  | 	 
 bản in | 
	¿ trở ra mục lục
	 |   
				  		
				SÁU TRỤ CỘT CỦA ĐỨC TIN HỒI GIÁO  
				
	
									
									Các sách viết về giáo lý Hồi Giáo 
											đều đồng nhất tóm lược tất cả các 
											tín-điều căn-bản (fundamental 
											beliefs) thành 6 điều chính yếu được 
											gọi là "SÁU TRỤ CỘT CỦA ĐỨC TIN" 
											(The Six Pillars of Faith): 
				1. Tin có một Thiên Chúa Duy Nhất 
											(The Only God). 
				2. Tin có các Thiên Thần và Ma Quỉ 
				3. Tin các sách Mặc Khải (Books of 
											Revelation) 
				4. Tin các vị Thiên Sứ 
											(Messengers/Prophets) 
				5. Tin có ngày tận thế, xác kẻ chết 
											sống lại, mọi người sẽ được Thiên 
											Chúa xét xử trong Ngày Phán Xét Cuối 
											Cùng. 
				6. Mọi việc do Thiên Chúa tiền định, 
											nhưng mọi người đều có ý chí tự do. 
				  
				
				
				TÍN ĐIỀU 1: TIN CÓ MỘT THIÊN CHÚA 
											DUY NHẤT 
				
				Điểm đặc biệt trong quan niệm về 
											Thiên Chúa của đạo Hồi là luôn luôn 
											nhấn mạnh đến đặc tính duy nhất 
											tuyệt đối của Thiên Chúa (the 
											absolute Oneness of God). Đạo Hồi 
											hoàn toàn phủ nhận các huyền thoại 
											về "Con của Thiên Chúa" hoặc "Ngôi 
											Hai Thiên Chúa xuống thế làm người". 
											Kinh Koran ghi như sau: "Thiên Chúa 
											không chọn ai làm con và không chọn 
											một đồng sự nào trong thẩm quyền 
											tuyệt đối của Ngài". 
				(God had chosen no son, nor had He 
											any partner in the absolute 
											sovereignty - Koran 25: 2). 
				
				Căn cứ vào kinh Koran, giáo lý của 
											giáo phái Sunni đã giảng rộng thêm 
											như sau: "Thiên Chúa là Một, không 
											có một ai tương đương với Ngài, 
											Thiên Chúa không có khởi đầu và 
											không có kết thúc. Ngài là thường 
											hằng vĩnh cửu. Ngài vừa là Alpha vừa 
											là Omega - chữ đầu và chữ cuối trong 
											mẫu tự Hy Lạp - Ngài vừa ẩn vừa 
											hiện. Ngài có thật và muôn đời". 
				(Allah is One, without any like him, 
											having no equal, having no 
											beginning, having no end. Ever - 
											existing. He is both Alpha and 
											Omega. The Manifest and the Hidden. 
											He is real and eternal). 
				
				Đạo Hồi phủ nhận con người là hình 
											ảnh của Thiên Chúa vì Thiên Chúa là 
											đấng vô hình, không có thân thể (God 
											is not a formed body). Ngài chẳng 
											bao giờ xuống thế làm người và vì là 
											vô hình nên chẳng có ai ngồi ở bên 
											tả hay bên hữu của Ngài. 
				
				"Thiên Chúa là đấng chỉ có Một ngôi 
											duy nhất (không bao giờ có ba ngôi) 
											Ngài không sinh Chúa Con và cũng 
											không do ai sinh ra. Chẳng một ai 
											giống Thiên Chúa cả." 
				(Allah is One. He begets not, nor is 
											He begotten. And none is like Him - 
											Koran 112: 1-4) 
				
				Đạo Hồi quan niệm Thiên Chúa là Đấng 
											Tạo Hóa đã sáng tạo vũ trụ theo đúng 
											quan niệm của đạo Do Thái và Ki Tô 
											trong sách Sáng Thế Ký (Genesis). 
											Kinh Koran nhắc lại những điều đó 
											như sau: 
				"Thiên Chúa dựng nên bầu trời và mặt 
											đất trong sáu ngày và rồi Ngài ngự 
											trên ngai của Ngài. Ngài kéo màn đêm 
											phủ lên ban ngày và ngày đêm cứ nối 
											tiếp nhau không ngừng. Sau đó Ngài 
											dựng lên mặt trời, mặt trăng và 
											những vì sao". (Allah created the 
											heavens and the earth in six days 
											then He descended his throne - He 
											throws the veil of night over the 
											day which it pursues incessantly and 
											then He created the sun and the moon 
											and the stars - Koran 7: 54). 
				
				Đạo Hồi, cũng như đạo Do Thái và đạo 
											Ki Tô, đều tin tưởng Thiên Chúa đã 
											tạo dựng nên tổ tiên của loài người 
											là Adam và Evà từ một cục đất sét: 
				 "Ta đã dựng nên con người từ 
											đất sét khô và ta thở vào nó tinh 
											thần của Ta". (We created man 
											from dry clay and breathed of My 
											Spirit into him - Koran 15: 23). 
				
				Trong kinh Koran (chương 2 và chương 
											20) thuật lại chuyện Adam và Evà ăn 
											trái cấm giống như trong sách Sáng 
											Thế Ký của đạo Do Thái. Nhưng Hồi 
											Giáo cũng như Do Thái Giáo đều không 
											tin hành động ăn trái cấm của Adam - 
											Evà cấu thành "Tội Tổ Tông" đến nỗi 
											Con của Chúa Trời phải đầu thai làm 
											người và chịu chết trên thập giá để 
											chuộc cái tội đó! Huyền thoại về 
											Tội Tổ Tông (The Original Sin) là 
											sản phẩm tưởng tượng của tên đạo 
											khùng Augustine (354-450) gốc 
											Algeria. Tên đạo khùng Augustine 
											được coi là kẻ lập ra đạo Ki Tô đứng 
											hàng thứ hai sau Phao lô. 
				
				Tóm lại, ý niệm về Thiên Chúa của 
											đạo Hồi hoàn toàn đồng nhất với ý 
											niệm của đạo Do Thái. Cả hai đạo độc 
											thần này kịch liệt chống lại ý niệm 
											Ba Ngôi Thiên Chúa và lề thói tôn 
											thờ ảnh tượng của đạo Ki Tô (Công 
											Giáo và Chính Thống). 
				 
				
				  
				
				TÍN ĐIỀU 2: TIN CÓ CÁC 
											THIÊN THẦN VÀ MA QUỈ 
				Niềm tin vào các Thiên thần, nhất là 
											các Thiên thần hộ mạng, là niềm tin 
											chung của các đạo Thiên Chúa. Theo 
											các nhà nghiên cứu tôn giáo thì hiện 
											nay có tới 70% dân Mỹ tin có Thiên 
											thần. Nói chung, người ta cho rằng 
											Thiên thần là những sinh vật linh 
											thiêng (spiritual beings) có nhiệm 
											vụ làm trung gian giữa Thiên Chúa và 
											loài người. Vì vậy Thiên thần cũng 
											được coi là Thiên sứ (messengers of 
											God). 
				
				Ý niệm về Thiên thần đã có từ trên 
											4000 năm qua. Các nhà khảo cổ đã tìm 
											thấy tại thành phố UR ở Babylon một 
											phiến đá có khắc hình nổi một người 
											đàn ông có hai cánh. Hình này được 
											xác định thuộc niên đại 2300 năm 
											TCN. Tuy nhiên, ý niệm về Thiên thần 
											của Babylon đã không đi vào Kinh 
											Thánh Do Thái.  
				
				Các nhà tôn-giáo-học chuyên nghiên 
											cứu về Thiên thần cho rằng ý niệm 
											Thiên thần phát xuất từ Hỏa Giáo Ba 
											Tư (Zoroastrianism). Hỏa Giáo được 
											sáng lập bởi một triết gia Ba Tư tên 
											là Zoroaster vào khoảng thế kỷ 12 
											TCN. Hỏa giáo trở thành quốc giáo 
											của đế quốc Ba Tư từ thế kỷ 10 TCN 
											đến thế kỷ 7 sau Công Nguyên. Vào 
											năm 579 TCN, đế quốc Ba Tư chiếm 
											Babylon (tức Iraq ngày nay), đến năm 
											539, Ba Tư chiếm Do Thái và cai trị 
											vùng này nhiều thế kỷ. Do đó, đạo Do 
											Thái đã du nhập các ý niệm về Thiên 
											thần của Hỏa Giáo từ thời gian này.
											 
				
				Các sách Kinh Thánh Cựu Ước của Do 
											Thái có trước thời gian này đều 
											không nói gì đến các Thiên thần. 
				
				Ki Tô Giáo du nhập ý niệm Thiên thần 
											của Hỏa Giáo Ba Tư qua sách Kinh 
											Thánh Cựu Ước của đạo Do Thái. Tuy 
											nhiên, Ki Tô Giáo đã khai thác ý 
											niệm Thiên thần nhiều hơn đạo Do 
											Thái.  
				
				Đối với Ki Tô Giáo, Thiên thần 
											Gabriel trở thành một Thiên thần 
											chuyên về việc đi thông báo các mệnh 
											lệnh của Thiên Chúa. Chẳng hạn 
											Gabriel báo tin cho bà Maria về việc 
											bà thụ thai để sinh ra Jesus hoặc 
											báo tin cho Joseph phải trốn sang Ai 
											Cập v.v... Thiên thần Micae được 
											Công Giáo La Mã khắc họa như một tên 
											lính La Mã tay cầm cái giáo dài đâm 
											vào đầu một con rắn mà ông ta đạp 
											dưới chân. Dưới thời Ngô Đình Diệm 
											làm tổng thống VNCH, Thiên thần 
											Micae (Micheal/ Saint Michel) được 
											Diệm chọn làm thánh tổ của binh 
											chủng nhảy dù. Con rắn ở dưới chân 
											của thiên thần Micae được giải thích 
											là biểu tượng của chủ nghĩa "Cộng 
											Sản vô thần" . Trong thực tế, binh 
											chủng nhảy dù đã là lực lượng chủ 
											yếu làm cuộc đảo chánh chống Diệm 
											năm 1960 và lật đổ chế độ Diệm năm 
											1963. Con rắn dưới chân Thiên thần 
											Micae trong thực tế là biểu tượng 
											của chính chế độ Công Giáo Ngô Đình 
											Diệm! 
				
				Ý niệm về các Thiên thần của Hỏa 
											giáo Ba Tư truyền qua đạo Do Thái và 
											đạo Ki Tô sang đạo Hồi. Trong đạo 
											Hồi, thiên thần Gabriel trở thành 
											một vị Thiên sứ đặc biệt của Thiên 
											Chúa Allah truyền mọi mệnh lệnh và 
											mọi điều mặc khải cho Muhammad ghi 
											chép. Vì vậy kinh Koran được gọi là 
											"Thiên Kinh" ghi chép lời Chúa 
											(Words of God). Nếu không tin có 
											Thiên thần thì kinh Koran sẽ bị mất 
											hết giá trị và không thể có đạo Hồi. 
											Tin tức đầu tiên mà Gabriel thông 
											báo cho Muhammad biết là việc Thiên 
											Chúa đã chọn ông làm Tông Đồ của 
											Ngài: "Này Muhammad! Con đã được 
											Thiên Chúa chọn làm tông đồ của 
											Ngài! và ta là Gabriel!" (Oh 
											Muhammad! Thou art the Apostle of 
											God and I am Gabriel! - Muhammad, a 
											biography of the Prophet, by Karen 
											Amstrong, Harper San Francisco 1992, 
											p.83)  
				
				Ngoài hai vị Thiên thần Gabriel và 
											Micae rất nổi danh trong các đạo độc 
											thần còn có một số Thiên thần khác 
											không được các đạo này đồng nhất tin 
											theo: 
				
				- Thiên thần Raphael được Công Giáo 
											La Mã tin là vị Thiên thần chuyên 
											cứu nguy (the helpful angel). Đạo Do 
											Thái, đạo Hồi và Tin Lành phủ nhận 
											sự hiện hữu của Thiên thần Raphael. 
				
				- Về Thiên thần của sự chết: Ki Tô 
											Giáo tin rằng tên của ngài là 
											Andrew. Ngài rất đẹp và nhân từ, 
											thường giúp người ta trút linh hồn 
											trong bình an êm ái. Đạo Hồi gọi tên 
											ngài là Arazel. Ngài đón linh hồn 
											các tín đồ ngoan đạo để rước về 
											thiên đàng. Ngài hành hạ những kẻ 
											không tin Chúa và vứt linh hồn của 
											chúng xuống hỏa ngục. 
				
				- Thiên thần Israfel: Cả hai đạo Ki 
											Tô và Hồi đều tin rằng đến ngày tận 
											thế, tức là Ngày Phán Xét Cuối Cùng, 
											Thiên thần Israfel sẽ thổi kèn 
											trumpet để đánh thức tất cả mọi 
											người chết sống dậy để tập trung tại 
											thung lũng Kindron ở ngoại ô 
											Jerusalem nghe Chúa phán xử lần chót 
											có tính chung quyết!... 
				
				Quan niệm về Quỉ: Cả ba đạo độc 
											thần đều đồng nhất trong quan niệm 
											cho rằng quỉ là những Thiên thần sa 
											ngã (fallen angels) nên bị Chúa phạt 
											đày xuống hỏa ngục. Ki Tô Giáo học 
											theo sách Enoch (Book of Enoch) 
											trong bộ Kinh Thánh của Do Thái, một 
											sản phẩm du nhập thần học của Hỏa 
											Giáo Ba Tư, cho rằng Thiên thần 
											Lucifer lãnh đạo một cuộc đảo chánh 
											trên Thiên Đàng để cướp ngôi của 
											Thiên Chúa. Lucifer trở thành hiện 
											thân của lòng kiêu ngạo bị Chúa phạt 
											thành quỉ có đuôi, có sừng và có tai 
											giống tai dơi. Từ đó Lucifer mang 
											tên là Satan. Người Hồi Giáo gọi 
											Satan là Shaitan hoặc Iblis (do 
											phiên âm từ tiếng Hy Lạp Diablos). 
				
				Hồi Giáo tin rằng Satan sẽ được 
											Thiên Chúa tha tội trong ngày Phán 
											Xét Cuối Cùng và được phục hồi tư 
											cách thiên thần như xưa. Satan không 
											phải là thủ lãnh của bầy quỉ cai 
											quản hỏa ngục mà chỉ là kẻ cai quản 
											các kẻ ác trên thế gian. Thiên Chúa 
											trao chức vụ thủ lãnh hỏa ngục cho 
											thiên thần Malik (Koran 43: 77). 
				
				Ngoài niềm tin về Thiên thần và quỉ, 
											đạo Hồi còn có thêm một loại thần 
											linh thứ ba là Jinn (số ít) hoặc 
											Jinni (số nhiều). Ki Tô Giáo không 
											tin có loại thần linh này. Theo đạo 
											Hồi thì Jinn là một loại thần linh 
											thường biến hình thành người hoặc 
											loài vật, được Thiên Chúa cấu tạo 
											nên từ lửa. Kinh Koran ghi rằng: 
											"Con người được tạo nên bằng đất 
											sét, Jinn được chế tạo từ ngọn lửa" 
											(Man is created from clay, jinn from 
											flames of fire - Koran 55: 14- 15). 
				
				Quan niệm về Jinn xuất phát từ 
											Babylon vào khoảng 3000 năm TCN. 
											Người Babylon gọi Jinn là 
											"Cherubims". Đạo Do Thái du nhập 
											"Cherubims" vào Sách Sáng Thế Ký 
											(Genesis) là sách đầu tiên trong bộ 
											thánh kinh của đạo Do Thái. Sách 
											Sáng Thế Ký kể rằng: Sau khi Adam và 
											Evà phạm tội ăn trái cấm liền bị 
											Chúa đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng. 
											Chúa sai các Cherubims trú đóng ở 
											phía đông vườn Địa Đàng để chặn lối 
											dẫn đến "Cây của Sự Sống". (God 
											drove out the man and He placed at 
											the east of the Garden of Eden 
											Cherubims to keep the way of the 
											Tree of Life - Genesis 4: 23-24). 
				
				Cũng cùng một nguồn gốc từ Kinh 
											Thánh Cựu Ước, Ki Tô Giáo bác bỏ 
											Cherubims nên không bao giờ nhắc tới 
											chúng. Trong khi đó, đạo Hồi chấp 
											nhận niềm tin vào Cherubims và gọi 
											chúng bằng tiếng Ả Rập là Jinn. 
				
				  
				
				
				TÍN ĐIỀU 3: TIN CÁC SÁCH MẶC KHẢI 
											(KINH THÁNH) 
				
				
				Kinh Koran nói rất nhiều đến các 
											sách Mặc Khải (Books of Revelation). 
											Nhưng kinh Koran là sách mặc khải 
											cao quí nhất và quan trọng nhất đối 
											với đạo Hồi. Do vậy, Koran được gọi 
											là "Mẹ của tất cả các sách" (Mother 
											of Books). 
				Kinh Koran coi sách Cựu Ước của Do 
											Thái cũng là một phần của sách mặc 
											khải: "Các người không thấy những 
											người Do Thái đã được Chúa ban cho 
											một phần của sách mặc khải hay sao? 
											Họ đã được mời gọi đến với Sách mặc 
											khải của Chúa" (Have you not 
											considered Jews who are given a 
											portion of Book? They are invited to 
											the Book of Allah - Koran 3: 23) 
				
				Bộ Kinh Thánh của đạo Do Thái có 
											nhiều sách, nhưng chỉ có sách Torah 
											(sách Luật) của Maisen là được kinh 
											Koran nhắc đến nhiều nhất. Sách 
											Torah của đạo Do Thái, sách Phúc Âm 
											của đạo Ki Tô và kinh Koran đều được 
											coi là các sách do Thiên Chúa mặc 
											khải để dạy dỗ và hướng dẫn loài 
											người. Koran ghi lời của Thiên thần 
											Gabriel nói với Muhammad: "Thiên 
											Chúa đã mặc khải cho con Sách Thánh 
											Kinh của chân lý để xác nhận những 
											điều đã được mặc khải trước đó như 
											Ngài đã mặc khải trong Kinh Torah và 
											trong Phúc Âm để hướng dẫn loài 
											người và bây giờ Ngài gửi cho con 
											kinh Koran". (God hath revealed into 
											thee the Scripture of Truth 
											confirming that which was revealed 
											before it as He revealed the Torah 
											and the Gospel, a guidance for the 
											people and He sent you the Qur'an - 
											K3: 3). 
				
				Mặc dầu Muhammad ca ngợi các sách 
											mặc khải của đạo Do Thái và đạo Ki 
											Tô, nhưng Muhammad biết rõ thái độ 
											cố chấp hẹp hòi của các tín đồ Do 
											Thái và Ki Tô nên ông đã cảnh giác 
											các tín đồ Hồi Giáo như sau: 
				
				"Người Do Thái và Ki Tô không bao 
											giờ hài lòng với các tín đồ Hồi 
											Giáo, ngoại trừ trường hợp các người 
											theo đạo của họ". (The Jews will not 
											be pleased with you, nor the 
											Christians, until you follow their 
											religions - Koran 2: 120). 
				
				Các tín đồ Do Thái và Ki Tô đều độc 
											quyền chân lý. Đối với họ, chẳng ai 
											có thể được vào thiên đàng, ngoại 
											trừ phải là tín đồ đạo Do Thái hay 
											đạo Ki Tô. (None shall enter the 
											paradise, except he who is a Jew or 
											a Christian - Koran 2: 111). 
											Muhammad gọi chung những tín đồ Do 
											Thái và Ki Tô là "Những người của 
											các sách Thánh Kinh" (The people of 
											the Book). Ông cảnh cáo họ đừng quá 
											lộng hành trong tôn giáo của họ. (Oh 
											people of the Book, commit no 
											excesses in your religion - Koran: 
											4: 171) 
				
				Những người Do Thái và Ki Tô chửi 
											bới nhau và giết hại nhau trong thời 
											của Muhammad vào cuối thế kỷ 6, đầu 
											thế kỷ 7. Do đó, Muhammad viết trong 
											kinh Koran: "Người Do Thái chê người 
											Ki Tô không theo điều tốt, người Ki 
											Tô chê người Do Thái không theo điều 
											tốt, mặc dầu họ đều đọc cùng một 
											sách mặc khải. Cho nên Thiên Chúa 
											Allah sẽ xét xử những điều khác biệt 
											của họ trong Ngày Phán Xét Cuối 
											Cùng" (The Jews say: the Christians 
											do not follow anything good, the 
											Christians say the Jews do not 
											follow anything good while they 
											recited the same Book. So, Allah 
											judge between them on the Day of 
											Resurection in what they differ - 
											Koran 2: 113). 
				
				Muhammad thù ghét những người Ki Tô 
											Giáo vì họ là những kẻ thờ ảnh tượng 
											(idolers). Tại chương 9, câu 5 của 
											kinh Koran, Muhammad ra lệnh cho tín 
											đồ giết hoặc bắt bỏ tù những kẻ thờ 
											ảnh tượng: "Khi các tháng thiêng 
											liêng đã qua đi, các tín đồ hãy giết 
											những kẻ thờ ảnh tượng ở bất cứ nơi 
											nào gặp chúng hoặc bắt chúng làm tù 
											binh". (When the sacred months 
											passed away, then slay the idolers 
											wherever you find them or take them 
											captives - Koran 9: 5). 
				
				Về các sách mặc khải, kinh Koran nói 
											rất nhiều đến sách Torah của Maisen, 
											các Thánh Vịnh (Psalms) của David và 
											Sách Phúc Âm (Gospel) của đạo Ki Tô. 
											Vậy tôi xin trình bày sơ lược về 
											những sách này và tìm hiểu ảnh hưởng 
											của chúng trong đạo Hồi như thế nào: 
				
				  
										1. 
											Torah (The Law). 
											Nhiều sách kinh của Hồi Giáo gọi 
											sách này là Tawrah theo phiên âm Ả 
											Rập. Đây là sách mặc khải quan trọng 
											nhất của đạo Do Thái về người Do 
											Thái đồng hóa Đạo Do Thái với Luật 
											Do Thái hoặc người ta gọi Đạo Do 
											Thái là Đạo của Luật. Bộ Luật này 
											được Thiên Chúa mặc khải trên núi 
											Sinai vào thế kỷ II TCN, tóm tắt lại 
											thành "Kinh Mười Điều Răn" (The Ten 
											Commandments). Đem phân tích luật 
											Torah, mười điều răn trở thành bộ 
											luật Pentateuch gồm có 613 điều 
											luật. Bộ luật này đã chi phối toàn 
											bộ đời sống tinh thần, đời sống kinh 
											tế xã hội của mọi người dân Do Thái 
											trong nhiều ngàn năm qua. Có nhiều 
											điều luật rất chi tiết, chẳng hạn 
											như những điều luật về nghi lễ thờ 
											kính Thiên Chúa: Khi đi lễ phải mang 
											theo súc vật, giết súc vật lấy máu 
											để rưới lên bàn thờ và phải đọc sách 
											mặc khải cho mọi người cùng nghe... 
				 - Luật Torah của đạo Do 
											Thái đã đi vào đạo Ki Tô với bài 
											"Kinh Mười Điều Răn" trong các sách 
											Kinh Nguyện. 
				 - Đạo Hồi không có Kinh 
											Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng 
											Kinh Koran cũng liệt kê mười điều 
											tương tự: 
				1. Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa. 
				2. Vinh danh và kính trọng cha mẹ. 
				3. Tôn trọng quyền của người khác. 
				4. Hãy bố thí rộng rãi cho người 
											nghèo. 
				5. Tránh giết người, ngoại trừ 
											trường hợp cần thiết. 
				6. Cấm ngoại tình. 
				7. Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi. 
				8. Hãy cư xử công bằng với mọi 
											người. 
				9. Hãy trong sạch trong tình cảm và 
											tinh thần. 
				10. Hãy khiêm tốn 
				
				
				2.  Thánh Vịnh David 
											(Psalms of David). Theo đạo Hồi thì các Thánh Vịnh của 
											David là do Thiên Chúa mặc khải. 
											(God revealed to Dawood/David Zabur/ 
											Psalms -Sura 4: 163). Sở dĩ David 
											được đề cao trong đạo Do Thái vì 
											lịch sử của dân tộc Do Thái coi 
											David là một anh hùng và là một minh 
											quân hàng đầu. David trở thành biểu 
											tượng của một vị "Cứu Tinh Dân tộc". 
											(Savior of the people). Cứ mỗi lần 
											Do Thái gặp nguy khốn, dân Do Thái 
											lại cầu xin Chúa ban cho họ một đấng 
											Cứu Nguy (Savior) dần dần tạo nên 
											tâm lý của toàn dân Do Thái mong chờ 
											một Đấng Cứu Thế (Messiah) với ý 
											nghĩa là "một David mới" (The New 
											King David). Cũng do vậy nên đã nẩy 
											sinh truyền thuyết cho rằng Đấng Cứu 
											Thế phải là người thuôc dòng dõi vua 
											David.  
				
				- Đạo Ki Tô khai thác triệt để 
											truyền thuyết này nên đã tìm mọi 
											cách chứng minh Jesus thuộc dòng dõi 
											của vua David và là Chúa Cứu Thế mà 
											Do Thái mong đợi từ lâu. 
				
				- Đạo Hồi không quan tâm đến những 
											điều nói trên mà chỉ quan tâm đến 
											những lời ca ngợi Thiên Chúa đầy 
											nhiệt tình của David mà thôi. 
				 
				(Trong bài viết "Chủ nghĩa khủng bố 
											là đặc tính chung của các đạo Chúa", 
											tôi đã trích dẫn nhiều câu trong 
											Thánh Vịnh David nên tôi xin miễn 
											nhắc lại ở đây) 
				
				 
										3.  Phúc Âm (Gospels)
				.Sách 
											Phúc Âm là một bộ sách viết về cuộc 
											đời của Jesus sau khi Jesus đã chết 
											trên 40 năm. Jesus sinh trưởng tại 
											Do Thái nhưng lại nói tiếng Aramaic 
											là ngôn ngữ của xứ Syria. Các sách 
											Phúc Âm lại được viết bằng tiếng Hy 
											Lạp căn cứ trên những lời đồn đại về 
											Jesus ở Jerusalem trên 40 năm trước! 
											Chỉ bấy nhiêu sự kiện cũng đủ cho 
											thấy các sách Phúc Âm không có gì là 
											chính xác. 
				 Đạo Do Thái hoàn toàn 
											phủ nhận các sách Phúc Âm của đạo Ki 
											Tô. Trái với đạo Do Thái, đạo Hồi 
											công nhận các sách Phúc Âm là các 
											sách Mặc Khải của Thiên Chúa và công 
											nhận Jesus là một sứ giả của Thiên 
											Chúa (messenger of God) đứng hàng 
											thứ hai sau Muhammad. Tuy vậy, quan 
											niệm của đạo Hồi về Phúc Âm và Jesus 
											rất khác biệt với quan niệm của Ki 
											Tô Giáo. Tôi đã trình bày vấn đề này 
											trong bài "Jesus dưới cái nhìn của 
											Do Thái và Hồi Giáo", vậy xin miễn 
											nhắc lại ở đây. 
				   
				
				 TÍN ĐIỀU 4: TIN CÁC VỊ 
											THIÊN SỨ 
				
				 Theo giáo lý của đạo Hồi 
											thì từ tạo thiên lập địa đến nay, 
											Thiên Chúa đã gửi xuống thế gian 25 
											sứ giả của Ngài để dạy dỗ loài 
											người. Vị sứ giả đầu tiên chính là 
											Adam, tổ tiên của loài người và vị 
											sứ giả cuối cùng chính là Muhammad. 
											Sau Muhammad không còn bất cứ một sứ 
											giả nào khác. Tất cả các người kế vị 
											Muhammad được gọi là Caliph (khalif) 
											đều chỉ là kế vị với tư cách lãnh 
											đạo cộng đồng Hồi Giáo mà thôi 
											(leader of Islamic community) chứ 
											không ai có tư cách kế vị thiên sứ 
											cả (no successor to Messsenger of 
											God). Muhammad là thiên sứ bất khả 
											kế nhiệm và là thiên sứ lớn hơn tất 
											cả mọi thiên sứ khác. Đối với các 
											tín đồ Hồi Giáo, thiên sứ Muhammad 
											chỉ là một người thường như mọi 
											người nhưng không có ai vượt qua 
											Ngài về sự khôn ngoan và đạo đức. 
				 Trong 25 vị thiên sứ thì 
											đạo Do Thái chiếm tới 18 vị, 3 vị 
											thuộc Ki Tô Giáo và 4 vị còn lại 
											thuộc về Ả Rập. Trong phạm vi bài 
											biết này, nếu kể hết tiểu sử của 25 
											vị Thiên sứ thì bài này sẽ thành một 
											quyển sách. Chúng tôi xin tóm lược 
											tiểu sử một số vị quan trọng trong 
											cả ba tôn giáo độc thần mà thôi. 
				 Một số tiên tri của đạo 
											Do Thái cũng là Thiên sứ của đạo 
											Hồi: 
				Adam: 
											Đạo Hồi có một quan niệm về Adam 
											khác với đạo Do Thái và đạo Ki Tô. 
											Ngoài thiên chức là tổ tông của loài 
											người, Adam còn là vị Thiên sứ đầu 
											tiên của Chúa. Vì vậy, sau khi dựng 
											nên Adam, Thiên Chúa đã ra lệnh cho 
											các thiên thần phải cúi rạp xuống để 
											kính chào Adam và phải tuân lệnh của 
											Adam. Theo đạo Hồi, Adam cao quí hơn 
											các thiên thần - Thiên thần Iblis 
											(Lucifer) không chịu cúi chào Adam 
											nên bị Chúa phạt thành quỉ Satan. 
				 Kinh Koran nói về Adam: 
											"Khi Thiên Chúa Allah tạo nên Adam 
											xong, Ngài thổi thần linh của ngài 
											vào Adam. Xong ngài ra lệnh cho các 
											thiên thần phải cúi rạp xuống để 
											chào Adam. Tất cả các thiên thần đều 
											vâng lời Chúa. Chỉ một mình Iblis 
											(Lucifer) không chịu vâng lời nên bị 
											Chúa phạt thành quỉ từ đó cho đến 
											ngày Phán Xét Cuối Cùng". 
				 
				 (When your Lord said to 
											the Angels: Surely I am going to 
											create a mortal from dust. So when I 
											have made him complete and I 
											breathed into him My Spirit, then 
											all angels fall down making 
											obeisance to him. And the angels did 
											obeisance, all of them. But not 
											Iblis because he was proud. Surely, 
											my curse is on Iblis/ Shaitan to the 
											Day of Last Judgement - Koran 38: 
											71-78). 
				 
											Noah. 
											Người Công Giáo Việt Nam thường gọi 
											ông là NO-E. Noah là cháu đời thứ 10 
											của Adam-Evà. Noah là người công 
											chính trong thế hệ của ông nên Chúa 
											cho ông biết tin trước về trận đại 
											hồng thủy. Ông đóng một chiếc tàu 
											lớn để chứa gia đình ông và mỗi thứ 
											súc vật một cặp. Sau trận đại hồng 
											thủy thì cả loài người đều chết hết 
											chỉ còn lại những người và những vật 
											ở trên tàu mà thôi. Trận lụt kéo dài 
											7 ngày. Khi nước rút thì tàu của 
											Noah bị kẹt trên đỉnh núi Arafat 
											(cao 5168 m ở miền đông Thổ Nhĩ Kỳ). 
											Noah và mọi người giết súc vật làm 
											lễ hy sinh để thờ lạy Chúa. Chúa 
											ngửi thấy mùi thịt nướng sinh vật 
											nên Ngài từ trời nhìn xuống chúc 
											phúc lành cho Noah và các con của 
											ông sinh sản con cháu đầy mặt đất. 
											Noah sống đến 600 tuổi mới chết. Con 
											út của ông tên Shem là tổ phụ các 
											dân tộc Do Thái và Ả Rập. (Sau này 
											Do Thái Ả Rập được gọi chung là 
											giống người Semites, có nghĩa là con 
											cháu của tổ phụ Shem). 
				 
										Maisen 
											(Moses) và Aaron. 
											Chuyện về hai nhân vật hàng đầu sáng 
											lập đạo Do Thái hiện hành là Maisen 
											và Aaron được kể trong 2 cuốn sách 
											thuộc Cựu Ước là Xuất Hành (Exodus) 
											và Dân Số Ký (Numbers). 
				 Chương 34 sách Exodus kể 
											rằng: Chúa truyền cho Maisen mang 
											hai tảng đá lên núi Sinai (ở gần 
											Biển Chết). Tại đây, Chúa hiện ra và 
											dùng ngón tay của Ngài viết lên hai 
											phiến đá. Mỗi phiến đá Ngài viết 5 
											điều răn, tổng cộng là Mười Điều 
											Răn. Viết xong Ngài biến mất. Maisen 
											ở lại trên núi nhiều ngày để tạ ơn 
											Chúa. 
				 Dân chúng Do Thái qui tụ 
											dưới chân núi Sinai nhiều ngày để 
											chờ đón Maisen mà không thấy Maisen 
											xuống, họ nghĩ rằng Maisen đã chết. 
											Do đó, dân chúng Do Thái đã tôn 
											người anh của Maisen là Aaron lên 
											ngôi vị lãnh đạo dân tộc Do Thái 
											thay thế Maisen. 
				 Theo truyền thống lâu 
											đời của dân Do Thái kể từ thời 
											Abraham đến nay là 850 năm, dân 
											chúng vẫn quen thờ thần El dưới hình 
											tượng Con Bò Vàng (The Golden Carf). 
											Do vậy, Aaron ra lệnh thâu góp các 
											nữ trang của dân chúng để đúc thành 
											tượng một con bò to bằng thật để 
											thờ. 
				 Sau khi đúc xong tượng 
											bò vàng, dân Do Thái đã lập bàn thờ 
											ở chân núi và đặt tượng bò lên bàn 
											thờ. Xong dân chúng làm lễ cúng tế 
											thần bò El và cùng nhau nhảy múa ca 
											hát tưng bừng. Vừa lúc đó thì Maisen 
											ở trên núi đi xuống thấy vậy bèn nổi 
											giận và ông dùng 2 phiến đá phá nát 
											tượng bò thần El. Ông ra lệnh cho 
											dân chúng không được tôn thờ ảnh 
											tượng từ đó và đổi tên Thiên Chúa từ 
											Elohim (số nhiều của El) thành 
											Jehovah. 
				 Do chuyện trên trong Cựu 
											Ước Do Thái, Muhammad đã kết tội dân 
											Do Thái là những kẻ thờ bò thay vì 
											thờ Chúa. Ông tôn trọng Maisen trong 
											việc cấm thờ ảnh tượng và ông tin là 
											Chúa đã cho Maisen thẩm quyền cai 
											trị. Kinh Koran ghi như sau: "Những 
											tín đồ của Kinh Thánh đã thờ bò thay 
											vì thờ Thiên Chúa mặc dầu Chúa đã tỏ 
											cho họ thấy những dấu hiệu rõ ràng 
											về Ngài. Nhưng Chúa đã tha thứ cho 
											họ tội này và đã ban cho Maisen thẩm 
											quyền cai trị." (The followers of 
											the Book took the golden carlf for 
											God after clear signs had come to 
											them. But we pardoned this and gave 
											to Moses clear authority - Koran 4: 
											153). 
				o Elijah (Elisha). Chương 4 sách 
											Các Vua (Kings) kể chuyện Elijah làm 
											nhiều phép lạ như biến một cái bình 
											không thành một bình đầy dầu (oil) 
											hoặc biến mấy cái thúng trống rỗng 
											thành những cái thúng đầy những ổ 
											bánh mì khiến cho nhiều trăm người 
											ăn no. (Sau này các sách Phúc Âm 
											cũng kể chuyện Jesus làm phép lạ 
											tương tự như vậy). Kinh Koran ca 
											ngợi Elijah là một trong những người 
											tốt nhất thế gian và là tông đồ của 
											Chúa (Koran 6: 86, 38: 48) 
				
				
											Jonah 
											(Yunus) Thiên Chúa dự tính hủy diệt thành 
											phố Nineveh vì thành phố này có 
											nhiều kẻ không tin Chúa. Thiên Chúa 
											sai Jonah tới thành phố này để 
											khuyên họ trở lại với Chúa thì Chúa 
											sẽ tha tội và không hủy diệt nữa. 
											Chúa ra thời hạn 40 ngày để Jonah 
											thi hành. 
				Thay vì đi Nineveh, Jonah đã bất 
											tuân lệnh Thiên Chúa dùng thuyền 
											tới thành phố Tarshish. Để trừng 
											phạt Jonah Chúa đã tạo nên một cơn 
											bão lớn. Các thủy thủ trên thuyền 
											biết đây là một hình phạt Chúa dành 
											riêng cho Jonah nên họ đã ném Jonah 
											xuống biển. Một con cá lớn đớp Jonah 
											vào bụng. Jonah biết Chúa đã phạt 
											mình về tội không vâng lời nên ông 
											đã ăn năn hối cải và cầu nguyện Chúa 
											suốt 3 ngày ở trong bụng cá. Cuối 
											cùng, Chúa tha tội cho Jonah và hóa 
											phép cho con cá lớn nhả ông ra trên 
											bãi biển. Câu chuyện này được cả ba 
											đạo Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo công 
											nhận là chân lý. Kinh Koran ca ngợi 
											Jonah là tông đồ của Chúa (K.6: 86, 
											21: 87) 
				 
										Solomon. 
											Solomon là con thứ của vua David. Y 
											giết anh là Adonaijah để đoạt ngôi 
											vua. Bản chất của Solomon còn dâm 
											dật hơn David nên khi lên làm vua y 
											đã xây cất cung viện rất lớn để chứa 
											trên 3000 cung nữ. Tuy vậy, lịch sử 
											và đạo Do Thái vẫn coi Solomon như 
											một minh quân. Solomon xây một ngôi 
											đền thờ Chúa được dân Do Thái gọi là 
											Đền Thánh (The Holy Temple) và được 
											truyền tụng là một kỳ công kiến 
											trúc. Thực sự ngôi đền rất nhỏ (rộng 
											12 mét x dài 37 mét). Nếu so sánh 
											với đền Ankor Watt của xứ Kampuchea, 
											được xây vào thế kỷ 8, thì đền Ankor 
											lớn hơn đền của Solomon rất nhiều 
											(75 mét x 176 mét). Solomon nổi 
											tiếng là người khôn ngoan và là tác 
											giả cuốn sách Châm Ngôn (Proverbs) 
											trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước. Kinh 
											Koran ca ngợi Solomon "là tôi tớ 
											xuất sắc của Thiên Chúa và luôn luôn 
											quay về với Chúa" (Solomon was most 
											excellent the servant and he was 
											frequent in returning to Allah - K 
											28: 30) 
				o Isaiah. Isaiah xuất hiện trong thế 
											kỷ 8 TCN, ông được coi là người đầu 
											tiên trong đạo Do Thái đưa ra thuyết 
											Tận Thế và tiên đoán sẽ có một vị 
											Cứu Thế (Messiah) ra đời. Tuy nhiên, 
											ông đã định nghĩa "Chúa Cứu Thế là 
											người giải thoát tất cả mọi người bị 
											áp bức" (To let the oppressed go 
											free - Isaiah 6: 9 và 6: 1-2). Như 
											vậy, Chúa Cứu Thế nào không giải 
											thoát được những kẻ bị áp bức trên 
											thế gian thì đó chính là Chúa Cứu 
											Thế giả mạo. Đạo Hồi hoàn toàn phủ 
											nhận tư cách "Chúa Cứu Thế" của 
											Jesus, nhưng họ không qui trách 
											Jesus mà qui trách các tín đồ Ki Tô 
											là những kẻ lầm lạc đã tin những 
											điều bậy bạ như vậy. 
				Ba vị của Ki Tô Giáo được Hồi Giáo 
											coi là Thiên Sứ: Ba nhân vật trong 
											Phúc Âm Ki Tô Giáo được Muhammad đề 
											cao trong kinh Koran là: Jesus, 
											Gioan Baotixita và thân phụ Gioan là 
											Zakaria. 
				
				Jesus được Muhammad ca ngợi trong 
											114 câu thơ, rải rác trong 15 chương 
											sách của Kinh Koran. Điều đó chứng 
											tỏ Jesus có một chỗ đứng khá quan 
											trọng trong đạo Hồi. Người Hồi Giáo 
											tôn kính gọi Muhammad là Thiên Sứ 
											(Nabi) và họ cũng gọi Jesus là Thiên 
											sứ theo ngôn ngữ Ả Rập là Nabi Isa. 
				Mặc dầu tôn kính Jesus và coi trọng 
											sách Phúc Âm, đạo Hồi đã có những 
											quan niệm rất khác biệt về Jesus và 
											Phúc Âm so với quan niệm của các tín 
											đồ Ki Tô Giáo. 
				
				Kinh Koran rất tôn trọng Gioan 
											Baotixita và song thân là ông 
											Zakaria và bà Elizabeth (Công Giáo 
											Việt Nam gọi là bà thánh I-sa-ve). 
											Zakaria là cậu của bà Maria. Khi bà 
											Isave có mang Gioan được 6 tháng thì 
											bà Maria mới bắt đầu mang thai 
											Jesus. Khi bà Maria đến nhà thăm vợ 
											chồng Cậu Zakaria thì bà I-sa-ve đã 
											chúc tụng bà Maria như sau: "Hỡi bà 
											Maria, Chúa đã chọn bà và thanh tẩy 
											bà, Chúa đã chọn bà cao hơn hết thảy 
											các người nữ trên thế gian" (Oh 
											Mary! Allah has chosen you and 
											purified you and chosen you above 
											all the women of the world - Koran 
											3: 42). Lời chúc tụng của bà Isave 
											(mẹ của Gioan Baotixita) đối với bà 
											Maria (mẹ của Jesus) như nói trên là 
											ý chính của kinh Kính Mừng (Hail 
											Mary) trong đạo Công Giáo: "Bà có 
											phúc lạ hơn mọi người nữ". Đạo Hồi 
											cấm thờ ảnh tượng nhưng họ vẽ tranh 
											treo tường hoặc dệt thảm những bức 
											họa diễn cảnh Abraham hy sinh con 
											trai Ismael (chứ không phải là 
											Isaac) để tế lễ Thiên Chúa và họ 
											cũng thường vẽ tranh bà Maria bế hài 
											nhi Jesus. Trong đền thờ Kaaba ở 
											Mecca là thánh địa thiêng liêng nhất 
											của thế giới Hồi Giáo hiện vẫn còn 
											một bức tranh vẽ Bà Maria bế hài nhi 
											Jesus. 
				
				Bức tranh này đã được người Ki Tô 
											Giáo vẽ vào thế kỷ 6. Tháng giêng 
											năm 630, Muhammad mang 10.000 quân 
											đến chiếm Mecca, ông đã ra lệnh phá 
											hủy tất cả các tượng thần và các 
											tranh vẽ trên tường của đền thờ 
											Kaaba. Tuy nhiên, Muhammad đã tỏ 
											lòng tôn kính đặc biệt đối với bà 
											Maria và Thiên sứ Jesus nên ông đã 
											cổi áo choàng của mình phủ lên bức 
											tranh duy nhất của Ki Tô Giáo tại 
											đền Kaaba và ra lệnh không ai được 
											phá hủy bức tranh này. Nhờ đó, bức 
											tranh vẫn tồn tại đến ngày nay. 
				Các Tiên Tri Ả Rập. 
											Kinh Koran chỉ kể tên vài vị tiên 
											tri Ả Rập như Hud, Salid... nhưng 
											không kể tiểu sử của họ nên chúng ta 
											không có tài liệu để bàn tới. Như 
											vậy, chỉ còn một vị tiên tri duy 
											nhất là Muhammad mà thôi. Nhưng nói 
											về Muhammad thì có tới biết bao 
											nhiêu sách nói cho hết. Sau khi đọc 
											nhiều sách về tiểu sử của Muhammad, 
											tôi đã cố gắng tóm lược trong hai 
											bài: 
				1. "Muhammad tại Mecca 
											(570-622) 
				2. "Muhammad tại Medina 
											(622-632)". 
				
				* 
				
				* * 
				 
										 
				
				Trong số 25 vị thiên sứ (gồm có 18 
											vị thuộc đạo Do Thái, 3 vị thuộc đạo 
											Ki Tô và 4 vị Ả Rập) chỉ có 6 vị 
											được đạo Hồi coi là những vị Thiên 
											sứ quan trọng nhất. Đó là: 
				
				 
										
				Tên 
											Anh Ngữ Tên phiên âm 
											theo tiếng Arabic 
				 
										 1. Thiên Sứ 
											Mohammed Nabi 
											Muhammad 
				 2. Thiên sứ Jesus 
											Christ Nabi Isa 
				 3. Thiên sứ Moses 
											(Maisen) Nabi Musa 
				 4. Tổ phụ 
											Abraham 
											Nabi Ibrahim 
				 5. Thiên sứ Noah (ông 
											No-e) Nabi Nuh 
				 6. Thiên sứ Adam (ông 
											A-dong) Nabi Adam 
				
				 
										 
				Đối với đạo Hồi, chỉ có Moses và 
											Jesus là người Do Thái, còn các vị 
											khác như Adam, Noah và Abraham không 
											thuộc chủng tộc nào cả. Điều đặc 
											biệt cần nhấn mạnh: Đạo Hồi không 
											coi Moses là người lập đạo Do Thái 
											hay Jesus là người lập đạo Ki Tô. 
											Đạo Hồi coi tất cả các vị Thiên sứ 
											đều là những tín đồ đạo Hồi. 
				  
				
				TÍN ĐIỀU 5: MỌI NGƯỜI CHẾT SẼ SỐNG 
											LẠI TRONG NGÀY TẬN THẾ - TẤT CẢ KẺ 
											SỐNG VÀ KẺ CHẾT ĐỀU ĐƯỢC CHÚA XÉT XỬ 
											TRONG NGÀY PHÁN XÉT CUỐI CÙNG. 
				
				Tín điều 5 là một tín 
											điều tổng hợp liên quan đến nhiều 
											vấn đề phức tạp nhưng lại là những 
											điều mà cả 3 đạo độc thần chấp nhận 
											hoàn toàn. Đó là: 
				 1. Tin rằng con người có 
											hai phần, hồn và xác. Hồn là phần 
											linh thiêng vĩnh cửu. Xác sau khi 
											chết bị hủy hoại hoàn toàn, nhưng 
											đến ngày tận thế xác của mọi người 
											đều sống lại nhập với hồn và sẽ tồn 
											tại vĩnh cửu. 
				 2 . Tin có ngày tận 
											thế.  
										 
				 3. Khi chết, mỗi người 
											đều đã được Chúa xét xử tạm thời. 
											Đến ngày tận thế, tất cả mọi người 
											sống và chết (sống lại) đều được xét 
											xử chung trong Ngày Phán Xét Cuối 
											Cùng. 
				 4. Tin có Thiên Đàng và 
											Hỏa ngục. Riêng đạo Hồi tin Hỏa ngục 
											không có tính vĩnh cửu mà chỉ là 
											hình phạt tạm thời. 
				 Chúa là đấng nhân lành 
											nên mọi tội đều được Chúa tha thứ. 
											Ki Tô Giáo trái lại tin rằng Hỏa 
											ngục là hình phạt đời đời. Đạo Do 
											Thái và đạo Ki Tô nói rất ít về 
											thiên đàng. Trái lại, Đạo Hồi mô tả 
											Thiên Đàng với nhiều chi tiết hấp 
											dẫn: Thiên đàng có những con sông 
											nước mát và trong vắt, có những con 
											sông đầy sữa hoặc đầy ruợu nho, có 
											những con sông đầy mật, những khu 
											vườn đầy trái cây và đặc biệt có 
											những cô trinh nữ đẹp tuyệt trần 
											chưa bao giờ có ai đụng tới (bashful 
											virgins whom neither man nor a 
											spirit have touched before - Koran 
											55: 41). Những trinh nữ mắt đen cư 
											ngụ trong những căn lều, dựa lên 
											những chiếc gối màu xanh và những 
											chiếc thảm đẹp (Dark-eyed Virgins 
											sheltered in their tents, they 
											recline on green cushions and fine 
											carpets. Which of your Lord's 
											blessing would you deny? - Koran 55: 
											68). Đó là những thứ Chúa ban cho 
											anh, há anh lại từ chối sao? 
				 Ngày tận thế là ngày 
											trái đất này bị hủy diệt hoàn toàn. 
											Kinh Koran mô tả: Toàn mặt đất và 
											núi non đều bị nâng lên và đập xuống 
											vỡ vụn. Bầu trời nứt ra từng mảnh 
											(The heaven will split asunder). 
											Ngày tận thế cũng là ngày mọi kẻ 
											chết sống lại (Day of Resurrection, 
											K 50: 42) Ngày họp mặt của toàn thể 
											nhân loại (Day of Assembly K42: 7, 
											64: 9) ngày mở đầu cuộc sống vĩnh 
											cửu (Day of Eternal Life - Koran 50: 
											34) và cũng là ngày tính sổ của 
											Thiên Chúa (Day of Reckoning K37: 
											19-74). Kẻ lành được lên Thiên Đàng, 
											kẻ ác bị đầy xuống hỏa ngục. Đối với 
											niềm tin Hồi Giáo thì những kẻ không 
											tin vào tính duy nhất của Thiên Chúa 
											(như thờ Thiên Chúa Ba Ngôi) hoặc 
											thờ ảnh tượng đều phải sa hỏa ngục. 
				 Cũng xin nói thêm ở đây 
											là Hồi Giáo và Do Thái Giáo chỉ tin 
											có hai nơi trong đời sau là Thiên 
											Đàng và Hỏa ngục. Riêng Công Giáo La 
											Mã tin có một nơi thứ ba là Luyện 
											Ngục (Purgatoroy). Đó là một thứ 
											ngục tối để giam giữ linh hồn có 
											tính cách tạm thời mà thôi. 
				   
				
				TÍN ĐIỀU 6: MỌI SỰ DO THIÊN CHÚA 
											TIỀN ĐỊNH NHƯNG CON NGƯỜI CÓ Ý CHÍ 
											TỰ DO. 
				
				 Cả 3 tôn giáo độc thần 
											(Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo) đều xác 
											nhận mọi sự trên đời đều do Thiên 
											Chúa tiền định, như người ta thường 
											nói: "Sợi tóc ở trên đầu rụng xuống 
											cũng do ý Chúa định từ trước vô 
											cùng". Nếu đã tin vào thuyết tiền 
											định (Predestination) thì người ta 
											có thể nói rằng: mọi hành vi tốt hay 
											xấu của mỗi người cũng do Chúa định, 
											vậy không một ai phải chịu trách 
											nhiệm về những hành vi của mình cả. 
											Nói cách khác, con người không có 
											quyền tự do chọn lựa vì số phận của 
											con nguời tốt hay xấu, sướng hay khổ 
											đều đã do Thiên Chúa ấn định từ 
											trước vô cùng. 
				 Sự tiền định của Thiên 
											Chúa và Ý chí tự do của con người là 
											hai ý niệm tương phản nhau. Nếu đã 
											tin vào thuyết tiền định thì không 
											thể tin rằng con người có ý chí tự 
											do. Ngược lại, nếu đã tin con người 
											có quyền tự do chọn lựa thì không có 
											tiền định. 
				 Tuy vậy, cả ba tôn giáo 
											độc thần đều chấp nhận cả hai. Hồi 
											Giáo lập luận: "Thiên Chúa dựng nên 
											ta là Ngài đã ấn định số phận của 
											ta" (Thy God hath created and hath 
											fixed thy destinies - Koran 87: 
											2-3). Nhưng mỗi người có quyền tự 
											do chọn lựa, hoặc tin hoặc không 
											tin: "Chân lý từ Thiên Chúa, ai muốn 
											thì hãy tin, ai không muốn thì đừng 
											tin" (Say the truth is from your 
											Lord, whoever wisheth he may 
											believe, whoever wisheth not he may 
											disbelieve - Koran 18: 30). 
				
				* 
				
				* * 
				 Sau khi đã tìm hiểu sáu 
											tín điều trụ cột của đạo Hồi, chúng 
											ta nhận thấy chỉ có sự khác biệt về 
											chi tiết so với các tín điều của đạo 
											Do Thái và đạo Ki Tô. Xét theo đại 
											thể, các tín điều của ba đạo độc 
											thần đều thống nhất. 
				 Muhammad đã xác nhận đạo 
											Hồi không mang lại một điều gì mới 
											mà chỉ xác nhận lại những điều Thiên 
											Chúa đã mặc khải trong Kinh Thánh 
											Cựu Ước của đạo Do Thái và trong 
											sách Phúc Âm của đạo Ki Tô. Kinh 
											Koran chỉ là một SỰ NHẮC LẠI (Nay, 
											It is an Reminder - Koran 80: 11). 
											Muhammad cũng tự coi mình là một kẻ 
											nhắc lại: "Kẻ nhắc lại đó đến với 
											anh từ Thiên Chúa để cảnh báo anh" 
											(A Reminder has come to you from the 
											Lord that he might warn you - Koran 
											7: 69).  
				   
				
								Charlie Nguyễn
				
				  
		
																Các chương khác 
																trong sách: 
				 
				Các Mô Hình Sinh Hoạt trong Thế Giới Hồi Giáo Cái Nôi của Đạo Hồi  Hồi Giáo Tại Trung Đông Hồi Giáo Tại Á Châu Hồi Giáo Tại Âu Châu và Mỹ Châu Hồi Giáo và Chủ Nghĩa Khủng Bố Năm Nghĩa Vụ Tín Đồ Hồi Giáo Sáu Trụ Cột của Đức Tin Hồi Giáo Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Nghiệp Muhammad tại Medina Thân Phận Phụ Nữ Hồi Giáo Thân Thế Muhammad tại Mecca Tìm Hiểu Kinh Koran Tệ Nạn Phân Hóa Trong Nội Bộ Hồi Giáo 
				 |