Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam
Nguyễn Mạnh Quang
https://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_04.php
|
bản in |
¿ trở ra mục lục
| 29 tháng 3, 2009
PHẦN II
◎◎◎
CHƯƠNG 4
Chủ Trương Và Kế Hoạch Đánh Chiếm Việt Nam của Vatican
Sự kiện Giáo Hoàng Leo I (440-461) tuyên bố vào
năm 451 rằng “Quyền hành của giáo hoàng phải bao trùm lên tất cả
quyền hành của các nhà cầm quyền thế tục” cùng với sự kiện Giáo
Hoàng Gregory VII (1073-1085) đưa ra bản tuyên cáo "Dictatus papae"
và sự kiện Tòa Thánh Vatican ban hành hàng loạt các thánh lệnh hay
sắc chỉ trong thế kỷ 15 cho chúng ta thấy rõ Giáo Hội La Mã đã có
chủ trương theo đuổi chủ nghĩa bá quyền nhằm thống trị toàn cầu và
nô lê hóa nhân lọai. Việt Nam là một trong những vùng mục tiêu mà
Giáo Hội đã nhắm tới từ đầu thế kỷ 16. Vấn đề còn lại là Giáo Hội
phải làm những gì cần thiết trước khi tiến hành việc tấn chiếm và
thống trị Việt Nam mà thôi. Nói cho rõ, Giáo Hội phải có một kế
hoạch tiến chiếm mục tiêu và thi hành những chính sách cai trị để có
thể vừa duy trì được quyền lực tại địa phương, vừa biến người dân
bản địa thành những bày nô lệ tuyệt đối trung thành với Giáo Hội
giống như bầy chó giữ nhà cho chủ.
Kế hoạch hay những sách lược hành động của
Giáo Hội để tiến chiếm Việt Nam là những sách lược chung để tiến
chiếm các vùng mục tiêu tại các lục địa ở ngoài Âu Châu. Những sách
lược này được họach định vô cùng tỉ mỉ, hết sức tinh vi, cực kỳ thâm
độc được thi hành từng bước và từng bước tùy theo hoàn cảnh của mỗi
địa phương và tình hình thế giới. Mỗi một bước là một thời kỳ dài
hay ngắn, tùy thuộc vào mối liên hệ hay sự cấu kết giữa Giáo Hội và
đế quốc đồng minh với Giáo Hội, và tùy theo mức độ quyền lực hoặc
con số tín đồ của Giáo Hội tại quốc gia nạn nhân.
Phần trình bày dưới đây là kế hoạch đánh
chiếm Việt Nam của Vatican.
► Bước 1 hay thời Kỳ thứ I:
Trong thời kỳ này, Giáo Hội chỉ gửi các điệp viện dưới danh nghĩa là
các nhà truyền đạo đến các vùng mục tiêu với nhiệm vụ điều nghiên
nhân dân bản địa để biết rõ những thành phần nào trong xã hội dễ
phỉnh nịnh và dễ mua chuộc nhất bằng vật chất rồi móc nối lôi cuốn
họ vào đạo để họ giúp đỡ, bao che, cưu mang và tiếp tay trong việc
thiết lập hệ thống gián điệp trong việc thâu thập tin tức tình báo
chiến lược. Quan trọng hơn nữa, tín đồ Ca-tô bản địa phải được tổ
chức thành những đội ngũ, rồi biến các đội ngũ này thành những đạo
quân thứ 5 nằm tiềm phục chờ khi có lệnh thì nổi lên tiếp ứng lực
lượng nổi lọan do Giáo Hội chủ mưu hay cho quân đội ngoại nhập do
Giáo Hội vân động tiến đến tấn công.
► Bước 2 hay thời kỳ thứ II:
Đây là
thời kỳ Giáo Hội phái các nhà thuyết khách đến kinh thành Paris vận
động Pháp liên kết với Vatican và xuất quân đánh chiếm Việt Nam.
Sau khi đã thâu thâp được đầy đủ những tin tức tình báo chiến
lược cần thiết cho kế hoạch tiến chiếm Việt Nam, Giáo Hội cho người
đến triều đình Paris uốn lưỡi Tô Tần thuyết phục chính quyền Pháp
liên minh với Giáo Hội và xuất quân đánh chiếm Việt Nam làm thuộc
địa để cùng khai thác tài nguyền và cùng chia nhau lợi nhuận. Sách
lược này là sở trưởng của Giáo Hội và được sử gia Avro Manhattan nói
rõ như sau:
"Bản nghiên cứu về tiêu chuẩn lịch sử cho
thấy rằng Giáo Hội La Mã đã sử dụng một sách lược hành động trong
nhiều thế kỷ là đồng hóa (liên kết) các mục tiêu tôn giáo của Giáo
Hội với mục tiêu của một cường quốc thế tục đương thời. Như chúng ta
đã thấy, Giáo Hội đã sử dụng sách lược này ở Á Châu vào những thời
kỳ Bồ Đào Nha, Tây Ban và Pháp đang là những đại cường đang lên.
Ở Âu Châu, sách lược trên đây cũng được áp
dụng nhiều lần trong thế kỷ 20 này. Có lúc, Giáo Hội đã liên kết
với nước Pháp, liên kết với Đế Quốc Ca-tô Áo - Hung trong thời Đệ
Nhất Thế Chiến, rồi trước và trong thời Đệ Nhị Thế Chiến thì Giáo
Hội lại liên kết với các chế độ độc tài Ý và Đức của phe hữu. Bằng
cách đồng hóa với các cường quốc trên đây vào thời đang lên về các
quyền lợi kinh tế, chính trị và chiến tranh, Giáo Hội đã thâu tóm
được rất nhiều quyền lợi.
Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt mang theo sự hủy
diệt của các chế độ độc tài Đưc Quốc Xac và phát xít Ý Đại Lợi. Như
vậy, Âu Châu không còn cường quốc độc tài nào mà Nhà Thờ Vatican có
thê liên kết để bành trướng thế lực. Vì vậy, Giáo Hội La Mã mới quay
ra chọn Hoa Kỳ để liên kết thành một liên minh chính trị. Đây là
hành động để đối phó với sự bành trướng của nghĩa Cộng Sản
Bôn-sê-vích và siêu cường Nga Sô sau thời Đệ Nhị Thế Chiến. Tình
trạng này khiến cho cả Giáo Hội La Mã lẫn Hoa Kỳ cùng lo sợ và bắt
buộc hai thế lực này liên kết với nhau thành một liên minh thực sự
trong thời Chiến Tranh Lạnh.”
Nguyên văn: "The study of
historical patterns reveals a formula which the Catholic Church has
used for centuries, namely identification of her religious
objectives with those of a major lay political power of a given
period. As we have seen, she used this formula in Asia when she
identified herself with the major powers of those days, Prortugal,
Spain, and France.
In Europe the formula was applied several times
in this century. She identified herself at vaious intervals with
France, then with the Catholic Empire of Austria-Hungry during the
First World War, and with the right wing dictatorships of Italy and
Germany, before and during the Second World War. She advanced her
interests in the wake of these Powers by identified herself with
their economic, political and war interest.
Since the end of the Second World War and the
annihilation of European fascism she adopted the U.S. as her lay
partner, in the absence of a Catholic superpower. This was prompted
by the grim reality of the appearance of Boshevism and the growing
military presence of Soviet Russia after World War II. The menacing
reality of these two compelled the Vatican and the U.S. together and
in due course force them into veritable alliance known as the Cold
War."[7]
Qua phần trình bày về những việc làm trên
đây của Giáo Hội La Mã, chúng ta thấy rằng, Nếu gọi Giáo Hội La Mã
là một tôn giáo thì đây là một thứ "tôn giáo ăn cướp".
Tất cả những đặc tính "ăn cướp" của "cái đạo ăn
cướp" này đã thể hiện ra trong nội dung của Sắc Lệnh Romanus
Pontifex như đã trình bày trong Chương 1 ở trên. Để đạt được mục
đích ăn cướp này một cách hữu hiệu, Giáo Hội đã điều nghiên để có
một kế hoạch dạy dỗ và rèn luyện tín đồ thành những lực lượng xung
kích với những đặc tính ăn cướp dã man nhất trong lịch sử loài
người. Cái thâm độc và dã man của Giáo Hội là khơi động và nuôi
dưỡng lòng vị kỷ, tham lợi, háo danh và lợi dụng lòng thèm khát
quyền lực của tín đồ rồi khuyến khích họ tình nguyện gia nhập vào
các đạo quân thập ác đi đánh chiếm đất đai, khai thác tài nguyên,
giết người, đọat của, tàn sát đàn ông và thanh niên, hãm hiếp đàn bà
con gái đúng như tinh thần Sắc-lệnh Romanus Pontifex đã nói ở trên.
Nhờ kế sách này mà Giáo Hội dễ dàng có những đạo quân xung kích tiền
phong đi chinh phục đất đai để cưỡng bách các dân tộc nạn nhân làm
nô lệ cho Giáo Hội về cả linh hồn lẫn thể thể xác.
Từ những sự kiện đã nêu lên trên đây, chúng
ta suy ra mà biết được những người được Giáo Hội La Mã thâu nhận vào
đạo rồi rèn luyện họ thành những hạng người vừa là những phường ăn
cướp, vừa là những quân vong bản phản lại quê hương và phản lại dân
tộc của chính họ. Bất kỳ tín đồ Da-tô nào cũng phải có những đặc
tính trên đây thì mới có thể phục vụ hữu hiệu cho quyền lợi của Giáo
Hội và mới được Giáo Hội gọi là "những con chiên ngoan đạo".
► Bước 3 hay thời kỳ thứ III:
Đây
là thời kỳ Giáo Hội củng cố và duy trì quyền lực tại các vùng đã
chiếm được chính quyền. Sau khi đã chiếm được chính quyền (như ở
miền Nam Việt Nam), Giáo Hội liền cho tiến hành hay thi hành triệt
để đồng lọat các chính sách dưới đây:
1.- Chính sách ngu dân và giáo dục nhồi
sọ.- Mục đích của chính sách này là làm cho nhân dưới quyền cũng
dốt nát và ngu xuẩn đúng như câu châm ngôn “dân ngu dễ trị”. Công
dụng của chính sách này là làm cho người dân (1) không biết sử dụng
lý trí để tìm hiểu sự vật, (2) không biết phân biệt sự khác nhau
giữa một bên là ý kiến (opinions) và một bên là sự kiện (facts),
giữa một bên là nguyên nhân và một bên là hậu quả, giữa thuận lý và
nghich lý,… (3) không biết gì về quốc sử nhất là những bài học nói
về những hành động tội ác của Giáo Hội La Mã chống lại tổ quốc và
dân tộc ta, (4) không biết gì về lịch sử thế giới, và (5) không
biết gì về thuyêt tiến hóa.
Muốn đạt được mục đích này, Giáo Hội phải kiểm
soát gắt gao các chương trình học từ bậc tiều học cho đến bậc đại
học, đặc biệt về môn sử (cả quốc sử lẫn thế giới sử) và môn sinh vật
học (tuyệt đối không cho dạy thuyết tiến hóa của nhà bác học Charles
Robert Darwin (1809-1882), kiểm sóat chặt chẽ mộ sử thế giới, đặc
biệt hơn nữa là:
a.- Không rèn luyện và đòi hòi thanh thiếu niên
rèn tập cho quen việc sử dụng lý trí để tìm hiểu sự, không dạy cho
học siunh biết các phân biệt sự khác nhau giữa một bên là ý kiến
(opinions) và một bên là sự kiện (facts), giữa một bên là nguyên
nhân và một bên là hậu quả, giữa thuận lý và nghich lý.
b.- Không dạy cho các em biết các viết điểm
sách (book reports),
c.- Không dạy các em biết cách viết các bài
khảo luận, tiểu luận và luân án.
Sự kiện này hoàn toàn trái ngược với chính sách
giáo dụ tự do khái phóng và đại chúng mà tại các quốc gia ở Âu Mỹ
cũng như ở Á Châu và ở nhiều nơi khác trên thế giới đang thi hành.
Việc không dạy những điều trên đây đã khiến cho
những người tiếp nhận sở học của họ qua chính sách này không biết
viết các bài khỏi luận hay các tác phẩm lịch sử khảo luận. Trái lại,
họ còn dè bỉu, chê bài và miệt thị những ấn phẩm viết theo phương
pháp khảo luận là “một loại giây leo sống nhờ sự cóp nhặt”. Đây là
trường hợp ông cựu Luật-sư Nguyễn Văn Chức nói về cuốn Việt Nam Máu
Lửa Quê Hương Tôi. Dưới đây là nguyên văn ông Ca-tô Nguyễn Văn Chức
viết:
“Cuốn VNMLQHT không phải là một cuốn hồi ký.
Đúng hơn, nó là một tạp ghi, cóp nhặt quan điểm của nhiều người và
nhiều tác giả. 93 cuốn sách và 52 tạp chí được trích dẫn. Bản thân
ông Đỗ Mậu chỉ xuất hiện đó đây như một loại giây leo còm cõi sống
bám vào những chất liệu cóp nhặt.”
[8]
Tình trạng dốt nát trên đây của ông Ca-tô
Nguyễn Văn Chức chỉ là một phần rất nhỏ trong khu rừng hậu quả của
chính sách ngu dân đã được thi hành ở Việt Nam trong thời Liên Minh
Xâm Lược Pháp – Vatican thống trị nước ta (1885-1954) và ở miền Nam
Việt Nam trong những năm 1954-1975. Chúng tội sẽ trình bày nhiều hơn
về vấn đề này trong Chương 7 ở sau.
Đối với Vatican, cả thuyết tiến hóa lẫn môn sử
thế giới đều là những môn học cấm kỵ Vì thế mà người dân ở các quốc
gia nằm dưới ách thống trị của Vatican đều không được học hai môn
học này. Hậu quả là họ không biết gì về trào lưu tiến hóa của nhân
lọai từ cái thưở con người còn ở trong tình trạng chưa biết dùng lửa
để nấu chín miếng ăn, chưa biết sản xuất ra bông vải và tơ lụa để
may măc. Họ cũng không biết gì vế tiền nhân của loài người đã phải
vật lộn vô cùng cực nhọc trong việc tìm ra phương cách để khắc phục
những khó khăn do thiên nhiên gây ra, đã phải chiến đấu hết sức gay
go trong cuộc chiến trường kỳ chống lại các cường quyền phản động và
phong kiến (trong đó có Giáo Hội La Mã) để đòi lại quyền sống và
quyền mưu cầu hạnh phúc cho bản thân và gia đình.
Với tình trạng bị cấm đoán như vậy, dĩ nhiên
là họ (giáo dân) không biết gì về Chủ Nghĩa Nhân Bản ra đời vào đầu
thế kỷ. Họ cũng không biết gì về các Thời Kỳ Phục Hưng (1300-1650),
Thời Đại Cải Cách Tôn Giáo (1309-1648), Thời Kỳ Khoa Học Và Lý Trí
(1500-1789) Thời Kỳ Cách Mạng Dân Chủ (1603-1815), và Thời Kỳ của
các Phong Trào Phản Kháng Xã Hội (1800-1900). Thảng hoặc, nếu được
nghe người ta nói đến, họ cũng không biết và cũng không hề thắc mắc
TẠI SAO lại có các thời kỳ và các phong trào này. Đây cũng là tình
trạng của những lớp người tiếp nhận sở học ở bậc tiểu học và trung
học (từ Cấp 1 đến hếp Cấp 3) ở miền Nam Việt Nam trong những năm
1954-1975.
Ngoài ra, người dân không được phép đọc các tư
tưởng tiến bộ của các danh nhân và vĩ nhân trên thế giới, vì rằng
Giáo Hội cấm, không cho phổ biến những sách báo có những tư tưởng
này. Cả đến Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo, họ cũng không được đọc những
bản sử do các nhà viết sử chân chính biên soạn, mà chỉ được đọc
những cuốn ngụy thư do bọn sử nô Ca-tô biên soạn như bộ sách Lịch Sử
Giáo Hội Công Giáo (Sàigòn, Chân Lý, 1972) do Linh-mục Bùi Đức Sinh
biên soạn, bộ Việt Nam Giáo Sử (Sàigòn, Cứu Thế Tùng Thư, 1965) do
Linh-mục Phan Phát Huồn biên Soạn. [Chính sách ngu dân và giáo dục
nhồi sọ của Vatican được thi hành ở miền Nam Việt Nam trong những
năm 1954-1975 và tác dụng và di hại của nó đã được trình bày khá đầy
đủ trong các Chương 8, 9 và 10 trong cuốn sách Chân Dung Người Việt
Quốc Gia Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc đỏ (đã được đưa lên sachhiem.net từ
thánh /2008), và sẽ được trình bày đầy đủ hơn với nhiều chi tiết hơn
trong Mục XII, Phần VI trong bộ sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của
Giáo Hội La Mã.]
2.- Chính sách chia để trị.- Đây là
chính sách chia đất nước ta ra làm nhiều mảnh nhỏ theo biên giới địa
lý (Bắc, Trung và Nam), theo biên giới của từng sắc tộc (Nước Tây
Kỳ, Liên Bang Thái ở Tây Bắc Băc Bộ, nước Nùng ở Đông Bắc Bắc Bộ),
theo biên giới tôn giáo (biến các giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu
thành các giáo khu tự trị để chuẩn bị cho dã tâm biến hai giáo khu
này thành hai vương quốc theo đạo Ca-tô), rồi sẽ đưa một tín đồ tín
cẩn lên cầm quyền và thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô để dùng quyền
lực của nhà nước tiến hành kế hoạch Ki-tô nhân dân bằng bạo lực.
3.- Chính sách kinh tài và tích lũy tài sản.
Đây là chính sách tận tinh bóc lột nhân dân (bằng nhiều hình thức
thuế khóa và nhiều hình thức đóng góp khác nhau), tận tình cướp
đoạt tài nguyên quốc gia, tận tình vơ vét và tích lũy của cải cho
đầy túi tham.
Giáo Hội La Mã thi hành chính sách này bằng
cách nào?
Xin thưa là bằng cách dựa vào quyền lực nhà
nước để nắm độc quyền kiểm soát tất cả phạm vi sinh hoạt trong nhân
dân, và tích cực tích lũy tài sản. Chính sách này được cựu Giáo sĩ
Malachi Martin ghi lại trong cuốn Rich Church, Poor Church như sau:
“Về các vấn đề tôn giáo, trước khi Kitô giáo
ra đời, các tôn giáo trên thế giới đều có đặc tính khoan dung. Một
trong những thông điệp của Delphic Oracle là “Mọi người đều đúng cả.
Chẳng có ai quấy.” Nguyên tắc của người La Mã thời bấy giờ là “Tôn
giáo ở trong vùng (nơi bạn cư ngụ) là tôn giáo của bạn.” Trong tâm
trí và trong cách ứng xử của người đời thời bấy giờ là không có sự
liên hệ gì giữa tôn giáo và chân lý. Tôn giáo không được coi như là
một sự vật có thật. Vì thế cho nên, trước khi có đạo Kitô, không có
chiến tranh tôn giáo, không có chuyện bách hại tôn giáo, và cũng
không có người nào gọi là tử đạo cho niềm tin tôn giáo của họ cả.
Lúc bấy giờ, không có ai cố gắng áp đặt tôn giáo hay cưỡng bách bắt
buộc người khác phải theo tôn giáo của mình. Chỉ có những người Kitô
giáo mới sản xuất ra chiến tranh tôn giáo, gây nên những vụ bách hại
tôn giáo và tạo nên những người tử đạo.
Ngay từ lúc đầu, người Kitô giáo khăng khăng
cho rằng tôn giáo của họ là chân lý, rằng tôn giáo của họ nói về
thực tế. Họ đưa ra lập luận rằng tôn giáo của họ là một chân lý
toàn cầu, rằng chỉ có Kitô giáo mới là tôn giáo đích thực. Vì thế
cho nên mọi hệ thống triết lý khác và mọi hệ thống kiến thức khác -
bất kỳ ngành họat động nào của con người có liên hệ với chân lý –
đều phải hài hòa với tôn giáo đích thực là Kitô giáo. Trái lại, đó
chỉ là một hệ thống triết lý giả, một kiến thức giả. Tất nhiên là
mọi tính cách đạo đức đều từ Kitô giáo mà ra.. Kitô giáo thấm
nhập vào tất cả mọi lãnh vực trong đời sống thế tục từ kinh tế,
chính trị, tài chánh, nghệ thuật, giáo dục cho đến các cơ cấu khác
trong xã hội. Tôn giáo và chính trị, tôn giáo và tài sản, tôn giáo
và chính quyền, tôn giáo và nghệ thuật, tôn giáo và sự học hỏi –
giữa những liên hệ cơ cấu này, không có sự chống đối nào mà không
hòa giải được. Những cơ cấu này không thể tách rời được và cũng
không thể giữ nó ở trong tình trạng tách rời nhau.. Các vấn đề như
quân sự chính trị, tài sản, nghệ thuật và chính quyền, tất cả đều
phải bị tôn giáo thống trị tuốt luốt.”
Nguyên văn “In religious matters, the
pre-Christian world was ecumenical tolerant. “Everybody is right.
Nobody is wrong,” was one message of the Delphic Oracle, “Whatever
be the region of the earth where you find yourself,” went the Roman
principle, “that region’s religion is your religion.” In men‘s minds
and in the way they conducted their affairs, there was no connection
between religion and truth. Religion was not considered a true
thing. Hence, prior Christianity, there was no religious wars and no
religious persecutions. There was no religious martyrs for their
faith. No one tried to impose religion as such on anyone else. Only
Christians produced such wars, persecutions and martyrs.
From their beginnings, Christians insisted
that their religion was true, that it did speak about reality. They
drew the logical conclusion from that: that it was universally true.
That there could be only one true religion. Theirs. Hence all
philosophy and all knowledge - any branch of human activity that
dealt with the truth – had to be, would be reconcilable with the
true religion, Christianity. Otherwise, it was a false philosophy, a
false knowledge. Automatically, an all embracing morality from this
Christianity. It permeated al aspects of temporal life:economics,
politics, finance, the arts, education, social structures. Religion
and politics, religion and wealth, religion and government, religion
and art, religion and learning – between these there was no
irrececoncilable opposition. They were not separate or to be kept
separate. Military matters, matters of politics, wealth, art,
government – all became dominated by religion.”[9]
Sự kiện này cũng được sử gia Loraine
Boettner ghi nhận trong cuốn Roman Catholicism như sau:
“Trước thời có Phong Trào Đòi Cải Cách
Tôn Giáo (1500-1648), các ông giáo hoàng khống chế Âu Châu và các
ngài nói rằng chỉ có một con đường duy nhất là thờ phượng Thượng Đế.
Thời kỳ này được gọi là “Thời Kỳ Đen Tối” là thích hợp nhất. Trong
thời kỳ này, trong Giáo Hội cũng như trong chính quyền, tất cả mọi
pham vi họat động và quyền lực đều nằm trong tay giáo sĩ của Giáo
Hội. Họ đàn áp và tước đọat hết tất cả mọi quyền sống của nhân dân.
Họ cho người rình mò dò xét, theo dõi những việc làm riêng tư của
người dân. Với việc đặt ra giáo luật đòi hỏi tín đồ phải đến nhà thờ
“xưng tội” với dã tâm để xoi mói vào cả đời sống riêng tư giữa vợ
với chồng và giữa cha con với nhau. Tất cả việc hôn nhân đều nằm ở
trong tay họ. Họ can thiệp cả vào các công việc của chính quyền,
can thiệp vào việc tố tụng và xử lý các vụ án tại pháp đình, xía vào
việc quản trị và xử lý tài sản trong nước, họ sử dụng ngân qũy quốc
gia để xây cất các nhà thờ và trả lương cho giới tu sĩ, giống y như
nước Tây Ban Nha ngày nay (trong thập niên 1960 thời chế độ đạo
phiệt Da-tô Franco trong những năm 1936-1975 - NMQ). Người nào dám
chống lại họ thì sẽ bị nguy hiểm mất công ăn việc làm, mất cả tài
sản và có thể mất luôn cả sinh mạng. Chúng ta không thể nào dung thứ
cho một chế độ chuyên chế bạo ngược như vậy. Vì thế mới phát sinh
ra Phong Trào Đòi Cải Cách Tôn Giáo để giải thoát cho nhân dân cái
thảm họa này.” Nguyên văn: “For more than a thousand
years before the Reformation the popes had controlled Europe and had
said that there was only one way to worship God. That period is
appropriate known as the “Dark Ages.” In the church and, to a
considerable extent, in the state, too, the priests held the power.
They suppressed the laity until practically all their rights were
taken away. They constantly pried into private affairs, interfering
even between husband and wife, and between parents and children by
means of the confessional. All marriage was in their hands. They
interfered in the administration of public affairs, in the
proceedings of courts, and in the disposition of estates. The
revenues of the state built new churches and paid the salaries of
the priests in much the same manner as in present day Spain. Anyone
who dared resist ran the risk of losing his job, his property, and
even his life. Life under such tyranny was intolerable. From that
condition the Reformation brought deliverance.”
[10]
Hai bản văn sử trên đây cho chúng ta thấy rõ
Giáo Hội La Mã có chủ trương nắm quyền kiểm soát hết mọi phương tiện
sản xuất, và kiểm soát luôn tất cả mọi phạm vi sinh hoạt trong đời
sống người dân với dã tâm bần cùng hóa nhân dân để biến họ
thành những người vô sản nghèo đói và ngu dốt để cho Giáo Hội dễ bề
khống chế và sai khiến.
Chủ trương độc chiếm tất cả những phương tiện
sản xuất và kiểm soát tất cả các phạm vi sinh họat trong đời sống xã
hội như vậy là có dã tâm làm cho nhân dân phải trông cậy vào Giáo
Hội (theo đạo và tuân phục Vatican vô điều kiện) thì mới có đường
mưu sinh. Ai muốn làm việc gì hay muốn kinh doanh bất cứ công việc
làm ăn nào hay trong lãnh vực hoạt động nào cũng phải qua bàn tay
của Giáo Hội, tức là quan tay Nhà Thờ Vatican.
4.- Chính sách Ki tô hóa nhân dân dưới
quyền. Chính sách Ki-ô hóa nhân dân dưới quyền đước tiến hành
bằng những chiến dịch mà Vaican gọi là “làm sáng danh Chúa” bằng bạo
lực và bằng những thủ đọan hay mánh mung cực kỳ lưu manh và bằng tất
cả những hành động vô cũng dã man, hết sức man rợ. Sự kiện này được
sách sử ghi lại rõ ràng mà chúng ta có thể tìm thấy những tài liệu
này ở bất cứ thư viện nào ở trong các thành phố hay trong các trường
trung và đại học nào ở Bắc Mỹ cũng như ở Âu Châu hoặc là ở Nhật Bản
hay bất kỳ quốc gia nào ở ngoài tầm tay kiểm soát của Vatican. Dưới
đây là một vài bản văn sử nói về những hành động cực kỳ dã man của
Vatican và tín đồ Ca-tô trong các chiến dịch “làm sáng danh Chúa”
của kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân trong các quốc gia chẳng may bị lọt
vào quyền thống trị của Liên Minh Đế Quốc Tây Ban Nha - Vatican.
Sác Men and Nations – A World History nói rõ về những hành động này
của chính quyền đạo phiệt Tây Ban Nha, tay sai của Nhà Thờ Vatican
với nguyên văn như sau:
“Những tín đồ nhiệt thành của Giáo Hội La Mã
không thích những người Moors theo đạo Hồi và dân Do Thái theo đạo
Do Thái. Ngay cả sau khi xứ Granada sụp đổ, người Moors vẫn phải
tiếp tục sống hòa bình ở Tây Ban Nha. Người Do Thái đã sinh sống ở
Tây Ban Nha từ khi quốc gia này trở thành một phần trong lãnh thổ Đế
Quốc La Mã. Năm 1492, Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella ra lệnh cho
tất cả những người Do Thái trong vương quốc của họ hoặc là phải theo
đạo Gia Tô (Kitô La Mã), hoặc là phải bán xới đi khỏi nước Tây Ban
Nha. Mấy năm sau, hai vợ chồng ông vua này lại bắt dân Moors phải
tuân hành lệnh trên đây. Hầu hết những nạn nhân trong hai nhóm dân
này đều quyết định thà bán xới bỏ nước Tây Ban Nha mà đi, chứ nhất
định là không chấp nhận theo đạo Ca Tô để được ở lại nước Tây Ban
Nha….” Nguyên văn: “Ardent Catholics, they looked with
displeasure at the many Moors and Jews in Spain. Even after the fall
of Granada, Moors had continued to live peacefully in Spain. Jews
had been in Spain snce the time it was a part of the Roman Empire.
In 1492, Ferdinand and Isabella ordered that all Jews within their
two kingdoms must either become Christians or leave Spain. Several
year later they ordered the Moors the same choice. Most people
ofboth groups chose to leave rather than accept Christianity…”[11]
Ông Lương Minh Sơn viết về tình trạng của những
người Moors và Do Thái ở Tây Ban Nha trong thời kỳ này như sau:
“The Spanish Inquisitons” là thời kỳ Hoàng
Gia Tây Ban Nha ra lệnh bắt bớ và tàn sát những người theo các giáo
phái khác vì cho là “dị giáo”. Thời kỳ này bắt đầu từ năm 1478, khi
Hoàng Hậu Isabella I de Castille khởi động phong trào bắt bớ những
người Do Thái, mặc dầu đã theo đạo Thiên Chúa La Mã nhưng vẫn còn bí
mật duy trì những tục lệ của Do Thái Giáo. Năm 1483, Vua Ferdinand
và Hoàng Hậu Isabella cử giáo sĩ Tomas de Torquemada của giòng tu
Spanish Dominican lên nắm quyền tư lệnh để thi hành chương trình
“Inquisition” trên toàn lãnh thổ và những vùng thuộc địa của Tây Ban
Nha. Năm 1487, Đức Giáo Hoàng Innocent VIII phong thưởng cho giáo sĩ
de Torquemada danh hiệu “The Grand Spanish Inquisitor”, một
“Inquisitor” vĩ đại, và ra lệnh khởi động chương trình “Inquisition”
trên toàn thế giới.
Ngày 31-03-1492, Hoàng Gia Tây Ban Nha ra
sắc lệnh bắt buộc 150 ngàn người Do Thái ở thành phố Granada phải
bán hết của cải để rời khỏi Tây Ban Nha trước ngày 31 tháng 7 vì lý
do để làm sạch cho “danh dự và sự rực rỡ của Thượng Đế.” Hằng ngàn
người Do Thái phải miễn cưỡng “theo đạo” nhưng sau này vẫn bị nguyền
rủa là “Los Marranos” (Loài Heo Dơ Bẩn). Hơn 60 ngàn người phải đút
lót tìm đường vào định cư ở Bồ Đào Nha. Một số khác được Hoàng Đế
Bajazet của Ottoman (Cổ Thổ Nhĩ Kỳ) thâu nhận, mặc dầu giáo phái
chính của đế quốc này là Chánh Thống Giáo (Orthodox).
Năm 1499, một “Spanish Inquisitor” khác là
Tướng Francisco Jimenez de Cisneros áp đặt phương cách làm lễ biến
đổi những người “dị giáo” sang Thiên Chúa Giáo La Mã một cách tập
thể, và chuyện này đã bắt lửa cho cuộc đại loạn đẫm máu ở Granada.
Năm 1543, các “Spanish Inquisitors” ra lệnh xử đốt những người Tin
Lành (Protestants) trên các phong thánh giá. Cuộc đàn áp tôn giáo
này kéo dài 342 năm. Năm 1820, khi Hoàng Đế Ferdinand thứ VII ra
lệnh chấm dứt thời kỳ “Inquisition” thì đế quốc Tây Ban Nha cũng đã
mất gần hết các thuộc địa tại Trung My [TRA, “Human Rights and
Social Justice”: 1478, 1483, 1492, 1499, 1543, 1820]. Gần thế kỷ
sau, ngày 14-11-1994, trong một bài hiệu triệu gởi các hàng giáo
phẩm của Thiên Giáo La Mã, Đức Giáo Hoàng John Paul Thứ II lên tiếng
kêu gọi “Giáo Hội của Ngài phải ăn năn thống hối đối với những tội
lỗi mà người Thiên Chúa Giáo La Mã đã lầm lẫn gây ra trong quá trình
lịch sử, chỉ vì họ đã bảo vệ đức tin một các quá nhiệt thành”. Ngài
nói, “Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã không thể nào bước qua được
ngưỡng cửa của thiên kỷ mới nếu không khuyến khích giáo dân hãy rửa
mình cho tinh khiết, bằng cách ăn năn về những lỗi lầm trong quá
khứ”, [LAT].”[12]
Lệnh thi hành chương trình “Inquisition”
từ mẫu quốc Tây Ban Nha thì tất nhiên tại các thuộc địa của Tây Ban
Nha làm sao thoát khỏi? Sách Homeland of The World viết về tình
trạng dân Da Đỏ tại các thuộc địa cuả Tây Ban Nha ở Châu Mỹ La Tinh
như sau:
“Người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha khi đến
Châu Mỹ La Tinh mang theo niềm tin tôn giáo của họ. Họ cho rằng
người dân Da Đỏ là những dân tà giáo (dị giáo) hay không có tôn giáo
gì cả. Sự thật, người Da Đỏ có tôn giáo riêng của họ. Tôn giáo của
họ dựa vào lòng tin tưởng của họ đối với quyền lực thiên nhiên ở
chung quanh họ. Họ thờ mặt trời, thờ thần gió và các quyền lực khác
của thiên nhiên. Người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha không cho đó là một
tôn giáo và quyết định dùng bạo lực đàn áp tôn giáo của nguời Da Đỏ.
Người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha tin rằng nhiệm vụ của họ là phải
cưỡng bách người Da Đỏ phải theo đạo Thiên Chúa La Mã.”
Nguyên văn: “The Spainish and Portuguese settlers in Latin
America brought their religion with them. They believed the Indians
to be pagans or people who had no religion. It was based on their
belief in the powers of nature around them. The Spanish and the
Portuguese did not think this was a religion, and they took steps to
to crush it. The Spanish and the Portuguese believed it was their
duty to convert the Indians to Christinanity…”[13]
Ông Phan Quốc Đông viết:
“Tôi cũng đã đọc kỹ lịch sử của Giáo Hội
Vatican, tiểu sử của từng vị giáo hoàng, các phương pháp bành trướng
tôn giáo của họ tại các lục địa khác ngoài Âu Châu, phương pháp nào
nhanh, phương pháp nào chậm. Phương pháp nhanh nhất được thực hiện
bởi thực dân Tây Ban Nha tại các xứ thuộc Châu Mỹ La Tinh thật là vô
cùng tàn ác. Họ dùng gươm giết hết những người đàn ông bản xứ, chỉ
còn lại toàn đàn bà con gái thôi, để họ vừa bắt buộc theo đạo, vừa
hãm hiếp đồng hóa. Số người bị giết lên tới mấy chục triệu. Đây là
phương pháp truyền đạo của phái bộ truyền giáo Tây Ban Nha được
Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) hỗ trợ. Đi du lịch ở các xứ này
ta chỉ thấy toàn những người lai mà thôi, hầu như không còn một
người bản xứ nào sống sót. Tại Phi Luật Tân, họ cũng giết hàng triệu
người, đập phá toàn bộ các đền thờ cổ, thủ tiêu hoàn toàn mọi chứng
tich của nền văn minh cổ của xứ này. Ngôn ngữ, văn tự, truyền thống,
văn hóa hoàn toàn mất hẳn…”[14]
Hậu quả là các dân tộc Da Đỏ ỡ Mỹ Châu La Tinh
gần như hoàn toàn bị tiêu diệt và tất cả các di tích của nền văn hóa
của họ cũng gần như bị hủy diệt hoàn toàn.
5.- Chính
sách tuyên truyền.-
Đối với Nhà Thờ Vatican, chính sách tuyên truyền là vấn đề sinh tử.
Vì thế mà nói được nâng lên hàng quan trọng nhất và cơ quan đặc
trách chính sách này trực thuộc Thánh Bộ Đức Tin trong giáo triều
Vatican. Cơ quan này có cả hàng binh đoàn văn và sử nô chuyên môn về
sử dụng các kỹ thuật diễn dịc các tài liệu lịch sử một cách lươn lẹo
để bóp méo sự thật và xuyên tạc lịch sử với dã tâm tung hỏa mù để
mập mờ đánh lận con đen nhằm khỏa lấp và che đậy những khu rừng của
đủ mọi thứ tội ác của Giáo Hội La Mã từ khi được khai sinh vào thế
kỷ 4 và cũng là để đánh bóng cho Giáo Hội và bọn Ca-tô tại các địa
phương làm tay sai cho Giáo Hội. Tất cả những sản phẩm tuyên truyền
của Nhà Thờ Vatican đều được triệt để thi hành theo sách lược “cả
vú lấp miệng em”
(dùng tất cả mọi phương tiện truyền thông để phổ biến ồ ạt)
và sách lược “Tăng Sâm giết người” (nhắc
đi nhắc lại nhiều lần giống như các linh mục rao giảng tín lý Ki-tô
và những lời dạy của Giáo Hội ở trong các nhà thờ.)
Nói về kỹ thuật diễn dịch lươn lẹo của bộ máy tuyên truyền của Nhà
Thờ Vatican, Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ, một trí thức Ca-tô viết như sau:
“Giáo Hội nhờ ở sự
“tin lưỡng” và “nói lưỡng” nên có thể giải thích mọi vấn đề, có thể
biện minh được mọi thái độ mình. Chúa vừa ở thiên đường, vừa ở khắp
nơi; vừa ở khắp nơi vừa không ở trong tâm hồn mọi người. Chúa vừa
nhân từ vừa công thẳng. Chúa Giê-su vừa là Thượng Đế toàn năng, vừa
là Tạo Hóa, vừa là “Trưởng Từ giữa mọi thụ sinh.” Con người vừa cao
siêu vì là ảnh tượng Chúa, vừa là hết sức xấu xa vì đã sa đọa. Chúa
vừa cai trị thế gian, nhưng Satan lại là vua của trần thế này. Chúa
Giê-su vừa là Chúa, vừa là Người.. Tận Thế sắp sửa xẩy ra, tận thế
còn lâu mới xẩy ra. Nước Trời không đến một cách lộ liễu, nước Trời
sẽ đến trong rầm rộ huy hoàng. Nước Trời ở trong tâm, nước Trời ở
ngoài xã hội. Ngũ Kinh là do Maisen viết, Ngũ Kinh không phải là của
Maisen viết., v.v…. Từ Thế Kỷ XVIII đến thế kỷ XX nghiêm cấm, không
cho tôn thờ tổ tiên, ngày nay được tôn thờ tổ tiên (nhang đèn, cúng
kỵ, v.v..). Có lúc nghiêm cấm, không cho ăn thịt vào ngày Thứ Sáu,
có lúc cho ăn thịt thả giàn. Tất cả đều tùy giáo hoàng.
Thánh Kinh vừa
đúng từng chữ, vừa là Chân Lý tuyệt vời, vừa không có ý dạy về khoa
học, nên có nhiều điều không chính xác.; (Giáo Hôi) vừa chắc chắn
rằng mọi người ngoài Giáo Hội đều xuống hỏa ngục, vừa tuyên bố mọi
người sống ngoàii Giáo Hội có thể lên thiền đàng. Khi cần dịu ngọt,
thì Giáo Hội đề cao sự nhân từ bác ái của Phúc Âm; khi cần tàn nhẫn
thì (Giáo Hội) khoe đang thi triển sấm sét của hai thánh Peter và
Paul. (Giáo Hội) vừa chủ trương Chúa luôn luôn nổi cơn thịnh nộ oán
phạt loài người, vừa tuyên bố đó chỉ là những kiểu “nhân cách hóa”
Thiên Chúa. Tất cả các văn kiện viết ra phải được đắn đo, viết lách
làm sao để có thể có thể giải thích xuôi cũng đuợc và ngược cũng
được. Thật là biến hóa tuyệt vời. Chảng những thế, lại còn có cả một
đạo binh văn học chỉ có nghiệm vụ bào chữa cho Công Giáo, bảo vệ
Thánh Kinh mà ta gọi là những nhà thần học, những nhà bảo vệ tín lý
(apologetists)…. Chuyện đời quả tình hết sức phưc tạp.”
Nguyễn Văn Thọ, Công Giáo: Nhận Định Về Tín Lý & Giáo Lý
(Garden Grove, CA: Giao Điêm, 2007), tr. 49-50.
Cũng nói về
thủ đọan tuyên truyền và tác dụng của chính sách truyên truyền của
Nhà Thờ Vatican, ông Phan Đình Diệm, hội trưởng Học Hội ĐỨc Ki-tô
Phục Sinh, viết như sau:
“Giáo Hội
giả trá, gian manh, buôn thần bán thánh, vô đạo đức…”, “Giáo
Hội Công Giáo Rôma đào tạo sản xuất hàng triệu triệu “cái lưỡi không
xương” để tuyền truyền nhồi sọ một nền “thần học không xương nhiều
đường lắt léo vòng vo”. “Nghề thầy cúng Men-ki-sê-đê”, “cái
nghề thầy cúng tồi tàn, giả hình, bất lương, vừa thất học, vừa ham
danh lợi, vừa lười biếng…”, “Cái nghề thày cúng bịp bợm, cướp cạn,
vô luân, làm đảo điên gia đình và xã hội…” Phan Đình Diệm. “
Tiuyên Cáo Về 50 năm của kẻ sĩ Bùi Tuần.”
pddiem@hotmail.com Ngày
30/7/2005
[i] .
Trong một tài
liệu khác, cũng nói về miệng lưỡi tuyên truyền của Nhà Thờ Vatican,
tác giả Phan Đình Diệm viết:
“Hàng ngàn năm, để
bưng bít và che dấu 7 chương tội đối ngọai và 1 chương tội đối nội
là tám, nghệ thuật tuyên truyền của Giáo Hội Roma phải đạt đến chő
cực kỳ ảo diệu, thiên biến vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần
thánh, một nghệ thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo Hội là
Thánh, Giáo Hội là Mầu Nhiệm, Giáo Hội là Bí Tích, Giáo Hội là Hiền
Thê của Đức Giê-su, Giáo Hội là Duy Nhất, Thánh
Thiện, Công
Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội là Vương Quốc của Thiên Chúa... Giáo
Hội tự nhận cho mình hết tất cả
những khái
niệm
cao cả thánh
thiện, vừa linh thiêng siêu hình, vừa hữu hình thế tục, chẳng bỏ sót
một phạm trù nào! Ngòai nghệ thuật tuyên truyền, Giáo Hội vẫn phải
xây "vạn lý trường thành đức tin" và buông bức "màn sắt thần học"
lên đầu đòan chiên. Mỗi tòa giảng là một cái loa tuyên truyền, dựa
vào khoa thần học phù phép, ảo thuật "núi tội thành con chuột", "kẻ
cướp mặc áo thày tu" và "quỷ Satan có diện mạo ông thánh."
Phan Đinh Diệm. "Mea Culpa Bài 3 - Giáo Hội Công Giáo Roma La Tinh
Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn Năm" https:// www.kotohoc.com/Bai/Net066.html.
Ngày 19/9/2000.
◎◎◎
Xem tiếp: Vatican Thuyết Phục Pháp Đánh Chiếm Việt Nam
[7]
Manhattan, Avro. Vietnam - Why Did We Go? (Chino, CA:
Chick Publication, 1984), p. 157.
[8] Nguyễn Văn
Chức, Việt Nam Chính Sử (Fall Church, VA: Alpha,
1992), tr.1.
[9] Malachi
Martin, Rich Church, Poor Church (New York: G.P.
Putnam’s Sons, 1984), p 90.
[10] Loraine Boettner, Roman Catholicism
(Phillipsburg , New Jersey: The Presbyterian & Reformed
Publishing., Company, 1962), p. 2.
[11]Anatole G.
Mazour và John M. Peoples, Men and Nations – A
World History (New York: Harcourt Brace Jovanovich,
1975), p. 238.
[12] Lê Hữu Dản,
Sự Thật – Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, CA:
TXB, 1997), tr. 28.
[13] Jack
Abramowitz & Kenneth Job, Homelands of the World:
Resources and Cultures (Cleveland, Ohio: Modern
Curriculum Press, Inc., 1982), p. 245.
[14] Nhiều tác
giả, Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II
(Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1995), tr. 339-340.