa quốc Gia” của chúng như thế nào, nhưng trong thực
tế, chúng thường đi khủng bố và sát hại những người Việt hải ngoại bất đồng
chính kiến với chúng, khủng bố các nhà tu hành Phật Giáo và những ngôi chùa
không chịu treo cờ vàng ba sọc đỏ. Nói về những tội ác khủng bố giết người của
chúng ở Bắc Mỹ, tác giả Nick Schou ghi nhận trong một bài viết có tựa đề là Lịch
Sử Bạo Động Của Giới Chống Cộng Tại Mỹ với như sau:
“OCRegister 16/8/2007. Từ
năm 1987 đến 1990, có 5 nhà báo người Việt đã bị giết hại tại Mỹ bởi các đội sát
thủ mà nhà cầm quyền Mỹ nghi ngờ là có liên hệ với các sĩ quan trong quân đội
Sài Gòn cũ ở miền Nam Việt Nam hiện đang cư ngụ tại vùng Sài Gòn Nhỏ thuộc Quận
Cam. Tháng Tư năm 1992, FBI đã mở một cuộc điều tra về những vụ giết người trên,
nhưng họ chưa bao giờ phá án (xem bài "Kẻ thù dấu mặt" – "Invisible Enemies"
4/3/1999). Khi OCRegister đệ đơn xin thông tin dựa vào đạo luật Tự Do Thông Tin
(Freedom of Information), FBI từ chối cung cấp các hồ sơ điều tra vì lý do an
ninh quốc gia. Những sự kiện và chi tiết sau đây dựa vào bản báo cáo năm 1994
của Ủy ban Bảo vệ Phóng viên (Committee to Protect Journalists) có trụ sở đặt
tại New York . Bản báo cáo này cung cấp một lịch sử ngắn gọn về những vụ bạo
động chống nhà báo tại Sài Gòn Nhỏ và các vùng có đông người Việt cư ngụ trên
toàn quốc.
1.- Tháng 1, 1980:
Một người nào đó ném bom xăng vào văn phòng của Nguyễn Thanh Hoàng, chủ nhiệm tờ
Văn Nghệ Tiền Phong, một tạp chí ở Arlington, Virginia. Hoàng và đứa con gái 7
tuổi của ông thoát nạn.
2.- Ngày 21/7/1981 :
Lam Trang Duong, một nhà báo khuynh tả và nhà bình luận về cuộc chiến Việt Nam
bị bắn chết trong khi ông cuốc bộ trên đường ở San Francisco. Một nhóm có tên là
Vietnamese Organization to Exterminate Communists and Restore the Nation (VOECRN
– Tổ chức Việt Nam Diệt Trừ Cộng Sản và Phục Hồi Quốc Gia) tuyên bố rằng họ là
thủ phạm đằng sau vụ ám sát.
3.- Ngày 5/1/1982 :
Bach Huu Bong, chủ nhiệm một tờ tuần báo nhỏ ở Los Angeles bị bắn nhiều lần
trong khi rời nhà hàng ở khu Chinatown. Ông từng in một bài viết về một nhóm du
đãng có tên là "Frogmen" (Người Nhái) hoạt động trong vùng Quận Cam, và cho rằng
nhóm du đãng này là cựu lính hải quân miền Nam Việt Nam.
4.- Ngày 24/8/1982 :
Nhà báo Nguyễn Đạm Phong bị bắn chết ngay tại nhà ông ở Houston. Ông Phong là
chủ nhiệm tuần báo Tự Do đã từng nhận nhiều đe dọa giết vì ông cho in những bài
viết chất vấn những hoạt động gây quỹ của các nhóm chống cộng lưu vong. Tổ chức
VOECRN để lại một danh sách các đối tượng mà họ sẽ ám sát ngay tại hiện trường.
5.- Ngày 7/8/1987 :
Một người nào đó ném xác chết một con chó Berger và kèm theo lá thư đe dọa ám
sát trong sân nhà của nhà báo Thinh Nguyen, chủ bút tờ Dân Việt.
6.- Ngày 7/8/1987 :
Tổ chức VOECRN tuyên bố là nhóm đã giết Tap Van Pham (chủ bút tuần báo Mai) nhà
báo gốc Việt đầu tiên bị giết tại Orange County. Văn phòng ông bị đốt cháy trong
khi ông đang ngủ trong văn phòng. Ông từng in quảng cáo trên báo cho các công ty
Canada chuyên chuyển tiền đến Việt Nam .
7.- Ngày 30/4/1988:
Nhà văn và cựu tù nhân chính trị Long Vu (Nhà văn Duyên Anh) ghé thăm Quận Cam,
ông bị một nhóm côn đồ vây đánh đến bại thân vì họ nghi ông từng làm ăng-ten
trong khi ở tù.
8.- Ngày 3/8/1988:
Trong một danh sách đối tượng được đóng vào danh bạ điện thoại ở khu Sài Gòn
Nhỏ, Tu A Nguyen (Nguyễn Tú A), chủ nhiệm tờ Viet Press (có văn phòng tại
Westminster) và hai người khác bị tuyên án tử hình vì đi về Việt Nam.
9.- Ngày 22/11/1989:
Nhan Trong Do (Đỗ
Trọng Nhân), người vẽ bìa cho tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong bị bắn chết trong xe
ông ở quận Fairfax, Virginia. Cảnh sát không tìm ra thủ phạm.
10.- Ngày 22/9/1990 :
Nhà báo Triet Le (Lê Triết) bị bắn chết trong khi ông và vợ đậu xe trước nhà ông
tại ngoại ô Bailey Crossroads, Virginia . Ông là bỉnh bút cho tờ Văn Nghệ Tiền
Phong. Tên ông nằm trong danh sách ám sát mà tổ chức VOECRN để lại nhà của ông
Phong 8 năm về trước.
11.- Tháng 1, 1999:
Hàng vạn người biểu tình chung quanh tiệm Hi-Tek video (Sài Gòn Nhỏ) vì ông Trần
Văn Trường (chủ nhân) treo ảnh Hồ Chí Minh trong quầy tính tiền của tiệm ông.
Cảnh sát phải hộ tống ông từ tiệm về nhà. Sau này ông bị kết tội thu băng bất
hợp pháp và nay hồi hương sống ở Việt Nam .
12.- Ngày 21/7/2007 :
Hàng trăm người biểu tình chống Viet Weekly ở Garden Grove. Theo nhà báo và chủ
nhiệm Lê Vũ, ông và nhiều nhân viên tòa soạn bị sách nhiễu và đe dọa qua điện
thoại và email nặc danh. Người ta còn đe dọa sẽ đốt tòa soạn Viet Weekly.”
[28]
Trên đây là những tội ác
khủng bố, sát hại những người Việt hải ngoại bất đồng chính kiến với bọn vong
bản phản dân tộc “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”. Ngoài những vụ
khủng bố giết người như trên, còn rất nhiều vụ khủng bố khác với chiêu bài là "tranh
đấu đòi tự do tôn giáo và tự do dân chủ cho Việt Nam.” Mà chúng tôi đã trình
bày đầy đủ trong tiểu mục B (Chương 11, Mục IV) ở trên. 
CHÚ THÍCH
[1]
Malachi Martin, The Decline And
Fall Of The Roman Church (New York: G.P. Putnam's Sons, 1981), tr.
110-111.
"A new militarism was born: This Christian heartland, Christendom, must
be defended by Christian arms. Wars could be holy, would have to be
waged, would be a holy duty. Cruelty to enemies of Jesus within and
without the heartland could be God's vengeance.”
[2]
Charlie Nguyễn,
Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr.
18 -19.
[3]
Malachi Martin.
The Decline And Fall Of The Roman Church (New York: G.P. Putnam's
Sons,1981), page 44.
“They managed to survive until the first decades of the fifth century. Then, one
by one, they disappear. A few individuals reconcile themselves with the Roman
Church – always as individuals, never communities or whole Jweish Christian
churches. Another few pass into anonymity of the new Eastern rites – Syriac,
Assyrian, Greek, Armenian. But most of them die – by the sword (Roman garrisons
hunted them as outlaws), by starvation (they were deprived of their small farms
and could not or would not adapt themselves to life in the big cities) by the
attrition of zero birthrate. By the time that the first biography of Jesus
(apart from the Gospel) is published in Chinese and in China at the beginning of
the seventh century, there are no more surviving Jewish Christians. The
desposyni have ceased to exist. Everywhere, the Roman pope command respect and
exercises authority.”
[4]
Peter de Rosa,.Vicars
of Christ (New York: Crown Publishers, Inc., 1988), p. 94.
[5]
Peter de Rosa, Ibid.,
p 11.
"They cross the Tiber, which for
centuries served the city as both sewer and and unofficial cemetery. Probably
Tiber has claimed more lives than any river ouside China; thousands have drowned
there in a day. This morning, it is sluggish and brown as the habit of a
Franciscan."
[6]
Peter de Rosa,. ,
trang 38.
“Bitter rivalries often showed themselves on the death of a pope.
For example, when Liberius (352-366) died in 366, two factions elected a
successor. Ursinus was one pope. Damasus was the other. After a
lot of street fighting, Ursinus’ followers locked themselves in
the recently completed basilica of St Mary Major, known as “Our Lady of
Snow”. Damasus’ supporters climbed on the roof, made a hole in it and
bombarded the occupants with tiles and stones. Others meanwhile were
attacking the main door. When this caved in, a bloody fight ensued
for three days. At the end of it, 137 bodies were carried out, all of
them followers of Ursinus. Ursinus was sent into exile by the emperor’s
representative, but the crime in Mary Major was a permanent blot on
Damasus’ copybook.”]
[7]
Trần Chung Ngọc,
Công Giáo Chính Sử (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), trang 203.
[8]
J.T.C., Smokescreens
(Chino, CA: Jack T. Chick, 1993) trang 35.
[9]
Thomas P. Neil, Story
Of Mankind (New York: Holt, Rinehart and Winston Inc., 1968), page 366.
[10]
Charlie Nguyễn,
Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001),
trang 169.
[11]
Trần Chung Ngọc. “Tản
mạn về ngày Lễ Tạ Ơn.” Nguồn:
https://www.sachhiem.net/TCNtg/TCN26.php
[12]
Avro Manhattan, The
Vatican's Holocaust (Springfield, MO: Ozark Book, 1988), page vii. “During the existence of Croatia as an independent Catholic
State, over 700,000 men, women and children perished. Many were executed,
tortured, died of starvation, or burned to death. Hundreds were forced to become
Catholic. Catholic padres ran concentration camps; Catholic priests were
officers of the military corps which committed such atrocities. 700,000 in a
total population of a few million, proportionally, would be as if one-third of
the USA population had been exterminated by a Catholic militia.”
[13]
Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân
– Tập I (Los Alamitos, CA: Nhà Xuất Bản Việt Nam, 1989), tr. 428.
[14]
Chu Bằng Lĩnh, Đảng
Cần Lao (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1993), tr. 133.
Vấn đề này đã được nói rõ nơi các trang 127-131 trong sách Nói Chuyện
Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, Texas: Đa Nguyên,
2004) của tác giả Nguyễn Mạnh Quang.
[15]
Tin Tức "Giám Mục Thiên Chúa Giáo Có Thể Bị Tử Hình Tại Rwanda."
https://www.vietdaily.com. Ngày 5/11/2000.
[16]
Malachi Martin, The Decline And
Fall Of The Roman Church (New York: G.P. Putnam's Sons, 1981), tr.
121-122.
“Formosus had been dead and buried for over eleven months. On Agiltruda’s
suggestion, Pope Stephen had the rotting corpse dug up, brought to the Lateran
Palace, clothed in pontifical vestments, placed sitting on a papal throne, and
then tried for capital crimes by Stephen and his cardinals and bishops. This was
the famous Corpse Synod. Agiltruda had looked forward to it for a long time.
This is why she came to the Lateran Palace with Marozia. This is why she was
smiling and gay. Inside the synod, all went according to the plan. Pope Stephen
himself and a papal accuser crossed-questioned the rotting corpse (a trembling
eighteen-year-old deacon stood beside the corpse and answered for voiceless
Formosus). The conviction came when Pope Stephen, livid with fury, shouted: “Why
did you usurp the See of the Apostle?”. And the young deacon answered for the
dead Formosus: “Because I was evil.” At that crucial confession, Cardinals
Sergius, Benedict, Paschalis, Leo, John, and the others rushed on the corpse,
ripped the pontifical vestments from it, tore off the first three fingers of the
right hand (Formosus, like every pope, gave the papal blessing with those
fingers), and then dragged the corpse from the hall. Marozia was there as the
cardinals and clergy dragged the corpse out of the palace and along the
streets….And then there was the dull splash as they threw the remains of
Formosus into the River Tiber. Pope Stephen then sent the three torn fingers to
Agiltruda, by the hand of Cardinal Sergius. This was Agiltruda’s request.”
[17]
Trần Quý, Lòng Tin Âu Mỹ Đấy!
(Westminster, California: Đồng Thanh & Văn Nghệ, 1996), tr.132-133.
[18]
Malachi Martin, The Decline And Fall Of The Roman Church (New
York: G.P. Putnam's Sons, 1981), tr. 110-111
"Neither sex nor age nor rank have we spared," was the statement of the
general who conducted the war against medieval heretics called Albigenses, "We
have put all alike to the sword." The new cry on the lips of Roland, the perfect
Christian and the model knight, as he fought at Roncevaux against the hated
Moors. "Paien unt tort e Christiens unt droit! (Pagans are wrong. Christians are
right)". And when the first crusaders came over a hill in Palestine and caught
sight of the walls of Jerusalem, …. convinced that the angels of the Lord
were fighting by their side. They put to death by sword 17,000 Muslims on the
site of Solomon's Temple and burned all Jews inside their synagogues.".
[19]
Jack T.Chick, Smokescreens
(Chino, CA: Jack T. Chick, 1983), tr. 14-17
"On August 22, 1572, the bloody St. Bartholomew massacre began. This
was to be one fatal blow to destroy the Prostestant movement in France.
The King of France had cleverly arranged a marriage between his sister
and Admiral Coligny, the chief Protestant leader. There was a great
feast with much celebrating. After four days of feasting the soldiers
were given a signal. At twelve o'clock midnight, all the houses of the
Protestants in the city were forced open at once. The admiral was
killed, his body thrown out of a window into the street where his head
was cut off and sent to the pope. They also cut off his arms and
privates and dragged him through the streets for three days until they
finally hung his body by the heels outside the city. They also
slaughtered many other well kown Protestants. In the first three days,
over ten thousands were killed. The bodies were thrown into the river
and blood ran through the streets into the river until it appeared like
a stream of blood. So furious was their hellish rage that they even slew
their own followers if they suspected that they were not very strong in
their belief in the pope. From Paris, the destruction spread to all
parts of the country. Over eight thousand more people were killed. Very
few Pretestants escaped the fury of their persecutors.")
[20]
Jack T.Chick,
Sđd., tr. 17. "A similar massacre occurred in Ireland in 1641. The
conspirators picked October 23, the feast of Ignatius Loyola, the founder of the
Jesuit Order. They planned a general uprising for the whole country. All
Protestants would be killed at once. To throw them off guard while the plan was
being made, extra acts of kindness were shown to the Protestants. Early in the
morning the conspirators were armed and every Protestant they could find was
immediately murdered. They showed no mercy. From children to the aged, they were
killed. Even invalids were not spared. They were caught by complete surprise.
They had lived in peace and safety for years and now find no place to run. They
were massacred by neighbors, friends, and even relatives. Death often was the
least they had to fear. Women were tied to posts, stripped to the waist, their
breast cut off with shears and left to bleed to death. Others who were pregnant
were tied to tree branches, their unborn babies cut out and fed to the dogs
while the husbands were forced to watch.")
[21]
Wikipedia, the free encyclopedia, -
Oliver Cromwell (Death and posthumous execution.)
“Finally, his disinterred body was thrown into a pit, while his
severed head was displayed on a pole outside Westminster Hall until 1685.
Afterwards the head changed hands several times, including the sale in 1814 to a
man named Josiah Henry Wilkinson, before eventually being buried in the grounds
of Sidney Sussex College, Cambridge, in 1960.”
[22]
Theo Wikipedia, the
free encyclopedia. “Phan Đình Phùng”.
“Phan's remains were disturbed after his death. Ngo Dinh Kha, a Catholic
mandarin and father of Ngo Đinh Diem - the first President of South Vietnam -
was a member of the French colonial administration. Kha had Phan's tomb exhumed
and used the remains in gunpowder used for executing revolutionaries.”
[23]
Chính Đạo, Việt
Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí (Houston, TX: Văn Hóa,1997), tr. 306.
[24]
Jack T.Chick,
Sđd., tr 32 "The atrocities of the Ustachi far surpassed mere physical
torture. Their victims were tormented emotionally as well. An example of the
unprecedented brutality is recorded by the sworn testimony of several witnesses
regarding the following incident. At Nevesinje, the Ustachi arrested one whole
Serbian family consisting of father, mother and four children. The mother and
children were separated from the father. For seven days they were tortured by
starvation and thirst. Then they brought the mother and children a good-sized
roast, and plenty of water to drink. These unfortunates were so hungry that they
ate the entire roast. After they finished, the Ustachi told them that they had
eaten the flesh of their father.”
[25]
Lê Trọng Văn, Bước Qua Ngưỡng Cửa
Hy Vọng Hay Đến Bờ Ảo Vọng (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1996),
tr.188-192.
[26]
Tường Minh- Chu Văn
Trình, Hội Chứng Việt Nam (Tavarès, Florida: Ban Tu Thư Tự Lực,
2006) ttr. 187-189.
[27]
"Chín hầm địa ngục trần gian thời Ngô Đình Diệm" của Ngô Điệp. .
“Chín hầm địa ngục trần
gian thời Mỹ-Diệm: Chúng tôi đã được biết đến “địa ngục trần gian Chín
Hầm” qua báo chí và nghĩ: Có lẽ nó không khủng khiếp như những địa ngục Sơn La,
Hỏa Lò (thời Pháp thuộc), Côn Đảo, Phú Quốc (thời ngụy quyền Sài Gòn), như chúng
tôi đã từng mục kích. Bởi, dù sao, nó cũng chỉ là nhà ngục địa phương! Nhưng,
khi đến khu di tích lịch sử Chín Hầm, chúng tôi thật sự bất ngờ trước sự tàn
bạo, quái đản của bọn cai ngục ở đây.
Khu di tích nằm về phía tây
nam, cách thành phố Huế 6 cây số. Nhà tưởng niệm-Tượng đài bất khuất được xây
dựng ngay cổng vào khu tù ngục trước. Ở đây, ngoài bản đồ, sa bàn chỉ dẫn bao
quát còn lưu giữ nhiều tư liệu, hiện vật quý về quá trình hình thành, xây dựng
khu tù ngục quái gở Chín Hầm; những tội ác cực kỳ man rợ của Ngô Đình Cẩn và
thuộc hạ do chính những nhân chứng sống sót từ ngục tù này kể lại; những tấm
gương kiên trung, bất khuất của đồng bào, chiến sĩ bị giam hãm đày đọa v.v..
Địa ngục này là sản phẩm
tội lỗi của Ngô Đình Cẩn. Y là em trai Ngô Đình Diệm, con thứ tám của Ngô Đình
Khả. Tên thường gọi ở nhà của y là cậu Út - Út Cẩn. Trong sáu anh em trai nhà họ
Ngô, Ngô Đình Cẩn là người ít học nhất, tính tình lại thất thường. Trong khi anh
em bươn chải làm chính trị, y thúc thủ ở lại quê trông nom hương hỏa, phụng
dưỡng mẹ già, sống cuộc đời của tên cường hào địa phương. Khi Ngô Đình Diệm làm
Tổng thống của cái gọi là “Việt Nam cộng hòa”, tính chất lưu manh, cường bạo của
Ngô Đình Cẩn được dịp bùng phát. Y tự xưng là lãnh chúa miền Trung, điên cuồng
đàn áp những người cách mạng, yêu nước; những người khác chính kiến, tôn giáo;
cướp bóc trắng trợn tài sản của nhân dân... Khét tiếng tàn bạo nhất trong bộ máy
của Ngô Đình Cẩn là mạng lưới mật vụ tình báo. Dưới trướng chúng có hàng loạt lò
giam giữ tra tấn như: Lao xá Ty công an, trại Tòa khâm, trại Thừa Phủ, nhà tù
Long Thọ, trại đồn Mang Cá nhỏ… Đỉnh điểm tội ác là khu biệt giam Chín Hầm.
Khu Chín Hầm nằm trên một
ngọn đồi thông xa dân cư. Nguyên trước đây là kho chôn cất vũ khí của người
Pháp. Tám kho và một lô cốt bốt gác xây cất vào lòng núi, rải rác quanh đồi.
Tường kho bằng bê tông cốt thép dày hơn 40cm. Căn hầm lớn nhất có diện tích
85m2, căn nhỏ nhất 41m2. Ngô Đình Cẩn cho sửa lại các căn hầm này làm trại giam.
Cấu trúc bề ngoài căn hầm không thay đổi, chúng chỉ gia cố lại cửa thép, lưới
sắt nắp hầm. Trừ hầm số 5, các hầm khác ngăn thành xà lim nhỏ. Theo lời kể của
nhân chứng, các căn hầm này khi trời mưa, nước ngập đến thắt lưng; ngày nắng,
nóng hầm hập như trong lò than; trời rét, lạnh cắt da cắt thịt. Người bị giam
sống chung với chuột, dòi, muỗi mòng…
Mỗi căn hầm là một ngôi mộ
chôn những người sống đúng cả nghĩa bóng và nghĩa đen. Các căn hầm số 1, số 6,
số 7, số 8 giam giữ những tù nhân chúng gọi là cộng sản, Việt cộng nằm vùng. Căn
số 3 giam cầm những công thương gia giàu có; chúng vu oan cho họ, bắt giữ tra
tấn, buộc gia đình phải bỏ tiền, vàng ra chuộc thân. Căn số 3, 4 nhốt những
người đối lập, những quan chức sĩ quan của chính quyền đương nhiệm không tuân
theo lệnh Ngô Đình Cẩn. Căn số 5 giam giữ các tăng ni, phật tử, học sinh sinh
viên phản kháng chế độ độc tài gia đình trị họ Ngô. Căn này không ngăn thành xà
lim, có thời điểm, chúng dồn hàng trăm người vào đây, đến nỗi họ chỉ có thể đứng
sắp lớp với nhau. Vì thế, nhiều người đã chết vì ngộp thở. Căn số 9 là bốt gác
đồng thời cũng là nơi tra tấn, khảo cung những người chúng cho là có tội. Khi
chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, nhân dân đã phẫn nộ kéo đến phá tan tành
khu biệt giam, lùng bắt Ngô Đình Cẩn và chân tay của y.
Ngày nay, các căn hầm chỉ
còn lưu lại các bức tường bê tông cốt thép để làm chứng tích tội ác. Ban quản lý
khu di tích lịch sử đã dựng lại nguyên dạng căn hầm số 8 để người đời có thể
hình dung phần nào tội ác “trời không dung, đất không tha” của tập đoàn phản
động Diệm-Nhu-Cẩn. Cánh cửa sắt nặng hàng tấn của căn hầm mở ra, đồng chí trưởng
ban quản lý khuyên chúng tôi chờ một lúc để không khí oi nồng trong căn hầm
thoát bớt. Hầm có diện tích 72m2, một lối đi ở giữa rộng chừng 1m, hai bên là
dãy xà lim, mỗi xà lim y như chiếc quan tài, chiều dài 1,8m, rộng 0,8m; một tấm
ván lót sàn, một chiếc xô tôn nhỏ để đi vệ sinh cùng dây xích, cùm kẹp. Cả căn
hầm chỉ có một lỗ thông hơi hình vuông, mỗi bề hơn 20cm. Trong các xà lim có
hình nhân với đủ kiểu hành hạ như khi họ bị giam cầm: Nằm quỵ úp mặt xuống sàn,
đứng khom lưng, ngồi kẹp giữa hai gối, treo lơ lửng… Chúng tôi chỉ vào hầm quan
sát khoảng mười lăm phút mà tay chân bủn rủn, đầu óc như muốn vỡ tung, đủ biết
sức chịu đựng của các chiến sĩ bị giam giữ ở đây thật phi thường.
Ông Nguyễn Văn Thành-người Hà Nội, một cựu tù
Côn Đảo khi đến Chín Hầm đã thốt lên: “Bản thân tôi đã đối mặt với kẻ thù gần 11
năm ở các địa ngục: Bạch Đằng 3-Chí Hòa rồi chuồng cọp, hầm đá Côn Đảo, nhưng
tôi phải rùng mình trước sự tàn bạo cùng cực của kẻ thù đối với đồng bào, đồng
chí, đồng đội của tôi ở khu biệt giam Chín Hầm này!”.
Đốt nén hương trầm nghiêng
mình trước anh linh của đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống ở Chín Hầm, chúng tôi
lòng tự nhủ lòng cố gắng sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh cao cả và vô giá
ấy”. [Nguồn: https://www.sachhiem.net/LICHSU/NgoDiep.php]
[28]
Nick Schou.
“Lịch Sử Bạo Động Của Giới Chống Cộng Tại Mỹ.”
sachhiem.net. Tháng 12/2007.