Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam
Nguyễn Mạnh Quang
https://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_14.php
|
bản in |
¿ trở ra mục lục
| 17 tháng 2, 2010
PHẦN III
◎◎◎
CHƯƠNG 14
LÒNG BẤT MÃN VÀ CĂM THÙ
CỦA NHÂN DÂN THẾ GIỚI ĐỐI VỚI VATICAN
Gồm những mục:
I.- Lòng bất mãn của các vua chúa Âu Châu đối với Vatican:
II.- Lòng bất mãn và căm thù của giới trí thức và các nhà ái quốc đối với Nhà
Thờ Vatican.
A.- Thành ngữ:
B.- Những lời lên án của trí thức:
1.- Nhà ái quốc Ý Đại Lợi Giuseppe Garibaldi (1807-1882)
2.- Edward Gibbon (1737-1794),:
3.- Tiểu thuyết gia Anh Daniel Defoe (1660-1731)
4.- Học giả Hòa Lan Hugo Grotos (1583-1645)
5.- Thi sĩ người Anh John Milton (1608-1674)
6.- Văn sĩ Anh Lady Mary Wortley Montagu (1689-1762)
7.- Hoàng Đế Pháp Napoleon I (1769-1821)
8.- Văn hào người Anh Charles Dickens (1812-1870)
9.- Khoa học gia người Anh Thomas Henry Huxley (1825-1895)
10.- Văn hào Pháp Victor Hugo (1802-1885)
11.- Sử gia Ái Nhĩ Lan William E. H. Lecky (1838-1903)
12.- Tiểu thuyết gia Ái Nhĩ Lan George More
13.- Voltaire
C.- Phản
Ứng Của Giáo Hội:
III.- Lòng căm thù và ghê tởm của tất cả mọi tầng lớp khác trong nhân dân đối
với Nhà Thờ Vatican:
A. Những Người Vô Thần Bị Giáo Hội Nguyền Rủa,
B. Giáo
Hội La Mã Bị Thù Ghét Đến Mức Nào ?
IV.- Lòng khinh bỉ và ghê tởm của người Hoa Kỳ đối với nhóm người Việt dân Chúa.
V. Kết luận:
Lòng tham và những hành
động tận tình vơ vét quyền lực, tận tình thu vơ và tích lũy tài sản cùng những
hành động bạo ngược dã man của Vatican (như đã trình bày trong Chương 13 ở trên)
đưa đến hậu quả trầm trọng là bất kỳ thành phần nào trong xã hội cũng đều trở
thành một thứ nô lệ không công cho Giáo Hội. Họ bị áp bức một cách hết sức dã man và bị bóc lột đến tận xương tận tủy. Chẳng những thế, Giáo Hội hay Nhà Thờ Vatican còn khinh rẻ, coi họ như loài thú vật (đúng hơn là loài súc sinh) và công khai gọi họ là “bầy cừu non”
hay “đàn chiên” của Giáo Hội. Với tình trạng như vậy, tất nhiên là xã hội
Ca-tô không thể nào tránh khỏi cảnh chậm tiến, lạc hậu, nghèo đói và ngu dốt. Sự
kiện này được sách sử ghi nhận rõ ràng như sau:
“Sự trái ngược giữa các nước nghèo khó ở Nam
Âu và sự phồn thịnh của các nước ở Bắc Âu thật là quá rõ ràng. Nước Anh Tin Lành
đã trở thành một cường quốc trên thế giới và đang trên đường trở thành một trong
các đại đế quốc thương mại; nước Phổ Tin Lành giầu có và hùng mạnh; nước Hòa Lan
Tin Lành đã khởi tiến việc ngoại thương và xứng đáng được mang tước hiệu đế
quốc. Một du khách đi từ Bắc và Trung Âu tới nước Pháp và bán đảo Tây Ban Nha
rồi qua Ý Đại Lợi sẽ thấy sự tương phản về kinh tế, mức sống và trình đồ học vấn
tổng quát của người dân trong các quốc gia này. Ở Bắc và Trung Âu, phần lớn là
Tin Lành, không có quốc gia nào rơi vào tình trạng chết đói và nghèo khổ triền
miên như các nước ở miền Nam Âu. Chủ nghĩa tư bản cổ điển đã lỗi thời và các
quốc gia theo đạo Tin Lành cũng đã thức thời và sẵn sàng từ bỏ nó để làm lợi cho
đất nước.Các nhà chính khách và vua chúa ở các quốc gia Nam Âu cho rằng Tòa
Thánh La Mã và chế độ giáo hoàng phải chịu trách nhiệm về sự suy thoái và thua
kém của nước họ so với các nước theo đạo Tin Lành."
[1]
Sự kiện này cho chúng
ta thấy rõ là quyền lực của Nhà Thờ Vatican vươn tới đâu thì nhân dân ở đó đều
rơi vào cảnh nghèo đói, chậm tiến, lạc hậu, khốn khổ, điêu đứng, lầm than. Đặc
biệt hơn nữa là tất cả mọi tầng lớp hay giai cấp xã hội đều bị Nhà Thờ Vatican
tức là giai cấp tu sĩ Da-tô dùng đủ mọi thủ đọan gian ác để đè đầu cỡi cổ và áp
bức nhân dân bằng trăm phương ngàn kế: Vua Chúa bị áp bức và bị bóc lột theo
hoàn cảnh của Vua Chúa, trí thức bị áp bức và bị bóc lột theo hoàn cảnh của trí
thức, người dân cùng đinh thì bị áp bức và bị bóc lột theo hoàn cảnh của người
dân cùng đinh. Tất cả mọi thứ trong xã hội đều được tập trung vào trong tay Nhà
Thờ, đúng như sách sử đã ghi nhận mà chúng tôi đã trình bày rõ ràng trong Chương
13 ở trên. Xin ghi lại đây đoạn văn sử này để quý vị có ý niệm liên tục về tội
ác này của Vatican mà khỏi mất thì giờ tìm ngược trở lại:
“Ngay
từ lúc đầu, người Kitô giáo khăng khăng cho rằng tôn giáo của họ là chân lý,
rằng tôn giáo của họ nói về thực tế. Họ đưa ra lập luận rằng tôn giáo của họ là
một chân lý toàn cầu, rằng chỉ có Kitô giáo mới là tôn giáo đích thực. Vì thế
cho nên mọi hệ thống triết lý khác và mọi hệ thống kiến thức khác - bất kỳ ngành
họat động nào của con người có liên hệ với chân lý – đều phải hài hòa với tôn
giáo đích thực là Kitô giáo. Trái lại, đó chỉ là một hệ thống triết lý giả, một
kiến thức giả. Tất nhiên là mọi tính cách đạo đức đều từ Kitô giáo mà ra..
Kitô giáo thấm nhập vào tất cả mọi lãnh vực trong đời sống thế tục từ kinh tế,
chính trị, tài chánh, nghệ thuật, giáo dục cho đến các cơ cấu khác trong xã hội.
Tôn giáo và chính trị, tôn giáo và tài sản, tôn giáo và chính quyền, tôn giáo và
nghệ thuật, tôn giáo và sự học hỏi – giữa những liên hệ cơ cấu này, không có sự
chống đối nào mà không hòa giải được. Những cơ cấu này không thể tách rời được
và cũng không thể giữ nó ở trong tình trạng tách rời nhau.. Các vấn đề như quân
sự chính trị, tài sản, nghệ thuật và chính quyền, tất cả đều phải bị tôn giáo
thống trị tuốt luốt.”
[2]
Tình trạng này đã khiến
cho Nhà Thờ Vatican hay Giáo Hội La Mã trở thành một tập đoàn của những tên
siêu bạo chúa, siêu tham tàn, độc ác nhất trong lịch sử nhân loại. Bằng chứng bất khả phủ bác cho sự thật lịch sử này là
theo cuốn Tyrants History’ s 100 Most Evil Despots & Dictators (London:Arturus,
2004) của tác giả Nigel Cawthorne thì có tới hơn 60% trong số 85 tên bạo chúa
ác độc nhất trong thời trung đại, cận đại và hiện đại là giáo sĩ và tín đồ Ca-tô
của Giáo Hội La Mã. Trong số những tên siêu bạo chúa Ca-tô này có Hồng Y
Cesare Borgia (1475-1507), một trong những người con của Giáo Hoàng Alexander VI
(1492-1503), Lý Thứa Vãn (1875-1965) của Nam Hàn, Ferdinand Marcos (1917-1989)
của Phi Luật Tân, Ngô Đình Diệm (1897-1963) của miền Nam Việt Nam, v.v…,
Tất cả
các dân tộc nào trên thế giới đã có kinh nghiệm đau thương với Giáo Hội La
Mã đều ghê tởm và đều căm thù “cái Giáo Hội Khốn Nạn” này đến cùng độ. Sự kiện này được sách “Vatican Thú Tội và Xin Lỗi?” ghi nhận như sau:
“Giáo Hội Công Giáo Rôma
La-tinh trong thời cực thịnh kinh bang tế thế, đội vương miện cho các hoàng đế,
tung hoành dọc ngang, làm mưa làm gió, thâu tóm cả thiên hạ trong tay, tiền rừng
bạc biển, đã không biết tự chế, không học bài học khiêm hạ rửa chân, tự cao tự
đại, coi bàn dân thiên hạ như cỏ rác… hôm nay hối bất cập, lịch sử còn nằm trơ
ra đó. Người Âu Châu khiếp sợ Giáo Hội tránh xa như tránh hủi! Người Á Châu có
thành kiến ghép Giáo Hội vào ông Tây thực dân và chống thực dân! Người Mỹ Châu
La-tinh đồng hóa Giáo Hội vào đại họa diệt chủng! Và người Trung Đông làm sao
quên được 250 năm thánh chiến tàn bạo hãi hùng! v.v
Trọng tội của Giáo Hội
không phải là nguồn phúc lộc bình an dưới thế! Ngược lại, và riêng Việt Nam,
Giáo Hội chống phá đạo hiếu, phế bỏ bàn thờ tổ tiên, chà đạp văn hiến dân tộc
Đại Việt, gọi tôn giáo bản địa là thờ Bụt Thần Ma quỷ… Giáo Hội chia hai dân tộc
Việt Nam là dân có đạo là dân riêng của Giáo Hội, và dân vô đạo là dân ngoại đạo
theo tà thần, tạo dựng thành kiến kỳ thị rất sâu đậm và thô bạo.. Đức Hồng Y Hà
Nội Phạm Đình Tụng xác minh trọng tội này của Giáo Hội trong bài tham luận đọc
tại Roma vào năm 1998, có Đức Giáo Hoàng đương kim (John Paul II) ngồi dự thính.”
[3]
I.- Lòng bất mãn của các
vua chúa Âu Châu đối với Vatican:
Lời tuyên bố ngang ngược của Giáo Hoàng Léo I (440-461) rằng “Quyền hành của
Giáo Hoàng phải bao trùm lên tất cả quyền hành của các nhà cầm quyền thế tục”
vào năm 451 và việc Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085) ban hành bản Tuyên Cáo
"Dictatus papae" vào năm 1075 đã làm cho các vua chúa của các tiểu quốc nằm
trong Đế Quốc La Mã vô cùng bất mãn và hết sức lo sợ.
Khi Giáo Hoàng Leo I đưa
ra lời tuyên bố ngang ngược trên đây thì các quốc gia Âu Châu chỉ là những tiểu
nhược quốc nằm dưới ách thống trị của Đế Quốc Lã Mã đang trên đà suy sụp trong
khi các nước Pháp, Đức và Ý chưa thành hình. Các tiểu quốc này vừa, nhỏ vừa yếu
thế và quyền lực chưa được củng cố, cho nên, dù cho có bất mãn đến mức nào đi nữa thì các nước này cũng đành phải ẩn nhẫn tạm gác lại và ghim trong lòng, chờ
đợi thời cơ để vùng lên đòi lại những gì mà Vatican đã cưỡng đoạt. Nhưng khi
Giáo Hoàng Gregory VII ban hành bản tuyên cáo xấc xược "Dictatus papae" vào năm
1075, thì tình hình chính trị ở Âu Châu đã biến đổi rất nhiều. Trong sự biến đổi
này, tại lục địa Âu Châu có các nước Đức, Pháp và Ý trở thành ba thế lực có ý đồ
và khả năng chống lại chủ trương “thần quyền chỉ đạo chính quyền” và
chính sách “bất khoan dung” của Giáo Hội. Ấy là chưa nói đến quốc đảo
Anh.
Vì rằng vào thời điểm này
(trước Cách Mạng Pháp 1789), nước Pháp cũng như hầu hết các nước khác trên thế
giới đều theo chế độ quân chủ trung ương tập quyền, cho nên quyền lãnh đạo đất
nước hoàn toàn nằm gọn trong tay nhà vua, hoàng tộc, giới tu sĩ và giới quý
tộc. Cũng vì thế mà lời tuyên bố ngang ngược của Giáo Hoàng Leo I vào năm 451
và bản tuyên ngôn "Dictatus papae" quái đản do Giáo Hoàng Gregory VII công bố
vào năm 1075 không có ảnh hưởng gì đối với đại khối nhân dân Âu Châu, mà chỉ làm
cho bọn vua chúa Âu Châu đang liên kết với Vatican phải lo sợ, sợ rằng hoặc họ
là sẽ trở thành “tôi tớ hèn mọn làm nô lệ cho Vatican”, hoặc là họ sẽ bị
thanh toán hay bị truất phế nếu bị Vatican nghi ngờ về lòng trung thành của họ
đối với giáo hoàng, hoặc là không làm vừa lòng các ông chức sắc cao cấp trong
giáo triều Vatican. Người lo sợ trước nhất trong đám vua chúa Âu Châu là Vua
Henry IV (1050-1106) của nước Đức. Dưới đây là câu chuyện này.
Vì muốn tỏ ra độc lập với
Tòa Thánh Vatican, Vua Henry IV (1050-1106) của nước Đức (lúc bấy giờ gọi là
“Holy Roman Empire” bèn tự ý chọn và bổ nhậm các ông giám mục trong nước. Việc
làm này khiến cho Giáo Hội La Mã coi như là một hành động thách đố khinh thường
quyền lực của Nhà Thờ Vatican. Vì thế mà Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085) mới
nổi giận và quyết tâm trừng phạt nhà vua bằng cách xúi giục bọn lãnh chúa Ca-tô
tay sai của Giáo Hội ở Đức chống lại nhà Vua. Vấn đề này sẽ được trình bầy rõ
ràng và đầy đủ trong Chương 16, trong tiểu mục nói về Thời Kỳ Thứ Nhất
(1300-1700) trong cuộc chiến chống Vatican của các vua chúa Pháp.
Hành động Vatican xúi giục
bọn lãnh chúa tại Đức chống lại Vua Henry IV (1050-1106) của nước Đức giống y
hệt như hành động của Vatican xúi giục Tổng Giám-mục Ngô Quang Kiệt và đồng bọn
quạ đen đạo diễn vụ "cầu nguyện" bất hợp pháp, gây bạo loạn chống
chính quyền Việt Nam tại nơi cổng vào của tòa nhà công sở tại số 42 Nhà Chung Hà
Nội (từ 18/12/2007 cho đến ngày 30/1/2008) và ở cổng vào Công Ty May Chiến Thắng
tại số 178 Nguyễn Lương Bằng (từ ngày 15/8 đến ngày 22/9/2008) để đòi chiếm hai
khoản bất động sản này cho Nhà Thờ Vatican.
II.- Lòng bất mãn và căm
thù của giới trí thức và các nhà ái quốc đối với Nhà Thờ Vatican.
Vì muốn kìm hãm tín đồ và nhân dân dưới quyền mãi mãi ở trong tình trạng ngu dốt
theo đúng như “Chúa Bố” Jehovah không muốn cho loài người khôn ngoan bằng cách
cấm không cho ăn “trái cây hiểu biết”, Giáo Hội La Mã luôn luôn có chủ
trương độc chiếm quyền giáo dục thi hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ
và lên án gay gắt chính sách mở rông các trường học công lập của các chính
quyền thế tục. Chủ trường phản tiến hóa này của Giáo Hội được sách sử ghi lại rõ
ràng như sau:
“Giáo Hội cần có một nền
giáo dục độc lập như một môi trường thiết yếu, không những để truyền bá giáo lý
mà còn để đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo.”
[4]
Sách Roman Catholicism viết:
“Giáo Hoàng Pius XI
(1932-1939) lên án các trường học công lập.” [Public
Schools condemned by Pope Pius XI.]
[5]
Kết quả của công việc “đào
tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo” theo chính sách ngu dân
này là con người trong xã hội Ca-tô bị điều kiện hóa, lúc nào cũng mơ mơ màng màng
nghĩ đến việc đi đến Nhà Thờ để lạy lục, cầu khẩn, van xin, ăn năn với hy vọng
vượt qua được cái cửa ải “Vatican” đi về nước Chúa hão huyền”. Sự kiện này được
nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn ghi lại trong cuốn Xóm Đạo như sau:
“Toàn trại này, dường như
ai cũng sùng đạo như nhau, và sự sùng đạo ấy được thể hiện qua việc cầu nguyện
và đi lễ. Buổi sáng, năm giờ chuông đổ lần thứ nhất, họ đã lục tục đánh thức cả
nhà cùng dậy. Việc đầu tiên khi chưa bước chân xuống đất, là phải làm dấu thánh
giá và đọc vài kinh nhật tụng. Sau đó, đánh răng rửa mặt, thay quần áo đi lễ.
Trên đường đến nhà thờ, họ không bỏ phí thì giờ, lấy tràng hạt ra vừa lần chuỗi
vừa cầu xin. Vào nhà thờ đọc kinh chung cả tiếng đồng hồ rồi mời tham dự thánh
lễ mà dường như vẫn chưa thấy đủ, họ còn quì nán lại đọc kinh thêm cho đến lúc
tới giờ đi làm. Buổi trưa, đúng giờ ngọ, chuông nhà thờ lại cất lên, nhắc họ dù
đang làm gì, dù đang ở đâu, cũng phải tạm ngưng tay để làm dấu thánh giá và cầu
nguyện. Tối về, cơm nước xong lại vội vã đến nhà thờ. Và khoảng 9 giờ tối, trước
khi đi ngủ, mọi gia đình đều tụ tập trước bàn thờ để đọc thêm một loạt kinh nữa
trước khi lên giường! Nói chung, một ngày không biết bao nhiêu lần nhớ đến Chúa.
Ăn củ khoai cũng làm dấu thánh giá. Nửa đêm mất ngủ cũng ngồi lên lần tràng hạt!
Vui cũng cám ơn Chúa, mà buồn cũng coi là thánh giá Chúa trao cho mình gánh vác!
Niềm tin mãnh liệt như thế, cho nên chẳng lạ gì….”[6].
Bản văn trên đây cho chúng
ta thấy rõ các ông bà “cừu non” (con chiên) người Việt đã bị “bọn quạ đen” nhồi
sọ thành hạng người cực kỳ ngu xuẩn.
Ngoài ra, vì sợ rằng giáo
dân vẫn còn có đủ lý trí nhìn ra được tính cách phỉnh gạt, bịp bợm cũng như hù
dọa và khủng bố tinh thần trong các tín lý Ki-tô, vì sợ rằng người ta sẽ nhìn
thấy những rặng núi tội ác của Giáo Hội chống lại nhân loại trong suốt chiều dài
lịch sử từ thế kỷ 4, cho nên, Giáo lại Hội còn ra lệnh cấm, không cho nhân dân
dưới quyền đọc những sách báo và các bài nghiên cứu hay khảo luận mà Giáo Hội
không muốn cho đọc. Vấn đề này đều được sách sử ghi lại rõ ràng. Sách Thập Giá
và Lưỡi Gươm viết:
"Ngọai trừ các cụm nhà
thành thị dân chúng sống lẫn lộn, người Công Giáo thường được tập trung lại
thành làng xóm riêng, tách rời khỏi người lương, sống chen chúc quanh tháp nhà
thờ xây theo kiểu Tây, chọc lên trời, cao vượt khỏi lũy tre. Bị đóng khung và
được đoàn ngũ hóa bởi hàng giáo sĩ, họ trở thành một lực lượng quần chúng, một
lực lượng đáng ghê sợ khi cha xứ kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà
thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ
với đồng bào, thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không được Giáo Hội
chính thức phê chuẩn, chẳng hạn sách Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ
điển của Việt Nam, hoặc các tài liệu cách mạng đều bị cho là ngược với đạo. Các
sách của Voltaire, Montesquieu, khỏi nói tới Các Mác, vừa bị nhà nước thuộc địa
cấm, vừa bị giáo luật khai trừ, nhưng ngay cuốn sách thánh đã dịch ra tiếng bản
xứ mà cũng chẳng ai được biết đến (có một bản sách thánh in bằng hai thứ tiếng
La Tinh và Việt ngữ, khổ lớn, nằm trong thư viện các chủng viện và một vài cha
xứ, còn giáo dân thì không thể rờ tới.)"
[7]
Không những cấm giáo
dân, không cho phép họ được đọc những đọc những sách báo và các bài nghiên cứu
hay khảo luận mà Giáo Hội không muốn cho đọc, Giáo Hội còn có dã tâm biến họ
thành những tên sát nhân cuồng nhiệt để sử dụng họ làm những lực lượng xung kích
tấn công những tổ chức, thế lực hay chính quyền hoặc cộng đồng nào không chịu
khuất phục hay bị Giáo Hội cho là thù địch. Bản văn sử dưới đây do chính người
của Giáo Hội là Linh-muc Trần Tam Tỉnh ghi lại trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm
cho chúng ta thấy rõ sự kiện này:
“Nếu những năm 1949-1953, các linh mục đã
thề biến giáo dân hiền lành vô tội thành những tên sát nhân cuồng nhiệt, nhờ
khẩu hiệu “tiêu diệt cộng sản để làm vinh danh Chúa”, thì họ cũng chẳng khó
khăn gì trong việc tạo ra cuộc “xuất hành vĩ đại” (vào thời điểm 1954-1955.
Hiển nhiên người nông dân Việt Nam sống gắn bó với đất của tổ tiên, với mái nhà,
với mảnh vườn, với nhà thờ và làng xóm hơn nông dân các nước khác nhiều. Nhưng
họ lại dám từ bỏ tất cả mọi sự để bảo vệ đức tin, nhất là khi các cha xứ của họ
lại bảo đảm với họ rằng, tại miền Nam Việt Nam có một vị thủ tướng công giáo
đang chờ đón họ và sẽ cấp cho họ những vùng đất phì nhiêu để làm ăn. Và khối dân
đó một khi đã bước chân đi, thì không có gì có thể ngăn cản họ lại. Thế là với
những áp lực đủ kiểu đủ cách, nhờ một lối tuyên truyền xảo trá, tạo ra một cơn
hốt hoảng tinh thần nơi dân chúng công giáo, người ta đã thành công đưa vào Nam
hàng trăm ngàn nông dân, bởi vì khối di cư công giáo sẽ là một lực lượng chính
trị to lớn hỗ trợ cho chính quyền Ngô Đình Diệm.”
[8]
Chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ như trên cùng với những rặng núi tội
ác của Giáo Hội chống nhân loại trong gần hai ngàn năm qua đã khiến cho giới trí
thức vô cũng phẫn nộ và cương quyết đứng lên tranh đấu.
Tại các quốc gia
nạn nhân của Giáo Hội La Mã ở Âu Châu, từ thành phần lãnh đạo chính quyền cho
đến giới trí thức và đại khối nhân dân đều bất mãn và đều căm thù Nhà Thờ
Vatican đến tận xương tận tủy. Tùy theo trình độ kiến thức và khả năng, tất cả
mọi thành phần trong xã hội đều chống lại Giáo Hội La Mã bằng những phương tiện
và hình thức thích hợp nhất với khả năng riêng của họ. Phương tiện có sẵn trong
tay các vua chúa là quyền lực, thì họ chống lại Giáo Hội bằng quyền lực. Phương
tiện có sẵn trong tay giới trí thức là trí thông minh, kiến thức và tài đức thì
họ chống lại Giáo Hội bằng trí thông minh, bằng kiến thức và bằng tài đức.
Thanh
thiếu niên đang tuổi xuân thì với bầu nhiệt huyết và thân thể cường tráng thì họ
sẵn sàng hăng say đứng lên tham gia vào các đại cuộc chống lại Giáo Hội dưới
quyền lãnh đạo của những người có quyền thế hay các bậc trí giả cách mạng để
giải thoát cho chính bản thân họ và dân nước họ cái thân phận vừa làm nô lệ tôi
đòi cho Giáo Hội, vừa bị khinh rẻ như “loài súc sinh” trong kiếp đời “cừu non”
mà Giáo Hội mập mờ phỉnh gạt gọi là “bầy chiên”, là “tôi tớ hèn mọn”.
Không ai biết rõ bộ mặt
thật vô cùng ghê tởm của Giáo Hội La Mã bằng các bậc trí giả, vĩ nhân, danh nhân
và chính khách tại các quốc gia đã từng là nạn nhân lâu đời của Giáo Hội. Cũng
vì thế mà họ mới có thể ghi nhận những kinh nghiệm bản thân và sự hiểu biết của
họ về những việc làm tội ác của Giáo Hội cũng như của các ông giáo sĩ và sắp xếp
thành (1) những thành ngữ, (2) những câu nói hoặc là những lời khẳng định hay
tuyên bố với nội dung nói lên cái bản chất, đặc tính, và hành động tội ác gian
tham, tàn ngược và dã man của Giáo Hội hay Nhà Thờ Vatican và của bọn giáo sĩ
của cái tôn giáo ác ôn này, và (3) bằng những tác phẩm có nội dung nói lên cái
nguy hại của chế độ giáo hoàng (papacy) và trình bày nhưng tư tưởng tiến bộ hoàn
toàn đi trái ngược với lời dạy trong hệ thống tín ly Ki-tô, trái ngược với giáo
luật và trái ngược với lời dạy của Giáo Hội La Mã.
A.-
Thành ngữ:
Chúng ta đã nghe một số thành ngữ lưu truyền trong xã hội như: (1) “chiếc áo
không làm nên thầy tu” (l’habit ne fait pas le moine), (2) “lũ quạ đen”
(les corbeaux noirs), (3) “Nhiều tiền lễ lớn, ít tiền lễ nhỏ, không
tiền không lễ” (High money high Mass; low money, low Mass; no money, no
Mass), (4) “Đồng tiền nào thẩy ra, nếu bay lên trời là của Chúa, nếu rơi
xuống đất là của Nhà Thờ”, v.v..Tất cả đều có mục đích nói lên lòng khinh
bỉ của họ về cái bản chất đạo đức giả của Giáo Hội La Mã và của những người
mang sắc phục tu sĩ Ca-tô.
B.- Những lời lên án của trí thức:
Những câu nói hay
lời tuyên bố lên án gắt gao và hết sức nặng nề của các nhà trí thức, vĩ nhân,
danh nhân và chính khách: Phải nói là có cả hàng ngàn vĩ nhân, danh nhân và
chính khách lên án nặng nề về hệ thống tín lý Ki-tô, về những rặng núi tội ác
chống nhân loại của Giáo Hội La Mã, và về tình trạng thiếu đạo đức của giới tu
sĩ Ca-tô. Một số khá lớn những lời lên án hay kể tội này của họ đã được Giáo-sư
Trần Chung Ngọc gom lại nơi các trang 285-304 dưới tựa đề là Phụ Lục trong cuốn
Đức Tin Công Giáo (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000). Dưới đây là một số những
vĩ nhân và danh nhân đã đưa ra những lời tuyên bố như trên.
1.- Nhà ái quốc Ý Đại Lợi
Giuseppe Garibaldi (1807-1882) tuyên bố:
a.- "Linh mục là hiện
thân của sự gian trá." (The priest is the personification of falsehood.)
b.- “Vatican là con dao găm
đâm vào tim nước Ý.” (The Vatican is a dagger in the heart of Italy.)
c.- "Giáo Hội Ca-Tô là
nàng hầu của sự chuyên chế và là kẻ thù trung kiên của tự do." (The Catholic
Church is the handmaid of tyranny and the steady enemy of liberty.)
2.- Edward Gibbon
(1737-1794), sử gia người Anh viết:
a.- "Đối với cái nhìn
triết lý, những thói xấu của giới giáo sĩ thì ít nguy hại hơn những đức tính của
họ rất nhiều." (To a philosophic eye, the vices of the clergy are far less
dangerous than their virtues.)
b.-"Những tội nghiêm
trọng nhất đã bị dẹp bỏ. Người đại diện của Chúa Kitô - Giáo Hoàng John XXIII
(1410-1414) - chỉ bị kết tội là ăn cướp, sát nhân, hãm hiếp, giao hợp đồng giống, và
loạn luân." (The most serious charges were suppressed; the Vicar of Christ -
Pope John XXIII (1410-1414) - was accused only of piracy, murder, rape, sodomy, and
incest.)
3.- Tiểu thuyết gia Anh
Daniel Defoe (1660-1731) nhận xét
"Trong tất cả tai họa mà nhân loại phải
gánh chịu, sự độc đoán của giới giáo sĩ là tệ hại nhất." (Of all the plagues
with which mankind are cursed, Ecclesiastic tyranny's the worst.)
4.- Học giả Hòa Lan Hugo
Grotos (1583-1645) tuyên bố:
"Người nào đọc lịch sử giới giáo sĩ không đọc gì
khác ngoài sự gian giảo (đểu cáng, xỏ lá) và điên rồ của các giám mục và linh
mục." (He who reads eccleciastical history reads nothing but the roguery and
folly of bishops and churchmen.)
5.- Thi sĩ người Anh John
Milton (1608-1674) nhận xét:
"Đạo Ca Tô Rô Ma (Đạo Gia-tô hay đạo Kitô La Mã)
có ít tính chất tôn giáo hơn là sự chuyên chế của giới linh mục, những người
trang bị với những bổng lộc của quyền lực dân sự, với chiêu bài tôn giáo, đã
chiếm lấy quyền của Chúa." (Romanism is less a religion than a priestly
tyranny armed with the spoils of civil power which, on the pretext of religion,
it had seized against the command of Christ himself.)
6.- Văn sĩ Anh Lady Mary
Wortley Montagu (1689-1762) tuyên bố:
"Trên khắp thế giới, các linh mục có
thể nói láo và các tín đồ tin." (Priests can lie, and the mob can believe,
all over the world.)
7.- Hoàng Đế Pháp Napoleon
I (1769-1821) tuyên bố:
a.- "Hiệp Hội Giêsu
(Dòng Tên ?) là hội nguy hiểm nhất, và đã gây nên nhiều tổn hại hơn tất cả những
hội tôn giáo khác." The (Society of Jesus is the most dangerous of orders,
and has done more mischief than all the others.)
b.-"Kiến thức và lịch sử
là những kẻ thù của tôn giáo." (Knowledge and history are the enemies of the
religion.)
c.- "Ở mọi nơi và mọi
thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối và sai lầm." (Priests have verywhen
and everywhere introduced fraud and falsehood).
8.- Văn hào người Anh
Charles Dickens (1812-1870) tuyên bố:
"Tôi tin rằng sự phổ biến
đạo Ca-Tô (Da-tô) là phương cách khủng khiếp nhất của sự thoái hóa chính trị và
xã hội còn sót lại trên thế giới. Các nhà truyền giáo là những kẻ quấy rầy hạng
nhất, và làm cho mọi nơi mà họ tới trở thành tệ hại hơn."
(I believe the dissemination of Catholicity to be the most horrible means of
political and social degradation left in the world. Missionaries are perfect
nuisances, and leave every place worse than they found it).
9.- Khoa học gia người Anh
Thomas Henry Huxley (1825-1895) nhận xét:
a.- "Tín điều về sự
không thể sai lầm của Thánh Kinh cũng chẳng hiển nhiên hơn tín điều về sự không
thể sai lầm của các giáo hoàng." (The dogma of infallibility of the Bible is
no more self-evident than is that of the infallibility of the popes.)
b.- "Từ một nô lệ của
một chế độ giáo hoàng, người trí thức đã trở thành thân trâu ngựa (nông nô) của
Thánh Kinh (có nghĩa là bỏ Ca Tô sang Tin Lành - TCN)." (From being a slave
of the papacy, the intellect was to become the serf of the Bible.)
c.- "Hệ thống giáo sĩ là
kẻ thù sống chết của khoa học. Thuyết tiến hóa loại bỏ thuyết sáng tạo và mọi sự
can thiệp của Thần Kitô (Thượng Đế)." (The ecclesiastical system is the
deadly enemy of science. Evolution excludes creation and all other kinds of
supernatural interventions.)
d.- "Hoài nghi là bổn
phận cao nhất và đức tin mù quáng là tội không thể tha thứ được."
(Skepticism is the highest duty and blind faith is the one unpardonable sin.)
10.- Văn hào Pháp
Victor Hugo (1802-1885) viết:
a.- "Khi anh bảo tôi
rằng Thần của anh đã tạo ra anh theo hình ảnh của ông ấy, tôi trả lời rằng hắn
ta hẳn phải thật là xấu trai." (When you tell me that your deity made you in
his own image, I reply that he must have been very ugly.)
b.- "Trong mỗi làng đều
có một ngọn đuốc soi sáng là người thầy giáo - và một kẻ làm tắt bó đuốc đó là
ông linh mục xứ (sở tại)." (There is in every village a torch: the
schoolmaster - and an extinguisher: the parson.)
11.- Sử gia Ái Nhĩ Lan
William E. H. Lecky (1838-1903) nhận xét:
a.- “Hầu hết Âu Châu,
trong nhiều thế kỷ, đã bị ngập máu, máu đổ do sự chủ mưu trực tiếp hay với sự
hoàn toàn chấp thuận của những người có quyền thế trong giới giáo sĩ."
(Almost all Europe, for many centuries, was inundated with blood, which was shed
at the direct instigation or with the full approval of the ecclesiastical
authorities.)
b.- "Bất cứ khi nào mà
giới giáo sĩ, bất kể là Ca-tô hay Tin Lành đứng bên cạnh thế quyền dân sự, thì
kết quả là sự bạo hành." (Whenever the clergy were at the elbow of the civil
arm, no matter whether they were Catholic or Protestant, persecution is the
result.)
12.- Tiểu thuyết gia Ái
Nhĩ Lan George More nói:
"Thiên đường có thể để
cho giáo dân, nhưng thế giới này chắc chắn là để cho các linh mục." (Heaven
may be for the laity, but this world is certainly for the clergy.)
[9]
13.- Năm 1761, Voltaire
nói:
“Phá được Dòng Tên, tức là phá được cái tôn giáo ác ôn này.”
[10] v..v…
C.- Phản Ứng Của Giáo Hội:
Nỗ lực chống lại sự thống trị của đế quốc Vatican thể hiện trong những tác phẩm
của các bậc vĩ nhân, các đại tư tưởng gia, các nhà đại trí thức, các nhà bác học
và các nhà khoa học như Galileo Galilei (1564-1642), Johannes Kepler (1571-1630),
Isaac Newton (1642-1727), John Lock (1632-1704), Voltaire (1694-1778) [tên thật
là Francois Arouet], Dennis Diderot (1713-1784), Montesquieu (1689-1755) Jean
Jacques Rousseau (1712-1788), v.v… Vì thế mà Giáo Hội La Mã rất thù ghét họ, rất lo sợ
những tác phẩm của họ sẽ làm tan vỡ nền tảng lý thuyết thần học Ki-tô và những
lời dạy của Giáo Hội. Cũng vì thế mà Giáo Hội triệt để, cấm và kiểm soát hết sức
gắt gao, không cho tín đồ bén mảng đến những tác phẩm của họ. Sự kiện này được
Linh-mục Trần Tam Tỉnh nói rõ trong sách Thập Giá và Lưỡi Gươm như sau:
“Bị đóng khung và được đoàn
ngũ hóa bởi hàng giáo sĩ, họ (giáo dân) trở thành một lực lượng quần chúng, một
lực lượng đáng ghê sợ khi cha xứ kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà
thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với
đồng bào, thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không được Giáo Hội
chính thức phê chuẩn, chẳng hạn sách Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ điển,
hoặc các tài liệu cách mạng đều bị cho là ngược với đạo. Các sách của Voltaire,
Montesquieu, khỏi nói tới Các Mac (Karl Marx), vừa bị nhà nước thuộc địa cấm,
vừa bị giáo luật khai trừ, nhưng ngay sách thánh kinh đã dịch ra tiếng bản xứ mà
cũng chẳng ai được biết đến (có một bản sách thánh in bằng hai thứ tiếng La-tinh
và Việt ngữ, khổ lớn, nằm trong thư viện các chủng viện và một vài cha xứ, còn
giáo dân thì không thể sờ tới.)”
[11]
III.-
Lòng căm thù và ghê tởm của tất cả mọi tầng lớp khác trong nhân dân đối với
Nhà Thờ Vatican:
Có nhiều nguyên nhân khiến cho tất cả các tầng lớp nhân dân
đều ghê tởm và căm thù đối với Nhà Thờ Vatican cũng như đối với giai cấp giáo sĩ
và bọn tín đồ làm tay sai cho Giáo Hội.
Thứ nhất,
như đã trình bày trong Chương 13 ở trên, chủ trương vơ vét và tóm thâu tất cả
quyền lực chính trị vào trong tay giáo hoàng và Vatican đã làm cho bọn Vua Chúa
Âu Châu dù ngồi trên ngai vàng nắm quyền chủ tể tối cao của đất nước cũng vẫn là
tôi tớ hèn mọn của Vatican, không có một chút quyền hành gì ngoài cái quyền
triệt để tuân phục lệnh truyền của Nhà Thờ Vatican. Đặc biệt là theo bản Tuyên
Cáo “Dictatus Papae” gồm 27 điều ban hành vào năm 1075 trong thời Giáo Hoàng
Gregory VII (1073-1085), thì các hoàng đế hay nhà vua “không có quyền bổ
nhiệm hay bãi chức các giám mục ở trong nước” (Điều 3), “khi đến bệ kiến
giáo hoàng, thì phải phủ phục gục mặt xuống trườc chỗ ngồi của ông ta, chờ tới khi ông ta
đưa bàn chân ra, thì phải tỏ ra hăm hở ôm lấy nâng niu và hôn hít để tỏ lòng tôn
kính ông ta” (Điều 9), “sẽ bị giáo hoàng truất phế vào bất cứ lúc nào nếu
ông ta không ưa” (Điều 12).
Thực trạng này làm cho bọn vua chúa nằm trong
vòng ảnh hưởng hay dưới quyền của Nhà Thờ Vatican (Tòa Thánh Vatican) cảm thấy
hết sức nhục nhã vì phải phủ phục gục mặt xuống ôm hôn bàn chân của giáo hoàng,
vừa bất mãn vì không có quyền bổ nhậm và bãi chức các giám mục trong ngay lãnh
thổ mà họ nắm quyền chủ tể cai trị muôn dân, vừa lo sợ rằng họ sẽ bị giáo hoàng
truất phế vào một thời điểm nào đó khi mà bị giáo hoàng không ưa thích, hay khi
có một đối thủ chính trị nào đó được giáo hoàng ưa thích hơn. Vì bất mãn, vì
nhục nhã và vì lo sợ như vậy, cho nên họ chỉ chờ khi có cơ hội thuận tiện là họ
vùng lên chống lại Nhà Thờ Vatican để giải thoát khỏi cái cảnh nhục nhã và lo sợ
này.
Thứ hai,
chính sách kiểm soát tất cả phạm vi sinh hoạt trong đời sống hàng ngày của nhân
dân để vơ vét cho đầy túi tham của Vatican đã làm cho hầu hết nhân dân lâm vào
tình trạng vừa nghèo khổ cơ cực khốn cùng, vừa mất hết tự do, đến nỗi “không
còn được phép có tình ý riêng tư mà phải luôn tuân theo tình ý của Giáo Hội
không chút do dự.”
[12] Tình trạng này làm cho giới
trí thức cảm thấy vô cùng bức xúc. Lý do: Là những trí thức, họ có khả năng sử
dụng lý trí để tìm hiểu thánh kinh, tìm hiểu giáo luật, tìm hiểu những lời dạy,
những tập tục, những lễ nghi, những cơ chế (bộ máy cai trị) và những việc làm
của Nhà Thờ Vatican.
Đăc biệt hơn và quan trọng
hơn nữa là (1) họ cần phải được tự do học và đọc đầy đủ những bài học lịch sử
thế giới để biết rõ những chặng đường tiến bộ của nhân loại và cũng là để biết
rõ những thế lực nào có chủ tâm muốn kìm hãm nhân dân thế giới mãi mãi ở trong
vòng ngu dốt để dễ bề thi hành độc kế “dân ngu dễ trị”, và (2) họ phải có
tự do tìm đọc những tư tưởng cao đẹp của tất cả các bậc vĩ nhân và danh nhân từ
thời cổ đại cho đến lúc bấy giờ của bất cứ nền văn hóa nào đến từ bất cứ phương
trời nào.
Càng đi sâu vào công việc
tìm hiểu này, họ càng thấy rõi bộ mặt thật của Giáo Hội La Mã và toàn thề tập
đoàn tu sĩ áo đen của Giáo Hội quả thật là vô cũng ghê tởm và hết sức kinh
khủng, kinh khủng về bất chính, kinh khủng về phản nhân luân, kinh khủng về phản
đạo đức và kinh khủng về cái bản chất ngược ngạo, bạo tàn và cực kỳ dã man.. Chính vì
thế mà văn hào Voltaire mới gọi đạo Thiên Chúa La Mã là “cái tôn giáo ác ôn”.
Thứ ba,
tài nguyên của bất kỳ quốc gia nào cũng cố định và hữu hạn. Do đó, khi mà Giáo
Hội chiếm hữu quá nhiều tài nguyên của đất nước, nhất là những bất động sản như
đã trình bày trong Chương 13 ở trên, thì tất nhiên là nhân dân ở quốc gia đó
không thể nào tránh khỏi tình cảnh nghèo đói khốn cùng không có ruộng cày để mưu
sinh. Tình trạng này khiến cho họ phải trở thành một thứ nông nô hay tá điền
lãnh canh của Nhà Thờ Vatican và của bọn chủ điền phong kiến phản động tay sai
của Giáo Hội. Vì thế mà cá nhân họ và gia đình họ hoàn toàn lệ thuộc vào Nhà Thờ
và bọn phong kiến phản động điền chủ đồng minh của Nhà Thờ để có phương kế sinh
nhai. Dã man hơn nữa, Nhà Thờ Vatican lại còn phóng tay bóc lột họ đến tận xương
tận tủy. Bản văn sử dưới đây cho chúng ta thấy rõ thực trạng khốn khổ này và
lòng bất mãn của họ đối với Giáo Hội và bọn tu sĩ quyền thế của Giáo Hội:
“Lúc đó nước Pháp có một
dân số chừng 24 triệu người, nhưng 18 triệu là nông phu. Nông dân cùng với giới
tư sản đô thị đều bị coi là tầng lớp thứ dân. Tuy nhiên, ngay đối với tầng lớp
tư sản đô thị, người nông phu cũng phải chịu những bóc lột đè nén. Tỷ dụ như
những nông phu làm nghề thủ công, thường phải nhận lãnh công việc của chủ nhân
ông đô thị, và thường phải lãnh với với một giá rẻ mạt. Còn như đối với quý tộc
và tu sĩ, lẽ dĩ nhiên là người nông dân phải chịu không biết bao nhiêu thứ bóc
lột rồi. Muốn xay lúa mì cũng phải thuế, muốn nướng bánh mì cũng phải thuế, muốn
qua cầu đò cũng phải thuế, muốn tới chợ cũng phải thuế, muốn cho con bò ăn cỏ
tại cánh đồng cỏ cũng phải thuế, muốn cất một ngôi nhà cũng phải thuế! Nếu chim
chóc của quý tộc tới phá hại mùa màng, các nông dân không được quyền săn giết,
chỉ được quyền đắnh trống, đánh mõ đuổi đi mà thôi. Chó săn không được nuôi, và
nếu nuôi chó thì phải đeo một cái xích thật nặng vào cổ và có dây buộc dắt theo
người… Xưa kia, dưới thời thịnh trị phong kiến, khi các công hầu còn cầm gươm
cầm súng xông pha chiến trận để che chở cho dân cầy nô lệ, thì người nông phu
còn vuốt bụng cam chịu những thuế má đó. Nhưng tới thời đế chế tập quyền, người
nông phu đã đóng thuế cho vua rồi, không lẽ còn nai lưng ra đóng thuế cho chúa
nữa? Do đó, họ dần dần nhận thấy những quyền hành của chúa là vô lý, và phôi
thai những hoài vọng giải phóng."
[13]
Thứ tư
là lòng căm giận và thù ghét chất chứa trong lòng người dân Âu Châu đối với Tòa
Thánh Vatican cũng như đối với các nhà lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội La Mã lúc
nào cũng sôi sục bừng bừng và phừng phực như muốn bùng lên như hỏa diệm sơn.
Cũng vì thế mà vào bất cứ thời điểm nào Nếu họ có cơ hội biến lòng thù ghét này
thành hành động là họ chụp lấy và không bỏ lỡ cơ hội. Sư kiện này xẩy ra rất
thường, nhưng thường thường là bị bộ máy truyền truyền của Giáo Hội bưng bít,
hoặc xuyện tạc hay bóp méo. Chúng ta chỉ có thể biết được những tin tức này bằng
cách hoặc là tìm đọc các sách sử hay các tài liệu lịch sử nói về vấn đề này do
các nhà sử học biên khảo, hoặc là được các quan truyền thông hiện đại loan truyền. Dưới đây là một vài trường hợp xẩy ra từng mấy chục năm gần nhất mà
thiết tưởng bất cừ người nào theo dõi thời cuộc cũng đều biết hay có thể kiểm
chứng được:
1.- Nửa khuya đêm Giáng
Sinh 24/12/2009 công bố bản tin nóng (hot news) theo đó thì khi đang cùng với các hồng y diễn hành trên đường đi đến chỗ cử hành lễ Giáng Sinh tại Nhà Thờ Peter (Rome) vào lúc 10
giờ khuya (sớm hơn thường lệ), Giáo Hoàng Benedict XVI bị một người phụ nữ 25 tuổi người Thụy Sĩ gốc Ý có tên
là Susanna Maiolo bất thính lình nhẩy qua hàng rào cản, nhào tới xô ông té ngã
trên sàn, nhưng sau đó ông được các cận vệ đỡ dậy để tiếp tục đi lên bục giảng. Trong khi tấn công, cô Susanna Maiolo vừa mắng vào mặt ông giáo hoàng bằng một câu nói. Có người cho biết câu nói đó là “đồ đạo đức giả!” [14]
Lập tức, Tòa Thánh xuyên tạc trong các bản tin rằng
người phụ nữ này mắc bệnh tâm thần dù là chưa có giấy chứng nhận hay lời nói
khẳng định như vậy của một bác sĩ chuyên môn về căn bệnh này.
Chỉ trong 4 ngày sau, một nhóm chơi Facebook với 2445 thành viên
đã tôn vinh người phụ này lên hàng bậc thánh: “Thánh Nữ Susanna”. Sư tôn vinh
này chính là hành động biểu lộ
lòng căm thù của họ đối với Tòa Thánh Vatican nói riêng và Giáo Hội La Mã nói
chung. Ngoài ra, nó còn mang ý nghĩa lớn lao hơn cả ý nghĩa của nguời dân Irak
và tín đồ Hồi giáo trước đây tôn vinh nhà báo Muntazer al-Zaidi về hành động
ném giày vào Tổng Thống George W. Bush khi ông đang ngồi trên bàn cử tọa họp báo
ở Kinh Thành Baghdad (Irak) vào ngày 15/12/2008.
Với bản chất và thói quen
hành động dã man cùng với những phương cách tra tấn
và hành hạ nạn nhân của các tổ chức công an, mật vu và cảnh sát của Giáo Hội La
Mã ở Âu Châu thời Trung Cổ cũng như ở các chế độ đạo phiệt Ca-tô tay sai
của Giáo Hội tại các quốc gia địa phương, chúng ta không biết số phận “Thánh Nữ Susanna” sẽ ra
sao? Xin xem lời bàn thêm trong chú thích [14]
2.-
Trong
quá khứ gần đây nhất, cũng tại nơi này, ngày 6/6/2007, khi đang trên
đường di chuyển đến bục giảng (diễn ra hàng tuần ở đây), cũng Giáo Hoàng
Benedict XVI bị một người lạ mặt nhào tới định tấn công, nhưng bị lực lượng an
ninh ngăn chặn kịp thời. Nhờ vậy mà ông được an toàn. Tuy nhiên, việc này cũng
đủ làm cho ông hoảng hồn mất vía. Cũng vì thế mà dù rằng đã có chiếc xe
Popemobile (một lọai xe chống đạn đặc biệt để cho ông sử dụng khi di chuyển),
ông cũng phải cho tăng cường lực lượng bảo vệ an ninh tại Vatican và cho thiết
lập một hệ thống kiểm sóat bằng những máy móc tối tân nhất và hiện đại nhất về
khả năng phát hiện vũ khí và thuốc nổ trong phòng ngủ,
nơi làm việc và
những nơi ông thường lui tới hàng ngày hay hàng tuần trong đó có Quảng Trường
Peter.
3.- Trước đó, ngày
13/5/1981,
cũng tại nơi này,
Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005) bị “một
người đàn ông
Hồi giáo
gốc
Thổ Nhĩ Kỳ
tên là
Mehmet Ali Ağca
bắn trọng thương khi ông đang đứng trên xe chạy vòng quanh Quảng trường Thánh
Phêrô như thường lệ”[15],
khiến cho ông phải nằm điều trị trong nhiều ngày ở trong Nhà Thương tại kinh
thành Rome.
4.-
Tháng 3 năm 1983, khi đến thăm viếng nước Nicaragua, một nước có tới 95%
trên tổng số dân là tín đồ của Giáo Hội La Mã, Giáo Hoàng John Paul II bị chính
quyền và nhân dân quốc gia này la ó và hô vang những khẩu hiệu chống đối có nội
dung vừa khinh bỉ, vừa hạ nhục làm cho ông vô cùng tức giận đến độ nghẹn họng,
mất tiếng. Cuối cùng, đành phải bỏ dở bài thuyết giáo (homily) để ra về. Vấn đề
này đã được người viết trình bày khá rõ ràng nơi các trang 52-54 trong cuốn Nói
Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004).
Chúng tôi sẽ trình bày đầy đủ hơn nơi Chương 19 ở sau trong tập sách này.
Nếu đi ngược về quá khứ xa
hơn nữa, chúng ta sẽ thấy có cả hàng rừng vụ những người dân (mà hầu hết là tín
đồ của Giáo Hội La Mã) tấn công, chỉ trích và có chủ trương hủy diệt chế độ giáo
hoàng (papacy), hủy diệt luôn cả Giáo Hội La Mã và tòan bộ hệ thống quyền lực
của “cái tôn giáo ác ôn” này với mục đích lọai bỏ quyền lực của Nhà Thờ ra khỏi
chính quyền và lọai bỏ tất cả mọi ảnh hưởng của cái “đạo máu” và “đạo bịp” này
ra khỏi các phạm vi sinh hoạt đời sống của người dân. Đây là sự thật lịch sử mà
hầu như toàn thể nhân dân thế giới đều biết và các nhà lãnh đạo Giáo Hội La Mã
cũng đều biết, ngoại trừ những tín đồ Ca-tô và người dân nằm ách thống trị của
các chế độ đạo phiệt Ca-tô hay bị ảnh hưởng sâu nặng của chính sách ngu dân và
giáo dục nhồi sọ của Nhà Thờ Vatican.
"Pope Mobile" Có Lý Hơn Chúa Quan Phòng.
Rút được kinh nghiệm từ
những hành động có chủ tâm làm nguy hại đến sinh mạng của các Ngài như trên,
Giáo Hoàng Hòang John II cũng như Giáo Hoàng Benedict XVI đã phải sử dụng cả một
đạo quân cận vệ và an ninh hộ tống mỗi khi di chuyển ra khỏi phòng để đi đến chỗ
làm việc, phòng tiếp khách hay các nơi khác ở trong khuôn viên Điện Lateran. Nếu
phải di chuyển ra khỏi Điện Lateran để đi đến viếng thăm một quốc gia nào trên
thế giới, việc canh chừng và bảo vệ các ngài phải được tổ chức cực kỳ chu đáo
hơn nữa: (1) Các đội ngũ cận vệ, hộ tống và an ninh để canh chừng và bảo vệ
phải vô cùng hùng hậu. (2) Các đội ngũ này phải được thiết bị bằng những máy
móc dò mìn tối tân nhất, hiện đại nhất, có khả năng phát hiện những vũ khí, đạn
dược và plastic bén nhạy nhất và hữu hiệu nhất để đề phòng mọi bất trắc có thể
xẩy ra. (3) Phải có một chiếc xe đặc biệt gọi là Popemobile được thiết bị bằng
một loại kính đặc biệt có khả năng chống đạn hữu hiệu nhất để cho các ngài di
chuyển.
Những việc làm như trên để
bảo vệ an ninh cho cá nhân giáo hoàng mỗi khi di chuyển ra ngòai kinh thành Rome
cho chúng ta thấy:
Những cụm từ "Thiên Chúa tòan năng ", và mọi việc “Có Chúa Quan Phòng,...” mà Giáo Hội La Mã
thường lớn tiếng dạy dỗ tín đồ và rao truyền trong những khi truyền đạo chỉ là những lời láo khoét và bịp bợm vì rằng trước mắt chúng ta, ông Chúa Toàn Năng và khả năng Chúa Quan Phòng không bằng khả năng của chiếc xe Popemobile và sự quan phòng của các binh đoàn cảnh sát, an ninh và đoàn
lính hộ tống được sử dụng để bảo vệ cho mạng sống của các ngài..
Có một điều hết tiếu lâm là Giáo Hoàng John Paul II lo sợ bị ám sát như vậy! Ấy thế mà ngài lại dạy bảo con chiên của ngài rằng "đừng lo sợ".(Be not Afraid) [John Paul II, Crossing the Threshold of Hope (New YorK: Afred A. Knopf, 1994), p.218.]
Dù là đã được canh chừng và
bảo vệ rất chu đáo như vậy, nhưng cả Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005) và
đương kim Giáo Hoàng Bennedict XVI (2005-) cũng đều vẫn còn cảm thấy lo sợ cho
sinh mạng của quí ngài. Cũng như các Giáo Hoàng hay các chức vị khác trong giáo hội, tất cả họ đều lo sợ sẽ
bị “Chúa nhân lành” gọi lên "ở cùng" thiên đường trong khi họ còn thiết tha say
mê và lưu luyến với quyền lực và quyền uy mà họ hiện đang được hưởng thụ ở trên thế gian này.
Lúc nào cũng lo sợ phải lên
thiên đường bất ngờ như vậy mà các ngài vẫn luôn luôn lớn tiếng dạy tín đồ rằng
“Chúa ở cùng anh chị em”, "Thiên Chúa là Tình Yêu", "hãy cầu nguyện liên lỉ", "Sống trong tình yêu Chúa,"...rồi nào là được "Chúa
thưởng trên nước thiên đàng," hoặc "hưởng nhan Chúa đời đời." Nhưng họ tìm đủ mọi cách che chắn cho đạn đừng bay đến! Rõ ràng là họ chằng bao giờ nghĩ đến chuyện lên thiên đường để hưởng nhan Chúa đời đời. Như vậy thì quả
thật là tiếu lâm hết chỗ nói! Bịp hết chỗ nói!
Hầu như tất cả nhân dân thế
giới đều biết rõ như vậy. Ngay cả các Giáo Hoàng John Paul II, Giáo Hoàng
Bennedíct XVI và tất cả các giáo hoàng tiền nhiệm cũng như toàn bộ tập đoàn tu
sĩ áo đen trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội từ những vị chức sắc nắm giữ
những chức vụ cao cấp trong giáo triều Vatican cho đến các linh mục quản nhiệm
các họ đạo tại các địa phương đều biết rõ như vậy cả.
Chỉ riêng có tín đồ Ca-tô
ngoan đạo người Việt mới không biết hay không muốn biết mà thôi!
Như đã nói trong Chương 13, học giả Ca-tô Charlie Nguyễn gọi đạo Ki-tô là “đạo bịp”,
học giả Henri Guillemin gọi Giáo Hội La Mã là “cái giáo hội khốn nạn”, và
văn hào Voltaire gọi đạo Ca-tô là “cái tôn giáo ác ôn.”
Ngoại trừ những người bị bắt cóc rửa tội từ bé, hay những người dốt nát, cả tin,
những người vốn có bản chất tham lợi, háo danh, thèm khát quyền lực và ưa thích
lừa bịp người mới tìm đến gia nhập hay tìm cách trở thành tín đồ của cái "giáo
hội khốn nạn này.
Giáo Hoàng là lãnh tụ số
một của tập thể những người vừa là những tên ác ôn vừa là những ông vua bịp thì
tất nhiên là mức độ ác ôn và tài nghệ bịp của ông ta phải hết sức là siêu việt.
Căn cứ vào Bản Tuyên Cáo "Dictatus papae" gồm 27 điều vào năm 1075, thì giáo
hoàng là vua của các vua. Như vậy, ta cũng có thể nói “giáo hoàng vừa là tên
trùm ác ôn của tập thể những tên ác ôn, vừa là vua bịp của các vua bịp” ở
trên thế giới này trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa năm 1075 cho đến ngày
nay.
(xem tiếp)
CHÚ THÍCH
[1]
Malachi Martin,
Rich Church Poor Church
(New York: G.P. Putnam's Sons, 1984), pp 155-156. "The contrast between the impoverished southern European countries and the
flourishing northern European states at this time was a glaring one. Already
Protestant England had become a world power and was on its way to founding one
of the great commercial empires; Protestant Prussia was prosperous and powerful;
Protestant Holland was already starting the overseas trade that in time would
offer it the title of empire. A traveller from northern and central Europe down
into France, the Iberian peninsula, and Italy would be struck by the contrast in
economic welll-being, standard of living, and general education of the people.
The northern and the central nations, predominantly Protestant, had none of the
starvation and endemic poverty exhibit down south. Classical capitalism was off
on its first flight and the Protestant nations were ready to take advantage of
it.
The statesmen and kings in
southern Europe held Rome and the papacy primarily responsible for that
degrading difference them and their Protestant counterparts.”
[2].
Malachi Martin, Ibid., p. 90.
“From their beginnings, Christians insisted that their religion was true, that
it did speak about reality. They drew the logical conclusion from that: that it
was universally true. That there could be only one true religion. Theirs. Hence
all philosophy and all knowledge - any branch of human activity that dealt with
the truth – had to be, would be reconcilable with the true religion,
Christianity. Otherwise, it was a false philosophy, a false knowledge.
Automatically, an all embracing morality from this Christianity. It permeated al
aspects of temporal life:economics, politics, finance, the arts, education,
social structures. Religion and politics, religion and wealth, religion and
government, religion and art, religion and learning – between these there was no
irrececoncilable opposition. They were not separate or to be kept separate.
Military matters, matters of politics, wealth, art, government – all became
dominated by religion.”
[3]
Nhiều tác giả,
Vatican Thú Tội và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr.
245-246.
[4]
Lý Chánh Trung, Tôn Giáo và Dân Tộc (Sàigòn: Lửa Thiêng, 1973), tr 66.
[5]
Loraine Boettner, Roman Catholicism,
(Phillipsburg, New Jersey: The Presbyterian and Reformed Publishing
Company, 1962), p. 9.
[6]
Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông
Kinh: Tân Văn, 2003), tr. 148
[7]
Trần Tam Tỉnh, Thập Giá và Lưỡi
Gươm (Paris: Sudestasie, 1978), tr. 54.
[8]
Trần Tam Tỉnh, Sđ d., tr. 104-105.
[9]
Trần
Chung Ngọc, Đức Tin Công Giáo (Garden Grove, CA: Giao Điểm,
2001), tr. 283-304.
[10]
Bùi Đức
Sinh, Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo (Sàigòn: Chân Lý, 19 72), tr.
165.
[11]
Trần Tam Tỉnh, Thập
Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978), tr. 54.
[12]
Lý Chánh Trung, Tôn Giáo Và Dân Tộc
(Sàigòn: Lửa Thiêng, 1973), tr. 76.
[13]
Nghiêm Xuân Hồng,
Cách Mạng Và Hành Động (Saigòn: Quan Điểm, 1964), tr. 14-18.
[14]
Nguồn:
https://sachhiem.net/TONGIAO/tgS/SH10.php.
Lời bàn nhân vụ Suzanna:
“Ngay khi vừa mới bắt giữ được cô Susanna Maiolo, dù chưa có tài liệu nào nói về vấn đề này đưa ra trưng dẫn làm bằng cớ, Tòa Thánh Vatican đã loan tin rằng đương sự mắc “bệnh tâm thần”. Căn cứ vào những việc làm có tính toán, có sắp xếp để chuẩn bị vượt qua hàng rào cản và đoàn người hộ tống cùng đoàn người diễn hành đi theo Giáo Hoàng Benedict XVI, thì cô Susanna Maiolo không những không mắc bệnh tâm thần, mà còn rất khôn khéo, rất bình tĩnh, rất tỉnh táo và rất sáng suốt trong lúc hành động. Dù vậy, một khi đã công khai tuyên bố rằng đương sự mắc bệnh tâm thần, thì với bản chấ, thâm độc và tàn ác sẵn có và với thói quen hành động theo thú tính của họ trong gần hai ngàn năm qua, rất có thể họ sẽ làm cho cô thực sự trở thành điên khùng. Thực hư như thế nào, chúng ta hãy chờ xem!
Thánh Nữ Susanna” hiện
đang bị sở cảnh sát và an ninh của chính quyền Quốc Gia Vatican giam giữ, thẩm
vấn và sẽ bị đưa ra tòa án của Giáo Hội La Mã. Nói đến Tòa Án của Giáo Hội La
Mã, chúng ta không thể không nhớ đến những hành động cực kỳ dã man các Tòa Án Dị
Giáo (Inquistions) của Giáo Hội đã tác oai tác quái ở Âu Châu từ đầu thế kỳ 12
cho đến đầu thế kỷ 19, tại các thuộc địa của Đế Quốc Bồ Đào Nha (ở Phi Châu và
Ba Tây) và tại các thuộc địa của Đế Quốc Tây Ban Nha (ở Mỹ Châu La-tinh và Phi
Luật) từ đầu thế kỷ 16 cho đến đầu thế kỷ 19. Các Inquistions là những tòa có
toàn quyền truy lùng, bắt giam, tra tấn, hành hạ và xử tử những người trong
vòng kiểm sóat trực tiếp của Giáo Hội hay gián tiếp qua các chính quyền đạo
phiệt Ca-tô tay sai của Giáo Hội tại các quốc gia địa phương.
Đến đầu thế kỷ 17, vì quyền
lực của Giáo Hội theo chân các đoàn quân xâm lược của cấc Đế Quốc Thự Dân Xâm
Lược Bồ Đào Nha (ở Châu Phi và Ba Tây) và Bồ Đào Nha ở Châu Mỹ La-tinh và Phi
Luật Tân, và vì bị nhân dân thế giới phỉ nhổ và nguyền rủa nhiều quá, ngày
6/1/1622, Giáo Hoàng Gregory V (1621-1623) cho thiết lập Thánh Bộ Truyền Giáo,
cũng gọi là Thánh Bộ Đức Tin (De
Propaganda Fide) để tiếp tục làm
những công việc của các Inquisitions ở Âu Châu và ở các thuộc địa của hai đế
quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Cũng vì bị nhân dân thế
giới phỉ nhổ và nguyền rủa nhiều quá, cho nên Tòa Thánh Vatican mới quyết định
cho sử dụng một danh xưng mới thay thế cho danh xưng Inquisitions và săp xếp lại
thành hệ thống tổ chức tinh vì hơn với cơ quan đầu não là Thánh Bộ Truyền Giáo,
và các cơ quan thừa hành là các tổ chức công an, mật vụ và cảnh sát trong các
chế độ đạo phiệt Ca-tô tay sai của Giáo Hội La Mã như tại Croatia trong những
năm 1941-1945, tại Tây Ban Nha trong thời chính quyền của tên bạo chúa Francisco
Franco trong những năm 1936-1975, tại miền Nam Việt Nam trong thời bạo chúa Ngô
Đình Diệm (1954-1963) và quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975), và tại Rwanda
dưới quyền tên bạo chúa Giám-mục Augustin Misago trong năm 1994.
Trong Chương 13 ở trên,
chúng tôi đã trình bày những hành động truy lùng, bắt giam, tra tấn hành hạn,
thủ tiêu và tàn sát tập thể những người thuộc các tôn giáo hay các nền văn hóa
khác của các chính quyền đạo phiệt tay sai của Giáo Hội. Đọc những trang sách
nói về vấn đền này, độc giả sẽ thấy những các tổ chức công an, mật vụ và cảnh
sát của các chế độ đạo phiệt Ca-tô nói ở trên có những phương cách và tính cách
dã man tra tấn, hành hạ, thủ tiêu và tàn sát những nạn nhân của chúng giống y
hệt như những phương cách và tính cách tra tấn, hành hạ, thủ tiêu và tàn sát
những nạn nhân của các Inquistions của Giáo Hội ở Âu Châu trong thời Trung Cổ,
nhưng tinh vi hơn và dã man hơn nhiều.
Giới tu sĩ áo đen và người
tín đồ Ca-tô không phải chỉ hành động cực kỳ ác độc và cực kỳ dã man như nói ở
trên đối với những người dân thuộc các tôn giáo và nền văn hóa khác vốn bị họ
cho là tà giáo, là tà đạo, là man di, là dã man, là mọi rợ, v.v.. , mà họ cũng
hành động hết sức độc ác, hết sức dã man đối với cả những người cùng trong giai
cấp tu sĩ áo đen với nhau và những người đồng đạo của họ. Vấn đề này đã được
chúng tôi trình bày trong Chương 14 (Mục V, Phần II) sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội
Ác của Giáo Hội La Mã một cách rất rõ ràng và khá đầy đủ với nhiều chi tiết được
chứng minh bằng những bản văn sử trích ra từ những tác phẩm của các nhà sử học
chân chính rất có uy tín trong ngành sử học. Chương sách này sẽ được đưa lên
sachhiem.net trong một ngày rất gần đây.
[15]
Theo Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia.