  | 	 
 bản in | 
	¿ trở ra mục lục
	 |   
  
				SỰ BÀNH TRƯỚNG ĐẠO HỒI
 
				  
		
																		Trong lịch sử thế giới, 
													chưa từng có một tôn giáo 
													nào bành trướng một cách 
													mạnh mẽ và nhanh chóng cho 
													bằng đạo Hồi. Từ một nhóm 
													người du mục sống trong một 
													ốc đảo heo hút giữa sa mạc 
													Syro-Arabia đã mau chóng 
													biến thành những con người 
													đầy quyền lực tung hoành từ 
													Cận Đông đến Âu Châu và từ 
													Bắc Phi đến tận các nước 
													Châu Á: 
				 - Chỉ trong 
													vòng 10 năm kể từ ngày giáo 
													chủ Muhammad qua đời 
													(632-642) quân Hồi Giáo Ả 
													Rập đã chiếm trọn bán đảo 
													Arabia (rộng gấp 8 lần Việt 
													Nam), chiếm Iraq, Syria, 
													Palestine, Ai Cập và phía 
													Tây nước Iran. 
				 - Trong 2 năm 
													(648-649), quân Hồi chiếm 
													Carthage, Tunisia.  
				 Một điều làm 
													cho cả thế giới kinh ngạc là 
													lần đầu tiên người Ả Rập 
													chiếm một nước Âu Châu, đó 
													là Hy Lạp. 
				 - Thừa thắng 
													xông lên, người Hồi Giáo Ả 
													Rập mở cuộc chiến tranh đánh 
													Tây Ban Nha. Sau 5 năm, 
													người Hồi chiến thắng đã 
													chiếm trọn nước Âu Châu rộng 
													lớn và nổi tiếng sùng đạo 
													Công Giáo nhất thời bấy giờ. 
				 - Năm 712, 
													quân Hồi Giáo chiếm trọn 
													Iran (Ba Tư) và dùng nước 
													này làm bàn đạp tiến quân 
													đánh chiếm các nước Trung Á 
													ở phía nam nước Nga, chiếm 
													vùng Bắc Ấn rộng lớn (nay là 
													Pakistan và Afganistan) và 
													xâm nhập phía Tây Trung Quốc 
													- Quân Hồi bị quân nhà Đường 
													chận lại tại sông Talas nên 
													phải rút về Trung Á. 
				 Sự xuất hiện 
													và bành trướng của đạo Hồi 
													trong thế kỷ 7 hung bạo dữ 
													dội như cơn gió xoáy 
													(tornado) khiến cho cả thế 
													giới phải kinh hoàng. 
				 Chúng ta thử 
													tìm hiểu những nguyên nhân 
													nào đã khiến cho đạo Hồi có 
													thể bành trướng với tốc độ 
													vũ bão như vậy. Các sử gia 
													đã phân tích 3 nguyên nhân 
													sau đây: 
				
				
				 
				Nguyên nhân 1: 
													Qua nhiều ngàn năm sống trên 
													các cánh đồng cỏ ở sa mạc 
													Syro-Arabia, kiếp sống lang 
													thang của những người Ả Rập 
													càng ngày càng trở nên khó 
													khăn vì đất đai ngày càng 
													trở nên khô cằn. Từ thế kỷ 
													6, bộ lạc Quraysh (tổ tiên 
													của Muhammad) có sáng kiến 
													bỏ nghề du mục để chuyển hẳn 
													sang nghề thương mại. Họ tổ 
													chức các cuộc đi buôn đường 
													xa với những đoàn lữ hành 
													(caravans) gồm hàng trăm 
													người và rất nhiều ngựa, lạc 
													đà để chở hàng hóa lương 
													thực, lều vải, vũ khí... 
													Dần dần, thị trường ngày 
													càng được mở rộng, nhu cầu 
													thương mại gia tăng, những 
													đoàn lữ hành có thể gia tăng 
													lên tới nhiều ngàn người. 
				 Do nhu cầu tự 
													vệ, mọi người trong đoàn lữ 
													hành đều phải học cưỡi ngựa, 
													cưỡi lạc đà, luyện tập sử 
													dụng các thứ vũ khí như gươm 
													giáo cung tên, kể cả võ 
													thuật và chiến thuật quân 
													sự. Ngoài ra, họ học nói 
													nhiều ngoại ngữ, học cả địa 
													lý và phong tục tập quán của 
													các nước lân cận để gia tăng 
													khả năng giao dịch thương 
													mại. Trải qua nhiều thập 
													niên, những thương gia 
													(traders) Ả Rập trở thành 
													những người đa tài, đa năng 
													và đa hiệu. Họ chẳng những 
													là những thương gia rành 
													nghề mà còn là những quân 
													nhân thiện chiến, kỹ luật và 
													còn là những người lãnh đạo 
													quần chúng. 
				 Vào đầu thế 
													kỷ 7, Mecca là thủ phủ của 
													những người Quraysh đã trở 
													nên một trung tâm thương mại 
													lớn nhất tại Trung Đông. 
													Những người Quraysh không 
													còn có dáng dấp quê mùa 
													nghèo khổ của thế kỷ trước 
													nữa trái lại họ đã trở thành 
													những người văn minh giàu 
													có. Điều đó làm cho nhiều bộ 
													lạc Ả Rập khác phải thèm 
													muốn và cố gắng noi theo. 
													Một trong những bộ lạc nổi 
													tiếng hung dữ là bộ lạc 
													Bedouins bắt chước bộ lạc 
													Quraysh đã bỏ nghề du mục và 
													tham gia vào các đoàn 
													caravans của Mecca. 
				 Vào giữa thế 
													kỷ 7, gặp cơ hội đạo Hồi 
													phát triển, các bộ lạc Ả 
													Rập, nhất là Quraysh và 
													Bedouin, đã nô nức nhập cuộc 
													dùng tôn giáo làm phương 
													tiện bành trướng lãnh thổ để 
													thay đổi môi trường sống tại 
													bán đảo Ả Rập quá cằn cỗi. 
				
				
				 
				Nguyên nhân 2:
													Từ thế kỷ 4 đến thế 
													kỷ 7, toàn vùng Trung Đông 
													và Bắc Phi bị hai đế quốc 
													Byzantine và Sassanian thay 
													phiên nhau thống trị. Đế 
													quốc Byzantine là hậu thân 
													của đế quốc La Mã, được Đại 
													Đế Constantine thành lập năm 
													330, đặt thủ phủ tại hải 
													cảng Byzantine của Hy Lạp. 
													Từ đời Constantine (thế kỷ 
													4) đến đời hoàng đế cuối 
													cùng của đế quốc Byzantine 
													vào giữa thế kỷ 15, tất cả 
													đều là những hoàng đế theo 
													Ki Tô Giáo Đông Phương 
													(Eastern Christian Church) 
													sau này trở thành Chính 
													Thống Giáo. Đế Quốc 
													Sassanian là đế quốc Ba Tư, 
													tồn tại 427 năm (từ năm 224 
													đến 651). Các hoàng đế của 
													đế quốc Sassanian đều theo 
													đạo Hỏa Giáo 
													(Zoroastrianism). Cả hai đế 
													quốc nói trên đánh nhau liên 
													miên suốt 4 thế kỷ, đến đầu 
													thế kỷ 7 thì cả hai đế quốc 
													này đều bị kiệt quệ tạo nên 
													một khoảng trống quyền lực 
													(a power vacuum) tại Trung 
													Đông và Bắc Phi. Do đó, 
													những đoàn kỵ binh của Hồi 
													Giáo Ả Rập đã tiến vào lãnh 
													thổ của cả hai đế quốc này 
													như tiến vào chỗ không 
													người. 
				
				
				 
				Nguyên nhân 3:
													Giáo lý đạo Hồi là 
													sản phẩm của người Ả Rập nên 
													được người Ả Rập đón nhận 
													một cách dễ dàng và tự 
													nhiên. Từ thời xa xưa, người 
													Ả Rập đã chấp nhận niềm tin 
													của Abraham, nghĩa là tin có 
													Thiên Chúa (tiếng Ả Rập gọi 
													là Allah) tin có Thiên đàng, 
													Hỏa ngục, tin có các thiên 
													thần v.v... Cho nên người Ả 
													Rập không coi Hồi Giáo như 
													một đạo ngoại lai mà là đạo 
													cổ truyền của dân tộc. Văn 
													thơ trong kinh Koran đối với 
													người Ả Rập là những áng thơ 
													văn tuyệt tác. Mỗi khi họ 
													đọc kinh Koran là một dịp họ 
													ngâm thơ, họ cảm thấy những 
													vần thơ đó rất hấp dẫn vì 
													rất hợp với khiếu thẩm mỹ 
													văn chương của họ. Ý niệm 
													thánh chiến (Jihad) và ý 
													niệm tử đạo (martyrdom) hoàn 
													toàn phù hợp với tâm lý vốn 
													hung bạo của người Ả Rập vì 
													họ rất quen thuộc với cuộc 
													sống đầy bất trắc tại sa 
													mạc. Kinh Koran mô tả thiên 
													đàng rất hấp dẫn đối với các 
													chiến binh trẻ tuổi: Sau khi 
													chết trận, được coi như tử 
													đạo, sẽ được Chúa cho lên 
													thiên đàng để hưởng đủ lạc 
													thú cho đến muôn đời. Lạc 
													thú độc đáo nhất mà chỉ đạo 
													Hồi mới có, đó là những 
													người chết trận hoặc tử đạo 
													đều được những cô gái trinh 
													tuyệt đẹp đón tiếp và phục 
													vụ lạc thú tình dục cho đến 
													muôn đời vì mọi người ở 
													thiên đàng đều trẻ mãi không 
													già! Niềm tin đặc biệt này 
													đã là một yếu tố tâm lý quan 
													trọng khiến cho những người 
													lính Hồi Giáo trở thành 
													những chiến sĩ rất dũng cảm 
													trong các cuộc thánh chiến. 
													Chỉ vì cuồng tín, những đoàn 
													quân Hồi Giáo đã lập nên 
													những chiến công oanh liệt 
													như những kỳ tích vượt xa sự 
													dự tưởng của mọi người. 
				 Những cuộc 
													chiến tranh mở rộng nước 
													Chúa của Hồi Giáo (Kingdom 
													of Allah) từ ngày lập đạo 
													tới nay có thể được chia ra 
													làm hai thời kỳ: 
				 
				 
				
				- Thời kỳ I - từ 
													thế kỷ 7 đến thế kỷ 13: Đạo 
													Hồi bành trướng và phát 
													triển tạo thành một số quốc 
													gia theo đạo Hồi, đứng đầu 
													cộng đồng Hồi Giáo là một vị 
													vua được gọi là Caliph, có 
													nghĩa là "người kế vị giáo 
													chủ Muhammad về phương diện 
													thế quyền ". Xin ghi thêm ở 
													đây là đạo Hồi tin giáo chủ 
													Muhammad là thiên sứ cuối 
													cùng của Allah cho nên không 
													một ai có quyền tự xưng là 
													kẻ thừa kế của Ngài về 
													phương diện thần quyền. 
				 
				
				 - 
				Thời kỳ II - từ 
													thế kỷ 13 đến thế kỷ 20: Do 
													những biến cố đặc biệt của 
													thế giới đã đưa đến sự hình 
													thành ba đế quốc Hồi Giáo. 
													Trước hết là sự xâm lăng của 
													quân Mông Cổ chiếm các nước 
													Trung Đông và sau đó chiếm 
													các nước Bắc Ấn và nhiều 
													nước Á Châu khác tạo thành 
													một đế quốc Mông Cổ rộng 
													lớn. Từ cuối thế kỷ 13, 
													nhiều hoàng đế Mông Cổ theo 
													đạo Hồi đã tạo nên đế quốc 
													Hồi Giáo Mughul (do chữ 
													Mongol mà ra). Trong thế kỷ 
													15, tại Âu Châu, người Thổ 
													Nhĩ Kỳ Hồi Giáo chế ra thuốc 
													súng và lập ra binh chủng 
													pháo binh đầu tiên trên thế 
													giới. Dựa vào sức mạnh quân 
													sự, người Thổ Hồi Giáo xua 
													quân đánh chiếm nhiều nước 
													trên cả 3 lục địa Âu, Á, Phi 
													và lập nên đế quốc Ottoman. 
													Cuối cùng, dân tộc 
													Azerbaizan ở tây nam biển 
													Caspian bỗng nhiên trở nên 
													hùng mạnh vào đầu thế kỷ 16, 
													cất quân đánh chiếm nhiều 
													nước Âu Châu và Trung Đông 
													tạo thành đế quốc Safavids 
													theo giáo phái Shiite. 
				 
				   
				
				
				I. THỜI KỲ 
													CAI TRỊ CỦA CÁC CALIPHS 
				
				(The 
													Caliphate Rulers) 
				
				
				*Bốn 
													người kế vị đầu tiên của 
													Muhammad (632-661): 
				 Danh từ Hồi 
													Giáo Ả Rập gọi chung cả bốn 
													vị thừa kế đầu tiên của giáo 
													chủ Muhammad là RASHIDUN - 
													Họ được coi là 4 trụ cột của 
													Hồi Giáo trong thời kỳ sơ 
													khai. Họ đã lần lượt thay 
													thế nhau trong 29 năm kể từ 
													khi Muhammad qua đời, nhưng 
													những việc làm của họ đã có 
													những ảnh hưởng hết sức lớn 
													lao cho sự tồn vong của đạo 
													Hồi. Bốn vị đó là : Abu 
													Bakr, Umar Khattab, Uthman 
													Affan và Ali Talib. 
				
				 1. 
													Abu Bakr (632-634). 
													Sau khi Muhammad qua đời, 
													cộng đồng Hồi Giáo non trẻ 
													lâm vào tình trạng hỗn loạn 
													vì không có lãnh đạo. Không 
													một ai được đa số tín đồ Hồi 
													Giáo tín nhiệm bầu lên làm 
													nguời kế vị Muhammad. Trước 
													tình thế bế tắc đó, Abu Bakr 
													tự động đứng lên dành quyền 
													lãnh đạo. Ông là một thương 
													gia giàu có và có uy tín bậc 
													nhất ở Mecca. Ông đã nghiêm 
													khắc ra 2 lệnh cấm khẩn cấp 
													để bảo vệ đạo Hồi và cộng 
													đồng Hồi Giáo: 
				 - Tuyệt đối 
													cấm không một tín đồ nào 
													được rời bỏ cộng đồng Hồi 
													Giáo (Islamic confederacy)
													 
				 - Không một 
													ai được tự xưng là tiên tri 
													vì Muhammad là vị tiên tri 
													cuối cùng của Thiên Chúa 
													trên thế gian này. 
				 Abu Bakr đã 
													mau chóng phá tan các âm mưu 
													chia rẽ cộng đồng Hồi Giáo 
													và chỉ sau 2 năm, toàn bán 
													đảo Ả Rập đã theo đạo Hồi. 
													Bán đảo Ả Rập rất rộng lớn, 
													(gấp 8 lần diện tích Việt 
													Nam) hiện được chia thành 
													nhiều quốc gia độc lập: 
													Saudi Arabia, Yemen, Quatar, 
													Omar và Emerite. 
				
				 
				2. Umar Khattab (634-644). 
													Sau khi Abu Bakr qua đời, 
													Umar được bầu làm người kế 
													vị (Caliph) cai quản cả một 
													cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn 
													trên toàn bán đảo Ả Rập. 
				Umar là một 
													thiên tài quân sự kiệt xuất 
													trong lịch sử Hồi Giáo. Ông 
													đã ban hành trên toàn lãnh 
													thổ Ả Rập những biện pháp 
													sau đây: 
				 - Để bảo toàn 
													lực lượng Hồi Giáo, các bộ 
													lạc trong Cộng đồng đạo Hồi 
													tuyệt đối không được đánh 
													nhau. 
				 - Mọi người 
													nam giới trong các bộ lạc 
													trên lãnh thổ bán đảo Ả Rập 
													đều là các binh sĩ, tất cả 
													đều được huấn luyện quân sự 
													và được sắp xếp thành các 
													đơn vị quân đội. Umar tự 
													xưng là "Tư lệnh của các tín 
													đồ" (The commander of the 
													faithful). Sau hai năm huấn 
													luyện các binh sĩ và trang 
													bị vũ khí đầy đủ, Umar bắt 
													đầu mở mang nước Chúa bằng 
													sức mạnh quân sự: 
				 * Năm 636, 
													Umar đích thân chỉ huy quân 
													Hồi Giáo chiếm Iraq và 
													Syria. 
				 * Năm 637, 
													Umar chiếm toàn lãnh thổ của 
													đế quốc Sassanian (Ba Tư) 
													và chiếm thành phố lớn nhất 
													của đế quốc Byzantine là 
													Anatolia. 
				 * Năm 638, 
													Umar xua quân chiếm 
													Palestine và thánh địa 
													Jerusalem. 
				 * Năm 641, 
													Umar chiếm toàn bộ các nước 
													Bắc Phi gồm Ai Cập, Algeria, 
													Tunisa và Maroc. 
				 Một điều đáng 
													chú ý là những đoàn quân Hồi 
													Giáo đã tiến chiếm những 
													vùng đất xa xôi thuộc nhiều 
													hướng khác nhau nhưng vị chỉ 
													huy tối cao là Umar vẫn đặt 
													bản doanh ở Medina, một ốc 
													đảo trong sa mạc Syro - 
													Arabia. Ông chỉ huy các đoàn 
													quân Hồi Giáo trên những sa 
													bàn và những bản đồ tại văn 
													phòng của ông. Dưới sự lãnh 
													đạo kiệt xuất của Umar trong 
													10 năm, Hồi Giáo từ một giáo 
													phái nhỏ ở sa mạc đã biến 
													thành một đế quốc rộng lớn. 
													Các tín đồ Hồi Giáo cho đó 
													là một phép lạ của Allah, 
													trong khi Âu Châu bắt đầu 
													cảm thấy e ngại trước sự lớn 
													mạnh của một tôn giáo mới.
													 
				 Họ gọi đạo 
													Hồi là "đức tin của bạo lực" 
													(A violent faith) hoặc là 
													một "tôn giáo quân phiệt" (a 
													militaristic religion). Vào 
													một ngày định mệnh trong 
													tháng 11 năm 644, trong khi 
													Umar đang cầu nguyện trong 
													đền thờ tại Medina thì bị 
													một tù binh người Ba Tư đâm 
													chết. 
				
				 
				3. Uthman (644-656). 
													Uthman là cánh tay mặt và 
													phục vụ dưới trướng của Umar 
													10 năm. Uthman đã học hỏi 
													được nhiều kinh nghiệm về 
													tài thao lược quân sự của 
													người tiền nhiệm. Vào lúc 
													nầy, Hồi Giáo là một quyền 
													lực quân sự lớn ở trong vùng 
													vì họ đã tịch thu được rất 
													nhiều chiến lợi phẩm quân sự 
													và tích lũy được rất nhiều 
													tài nguyên kinh tế dự trữ 
													tại các vùng chiếm đóng. 
													Dưới sự lãnh đạo tài ba của 
													Uthman trong 12 năm, quân 
													Hồi đã lập nên nhiều kỳ tích 
													chưa từng thấy: 
				- Trước hết, quân Hồi 
													chiếm Hy Lạp và nhiều nước 
													phía đông Địa Trung Hải. 
				 - Mấy năm 
													sau, một cánh quân tiến về 
													phía Tây chiếm Libya. 
				 - Một cánh 
													quân khác tiến về phía đông 
													chiếm nước Âu Châu Armenia, 
													tiến vào miền Caucase của 
													Nga. Trong khi đó một cánh 
													quân khác tràn xuống phía 
													nam đánh chiếm Bắc Ấn Độ 
													(tức Afganistan và Pakistan 
													ngày nay). 
				 Tới lúc này, 
													Hồi Giáo đã thành một đế 
													quốc mênh mông kéo dài từ Âu 
													sang Á tới Bắc Phi. Những 
													quân lính Ả Rập Hồi Giáo hầu 
													hết đều đã xa nhà trên 10 
													năm, phần đông đều cảm thấy 
													chán nản. Nhiều tướng lãnh 
													Hồi Giáo xa chủ tướng đã quá 
													lâu nên cũng mất đi tình 
													thân ban đầu. 
				 Năm 656, một 
													nhóm tướng và binh sĩ bất 
													mãn đã bất thần trở về 
													Medina vây bắt và giết chết 
													Uthman tại chỗ. Nhóm này đưa 
													Ali Talib lên làm vị Caliph 
													thứ tư của Hồi Giáo. 
				
				 
				4. Ali Talib (656-662). 
													Vụ sát hại Uthman để đưa Ali 
													lên thay là một biến cố vô 
													cùng tai hại cho Hồi Giáo 
													trong suốt nhiều thế kỷ qua 
													và có thể còn kéo dài mãi 
													mãi về sau. Ali là em họ và 
													đồng thời là con rễ của 
													Muhammad. Khi vừa được bầu 
													lên làm Caliph, Ali đã gặp 
													phải sự chống đối của 
													Muawiyah là người nhà của 
													Uthman. Muawiyah lúc đó là 
													quan toàn quyền Hồi Giáo cai 
													trị Syria lên tiếng chỉ 
													trích Ali đã không trừng 
													phạt kẻ sát hại Uthman. Ali 
													mang quân đến đánh Muawiyah 
													nhưng hai bên đánh nhau khá 
													lâu không phân thắng bại nên 
													phải ngưng chiến. Năm 662, 
													Ali bị ám sát chết. Muawiyah 
													tự cho mình là người đang 
													nắm quyền lực quân sự mạnh 
													nhất nên tự xưng là Caliph 
													lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo. 
													Y tự ý dời thủ đô Hồi Giáo 
													từ Medina về Damacus lúc đó 
													là thủ đô của Syria. 
													Muawiyah mở đầu cho một 
													triều đại Hồi Giáo kéo dài 
													tới 6 thế kỷ. Đó là triều 
													đại Umayyad (Umayyad 
													Dynasty) gồm những vị vua 
													cai trị các nước Hồi Giáo, 
													tất cả đều tự xưng là Caliph 
													(661-1250). Do đó, tất cả 
													các vua Hồi Giáo thuộc triều 
													đại Umayyad đều được gọi 
													chung là "Caliphate Rulers", 
													có nghĩa là các nhà lãnh đạo 
													cộng đồng với tư cách là 
													người kế vị Muhammad. 
				 Riêng cá nhân 
													Muawiyah cai trị toàn bộ 
													cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn 
													trong 19 năm. Ông biến những 
													người theo ông thành một 
													giai cấp quí tộc mới, nói 
													đúng hơn là một giai cấp 
													thống trị (a ruling class). 
													Chủ thuyết của Muawiyah là 
													cai trị dân bằng sức mạnh 
													quân sự (military 
													aristocracy). Muawiyah chết 
													vì bệnh năm 680. 
				 Trong thời 
													gian đó, những người Hồi 
													Giáo thân Ali đã lập ra một 
													giáo phái mới là giáo phái 
													Shiite. Số tín đồ Hồi Giáo 
													còn lại được gọi chung là 
													Sunni, có nghĩa là Đa số. 
													Năm 680, vua Yazid (con của 
													Muawiyah) đến Medina chặn 
													bắt con trai của Ali là 
													Husayn và giết nhiều người 
													thuộc giáo phái Shiite. Năm 
													sau (681), Yazid mang quân 
													trở lại Medina (nơi ở cuối 
													cùng của Muhammad) tàn phá 
													và dìm thành phố thánh địa 
													này trong biển máu. Để trả 
													thù, giáo phái Shiite mang 
													quân chiếm thánh địa Mecca 
													và tàn phá nặng nề thành phố 
													này. Từ đó đến nay, trải qua 
													trên 13 thế kỷ, hai giáo 
													phái Sunni và Shiite thường 
													xuyên xung đột nhau nhiều 
													trận đẫm máu. Số người tử 
													trận cả hai bên có thể lên 
													tới nhiều chục triệu người. 
													Đây là một thảm họa lớn nhất 
													trong lịch sử thế giới Hồi 
													Giáo. 
				
				
				 
				II. THỜI KỲ 
													CỦA NHỮNG ĐẾ QUỐC HỒI GIÁO - 
													TỪ THẾ KỶ 13 ĐẾN THẾ KỶ 20. 
				
				 1. 
													Đế Quốc Mughul 
													- Mughul là tiếng phiên âm Ả 
													Rập để gọi người Mông Cổ 
													(Mongol). Người sáng lập đế 
													quốc Mông Cổ là Thành Cát Tư 
													Hãn (Genghis Khan 
													1162-1227). Thoạt đầu ông 
													thống nhất các bộ lạc du mục 
													Mông Cổ vốn có tài cưỡi ngựa 
													và bắn cung. Sau đó ông huấn 
													luyện và tổ chức họ thành 
													quân ngũ và biến họ thành 
													những đoàn kỵ binh bách 
													chiến bách thắng. Với đoàn 
													quân hùng mạnh này, Thành 
													Cát Tư Hãn đã lần lượt đánh 
													chiếm nhiều nước từ Á sang 
													Âu tới tận Trung Đông và Phi 
													Châu. Luật tác chiến rất nổi 
													tiếng của Thành Cát Tư Hãn 
													là : Hễ tới nơi nào ngoan 
													ngoãn đầu hàng thì tha, bất 
													cứ một thành phố hay làng 
													mạc nào chống cự đều bị phá 
													bình địa và tất cả mọi người 
													dân không kể già trẻ lớn bé 
													đều phải chết! 
				
				- Năm 1219, quân Mông Cổ 
													của Thành Cát Tư Hãn đánh 
													chiếm Thổ Nhĩ Kỳ. Vua Thổ 
													cùng đoàn tùy tùng bỏ chạy 
													bị quân Mông Cổ truy kích 
													qua Iran tới tận Azerbaizan 
													thì bị bắt. Quân Mông Cổ tới 
													đâu đều để lại phía sau sự 
													đổ nát hoang tàn. 
				
				- Năm 1231, hàng loạt các 
													thành phố nổi tiếng của Hồi 
													Giáo như Baghdad, Bukhara, 
													Damacus... đều bị đốt phá 
													bình địa với những xác chết 
													la liệt trên đường phố. Dân 
													chúng sợ hãi lũ lượt kéo 
													nhau chạy qua các nước lân 
													cận. 
				
				- Năm 1255, Mông Cổ hoàn 
													thành một đế quốc rộng lớn 
													bao la bao gồm Trung Quốc, 
													Cao Ly, Ngoại Mông, hàng 
													chục nước Trung Á và Bắc Ấn 
													Độ, Syria, Palestine, Thổ 
													Nhĩ Kỳ. 
				
				Nhưng một biến cố quan 
													trọng đã xảy ra cho cả Hồi 
													Giáo lẫn Mông Cổ, đó là vào 
													năm 1295, hoàng đế Mông Cổ 
													Ghazan Khan theo đạo Hồi 
													thuộc giáo phái Sunni. Từ đó 
													về sau, các hoàng đế Mông Cổ 
													đều theo đạo Hồi. Càng về 
													sau, các quan và cả triều 
													đình Mông Cổ trong đế quốc 
													đều thành những tín đồ Hồi 
													Giáo thành tín. Các học sĩ 
													Hồi Giáo Ả Rập (Ulama) được 
													trọng dụng, nhất là trong 
													việc soạn thảo các bộ luật 
													hình sự và dân sự phỏng theo 
													luật Hồi Giáo Sharia. 
				
				Hoàng đế Mông Cổ Timur 
													Lenk đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ 
													xua quân đánh chiếm Iran năm 
													1387, chiếm hải cảng Golden 
													Horde của Nga năm 1395, 
													chiếm Ấn Độ năm 1398, tàn 
													phá thủ đô New Delhi và giết 
													hàng chục ngàn tù binh Hindu 
													tại đây. Năm 1400,Timur 
													chiếm hai nước Iran và Iraq. 
													Tại đây, Timur ra lệnh tàn 
													sát hàng triệu người thuộc 
													giáo phái Shiite. Vì quá say 
													máu chiến thắng, năm 1404, 
													Timur kéo quân ngược về phía 
													Trung Á rồi vượt biên giới 
													tiến đánh vào phía Tây Trung 
													Quốc. Cuộc chiến kéo dài qua 
													năm sau, Trung Quốc phản 
													công giết quân Mông Cổ rất 
													nhiều và bản thân Timur cũng 
													bị tử trận trong năm 1405. 
				
				Những hoàng đế Mông Cổ kế 
													tiếp chú trọng việc mở rộng 
													đế quốc ở Châu Á: 
				
				- Năm 1478, đế quốc 
													Mughul chiếm Indonesia và 
													biến nước này thành nước Hồi 
													Giáo. Ngày nay, Indonesia là 
													một nước đông dân nhất của 
													thế giới đạo Hồi với trên 
													200 triệu dân. 
				
				- Từ 1520 đến 1837, đế 
													quốc Mughul cai trị toàn Ấn 
													Độ. (Ấn Độ mang tên Mughul 
													Empire of India). Hoàng đế 
													Mông Cổ đóng đô tại New 
													Delhi. Năm 1643, hoàng đế 
													Mông Cổ cho xây ngôi mộ của 
													hoàng hậu ở ngoại ô New 
													Delhi rất nổi tiếng, đó là 
													ngôi mộ Taj Mahal.. 
				
				- Năm 1747, đế quốc 
													Mughul chiếm Afganistan và 
													cai trị nước này 100 năm. 
				Năm 1831, người Anh chiếm 
													Ấn Độ và chấm dứt đế quốc 
													Mughul trên lục địa Châu Á. 
				
				
				2. Đế quốc Ottoman 
													(1289-1924)  
				 
				
				Danh từ Ottoman xuất phát 
													từ tên của một bộ lạc du mục 
													là OSMAN ở phía tây Thổ Nhĩ 
													Kỳ. Bộ lạc này bắt đầu khởi 
													binh từ năm 1280. Chỉ trong 
													9 năm, họ chiếm một vùng 
													lãnh thổ rộng lớn gồm có Tây 
													Nam Á Châu, Đông Nam Âu Châu 
													và Đông Bắc Phi Châu. Họ gọi 
													đế quốc của họ là OTTOMAN. 
													Những người lãnh đạo đế quốc 
													này đều theo đạo Hồi thuộc 
													giáo phái Sunni. Họ chẳng 
													những nổi tiếng về tài năng 
													thao lược quân sự mà còn nổi 
													tiếng về khả năng chính trị 
													rất khéo léo của họ. Nhờ 
													vậy, đế quốc Ottoman đã tồn 
													tại qua 7 thế kỷ. 
				
				- Năm 1389, quân Ottoman 
													chiếm Albania và Kosovo, 
													biến vùng này thành những 
													nước theo Hồi Giáo. 
				
				- Năm 1444, quân Ottoman 
													đánh tan Thập Tự Quân của 
													giáo hoàng La Mã tại 
													Bulgaria. 
				
				- Tháng 4.1453, quân Hồi 
													Giáo Ottoman xóa sổ đế quốc 
													Byzantine, tức đế quốc Ki Tô 
													Giáo Đông Phương và chiếm 
													thủ đô của đế quốc này là 
													thành phố Constantinople. 
													Điểm son của Ottoman là sau 
													khi chiếm Constantinople và 
													nhiều lãnh thổ của 
													Byzantine, Ottoman công bố 
													chính sách khoan dung tôn 
													giáo đối với Do Thái Giáo và 
													Ki Tô Giáo. Nhờ vậy, trong 
													nhiều thế kỷ sau, Ottoman đã 
													mở rộng thương mại với các 
													nước Âu Châu Ki Tô Giáo và 
													trong lãnh thổ đế quốc không 
													có một cuộc nổi loạn nào. 
													Tuy nhiên, đối với giáo phái 
													Shiite, Ottoman có một chính 
													sách quyết liệt không khoan 
													nhượng. 
				
				- Năm 1467, Ottoman công 
													bố thánh chiến với giáo phái 
													Shiite, các tín đồ Shiite 
													trong đế quốc bị lùng giết. 
				
				- Từ 1467 đến 1520, quân 
													Ottoman tiến chiếm Syria, Ai 
													Cập, Bắc Phi và toàn bán đảo 
													Arabia. 
				
				- Từ 1520 đến 1534, quân 
													Ottoman chiếm Nam Tư và một 
													phần Âu Châu tới thủ đô 
													Vienne của Áo. 
				
				- Năm 1606, Ottoman chiếm 
													Romania, Hungaria, Ba Lan và 
													Tiệp Khắc. Tới lúc này, đế 
													quốc Ottoman trở thành siêu 
													cường quốc tế (World Power). 
				
				Từ đầu thế kỷ 19, các 
													cường quốc Âu Châu (Anh, 
													Pháp, Đức) bắt đầu xâm chiếm 
													các phần đất của Ottoman và 
													dồn đế quốc này vào chỗ suy 
													tàn. 
				
				
				3. 
													Đế quốc Safavids của giáo 
													phái Shiite (1501-1779) 
				Thoạt đầu Safavids là một 
													nhánh của giáo phái Shiite 
													xuất phát tại nước 
													Azerbaizan ở tây nam biển 
													Caspian. 
				
				Năm 1501, lãnh tụ của 
													giáo phái Safavids là Esmail 
													khởi binh chiếm luôn cả nước 
													Azerbaizan. Esmail tự xưng 
													là "Vua Hồi Giáo" 
													(Sha/Sultan) và ra lệnh cho 
													toàn dân phải theo đạo Hồi 
													(giáo phái Shiite). Ít lâu 
													sau, Esmail xua quân đánh 
													chiếm các nước lân cận theo 
													Chính Thống Giáo là Armenia, 
													Georgia và vùng núi Caucase 
													của Nga. Trong thời gian 
													chiếm đóng, quân Hồi 
													Safavids đã giết hại rất 
													nhiều người Chính Thống 
													Giáo. Riêng tại Armenia, số 
													tín đồ Chính Thống Giáo bị 
													giết lên tới một triệu 
													người. Sau đó quân Safavids 
													chuyển qua phía đông tấn 
													công thành phố Anatolia để 
													dằn mặt đế quốc Ottoman theo 
													giáo phái Sunni. Trong khi 
													đó, một nhóm khác thuộc giáo 
													phái Shiite ở Ba Tư nỗi lên 
													cướp chính quyền của giáo 
													phái Sunni. Nhóm nổi loạn ra 
													lệnh cho cả nước Ba Tư phải 
													theo Shiite, ai bất tuân 
													lệnh đều bị giết. Tất cả các 
													học sĩ (Ulamas) lãnh đạo 
													giáo phái Sunni đều bị chém 
													đầu, không sót một ai. Kể từ 
													đó, nước Ba Tư (Iran) trở 
													thành một quốc gia toàn tòng 
													theo giáo phái Shiite. Các 
													vua Hồi Giáo Ba Tư được gọi 
													là SHA, vừa là vua vừa là 
													giáo chủ, phần đông đều cực 
													đoan và hung dữ. 
				
				Phần đông các học sĩ Hồi 
													Giáo Ba Tư đều theo môn phái 
													triết học thần bí (mystical 
													philosophy) tóm tắt như sau: 
													"Chính trị và tôn giáo là 
													một, không thể tách rời. Mọi 
													cải cách xã hội không thể 
													vượt quá tư tưởng tôn giáo".
													 
				
				Với bản chất cuồng tín 
													cực đoan cố hữu của giáo 
													phái Shiite, nay lại có thêm 
													chủ thuyết thần bí của các 
													Mullahs (học sĩ) giáo phái 
													Shiite càng ngày càng trở 
													nên cực đoan nguy hiểm. Họ 
													luôn luôn có thái độ bất 
													khoan dung với các tôn giáo 
													khác, nhất là đối với giáo 
													phái Hồi Giáo Sunni, chiếm 
													80% dân số đạo Hồi. 
				
				* 
				
				* * 
				 Như đã trình 
													bày trên đây, từ thế kỷ 13 
													đến thế kỷ 20, trong thế 
													giới Hồi Giáo đã xuất hiện 
													ba đế quốc riêng biệt và 
													luôn tranh chấp với nhau. Cả 
													ba đế quốc Hồi Giáo đã được 
													thành lập và suy tàn vào 
													những thời điểm khác nhau: 
				 - Đế quốc 
													Mughul thành lập đầu thế kỷ 
													13, suy tàn cuối thế kỷ 19. 
				 - Đế quốc 
													Ottoman thành lập cuối thế 
													kỷ 13, suy tàn đầu thế kỷ 
													20. 
				 - Đế quốc 
													Safavids thành lập đầu thế 
													kỷ 16, suy tàn trong thế kỷ 
													18. 
				 Như vậy, hai 
													đế quốc Hồi Giáo lớn mạnh 
													nhất là Ottoman và Mughul đã 
													cùng tồn tại song hành và 
													chia nhau thống trị thế giới 
													Hồi Giáo bao la trong 7 thế 
													kỷ. Ít nhất là trong 200 
													năm, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 
													18, cả ba đế quốc Mughul, 
													Ottoman và Safavids cùng tồn 
													tại trong thế giới đạo Hồi 
													(The Islamic World). 
				 Từ thế kỷ 18 
													trở đi, các nước Âu Châu trở 
													nên hùng cường mọi mặt đã 
													đẩy lùi các đế quốc Hồi Giáo 
													đến chỗ suy tàn. Khởi đầu là 
													nước Nga đánh tan quân 
													Ottoman ở vùng Biển Đen năm 
													1774, chiếm lại Armenia và 
													vùng núi Caucase. Năm 1792, 
													Nga chiếm Georgia và Romania 
													từ tay Ottoman. 
				 Đầu thế kỷ 
													19, Nga chiếm toàn bộ miền 
													Trung Á gồm nhiều nước theo 
													đạo Hồi thuộc đế quốc 
													Mughul. 
				 (Sau Cuộc 
													Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 
													1917, các nước Hồi Giáo 
													Trung Á đều biến thành các 
													tiểu bang thuộc Liên Bang Xô 
													Viết). 
				 - Cũng trong 
													đầu thế kỷ 19, Hòa Lan chiếm 
													Indonesia và Mã Lai. Anh 
													chiếm Ấn Độ bao gồm cả một 
													tiểu lục địa (sau 1947, Ấn 
													Độ bị chia thành nhiều nước: 
													Pakistan, Bangladesh, Tích 
													Lan và Ấn Độ). 
				 - Cuối thế kỷ 
													19, Anh chiếm Ai Cập và 
													Sudan. Pháp chiếm Algeria, 
													Tunisia và Maroc. 
				 - Đầu thế kỷ 
													20, Ý chiếm Lybia. Anh và 
													Pháp chiếm Palestine, 
													Jordan, Iraq, Syria và 
													Liban. 
				 Tóm lại, từ 
													đầu thế kỷ 20, chỉ ngoại trừ 
													một nước duy nhất là Thổ Nhĩ 
													Kỳ, còn lại toàn bộ thế giới 
													Hồi Giáo đều trở thành những 
													thuộc địa của chủ nghĩa thực 
													dân Âu Châu. 
				 Lịch sử bành 
													trướng và phát triển của đạo 
													Hồi luôn luôn gắn liền với 
													chiến tranh và bạo lực. Vì 
													thế đạo Hồi nổi tiếng là 
													"tôn giáo của lưỡi gươm" 
													(Religion of Sword) hoặc 
													"tôn giáo quân phiệt" 
													(Militaristic Religion). 
													Kinh Thánh Koran của Hồi 
													Giáo được gọi là "Cuốn sách 
													của tử thần" (The Book of 
													Death) và đức tin Hồi Giáo 
													là: "đức tin hung bạo" (a 
													violent faith). Trong hơn 
													một thế kỷ qua, thế giới Hồi 
													Giáo đã bị Tây Phuơng dồn 
													vào thế suy kiệt mọi mặt. Họ 
													không còn con đường nào khác 
													hơn là thực hiện chủ nghĩa 
													khủng bố. Về hình thức thì 
													ngày nay chiến tranh có khác 
													với ngày xưa, nhưng về thực 
													chất thì chủ nghĩa khủng bố 
													cũng là một hình thái của 
													chiến tranh và bạo lực. Chỉ 
													khác một điều: chủ nghĩa 
													khủng bố là hình thái chiến 
													tranh của những kẻ đã bị dồn 
													vào thế yếu nhưng buộc phải 
													chiến đấu với kẻ thù lớn 
													mạnh hơn mình để tồn tại. 
				 Nhìn về tương 
													lai, chúng ta khó đoán được 
													cuộc chiến tranh khủng bố sẽ 
													đưa nhân loại đi về đâu, 
													nhưng nhìn về quá khứ chúng 
													ta phải công nhận sức mạnh 
													của Hồi Giáo đã tạo nên 
													nhiều thành tích quan trọng: 
				 - Trong thế 
													kỷ 7, Hồi Giáo Ả Rập tiêu 
													diệt đế quốc Sassanian đã 
													từng làm mưa làm gió ở Trung 
													Đông trong 10 thế kỷ trước 
													đó. 
				 - Trong thế 
													kỷ 15, Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ 
													tiêu diệt đế quốc Ki Tô Giáo 
													Byzantine (hậu thân của đế 
													quốc La Mã) chặn đứng sự 
													bành trướng của Ki Tô Giáo 
													xuống bán đảo Ả Rập và Trung 
													Đông. 
				 - Nói chung, 
													sự xuất hiện và phát triển 
													lớn mạnh của đạo Hồi đã tạo 
													nên một đối trọng ngang ngửa 
													với Ki Tô Giáo và tựu trung 
													Hồi Giáo đã phá tan tham 
													vọng bá chủ toàn cầu của đế 
													quốc Vatican. 
				
				Charlie 
													Nguyễn
				
				  
		
																Các chương khác 
																trong sách: 
				 
				Các Mô Hình Sinh Hoạt trong Thế Giới Hồi Giáo Cái Nôi của Đạo Hồi  Hồi Giáo Tại Trung Đông Hồi Giáo Tại Á Châu Hồi Giáo Tại Âu Châu và Mỹ Châu Hồi Giáo và Chủ Nghĩa Khủng Bố Năm Nghĩa Vụ Tín Đồ Hồi Giáo Sáu Trụ Cột của Đức Tin Hồi Giáo Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Nghiệp Muhammad tại Medina Thân Phận Phụ Nữ Hồi Giáo Thân Thế Muhammad tại Mecca Tìm Hiểu Kinh Koran Tệ Nạn Phân Hóa Trong Nội Bộ Hồi Giáo 
				
							
		
		 |