  | 	 
 bản in | 
	¿ trở ra mục lục
	 |   
				  				HỒI GIÁO TẠI TRUNG ĐÔNG 
				  
				
	
									
									Về phương diện địa lý, Trung 
												Đông còn được gọi là Cận Đông 
												(Near East/Middle East) bao gồm 
												một giải đất chạy dài từ phần Á 
												Châu của Thổ Nhĩ Kỳ đến các nước 
												Bắc Phi và Ai Cập. 
				 Về chủng tộc, 
												Trung Đông gồm có những giống 
												dân Do Thái, Ả Rập, Ba Tư, Thổ 
												Nhĩ Kỳ, Kurds, Armenians và 
												Berbers.ers. 
				 Về tôn giáo, Hồi 
												Giáo chiếm 90% dân số Trung 
												Đông, tức khoảng 300 triệu tín 
												đồ hoặc 1/4 tổng số tín đồ Hồi 
												Giáo trên toàn thế giới. Số còn 
												lại là tín đồ Do Thái Giáo và Ki 
												Tô Giáo. 
				 Từ đầu thế kỷ 19 
												đến đầu thế kỷ 20, nhiều nước 
												Trung Đông bị Anh và Pháp cai 
												trị bóc lột. Hoa Kỳ không có 
												một thuôc địa nào tại Trung Đông 
												nhưng đã có mặt tại Saudi Arabia 
												từ đầu thế kỷ 20 để khai thác 
												dầu lửa. Thiên nhiên đã đem đến 
												cho Saudi Arabia một món quà 
												tặng khổng lồ, đó là trữ lượng 
												dầu mỏ lớn bằng 1/4 trữ lượng 
												dầu của toàn thế giới. 
				 Sự có mặt của Hoa 
												Kỳ tại Saudi Arabia không phải 
												là quân đội mà là các công ty 
												khoan dầu trên căn bản hợp tác 
												hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên, 
												người Hồi Giáo Ả Rập đã nhìn 
												người Mỹ qua lăng kính khắt khe 
												của Hồi Giáo. Lối sống tự do 
												phóng túng của người Mỹ đã làm 
												cho những người Hồi Giáo bảo thủ 
												khó chịu vì nó đi ngược lại với 
												lối sống khép kín của xã hội đạo 
												Hồi. Không cần phải làm điều gì 
												xâm hại đến xã hội Hồi Giáo, 
												chỉ riêng sự có mặt của những tư 
												nhân Mỹ tại Saudi Arabia cũng đủ 
												là "Sự gieo rắc chất độc văn hóa 
												Tây Phương" (Westoxification) có 
												tác dụng phá hoại nền tảng luân 
												lý xã hội và gia đình Hồi Giáo. 
				 Xét về phương 
												diện địa thế, Trung Đông được 
												chia ra làm 3 khu vực rõ rệt: 
				 1. Khu vực Bắc 
												Phi: Các nước ở phía bắc của 
												Châu Phi Da Đen (Black Africa) 
												gồm có Maroc, Tunisia, Algeria, 
												Lybia và Ai Cập. Đại đa số các 
												dân tộc sống ở vùng này đều là 
												những người da trắng gốc Địa 
												Trung Hải. 
				 2. Khu vực Cao 
												Nguyên: Các nước ở vùng này được 
												gọi chung là "Các nước ở vùng 
												cao" (Levantine Countries) gồm 
												có Syria, Palestine, Israel, 
												Jordan và Iraq. 
				 3. Các nước Vùng 
												Vịnh (Gulf Countries) là các 
												nước ở sát Vịnh Ba Tư, gồm có Ba 
												Tư (Iran) Kuweit, Quatar, Saudi 
												Arabia, Yemen, Oman, United Arab 
												Emerald và Baharain. 
				 Về phương diện 
												văn minh và văn hóa, toàn vùng 
												Trung Đông đã đạt tới đỉnh cao 
												của sự phát triển từ thế kỷ 8 
												đến thế kỷ 13. Lịch sử thế giới 
												đã gọi những thế kỷ này là Thời 
												Đại Hoàng Kim (The Golden Age) 
												của những người Hồi Giáo Trung 
												Đông. Vào thời đó, những người Ả 
												Rập rất ham chuộng nền văn hóa 
												Hy Lạp và chú trọng đến việc 
												nghiên cứu toán học, thiên văn 
												và khoa học thực nghiệm. Họ đã 
												thực hành lời dạy của Muhammad 
												trong kinh Koran: 
				 
										"Ai bỏ 
												nhà đi tìm sự hiểu biết là đi 
												đúng con đường của Chúa. Lạy 
												Chúa! Xin ngài hãy ban thêm sự 
												hiểu biết cho con". 
				 (He Who leaves 
												the home in search of Knowledge 
												is walking in the Way of God. Oh 
												my Lord! increase me knowledge - 
												Koran 20: 114) 
				 Đầu thế kỷ 8, 
												Baghdad thủ đô Iraq xây dựng 
												trường Đại Học đầu tiên trên thế 
												giới. Họ gọi là "Căn nhà của sự 
												khôn ngoan" (House of Wisdom). 
												Baghdad trở thành một trung tâm 
												văn hóa lớn nhất thế giới. 
				 Năm 800, các tác 
												phẩm của Aristote và Plato đều 
												đã được dịch sang tiếng Arabic 
												và được phổ biến trong toàn vùng 
												Trung Đông. 
				 Đến giữa thế kỷ 
												9, các sách y khoa của Hy Lạp 
												được dịch sang tiếng Arabic. 
												Cuối thế kỷ 9, rất nhiều sách 
												dịch về khoa thiên văn và địa lý 
												được phổ biến tại Trung Đông. 
				 Do các kiến thức 
												học hỏi được từ Hy Lạp, người Ả 
												Rập Hồi Giáo đã phát minh ra máy 
												Astrolable dùng để đo độ cao của 
												các thiên thể. Họ biến chế máy 
												Astrolable thành một thứ địa bàn 
												để các tín đồ Hồi Giáo dù ở bất 
												cứ nơi nào trên thế giới cũng 
												tìm được hướng Mecca để quay mặt 
												về thánh địa khi cầu nguyện. Tại 
												thánh địa Mecca có đền thờ 
												Káaba, tiếng Ả Rập có nghĩa là 
												"Nhà Của Chúa" (House of God). 
												Người Ả Rập tin rằng ngôi nhà 
												của Chúa đã được xây dựng lần 
												đầu tiên bởi tổ phụ Abraham. 
				 Năm 1166, nhà địa 
												dư học Ả Rập Al-Idrisi là người 
												đầu tiên trên thế giới vẽ bản đồ 
												trái đất hình cầu rất chính xác. 
												Cũng trong khoảng thời gian này, 
												người Ả Rập chế ra đồng hồ quả 
												lắc để coi giờ. 
				 Trường Đại Học 
												lâu đời nhất và hoạt động liên 
												tục trên 10 thế kỷ là Đại Học 
												Al-Azhar ở thủ đô Cairo của Ai 
												Cập (thành lập năm 970). 
				 Một ngôi sao sáng 
												ngời trong thế giới toán học là 
												nhà toán học Hồi Giáo Ba Tư 
												Muhammad Ibu Musa. Ông đã phát 
												minh ra một môn toán học nhằm 
												mục đích "Phục Hồi Những Phần Đã 
												Bị Tách Rời" (to restore the 
												broken parts), tiếng Ả Rập gọi 
												là Al-Jabr. Danh từ này được 
												người Hy Lạp phiên âm thành 
												Algebra tức là môn Đại-Số-Học. 
												Môn toán học này được Musa phát 
												minh năm 850. 
				Đầu thế kỷ 11, một ngôi sao 
												lớn về quang học xuất hiện tại 
												Ai Cập. Đó là nhà khoa học Hồi 
												Giáo Alhazen. Ông chuyên tâm 
												nghiên cứu các sách Hy Lạp về 
												khúc xạ và phản chiếu ánh sáng. 
												Ông là người đầu tiên trên thế 
												giới giải thích hiện tượng cầu 
												vồng và quang phổ. Thế giới khoa 
												học ngày nay tôn vinh ông là ông 
												tổ sáng lập ngành quang học hiện 
												đại. 
				 Nhờ có những sách 
												y khoa dịch từ tiếng Hy Lạp sang 
												tiếng Arabic trong hai thế kỷ 8 
												và 9, đến thế kỷ 10, người Hồi 
												Giáo Ả Rập đã phát minh và đóng 
												góp cho nhân loại rất nhiều tiến 
												bộ về y khoa trên nhiều lãnh 
												vực: 
				 1. Sử dụng 
												Anesthasia trong giải phẩu. 
				 2. Sát trùng vết 
												thương. 
				 3. Phát giác việc 
												lây bệnh do sự tiếp cận với 
												người có bệnh và qua đường hô 
												hấp. 
				 4. Tách rời dược 
												khoa và y khoa thành hai ngành 
												riêng 
				 5. Do sa mạc 
												thường có bão cát gây đau mắt 
												nên người Ả Rập lập ra ngành 
												nhãn khoa riêng. 
				 6. Năm 925, nhà 
												khoa học Abu Razi cho in bộ sách 
												"Bách Khoa Tự Điển Y Khoa" đầu 
												tiên trên thế giới. Mãi tới hơn 
												5 thế kỷ sau tức vào năm 1486, 
												bộ sách này mới được dịch sang 
												tiếng La Tinh để phổ biến tại Âu 
												Châu. 
				 Về văn chương, bộ 
												chuyện vĩ đại được in thành 
												nhiều chục tập (volumes) nổi 
												tiếng khắp thế giới và đã được 
												dịch ra đủ các thứ ngôn ngữ, đó 
												là chuyện "Ngàn Lẻ Một Đêm". Đây 
												là một tổng hợp đủ các chuyện 
												thần thoại thời Babylon cổ xưa, 
												các chuyện dân gian Ả Rập (Arab 
												Legends) và pha trộn với những 
												chuyện thần tiên của Ấn Độ 
												(Indian fairy tales). 
				 Về kiến trúc, 
												người Ả Rập Hồi Giáo là những 
												người phát minh ra cách xây 
												những chiếc vòm nhọn đầu 
												(pointed arch) từ thế kỷ 8 để 
												kiến tạo những chiếc cầu bắc qua 
												sông. Người Âu Châu sau này bắt 
												chước để lập ra lối kiến trúc 
												Gothic. 
				 Thái độ ham 
												chuộng học hỏi và tôn trọng khoa 
												học của người Hồi Giáo rất đáng 
												được mọi người khâm phục. Thái 
												độ đó hoàn toàn trái ngược với 
												những tội ác tày trời của giáo 
												hội Công Giáo nhằm mục đích tiêu 
												diệt hoàn toàn nền văn minh Hy 
												Lạp. 
				 Công Giáo La Mã 
												do hoàng đế Constantine lập nên 
												năm 325. Từ đó, giáo hội Công 
												Giáo và đế quốc La Mã ra sức 
												thâu góp các sách của nền văn 
												minh Hy Lạp để thiêu hủy. Toàn 
												bộ các sách của giáo phái Ki Tô 
												lớn nhất thời đó là Gnostic bị 
												đốt, 27.000 cuộn giấy (paprus 
												rolls) có liên quan đến những 
												sách Phúc Âm thật đều bị hủy 
												diệt. Đến cuối thế kỷ 5 hầu như 
												tất cả các sách khoa học, triết 
												học của Hy Lạp đều không còn 
												trên lãnh thổ của đế quốc La Mã 
												và giáo hội Công Giáo. Tội ác 
												của Công Giáo La Mã đã làm cho 
												nền văn minh của nhân loại thụt 
												lùi 15 thế kỷ. 
				 Người có công sưu 
												tầm và duy trì những cuốn sách 
												quí giá của nền văn minh Hy Lạp 
												để lưu lại cho thế giới chúng ta 
												ngày nay chính là một ông vua 
												Hồi Giáo Ả Rập: Caliph Al-Mamun. 
												Ông lên ngôi tại Baghdad năm 
												813. Việc đầu tiên là thành lập 
												"Nhà của sự khôn ngoan" (House 
												of Widom). Ông cho người đi khắp 
												nơi tìm kiếm các sách cổ của Hy 
												Lạp mang về Baghdad rồi thuê 
												người Hy Lạp biết tiếng Ả Rập 
												dịch tất cả các sách đó. Trong 
												suốt 20 năm cai trị, vua Al. 
												Mamun đã dồn hết tâm huyết vào 
												công trình văn hóa độc đáo này. 
												Các nhà trí thức Hồi Giáo ở 
												Trung Đông thời đó nhiệt liệt 
												hoan nghênh sáng kiến của nhà 
												vua và họ đã tiếp tay để biến 
												các thủ đô Hồi Giáo thành những 
												trung tâm văn hóa nổi tiếng như: 
												Alexandria (Ai Cập) Antioch 
												Edessa (Thổ Nhĩ Kỳ) Condova (Tây 
												Ban Nha, lúc này là thuộc địa 
												của đế quốc Hồi Giáo). 
				 
				 Phong trào ham 
												chuộng kiến thức khoa học của 
												toàn vùng Trung Đông Hồi Giáo 
												kéo dài trong 5 thế kỷ, từ thế 
												kỷ 8 đến thế kỷ 12, đã biến vùng 
												Trung Đông thành một khu vực văn 
												minh nhất thế giới. Trong khi 
												đó, do chủ trương tiêu diệt mọi 
												nguồn văn hóa đi ngược lại giáo 
												lý Ki Tô Giáo, giáo hội Công 
												Giáo La Mã đã đưa Âu Châu đi vào 
												thời đại bóng tối (The Dark Age) 
												từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 11. Từ 
												thế kỷ 14 đến thế kỷ 16, giới 
												trí thức Âu Châu bừng tỉnh và 
												tìm cách làm sống dậy những giá 
												trị của nền văn minh Hy Lạp 
												trong mọi ngành khoa học, triết 
												học, kiến trúc và nghệ thuật... 
												đã bị giáo hội Công Giáo tiêu 
												diệt trước đây.  
				 Người ta gọi giai 
												đoạn lịch sử này là Thời Phục 
												Hưng (The Renaissance). Danh từ 
												này bắt nguồn từ tiếng Pháp có 
												nghĩa là "sự tái sinh" của một 
												nền văn hóa đã bị bức tử. 
				 Trong thế kỷ 15, 
												trí thức Âu Châu mới khám phá 
												ra là kho tàng sách quí của văn 
												hóa Hy Lạp đã được tồn trữ trong 
												các trung tâm văn hóa Hồi Giáo 
												tại Trung Đông. Lúc đó họ mới vỡ 
												lẽ ra rằng: những người Hồi Giáo 
												Ả Rập đã làm những công việc cần 
												thiết để phục hồi nền văn hóa Hy 
												Lạp trước họ tới 7 thế kỷ! 
				Nhà danh họa Raphael của Ý 
												thuộc thế kỷ 15 đã phải thốt lên 
												những lời biết ơn đối với các 
												học giả Hồi Giáo Ả Rập vì tiền 
												nhân của ông là những người La 
												Mã cuồng tín và thiển cận đã hủy 
												diệt cả một nền văn minh của Cổ 
												Hy Lạp để gây ra một tổn thất vô 
												cùng lớn lao cho nhân loại. 
												Nhưng may mắn thay, vẫn có nhiều 
												tác phẩm quí giá của Hy Lạp còn 
												sót lại được bảo tồn do công lao 
												của các học giả Ả Rập. Ông nói: 
												"Các học giả Ả Rập đã cứu những 
												tác phẩm đó cho chúng ta" (Arab 
												scholars saved those works for 
												us) - (A Muslim Primer, by Ira 
												G. Zepp. University of Kansaa 
												Press 1992, Page 139-165). 
				 Như trên đã trình 
												bày, Trung Đông Hồi Giáo sống 
												trong thời Hoàng Kim của nền văn 
												minh (The Golden Ages) từ cuối 
												thế kỷ 8 đến đầu thế kỷ 11. Rồi 
												từ đầu thế kỷ 11, những đoàn 
												Thập Tự Quân của Công Giáo La Mã 
												tràn sang tàn phá Trung Đông, 
												với 7 cuộc thánh chiến đẫm máu, 
												khiến cho toàn vùng lâm vào tình 
												trạng suy thoái mọi mặt. 
				 Cuộc Thập Tự 
												Chinh thứ nhất (1096-1099) tiêu 
												diệt 30.000 người Ả Rập Hồi Giáo 
												và lập nên một vương quốc rộng 
												lớn bao gồm các nước Palestine, 
												Liban, Syria và phía nam Thổ Nhĩ 
												Kỳ. Tất cả được đặt dưới quyền 
												cai trị của một ông vua do 
												Vatican bổ nhiệm. Vương quốc Hồi 
												Giáo bị người Công Giáo cai trị 
												trong 88 năm. Sáu cuộc Thập Tự 
												Chinh kế tiếp diễn ra trong gần 
												2 thế kỷ tàn phá hầu hết các 
												nước Trung Đông với 3 triệu sinh 
												mạng bị sát hại (1096-1291). 
				 Tiếp theo đại họa 
												Thập Tự Quân là đại họa Mông Cổ. 
												Từ thế kỷ 14, vùng Trung Đông bị 
												quân Mông Cổ tràn tới tàn phá 
												các thành phố và hủy diệt con 
												người. Baghdad, Damacus... chỉ 
												còn là những đống gạch vụn với 
												những xác chết la liệt trên các 
												nẻo đường. 
				 Cuối thế kỷ 15, 
												quân Mông Cổ lại tràn tới Trung 
												Đông một lần nữa. Điều mỉa mai 
												là ông vua Mông Cổ lại là một 
												tín đồ Hồi Giáo thuôc giáo phái 
												Sunni. Ông tới để tiêu diệt 
												những người thuộc giáo phái 
												Shiite tại Iran và Iraq. Vì lòng 
												hận thù hẹp hòi giữa các chi 
												phái Hồi Giáo với nhau, quân 
												Mông Cổ Sunni đã giết những 
												người Shiite vô số kể. 
				 
				
				Từ năm 1467 đến 1520, đế quốc 
												Hồi Giáo Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ 
												xua quân đánh phá Syria, Ai Cập, 
												bán đảo Ả Rập và các nước Bắc 
												Phi để mở rộng thế lực của giáo 
												phái Sunni, rất nhiều tín đồ 
												Shiite bị giết. Đế quốc Ottoman 
												khống chế Trung Đông từ đó đến 
												đầu thế kỷ 19. Từ thế kỷ 19 đến 
												đầu thế kỷ 20, nhiều nước Hồi 
												Giáo Trung Đông lần lượt rơi vào 
												vòng nô lệ của thực dân Anh và 
												Pháp. Tuyệt đại đa số dân chúng 
												Trung Đông mù chữ và toàn xã hội 
												Ả Rập suy thoái về mọi mặt. 
				
				Qua bao nhiêu thế kỷ, Ai Cập 
												vẫn được coi là "linh hồn trí 
												thức của thế giới Ả Rập" với dân 
												số 60 triệu người mà mỗi năm chỉ 
												xuất bản vỏn vẹn 375 cuốn sách, 
												bởi vì đại đa số dân mù chữ nên 
												không có ai tiêu thụ món hàng 
												văn hóa này. Trong khi đó Israel 
												chỉ có 6 triệu dân nhưng hầu như 
												cả nước ham đọc sách nên mỗi năm 
												Israel xuất bản ít nhất 4000 đầu 
												sách đề cập đến đủ mọi vấn đề 
												của kiến thức. (Theo Newsweek 
												15-10-2001, P.26) 
				Phải chăng một xã hội thất 
												bại đã phát sinh chủ nghĩa khủng 
												bố? 
				 Dưới cái nhìn của 
												Tây Phương, thế giới Hồi Giáo Ả 
												Rập ở Trung Đông là một xã hội 
												thất bại mà nguyên nhân chính là 
												sự cuồng tín tôn giáo. Trong khi 
												đó, những người Ả Rập Hồi Giáo 
												lại qui hết mọi nguyên nhân thất 
												bại của họ cho Tây Phương. Do đó 
												họ nung nấu lòng thù hận và tổ 
												chức khủng bố để rửa hận. Tất cả 
												mọi hành vi sát nhân tàn bạo của 
												họ, kể cả việc sát hại những 
												người vô tội trong những cuộc 
												khủng bố, đều được biện minh 
												bằng những lời Chúa trong Thiên 
												Kinh Koran. Họ càng căm thù bao 
												nhiêu lại càng trở thành cuồng 
												tín trong niềm tin tôn giáo bấy 
												nhiêu. 
				 Cuối cùng, xã hội 
												Ả Rập Hồi Giáo Trung Đông đi vào 
												một cái vòng luẩn quẩn không có 
												lối thoát. Sự cuồng tín của giới 
												lãnh đạo và quần chúng làm cho 
												xã hội Ả Rập càng ngày càng khép 
												kín đối với thế giới bên ngoài, 
												đời sống kinh tế suy sụp trở 
												thành lạc hậu. Những người cuồng 
												tín qui trách nhiệm cho Tây 
												Phương là thủ phạm đã gây ra tất 
												cả những thất bại và suy thoái 
												của thế giới Hồi Giáo để họ có 
												lý do gia tăng các hoạt động 
												khủng bố. Nhưng càng gia tăng 
												khủng bố bao nhiêu họ càng bị 
												mất thiện cảm và sự giúp đỡ của 
												thế giới bấy nhiêu. Các xã hội 
												Hồi Giáo cực đoan đều trở thành 
												những khu vực bị cô lập và là 
												đối tượng của một cuộc chiến 
												tranh hủy diệt. 
				
				 Ngày nay, trên 
												khắp thế giới hầu như ở đâu cũng 
												có những hoạt động khủng bố, 
												nhưng chỉ tại Trung Đông người 
												ta mới thấy rõ cái sắc thái 
												cuồng tín hung bạo ghê gớm của 
												người Hồi Giáo Ả Rập. Chỉ ở 
												Trung Đông mới là nơi tập trung 
												đông đảo nhất của những Mullahs 
												(học sĩ Hồi Giáo) hung dữ. Trung 
												Đông là nơi có nhiều nhất những 
												vụ biểu tình bạo động, đốt cờ, 
												đốt xe, đốt hình nộm và đặc biệt 
												là những vụ ôm bom tự sát 
												(suicide - bombings). 
				 Ngoài ra, từ 1980 
												đến nay, hầu như các vụ đặt bom 
												khủng bố tại các nơi trên thế 
												giới cũng đều có nguồn gốc tại 
												Trung Đông. Tất cả đều do phe 
												Hồi Giáo cực đoan tại Trung Đông 
												(Islamic Fundamentalists) chủ 
												mưu . Do đó, mục tiêu của cuộc 
												chiến tranh tiêu diệt khủng bố 
												mà phe Tây Phương đang theo đuổi 
												không phải là Afganistan hay 
												Philippines... mà chính là toàn 
												vùng Trung Đông Hồi Giáo! 
				
				 
										Làm 
												thế nào để giải thoát sự bế tắc 
												của một xã hội thất bại tại 
												Trung Đông?  
				 
				  Nguyên nhân 
												chính đưa đến sự bế tắc của các 
												quốc gia Hồi Giáo Trung Đông là 
												không có sự phân cách giữa tôn 
												giáo với chính quyền. Thông 
												thường trong những quốc gia sùng 
												đạo, các Mullahs (học sĩ Hồi 
												Giáo) là những nhà lãnh đạo 
												chính trị. Họ nhân danh tôn giáo 
												để hô hào thánh chiến, thực chất 
												là đề cao những hành vi chém 
												giết thô bạo. 
				 Trong các nước 
												Hồi Giáo sùng tín, người ta 
												không thể phân biệt được ranh 
												giới giáo quyền với chính quyền, 
												cũng không thể phân biệt được 
												đâu là giáo luật và đâu là luật 
												pháp quốc gia.gia. 
				 Trong thế kỷ 19, 
												nhiều trí thức Hồi Giáo đã nhìn 
												thấy điều đó và họ đã viết sách 
												để lên tiếng đòi cải cách xã hội 
												Hồi Giáo. Một trong những người 
												đó là triết gia Ai Cập Fouad 
												Zakariya. Theo ông, điều tiên 
												quyết để cứu các nước Hồi Giáo Ả 
												Rập là phải "tách rời đền thờ ra 
												khỏi quốc gia" (Seperation of 
												Mosque from State). Người ta gọi 
												chủ thuyết này là Chủ Nghĩa Thế 
												Tục Hóa Xã Hội (Secularism). 
												Zakariya ca ngợi Phong Trào Khai 
												Sáng (Enlightenment) ở Âu Châu 
												thế kỷ 18 đã giải cứu xã hội 
												thoát ra khỏi sự kìm kẹp của 
												giáo hội La Mã bằng chủ thuyết 
												thế tục hóa để đi tới sự phân 
												lập rõ rệt giữa chính quyền và 
												giáo hội. Chính nhờ đó Âu Châu 
												đã trở nên hùng mạnh và đó là 
												chìa khóa đưa đến một xã hội 
												tiến bộ dân chủ. Mọi chủ trương 
												bảo thủ đều có hậu quả biến Hồi 
												Giáo thành công cụ tạo lập nên 
												những chế độ của các bạo chúa. 
				 Zakariya dám đưa 
												ra những nhận định táo bạo: Thế 
												giới Ả Rập không thể nào xây d 
												ựng được một xã hội văn minh 
												tiến bộ nếu cứ khư khư giữ lấy 
												những tư tưởng lạc hậu của thời 
												kỳ bộ lạc ở sa mạc vào thế kỷ 
												thứ 7 (thời của giáo chủ 
												Muhammad lập đạo)! 
				 Ông cũng nêu rõ: 
												dù bất cứ là tôn giáo nào thì 
												luôn luôn tôn giáo cũng chỉ là 
												một sự sùng bái có tính riêng tư 
												của các cá nhân mà thôi. Không 
												ai có quyền đem cái sự sùng bái 
												riêng tư đó áp đặt lên cả quốc 
												gia để buộc mọi người cũng phải 
												sùng bái như họ. 
				 Cái điều vô lý đó 
												hiện đang xảy ra phổ biến tại 
												các nước Ả Rập. Ông kêu gọi mọi 
												người đứng lên đập tan các chế 
												độ Hồi Giáo bảo thủ để giải 
												phóng xã hội Hồi Giáo lạc hậu. 
				 Những lời kêu gọi 
												của Fouad Zakariya đã được nhiều 
												chính trị gia hưởng ứng tại Thổ 
												Nhĩ Kỳ, Ai Cập và Iran: 
				
				  1.  
										MUSTAPHA KEMAL - Ông sinh năm 1881 tại 
												Thổ Nhĩ Kỳ, làm tổng thống đầu 
												tiên của Thổ Nhĩ Kỳ từ 1923 đến 
												1938. Ông là người đã thực hiện 
												thành công cuộc cách mạng thế 
												tục hóa xã hội Hồi Giáo, chấm 
												dứt đế quốc Ottoman sau gần 5 
												thế kỷ thống trị. Hoàng đế và 
												toàn bộ triều đình Ottoman đều 
												bị bắt và bị đưa đi đày chung 
												thân. Toàn bộ luật pháp của Hồi 
												Giáo bị xé bỏ. Các trung tâm Hồi 
												Giáo bị đóng cửa. Âm Lịch Hồi 
												Giáo bị thay thế bằng Dương Lịch 
												để hòa đồng cùng thế giới. Năm 
												1930, quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ chính 
												thức chấm dứt chế độ đa thê, hủy 
												bỏ mọi hình thức áp chế phụ nữ 
												như tục lệ đeo mạng che mặt hoặc 
												áo choàng phủ kín toàn thân. Nam 
												giới bị cấm đội mũ Fez theo kiểu 
												Ả Rập Hồi Giáo. Chữ viết theo 
												kiểu Arabic bị thay thế bằng mẫu 
												tự la tinh. Hiện nay không còn 
												ai biết đọc kinh Hồi Giáo viết 
												theo chữ Arabic nữa. Nữ tổng 
												thống đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ là 
												bà Tanser Ciller trong nhiệm kỳ 
												1993-1996. Trong thực tế, Thổ 
												Nhĩ Kỳ không còn được coi là một 
												quốc gia Hồi Giáo nữa. Cuộc cách 
												mạng thành công của Mustapha đã 
												giải thoát Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi 
												thế giới đóng kín và thất bại 
												của chủ nghĩa bảo thủ cực đoan 
												Hồi Giáo. Thổ Nhĩ Kỳ hiện là một 
												nước Cộng Hòa tự do dân chủ thật 
												sự và đang phát triển mọi mặt. 
				
				 2.  
										JASMAL 
												NASSER - Ông sinh năm 1918, làm 
												thủ tướng Ai Cập từ 1954 đến 
												1956. Sau đó, Ai Cập biến thành 
												một nước Cộng Hòa với danh xưng 
												là "Cộng Hòa Ả Rập Thống Nhất". 
												Nasser được bầu làm tổng thống 
												từ 1958 đến 1970. Ông chủ trương 
												thực hiện chủ nghĩa thế tục hóa 
												(Secularism) bằng cách loại trừ 
												mọi ảnh hưởng của Hồi Giáo ra 
												khỏi chính trị. 
				 Tuy nhiên, từ đầu 
												thế kỷ 20, tại Ai cập đã có một 
												phong trào Hồi Giáo cực đoan 
												mệnh danh là "Huynh Đệ Hồi Giáo" 
												(Muslim Brotherhood). Phong trào 
												này do Sayid Quitb (1906-1966) 
												sáng lập, chủ trương dùng các 
												thủ đoạn khủng bố để ngăn cản và 
												vô hiệu hóa mọi nỗ lực cải cách 
												xã hội Hồi Giáo. Phong trào xác 
												định các lãnh tụ chính trị theo 
												đuổi chủ trương thế tục hóa là 
												những kẻ tuyên chiến với đức tin 
												Hồi Giáo và vì vậy họ phải chết.hết. 
				 Năm 1956, Nasser 
												ra lệnh bố ráp bắt hết các đảng 
												viên Muslim Brotherhood. Nhiều 
												đảng viên bị xử tử hình, số còn 
												lại đều lãnh án tù. Tuy nhiên, 
												Nasser đã bị dư đảng của đảng 
												này ám sát chết năm 1990. 
				
				  3.  
										HOÀNG 
												ĐẾ BA TƯ REZA PAHLAVI - 
												Ông là một nhân vật đặc biệt vì 
												sinh ra và lớn lên trong gia 
												đình sùng đạo nhưng đã trở thành 
												một người rất căm ghét đạo Hồi 
												và muốn hủy diệt đạo này. Ông 
												sinh năm 1878, lên ngôi vua năm 
												1921, cai trị Ba Tư trong 20 
												năm. Ngay khi vừa lên ngôi, vua 
												Pahlavi đã ra lệnh giải tán 
												Ulama tức "Hội Đồng Các Học Sĩ 
												Hồi Giáo", một cơ quan cao nhất 
												về tôn giáo tại Ba Tư. Luật Hồi 
												Giáo Sharia bị thay thế bằng 
												luật pháp quốc gia do quốc hội 
												biểu quyết. Các ngày lễ tôn giáo 
												đều bị hủy bỏ. Việc tổ chức đi 
												hành hương thánh địa Mecca bị 
												cấm chỉ. Các phụ nữ không được 
												đeo mạng. Cảnh sát được lệnh 
												phải tháo gỡ mạng của phụ nữ 
												trên đường phố...ố... 
				 Năm 1935, những 
												người Hồi Giáo cuồng tín đã xúi 
												giục phụ nữ biểu tình chống chủ 
												trương thế tục hóa của nhà vua. 
												Cảnh sát được lệnh dùng vũ lực 
												giải tán đám biểu tình. Sau 
												nhiều lần cảnh cáo nhưng đám phụ 
												nữ biểu tình vẫn không chịu giải 
												tán, cảnh sát đã nổ súng bắn 
												chết hàng trăm phụ nữ. Trong dịp 
												này, vị giáo chủ cao cấp nhất 
												của Hồi Giáo Ba Tư là Aytollah 
												Muddaris cũng bị ám sát chết. 
				 Năm 1941, vua 
												Pahlavi truyền ngôi cho con là 
												Muhammad Reza Pahlavi. Ngay khi 
												tân vương lên ngôi, các học viên 
												thuộc các trường Hồi Giáo (tương 
												tự như các học viên Taliban ở 
												Afganistan) đã biểu tình chống 
												nhà vua. Cảnh sát được lệnh xả 
												súng bắn chết hàng trăm học viên 
												Hồi Giáo trên đường phố. Sau đó, 
												tất cả các trường đào tạo các 
												học sĩ Hồi Giáo trên toàn quốc 
												bị đóng cửa và tất cả các Ulama 
												(the learned men in Islam) đều 
												bị bắt, đa số bị giết, số còn 
												lại đều bị tù. Tân vương Pahlavi 
												cho thành lập một tổ chức mật vụ 
												chuyên việc truy lùng những kẻ 
												muốn khôi phục đạo Hồi tại Ba 
												Tư. Lính mật vụ có quyền tiền 
												trảm hậu tấu, không cần một án 
												lệnh nào của tòa án. Các biện 
												pháp trị an của vua Pahlavi quá 
												mạnh tay nên đã gây quá nhiều 
												bất mãn trong quần chúng. 
				 Năm 1979, học sĩ 
												Khomeini lưu vong tại Pháp lãnh 
												đạo cuộc khởi nghĩa lật đổ vua 
												Pahlavi thành công. Nhà vua phải 
												bỏ nước chạy trốn ra nước ngoài. 
												Khomeini trở thành tổng thống 
												của một nước Cộng Hòa Hồi Giáo 
												(Islamic Republic). Khomeini là 
												một học sĩ của giáo phái Shiite 
												rất cực đoan và độc tài. Chẳng 
												bao lâu sau, Khomeini mất hết 
												mọi nhiệt tình ủng hộ của quần 
												chúng lúc ban đầu. Dân Iran chợt 
												nhận ra là sống dưới chế độ quân 
												chủ của dòng Pahlavi còn được tự 
												do hạnh phúc hơn nhiều. 
				 Dưới chế độ "Cộng 
												Hòa Hồi Giáo", toàn dân bị dồn 
												vào thế bị kìm kẹp bởi các thứ 
												luật lệ của tôn giáo vừa hủ lậu 
												vừa dã man: Bị cáo về một tội 
												trộm thường cũng bị chặt chân, 
												chặt tay. Mọi sinh hoạt ca nhạc 
												hay chiếu phim đều bị cấm. Phụ 
												nữ bị buộc phải mặc áo choàng 
												đen phủ kín từ đầu đến mắt cá 
												chân... Điều nguy hiểm là 
												Khomeini gây hận thù với giáo 
												phái đa số Sunni và đưa cả nước 
												vào một cuộc chiến tranh vô 
												nghĩa. Khomeini chết năm 1989. 
				   
				
				Sự cuồng tín của người Hồi Giáo 
												Ả Rập 
				   
										 
				
				Như chúng ta đã thấy, chủ 
												nghĩa Thế-Tục-Hóa Xã Hội 
												(Secularism) là một phương thức 
												chính trị đã đem lại sự thịnh 
												vượng cho cả Âu Châu lẫn Hoa Kỳ. 
												Đó cũng là cái chìa khóa bảo đảm 
												nền tự do dân chủ cho toàn dân. 
												Mustapha Kemal thực hiện thành 
												công cuộc cách mạng thế tục hóa 
												xã hội Thổ Nhĩ Kỳ đã biến nước 
												này thành một nước tự do dân chủ 
												và văn minh nhất trong thế giới 
												Hồi Giáo. Trong khi đó, cuộc 
												cách mạng của Nasser tại Ai Cập 
												và những nỗ lực thế tục hóa của 
												hai cha con vua Pahlavi tại Iran 
												đều đã bị thất bại.p>
				  Toàn khối Ả Rập 
												Hồi Giáo với 300 triệu người 
												tiếp tục sống trong vũng lầy lạc 
												hậu và nghèo đói. Tình trạng bất 
												ổn tại Trung Đông có thể gây tổn 
												hại cho nền hòa bình thế giới. 
												Vì thế, nhiều chuyên gia của 
												Liên Hiệp Quốc đã kêu gọi cộng 
												đồng thế giới giúp cho toàn khối 
												Ả Rập Hồi Giáo một số chương 
												trình như sau để cải thiện đời 
												sống quần chúng: 
				 1. Đô thị hóa xã 
												hội Ả Rập để xóa bỏ hẳn lối sống 
												lang thang trong sa mạc đã có từ 
												nhiều ngàn năm qua. 
				 2. Đầu tư đại 
												qui mô vào công cuộc giáo dục 
												giới trẻ nhằm đào tạo những thế 
												hệ Ả Rập mới có khả năng đưa 
												toàn xã hội Ả Rập hòa nhập vào 
												thời đại mới trong cộng đồng 
												nhân loại. 
				 Chỉ có sự hiểu 
												biết của những thế hệ trẻ mới có 
												khả năng mở rộng tầm nhìn của 
												quần chúng để cứu họ thoát khỏi 
												sự mê hoặc của tôn giáo và sự 
												lừa mị của giới lãnh đạo độc 
												tài. 
				 Theo thống kê năm 
												2000, các nước Hồi Giáo Ả Rập ở 
												Trung Đông có một tỷ lệ những 
												người trẻ (dưới 15 tuổi) rất 
												cao: 
				 - Saudi 
												Arabia:  43% 
				 - 
												Iraq: 
												 42% 
				 - 
												Palestine: 
												 45% 
				 Nếu những lớp 
												người trẻ đó hấp thụ được một 
												nền giáo dục khai phóng, họ sẽ 
												làm thay đổi nếp sống và nếp 
												nghĩ của người Ả Rập. 
				 Chủ nghĩa tôn 
												sùng bạo lực và chủ nghĩa khủng 
												bố phát sinh chủ yếu do tinh 
												thần cuồng tín tôn giáo. Giáo 
												dục là phương tiện hữu hiệu nhất 
												diệt trừ nạn cuồng tín tôn giáo 
												và do đó sẽ diệt trừ tận gốc nạn 
												khủng bố như hiện nay đang diễn 
												ra khắp nơi trên thế giới. Chỉ 
												có sự giáo dục mới giải thoát 
												tập thể tín đồ thoát ra khỏi 
												vùng bóng tối tâm linh. 
				 Các nước Hồi Giáo 
												bảo thủ hiện nay đều là những xã 
												hội khép kín, trong đó giới học 
												sĩ ulamas hoàn toàn thao túng 
												đời sống tinh thần của các tín 
												đồ. Cái gọi là sự học vấn của 
												các trường tôn giáo hoặc sự uyên 
												bác của các học sĩ Ulamas thực 
												chất chỉ là một môn học "tán 
												hươu tán vượn" về những điều 
												huyền hoặc của thần học 
												(theology). Thần học của Hồi 
												Giáo cũng tương tự như thần học 
												của Do Thái Giáo hoặc Ki Tô 
												Giáo. Thần học là một môn học 
												đầy tính chất hoang tưởng viển 
												vông nhảm nhí. Càng đi sâu vào 
												thần học, con người càng lún sâu 
												vào "ốc đảo tâm linh" xa rời 
												thực tế và đầy đặc những định 
												kiến sai lầm. Những mảnh bằng 
												"Tiến Sĩ Thần Học" là những giấy 
												chứng chỉ công nhận sự ngu xuẩn 
												của kẻ được cấp. Chỉ đến khi có 
												cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ đó mới cảm 
												thấy xấu hổ là đã được cấp những 
												mảnh bằng về thần học mà thôi. 
				 Thế giới Hồi Giáo 
												Ả Rập ngày nay vì tự ti mặc cảm 
												đã co cụm lại thành những xã hội 
												khép kín. Giới lãnh đạo không 
												muốn dân chúng biết sự thật của 
												thế giới bên ngoài cho nên họ 
												rất căm ghét tất cả mọi phương 
												tiện truyền thông quốc tế. Nhiều 
												nước Hồi Giáo ban hành luật cấm 
												TV, Video, phim ảnh và các sách 
												báo ngoại văn. Trong cuộc họp 
												của Tổ Chức Các Quốc Gia Hồi 
												Giáo OIC (Organization of 
												Islamic Countries) gồm các đại 
												biểu của 56 quốc gia thành viên 
												họp tại thủ đô Mã Lai Kualua 
												Lumpur ngày 27.2.2000, nhiều đại 
												biểu đã hô hào các nước Hồi Giáo 
												đoàn kết để chống lại kỹ thuật 
												tin học Internet vì nó có thể 
												"tiêu diệt các giá trị Hồi 
												Giáo". 
				 Nền kinh tế của 
												khối Ả Rập Trung Đông hiện nay 
												không có gì để hãnh diện, ngoại 
												trừ kho dầu mỏ thiên nhiên ở mấy 
												nước vùng vịnh với trữ lượng 
												bằng 1/4 khối lượng dầu của thế 
												giới. Nhưng họ không có kỹ thuật 
												thăm dò mỏ dầu, kỹ thuật khoan 
												mỏ dầu, chuyên chở và lọc dầu 
												v.v... Họ cũng không có độc 
												quyền tăng giá dầu vì các việc 
												tiêu thụ, phân phối và sản xuất 
												không nằm trong tay họ. Năm 
												1982, giá dầu thô 40 đô la/1 
												barrel, đến năm 1998, giá dầu 
												tụt xuống chỉ còn 10 đô 
												la/1barrel! Những mỏ dầu thô đã 
												tạo cho chính quyền các nước 
												Trung Đông một ảo tưởng về quyền 
												lực. Thật sự họ không thể dùng 
												nó để tạo nên một áp lực nào đối 
												với thế giới bên ngoài. Những 
												khoản lợi tức khổng lồ của những 
												mỏ dầu không đem lại lợi ích nào 
												cho quần chúng vì nó đã chui hết 
												vào túi của giới lãnh đạo bất 
												tài và tham nhũng. Chẳng những 
												thế, giới lãnh đạo còn nhân danh 
												Allah và tiên tri Muhammad để 
												tước đoạt những quyền tự do 
												chính đáng của người dân. Tại 
												các nước Bahrain, Jordan, 
												Maroc... và thậm chí ở hai nước 
												nổi tiếng giầu có vì dầu hỏa là 
												Koweit và Saudi Arabia... phụ nữ 
												không có quyền đi bầu. Đại đa số 
												dân Ả Rập đều đang kéo lê cuộc 
												sống du mục lạc hậu như thời 
												Muhammad lập đạo tại sa mạc 
												Syro-Arabia vào thế kỷ 7 hoặc 
												như tổ phụ Abraham ở vùng đất 
												hứa Canaan cách đây 4000 năm 
												vậy! 
				 Thiên Chúa luôn 
												luôn được các phe động viên 
												trong cuộc thánh chiến hiện nay 
												giữa Do Thái và các nước Ả Rập.
												 
				 Thánh kinh Cựu 
												Ước được mọi tôn giáo như Do 
												Thái, Ki Tô và Hồi Giáo công 
												nhận. Một trong những chuyện nổi 
												tiếng trong Cựu Ước là chuyện 
												Đại Hồng Thủy. Kinh Thánh kể 
												rằng: Sau cơn đại hồng thủy tiêu 
												diệt hết mọi sinh vật trên trái 
												đất, loài người vỏn vẹn chỉ còn 
												lại gia đình của ông Nô-e mà 
												thôi. Người con út của ông Nô-e 
												tên Shem sau này trở thành tổ 
												tiên của các dân tộc Do Thái-Ả 
												Rập. Do đó, mọi người Do Thái và 
												Ả Rập đều có một cái tên chung 
												là chủng tộc Semites. Danh từ 
												này có nghĩa là "con cháu của 
												ông tổ Shem" (Semites = 
												descendants of Shem). 
				 Mới đây, các nhà 
												nhân chủng học đã làm nhiều cuộc 
												thử nghiệm DNA tại các nước 
												Trung Đông. Kết quả xác nhận các 
												người Ả Rập, Do Thái, Ba Tư, 
												Iraq, Syria, Liban v.v... đều 
												cùng chung một chủng tộc. Như 
												vậy, truyền thuyết về các dân 
												tộc Ả Rập Do Thái cùng chung một 
												ông tổ Shem như chuyện kể trong 
												kinh Thánh đã tỏ ra là đúng với 
												thực tế. 
				 Họ quả thật là 
												"anh em" với nhau. Cũng như 
												người Do Thái thường gọi nhau là 
												"Ben-Adam" có nghĩa là "anh em" 
												cùng một ông tổ Adam mà ra. 
												Nhưng khi Adam và Eva mới sinh 
												ra được hai thằng con trai là 
												Cain và Abel, lúc đó toàn thể 
												dân số nhân loại chỉ có 4 người, 
												thì Cain đã ra tay giết chết 
												thằng em vì một chuyện cãi nhau 
												vớ vẩn. Chuyện Cain giết Abel đã 
												trở thành câu chuyện mang tính 
												chất biểu tượng cho sự chém giết 
												nhau giữa những người anh em 
												cùng chủng tộc hoặc những anh em 
												cùng thờ Chúa. 
				 Những người Do 
												Thái và Ả Rập đã chém giết nhau 
												rất nhiều phen kể từ khi Israel 
												trở thành vương quốc, với vị vua 
												đầu tiên là Saul, vào năm 1025 
												trước công nguyên. Vương quốc 
												Israel tồn tại đến năm 70 sau 
												Công Nguyên thì bị quân La Mã 
												kéo đến san bằng và tàn sát 
												người Do Thái vô số kể. Do đó, 
												người Do Thái phải bỏ nước ra đi 
												lang thang khắp nơi trên thế 
												giới. Từ thế kỷ 4 đến đầu thế kỷ 
												20, người Do Thái tại các nước 
												Công Giáo ở Âu Châu đã bị kỳ thị 
												và bị sát hại rất nhiều, nhất là 
												trong thời Trung Cổ. Trong Thế 
												Chiến thứ hai, Do Thái bị Đức 
												Quốc Xã sát hại 6 triệu người. 
												Do đó, sau Thế Chiến II, Liên 
												Hiệp Quốc đã thực hiện kế hoạch 
												cho những người Do Thái trên 
												khắp thế giới trở về "cố hương" 
												để tái lập quốc gia. 
				 Năm 1948, quốc 
												gia Do Thái được thành lập trên 
												phần đất của người Palestine 
												đang sinh sống. Sự lập quốc Do 
												Thái đã khiến cho hàng triệu 
												người Palestine trở thành những 
												người vô gia cư (homeless). Sự 
												bất mãn của những người Ả Rập 
												Hồi Giáo bắt đầu từ đó. 
				 Theo lệnh của 
												Liên Hiệp Quốc thì Do Thái không 
												được chiếm thành phố Jerusalem 
												vì thành phố này là thánh địa 
												chung của cả 3 tôn giáo: Do 
												Thái, Ki Tô và Hồi. Nhưng vào 
												năm 1967, Israel đã xua quân 
												chiếm thành phố Jerusalem làm 
												thủ đô của riêng mình. Vụ này đã 
												làm cho toàn thế giới Hồi Giáo 
												phẫn nộ. Từ năm 1970 trở đi, thế 
												giới Hồi Giáo tổ chức Hội nghị 
												hàng năm để kêu gọi toàn thể các 
												tín đồ Hồi Giáo đoàn kết chống 
												lại Israel để giải phóng thánh 
												địa Jerusalem. 
				 Israel đã vin vào 
												Thánh Kinh Cựu Ước, công khai 
												tuyên bố không bao giờ chịu rút 
												khỏi Jerusalem vì đó là "một sứ 
												mạng tôn giáo" (a religious 
												mission). Nước Israel là bất khả 
												xâm phạm vì đó là "Israel của 
												Thánh Kinh" (Biblical Israel). 
												Lịch sử của Do Thái là lịch sử 
												của Thánh Kinh Cựu Ước. Do đó, 
												đối với người Do Thái, quốc gia 
												và tôn giáo là một. Chết vì nước 
												cũng là chết vì Chúa của đạo Do 
												Thái. Người Do Thái sống trong 
												hiện tại với những chứng tích 
												của lịch sử. Tâm linh của người 
												Do Thái trong hiện tại luôn luôn 
												gắn bó với tâm linh dân tộc 
												trong lịch sử. Đó là lý do khiến 
												người Do Thái đoàn kết và kiên 
												cường trong chiến đấu. 
				 Cuộc chiến tranh 
												hiện nay giữa Do Thái và những 
												người Ả Rập Hồi Giáo là một cuộc 
												chiến tranh vì lịch sử và vì tôn 
												giáo. Chúng ta hãy nghe lời lập 
												luận của một thường dân 
												Palestine ở ngoại ô thành phố 
												Jerusalem. Anh Ibrahim Hussein, 
												48 tuổi, trả lời ký giả Mỹ trong 
												một cuộc phỏng vấn tháng 3/2002 
												như sau: "Nếu ông đào xới bất cứ 
												chỗ nào ở vùng này ông cũng tìm 
												thấy những dấu tích của lịch sử. 
												Và nếu ông là một người Do Thái 
												thì bất cứ lúc nào ông cũng có 
												thể vin vào những dấu tích đó để 
												nói rằng đây là đất thuộc về 
												lịch sử của Do Thái. Nhưng người 
												Do Thái chỉ có thể vin vào lịch 
												sử 3000 năm của họ. Còn chúng 
												tôi, con cháu của những người 
												Canaanites, đã định cư ở đây 
												trước người Do Thái 4000 năm, 
												nghĩa là tổ tiên của người Ả Rập 
												đã có 7000 năm lịch sử tại nơi 
												này!" (Houston Chronicle March 
												31.2002) 
				 Ý kiến chung của 
												những người Ả Rập luôn luôn kết 
												tội Israel là kẻ gây chiến vì 
												Israel đã đến chiếm đất của 
												người Palestine và dùng bạo lực 
												đuổi họ ra khỏi nơi cư trú hợp 
												pháp lâu đời của họ. Trong khi 
												đó, người Do Thái luôn luôn đem 
												Thánh Kinh và Thiên Chúa ra làm 
												chứng cho quyền sở hữu của mình. 
												Họ nói vùng Tây Ngạn sông 
												Jordan(West Bank) hiện có 3 
												triệu dân Palestine cư trú, 
												chính là hai tỉnh Judea và 
												Samaria của Do Thái trong Thánh 
												Kinh Cựu Ước. 
				 Người Do Thái 
												chiếm thành phố Hebron ở phía 
												nam Jerusalem, viện cớ Hebron là 
												nơi có mộ của tổ phụ Abraham, 
												mặc dầu không một ai có thể xác 
												định mộ của ông ta nằm ở chỗ 
												nào! 
				 Người Do Thái 
												cũng chiếm luôn thung lũng 
												Kindron ở ngoại ô Jerusalem 
												(Kindron Valley) vì thung lũng 
												này hết sức quan trọng. Cả ba 
												đạo thờ Chúa là Do Thái, Ki Tô 
												và Hồi Giáo đều tin rằng: đến 
												Ngày Phán Xét Cuối Cùng, tất cả 
												mọi người sống và người chết 
												(sống lại) đều tập trung tại 
												thung lũng Kindron để được Thiên 
												Chúa xét xử lần cuối cùng. Kẻ 
												lành lên Thiên Đàng đời đời, còn 
												kẻ dữ (là kẻ chẳng có đạo) sẽ bị 
												đày xuống hỏa ngục muôn đời muôn 
												kiếp. 
				 Đọc tin tức báo 
												chí đến đây tôi liên tưởng đến 
												sự ước tính của Giáo Sư Trần 
												Chung Ngọc trong sách "Chúa 
												Giê-xu là ai? Giảng dạy những 
												gì?" Giao Điểm xuất bản, Xuân 
												2002, trang 167-169: Ngày Phán 
												Xét Cuối Cùng là ngày Chúa xét 
												xử cả người sống lẫn các người 
												đã chết từ xưa tới nay. Những 
												người sống hiện nay là 6 tỷ. Nếu 
												Chúa cho tất cả mọi người chết 
												sống lại thì ước tính độ 44 tỷ 
												người. Tổng cộng tất cả mọi 
												người được Chúa xét xử sẽ là 50 
												tỷ. Nếu Chúa xét xử theo phương 
												pháp siêu tốc mỗi người một giây 
												thì thời gian cần thiết phải có 
												là 1500 năm mới xử xong 50 tỷ 
												người! Đó là về thời gian xét 
												xử, còn về nơi xét xử là thung 
												lũng Kindron không biết rộng 
												bằng nào. Nhưng cho dù thung 
												lũng Kindon lớn rộng bằng cả 
												nước Việt Nam chăng nữa cũng 
												không thể nào chứa được 50 tỷ 
												người trong phiên xử vĩ đại của 
												Chúa! 
				 Kinh Thánh Do 
												Thái nói rất nhiều đến ngày Phán 
												Xét Cuối Cùng của Chúa tại thung 
												lũng Kindron. Nhưng nếu đọc các 
												sách Phúc Âm sẽ thấy Gioan 
												Baotixita và Jesus còn nói về 
												ngày Phán xét nhiều hơn nữa. 
												Trong niềm tin của những người 
												Ki Tô Giáo (Công Giáo, Chính 
												Thống, Anh Giáo và Tin Lành) thì 
												ngày Phán Xét Cuối Cùng chính là 
												ngày Chúa Jesus Tái Lâm (Cơ Đốc 
												Phục Lâm) và cũng là Ngày Tận 
												Thế, Ngày Nước Chúa Trị Đến vĩnh 
												viễn trên thế gian... Như vậy, 
												vị chánh án của phiên xử cuối 
												cùng vĩ đại này không ai khác 
												hơn là chính Chúa Jesus. 
				 Hơn một tỷ tín đồ 
												Hồi Giáo cũng có niềm tin xác 
												tín về ngày Phán Xét Cuối Cùng 
												tại thung lũng Kindron như niềm 
												tin của những người Do Thái và 
												Ki Tô. Nhưng vị chủ tọa phiên xử 
												là Thiên Chúa Allah. Ngay 
												chương mở đầu của kinh Koran đã 
												xác định điều đó: "Nhân danh 
												Thiên Chúa Allah, Đấng chủ tọa 
												của ngày Phán Xét Cuối Cùng" (In 
												the name of Allah, Master of The 
												Day of Last Judgement - Koran 
												1:4) 
				 Người Do Thái 
												càng vin vào Thánh Kinh là sách 
												ghi Lời Chúa để biện giải cho 
												các hành vi chiến tranh của mình 
												bao nhiêu thì người Ả Rập Hồi 
												Giáo cũng vin vào kinh Koran để 
												cổ vũ người Palestine và toàn 
												khối Ả Rập phải quyết tâm tận 
												diệt Do Thái bấy nhiêu. 
				 Ngay từ khi Đạo 
												Hồi được thành lập vào đầu thế 
												kỷ 7, Muhammad đã kêu gọi tín đồ 
												tẩy chay những người Do Thái và 
												Ki Tô: 
				 
										"Hỡi 
												các tín đồ! Đừng bao giờ làm bạn 
												với bọn Do Thái và Ki Tô. Bất cứ 
												ai làm bạn với chúng, sẽ trở 
												thành một kẻ bất chính trong bọn 
												chúng. Thiên Chúa không bao giờ 
												dẫn đường chỉ lối cho những kẻ 
												bất chính" 
				 (Oh you who 
												believe! Do not take the Jews 
												and the Christians for friends 
												and who amongst you take them 
												for a friend then he is one of 
												them. Allah does not guide the 
												unjust people - Koran 5: 51) 
				 Ngày 21-7-2001, 
												chính quyền Palestine của 
												Arafat phổ biến trên các phương 
												tiện truyền thông một bản thông 
												cáo chính trị nhưng được mệnh 
												danh là "Giáo lệnh số 4" 
												(Religious teaching No.4): 
												"Thiên Chúa cấm chỉ thừa nhận sự 
												hiện hữu một quốc gia Israel và 
												ngài ra lệnh phải tiêu diệt nó."
												 
				 Để cụ thể hóa 
												mệnh lệnh này, chính quyền 
												Palestine đã đưa ra 8 điều sau 
												đây: 
				1. Xác nhận Do Thái là kẻ 
												thù của Thiên Chúa. 
				2. Toàn thể Hồi Giáo phát 
												động thánh chiến để chống lại Do 
												Thái. 
				3. Tiêu diệt Do Thái là một 
												nghĩa vụ tôn giáo. 
				4. Palestine chiến đấu tại 
												tiền tuyến, thế giới Hồi Giáo là 
												hậu phương yểm trợ tiền tuyến. 
				5. Toàn thể lãnh thổ Israel 
												phải thuộc về Palestine. Bất cứ 
												ai cắt đất của Palestine cho Do 
												Thái đều phải sa hỏa ngục đời 
												đời kiếp kiếp. 
				6. Mọi thỏa ước ký kết với 
												Do Thái đều chỉ có giá trị chiến 
												thuật tạm thời. 
				7. Bất cứ ai trốn tránh 
												nghĩa vụ thánh chiến chống Do 
												Thái sẽ bị Chúa trừng phạt. 
				8. Sự tiêu diệt hoàn toàn 
												Israel là một sự bảo đảm tuyệt 
												đối nhân danh Thiên Chúa Allah". 
				
				Trong công báo chính thức của 
												chính quyền Palestine 
												(Al-Jadila) ngày 18-5-2001 có 
												đăng một bản Huấn thị của chính 
												phủ, trong đó có câu: "Ngày của 
												mọi người chết sống lại để dự 
												phiên xử cuối cùng sẽ không xảy 
												ra cho đến khi nào người Hồi 
												Giáo gây chiến tranh chống Do 
												Thái và tiêu diệt chúng" (The 
												Day of the Resurrection will not 
												arrive until the Muslims make 
												war against the Jews and kill 
												them). 
				
				Một viên chức cao cấp của Bộ 
												Tư Pháp Palestine xuất hiện trên 
												màn ảnh truyền hình ngày 
												13-10-2001 kêu gọi nhân dân 
												Palestine: "Do Thái là 
												kẻ nói láo và khủng bố. Cho nên 
												điều cần thiết là phải giết 
												chúng theo lời Chúa. Cấm không 
												ai được thương xót chúng. Đừng 
												thương xót, hãy giết chúng ở 
												khắp mọi nơi" (The Jews are the 
												liars and terrorists. Therefore 
												it is necessary to slaughter 
												them according to the Words of 
												God. It is forbidden to have 
												mercy in your hearts for the 
												Jews. Have no mercy on them and 
												murder them every where) - (Fast 
												Facts on Islam, by John Weldon 
												and John Ankerberg. Harvest 
												House Pub. 2001, P. 135-137). 
				  
								Charlie Nguyễn 
				 
				  
		
																Các chương khác 
																trong sách: 
				 
				Các Mô Hình Sinh Hoạt trong Thế Giới Hồi Giáo Cái Nôi của Đạo Hồi  Hồi Giáo Tại Trung Đông Hồi Giáo Tại Á Châu Hồi Giáo Tại Âu Châu và Mỹ Châu Hồi Giáo và Chủ Nghĩa Khủng Bố Năm Nghĩa Vụ Tín Đồ Hồi Giáo Sáu Trụ Cột của Đức Tin Hồi Giáo Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Nghiệp Muhammad tại Medina Thân Phận Phụ Nữ Hồi Giáo Thân Thế Muhammad tại Mecca Tìm Hiểu Kinh Koran Tệ Nạn Phân Hóa Trong Nội Bộ Hồi Giáo
 
  |