 |
13 tháng 6, 2008
|
TT - Trong số 525 tù nhân người Việt bị đưa đi đày sang
Guyane năm 1931 sau khởi nghĩa Yên Bái, ngoài những người bỏ mình trong
thời gian bị giam giữ, còn có những người trong sổ ghi là được trả tự
do, thậm chí có người ghi là được trả về VN như ông Vũ Văn Ninh.
Cũng như số tù nhân bị đi đày sang Guyane trước họ, từ
cuối thế kỷ 19. Họ là ai? Số phận họ ra sao? Tôi tìm Sở văn khố lưu trữ
tỉnh Guyane, những tài liệu ở đó của các nhà nghiên cứu người Pháp nói
lên nhiều điều.
>> Kỳ 1: Con cháu các tù nhân biệt xứ
Khai hoang
Theo Danielle Donet-Vincent (Trung tâm nghiên cứu khoa
học Pháp) trong "Nhà tù cho người Đông Dương tại Guyane" (Les bagnes des
Indochinois en Guyane 1931-1963), tù nhân Đông Dương đến Cayenne (thủ
phủ của Guyane) ngày 30-6-1931. Theo Daniel Ballof trong sách Hiện
tượng đày biệt xứ tù nhân Đông Dương và các cơ sở lao tù (La
deportation des Indochinois en Guyane et les etablissements
penitentiaires), khi tàu cập bến có hai trường hợp tử vong trong chuyến
hành trình dài 35 ngày. Ngay khi đến đó, có 30 tù nhân bị bệnh quai bị
được phát hiện. Rồi các bệnh đường hô hấp, đường ruột khiến 137 người
phải nhập viện, sáu người trong số họ không qua khỏi. Trong hai năm
1934-1936, 20 người đã chết vì bệnh, một số khác tự tử.
Cũng theo Danielle Donet-Vincent, nghị định ngày
18-9-1936 ấn định việc cấp đất rừng cho tù nhân mãn hạn khai hoang canh
tác. Qua năm sau, bảy tù nhân trại Crique Anguille (Suối Lươn) được trả
tự do, được giao đất để phá rừng canh tác. Bốn tù nhân khác của trại
Saut Tigre (Cọp Vó) cũng được cấp rừng để khai hoang canh tác. Một người
được cho phép làm việc trong các mỏ vàng của Công ty Société Nouvelle de
Saint-Élie (Guyane ngày nay cũng đang khai thác vàng). Bốn người khác đi
làm thuê cho các đồn điền (nông trường) và làm nghề đánh cá.
Tuy được trả tự do song họ bị hạn chế di chuyển, tạo ra
tâm lý bi quan về chương trình cấp đất rừng để khai hoang canh tác. Tôi
đọc thấy trên một tấm biển trong trại Crique Anguille thông điệp đại ý
như sau: Chương trình cấp đất rừng khai hoang là để cho các tù nhân có
cơ hội làm lụng sinh nhai sau khi mãn hạn tù. Họ hi vọng sẽ có ngày hồi
hương với chút ít của cải dành dụm. Nhưng do không thấy ngày về nên sau
này họ bỏ bê việc canh tác.
Danielle Donet-Vincent cho biết khi chính phủ Mặt trận
Bình dân nắm quyền ở Pháp sau cuộc bầu cử năm 1936, 19 người được trả về
nguyên quán. 19 trên tổng số gần 500 người còn lại là quá ít, khiến họ
càng thêm thất vọng. Tuy vậy, trong thực tế đã chỉ có 15 người được về
quê hương, qua ngả các cảng Saint-Nazaire và Marseilles của Pháp. Rồi
Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra. Tình hình quản lý tù tại Guyane có
phần khó khăn nên đây cũng là giai đoạn các tù nhân mọi quốc tịch trốn
trại nhiều nhất. Chính quyền Pháp quyết định giải thể các nhà tù hải
ngoại bằng nghị định ngày 4-5-1944. Các tù nhân trước kia được phân tán
trong ba trại Crique Anguille, Saut Tigre và La Forestière sau đó được
tập trung về Le Bagne (nhà lao An Nam).
Khu người Đông Dương
 |
| Guyane (Pháp) - Ảnh: Wikipedia |
Guyane là một tỉnh hải ngoại của Pháp, nằm ở bờ bắc của Nam Mỹ.
Nhà lao An Nam nay chỉ là một trong số 30 nhà lao rải rác trên
lãnh thổ Guyane. Trong gần một thế kỷ, từ khi được thành lập vào
năm 1854, các nhà lao ở Guyane đã chứa tổng cộng khoảng 70.000
người, đa số là người Pháp. Đến Thế chiến thứ hai, do chiến
tranh và đường sá xa xôi không có tiếp tế nên công tác quản lý
bị thả nổi. Nhiều tù nhân đã bỏ trốn qua nước láng giềng
Surinam, lúc đó là thuộc địa Hà Lan. Năm 1953, không còn tù nhân
biệt xứ nào ở Guyane nữa. |
Giám đốc Sở Văn khố lưu trữ tỉnh Guyane, ông Guyot, cho tôi biết: "Một
số sau này ra trại, sống tập trung ở khu vực Saint-Laurent du Maroni,
tạo thành khu gọi là Quartier chinois (khu người Hoa) mà thật ra là rút
ngắn từ cụm từ quartier Indochinois nghĩa là khu người Đông Dương. Họ
trồng trọt, chăn nuôi, trồng lúa... Họ lập gia đình với người bản xứ,
thường là người da đen hay người lai. Lần hồi, khu người Đông Dương bị
pha trộn dòng máu, không còn "nguyên thủy" nữa. Con cháu họ cứ mang tên
họ cha ông mà không nhớ gì về cha ông. Hiện tại trong hội đồng thành phố
có một người mang họ Việt". Danielle Donet-Vincent viết về một đặc điểm
của những người tù Đông Dương sau khi ra trại như sau: "Tại Guyane ngày
nay, các phương pháp đánh cá của tù nhân Đông Dương vẫn còn được sử
dụng".
Rồi thì tất cả cũng qua đời. Theo tác giả nêu trên,
người tù của chuyến tàu năm 1931 cuối cùng sống cho đến đầu năm 2000.
Sau khi ra tù, ông làm lụng vất vả trong các mỏ vàng và nhận Guyane là
quê hương thứ hai. Năm 2006, các đài truyền hình ARTE - RFO và France 3
của Pháp có chiếu một bộ phim tư liệu tựa đề là Bóng tối của ngục tù
(Les ombres du bagne) của Patrick Barberis và Tancrède Ramonet. Bộ phim
nói về các trại tù ở Guyane qua số phận bốn tù nhân tên là Charles Hut
(người Bỉ), René Belbenoit (người Pháp), Jassek Baron (người Ba Lan gốc
Do Thái) và Tran Khac Man (người Việt). Đây có thể là tù nhân cuối cùng
còn sống sót ở Guyane mà Danielle Donet-Vincent đã nêu ở trên.
Bác Đinh Vũ, một chuyên viên nông nghiệp của Pháp sang
Guyane sau khi về hưu, nói với tôi: "Có lẽ người Việt thuần túy ở Guyane
là những người mới đến, còn con cháu các cụ thì dù mang họ tên Việt
nhưng không còn nhớ nhiều về tổ tiên". Chủ nhật, chúng tôi lên chợ
Cacao. Một chị tuổi xấp xỉ 60 lặng lẽ bán bánh cuốn cho chúng tôi. Chợt
nghe chị nói tiếng Việt với một ai đó, mới hay chị cũng là người Việt.
Hỏi chuyện, chị cho biết chị từ Hà Nội sang Lào năm 1954, rồi sang Pháp,
rồi sang đây phụ bán cho cô em vài tháng. Gần chợ có một ông thầy dạy võ
Việt cổ truyền, miệng hô "Dam thang. Dam vong" không bỏ dấu cho nhóm trẻ
ngoại quốc, nghe cũng ấm lòng khi thấy có VN ở nơi xa xôi này.
Quả là
những số phận lưu
lạc!
DANH ĐỨC
Nội Dung Toàn Tập:
Kỳ 1:
Con cháu các tù nhân biệt xứ
Kỳ 2:
Những số phận lưu lạc
Kỳ 3:
Đường vào nhà lao
Kỳ 4:
Hương khói giữa rừng Amazon
Kỳ 5 :
Vượt ngục về nước tiếp tục đấu tranh
Kỳ 6:
Từ Thái Bình đến Guyane
Kỳ 7:
Cuộc đày ải giữa đại dương
Kỳ 8:
Tranh đấu trong rừng già
Kỳ 9:
Một kiếp thề ghi với nước non
Kỳ 10:
Nghĩa quân Đề Thám đi đày ở Guyane
Kỳ 11:
Con đường xương máu
Kỳ 12:
Hãy gìn giữ dòng máu Lạc Hồng
Kỳ 13:
Chúng tôi đã đến đây