  | 	 
 bản in | 
	¿ trở ra mục lục
	 |   
				  
				THÂN THẾ, SỰ 
				NGHIỆP VÀ LẬP ĐẠO CỦA MUHAMMAD 
				  
				
				GIAI ĐOẠN II (622-632) 
				
				  
	
									
									Năm 
										619, người vợ yêu quí của Muhammad là bà 
										Khadija qua đời, hưởng thọ 64 tuổi. Qua 
										năm sau, Muhammad lấy cô Sawdah, 30 
										tuổi, là em dâu của ông Suhayl tù trưởng 
										bộ lạc Amir. Cô Sawdah hiện là một góa 
										phụ. Ba năm về trước, Sawdah đã cùng 
										chồng đi tỵ nạn tại Ethiopia cùng với 
										gia đình của Muhammad vì vợ chồng cô đều 
										theo đạo Hồi. Khi trở lại Mecca được ít 
										lâu thì chồng cô bị bệnh và qua đời. 
										Muhammad cưới cô Sawdah với ý định liên 
										kết quân sự với tù trưởng Amir, nhưng 
										sau này tù trưởng Amir đã chống lại 
										Muhammad và bị bắt làm tù binh tại 
										Medina. 
				 Cũng trong năm 620, người 
										bạn giàu có và hết sức thân cận của 
										Muhammad là Abu Bakr đã gã cô con gái út 
										của ông là Aisha mới lên 6 tuổi cho 
										Muhammad. Sự hứa gã chỉ có tính cách 
										hình thức vì Aisha vẫn sống với cha mẹ. 
										Sau này, khi Aisha lên 9 tuổi mới sống 
										với Muhammad như vợ chồng. 
				 Trong thời gian này, tại 
										thành phố Yathrib đã có khoảng 100 gia 
										đình theo đạo Hồi. Yathrib là một ốc đảo 
										khá lớn, cách Mecca khoảng 200 dặm về 
										phia bắc. Đây là nơi cư ngụ lâu đời của 
										sáu bộ lạc Ả Rập và ba bộ lạc Do Thái. 
				 Vào tháng 9 năm 622, một 
										phái đoàn 75 người từ Yathrib đến Mecca 
										mời Muhammad cùng gia đình và các tín đồ 
										Hồi Giáo di cư về Yathrib để thành lập 
										cộng đồng Hồi Giáo đầu tiên. Sau một 
										thời gian ngắn chuẩn bị, Muhammad và 
										khoảng 100 gia đình Hồi Giáo bí mật trốn 
										Mecca để di cư đến Yathrib. Trong số này 
										có gia đình của Abu Bakr. 
				 Sau mấy ngày băng qua những 
										bãi cát sa mạc, đoàn người di cư của 
										Muhammad đã tới ốc đảo Yathrib ngày 24 
										tháng 9 năm 622. Đây là ngày trọng đại 
										trong lịch sử Hồi Giáo vì đó chính là 
										ngày mở đầu cho cả một kỷ nguyên Hồi 
										Giáo. Lịch Hồi Giáo bắt đầu từ ngày này 
										chứ không phải từ ngày sinh của 
										Muhammad. Năm 622 Dương Lịch trở thành 
										năm thứ nhất của Âm Lịch Hồi Giáo. Danh 
										từ Ả Rập gọi cuộc di cư lịch sử này là 
										HIJRA. Thành phố Yathrib nguyên là tên 
										gọi theo tiếng Hebrew của người Do Thái, 
										nay được đổi tên thành Medina, chữ tắt 
										của Madinat Al Rasul có nghĩa là Thành 
										Phố của Thiên Sứ (City of Messenger). 
										Medina từ một ốc đảo heo hút giữa sa mạc 
										đã trở thành thánh địa thứ hai sau 
										Mecca. Hiện nay mỗi năm cũng có khoảng 
										từ 2 đến 3 triệu tín đồ trên khắp thế 
										giới đến đây hành hương. 
				 Lúc ban đầu mới đến Medina, 
										Muhammad và đoàn người Hồi Giáo chỉ là 
										những kẻ tỵ nạn rách nát chạy trốn sự 
										ngược đãi của những người đa thần giáo ở 
										Mecca. Nhưng dần dần, trong vòng 5 năm 
										kế tiếp, cả 6 bộ lạc Ả Rập ở Medina đều 
										theo đạo Hồi và tất cả thành phố Medina 
										được đặt dưới quyền lãnh đạo duy nhất 
										của Muhammad. 
				 Cả 6 bộ lạc ở Medina cùng ký 
										với nhau một hiệp ước gọi là "Umma", có 
										nghĩa là hiệp ước thành lập một đơn vị 
										xã hội căn bản. Nói đúng hơn, đó là một 
										cộng đồng Hồi Giáo liên kết với nhau 
										trên nền tảng tôn giáo chứ không đặt 
										trên nền tảng huyết thống hay chủng tộc. 
										Kinh Koran nêu lên điều căn bản cho cộng 
										đồng Hồi Giáo như sau: "Quan hệ giữa các 
										tín đồ Hồi Giáo với nhau là quan hệ anh 
										em ruột thịt" (The believers are bond of 
										brothers - Koran 49:10). 
				 Một điều đặc biệt là tại 
										Medina, Muhammad ra lệnh cho các tín đồ 
										phải nghe lời ông như nghe lời Chúa. Tất 
										cả các tín đồ già trẻ lớn bé đều tuân 
										lệnh của ông răm rắp. Ông viết trong 
										kinh Koran: "Ai vâng lời tiên tri là 
										vâng lời chính Thiên Chúa" (He that 
										obeys the Apostle, obeys Allah himself - 
										Koran 4:80). 
				 Không ai có thể phủ nhận 
										được tài thuyết phục của Muhammad. Ông 
										đã dùng tôn giáo để thống nhất các bộ 
										lạc Ả Rập trước đây luôn luôn thù nghịch 
										nhau. Tôn giáo đã tập họp họ trong một 
										cộng đồng Hồi Giáo (umma). Medina đã trở 
										thành khuôn mẫu đầu tiên về umma mà các 
										người kế vị sau này đã bắt chước để bành 
										trướng đạo Hồi ra khắp thế giới. 
				 Muhammad trú ngụ tại Medina 
										trong 10 năm. Nhiều sử gia chuyên về Hồi 
										Giáo đã chia thời gian này làm hai giai 
										đoạn: 
				- Giai đoạn đầu từ năm 622 đến 
										627 
				- Giai đoạn sau từ năm 627 đến 
										632 là năm Muhammad qua đời. 
				
				
				GIAI ĐOẠN ĐẦU TẠI MEDINA (622-627) 
				
				 
				 
				 Trong thời kỳ 5 năm đầu trú 
										ngụ tại Medina, Muhammad và cộng đồng 
										Hồi Giáo đầu tiên đã thực hiện rất nhiều 
										cuộc đột kích (raids) nhằm mục đích tấn 
										công các đoàn lữ hành đi qua sa mạc để 
										cướp lạc đà, ngựa, vũ khí, hàng hóa và 
										các loại thực phẩm. Cộng đồng Hồi Giáo 
										tại Medina khó có thể sống còn nếu không 
										tổ chức các vụ cướp nói trên. Ngoài ra, 
										Muhammad biết trước những người đa thần 
										giáo ở Mecca sớm muộn cũng sẽ tấn công 
										cộng đồng Hồi Giáo tại Medina. Do đó ông 
										phải lo tăng cường binh lực bằng cách 
										cướp lạc đà, ngựa, vũ khí và tích lũy 
										lương thực. 
				 Muhammad luôn luôn kêu gọi 
										cộng đồng Hồi Giáo tại Medina phải sẵn 
										sàng chiến đấu và tích cực tham gia 
										thánh chiến (Jihad). Ý niệm "thánh 
										chiến" trong Hồi Giáo không chỉ có nghĩa 
										là sẵn sàng tử đạo mà còn có nghĩa là 
										một "bổn phận thiêng liêng" của mọi tín 
										đồ phải tham gia chiến đấu trên mọi mặt 
										trận, từ tinh thần đến vật chất, từ kinh 
										tế đến chính trị. Do đó, các chương 
										trong kinh Koran được viết tại Medina 
										đều mang đậm nét về chính trị, xã hội, 
										kinh tế và cả về quân sự nữa. 
				 Muhammad hoàn toàn khác với 
										Jesus vì ông không bao giờ chấp nhận 
										"đưa má cho người ta tát". Ông đưa ra 
										một học thuyết được mệnh danh là "Thần 
										Học Chiến Tranh Chính Đáng" (Theology of 
										the just war). "Khi anh gặp những kẻ 
										không tin đạo gây chiến thì đừng bao giờ 
										quay lưng về phía chúng" (When you meet 
										those who disbelieve marching for war, 
										then turn not your back to them - Koran 
										8:15). Khi viết những câu thơ này, 
										Muhammad đang phải đối phó với nguy cơ 
										chiến tranh với Mecca. Muốn chiến thắng 
										Mecca thì trước hết phải tiến hành những 
										cuộc đột kích những chuyến hàng nhỏ của 
										Mecca để làm suy yếu dần nguồn nhân lực 
										tài lực của họ. Sau đó tiến đến những 
										cuộc tấn công lớn để triệt tiêu độc 
										quyền buôn bán của Mecca với Syria. Khi 
										độc quyền buôn bán đó không còn nữa thì 
										nền kinh tế của Mecca sẽ bị suy sụp. 
										Cuối cùng sẽ có ngày toàn thành phố 
										Mecca bị Muhammad chinh phục. 
				
				 
				1. Những 
										cuộc "thánh chiến" đẫm máu.- 
				 Trong mấy tháng đầu năm 623, 
										Muhammad cho người đi thám thính để theo 
										dõi tình hình của các đoàn lữ hành Mecca 
										đi Syria. Quân thám thính về báo cáo có 
										một đoàn lữ hành sắp đi ngang qua Medina 
										và có rất ít người bảo vệ. Muhammad sai 
										Hamzah dẫn vài chục kỵ binh đi phục 
										kích. Sau khi giết hết mọi người trong 
										đoàn lữ hành, đoàn kỵ binh của Hamzah 
										dẫn hết lạc đà, ngựa và toàn bộ chiến 
										lợi phẩm về Medina. 
				 Từ đầu năm 623 đến tháng 9 
										năm đó, Muhammad đã thực hiện nhiều cuộc 
										đột kích như vậy. Các thương gia ở Mecca 
										đối phó bằng cách ký hiệp ước với các bộ 
										lạc ở dọc theo bờ biển Hồng Hải. 
				 Con đường dọc theo bờ biển 
										Hồng Hải là trục lộ chính của các đoàn 
										lữ hành từ Mecca đi Syria. Đồng thời, 
										các thương gia Mecca tuyển nhiều kỵ binh 
										ưu tú thuộc bộ lạc Bedouin để tăng cường 
										bảo vệ các đoàn lữ hành. 
				 Tháng 9 năm 623, sau khi đã 
										tăng cường an ninh mọi mặt, Mecca ủy 
										nhiệm cho đại thương gia Umayah Juma 
										hướng dẫn một đoàn lữ hành rất lớn gồm 
										có 2.500 lạc đà chở hàng từ Mecca đi 
										Syria. Muhammad hay tin này đã quyết 
										định huy động toàn lực và đích thân chỉ 
										huy cuộc tấn công để cướp số hàng lớn 
										lao này. 
				 Cuộc tấn công thành công mỹ 
										mãn. Mecca bắt đầu cảm thấy phải nể sợ 
										Muhammad. Sau vụ này, Mecca đành tạm 
										ngưng các chuyến buôn phải qua Medina. 
										Thay vì đi về phương bắc, họ đi về 
										phương nam để buôn bán với xứ Yemen. 
				 Mặc dầu Mecca đã bỏ tuyến 
										đường phía bắc và phải đổi về tuyến 
										đường phía nam buôn bán với Yemen, nhưng 
										Muhammad vẫn không buông tha. Tháng 
										giêng năm 624, Muhammad sai Abdallah 
										mang quân đi vòng xuống phía nam của bán 
										đảo Ả Rập, cách Medina tới hơn 400 dặm, 
										để chận đánh đoàn lữ hành của Mecca đang 
										trên đường tới Yemen. Đoàn quân của 
										Abdallah cướp trọn số hàng đem về 
										Medina. Vụ này gây phẫn nộ cho mọi người 
										Ả Rập vì theo truyền thống của đạo cổ 
										truyền thì tháng giêng là tháng thiêng 
										liêng, mọi việc cướp của giết người phải 
										được kiêng cữ. Dân Mecca gọi Muhammad là 
										kẻ vô thần. 
				 Sự phẫn nộ của dân Mecca 
										chưa kịp nguôi thì xảy ra vụ kế tiếp. Đó 
										là vào tháng ăn chay Ramadan, tức tháng 
										3 năm 624, Muhammad nghe tin một đại 
										thương gia của Mecca là Abu Sufyan sẽ 
										dẫn một đoàn lữ hành gồm trên 1000 người 
										chở nhiều hàng quí giá của ngoại quốc 
										đem về Mecca. 
				 Muhammad huy động 500 quân, 
										gồm có 350 tín đồ Hồi Giáo tình nguyện 
										và 150 người thuộc các bộ lạc ở Medina. 
										Muhammad dẫn quân đến bố trí tại các đồi 
										cát ở Badr, một địa danh ở sát bờ Hồng 
										Hải và cách Medina khoảng 100 cây số về 
										phía tây. Badr là nơi các bộ lạc Ả Rập 
										thường tổ chức hội chợ để mua bán trao 
										đổi các đặc sản của mình. 
				 Abu Sufyan là một thủ lãnh 
										thông minh và giàu kinh nghiệm. Trước 
										khi đoàn lữ hành tiến đến một đia điểm 
										nguy hiểm hay khả nghi, Sufyan luôn luôn 
										cho một toán tiền thám phi ngựa đến đó 
										trước để quan sát hoặc thăm dò dân địa 
										phương. Toán tiền thám về báo cáo cho 
										biết quân phục kích của Muhammad hiện có 
										mặt tại Badr. Abu Sufyan ra lệnh cho 
										đoàn lữ hành tạt ngang sang tay mặt để 
										đi xuống vùng bãi biển bằng phẳng của 
										Hồng Hải. Đồng thời ông thuê một người 
										cưỡi ngựa rất giỏi tên là Damdam phi 
										ngựa như bay về Mecca cấp báo và yêu cầu 
										mang quân ra để hộ tống đoàn lữ hành 
										trên đường về Mecca. 
				 Sau khi được Damdam báo tin 
										về việc Muhammad bố trí quân phục kích 
										tại Badr, toàn dân Mecca hết sức tức 
										giận vì chuyến hàng do Sufyan điều khiển 
										là chuyến hàng đắt giá nhất của giới 
										thương gia Mecca. Hơn nữa, cuộc đột kích 
										diễn ra lúc này đang trong tháng Ramadan 
										chứng tỏ Muhammad bất chấp tục lệ cổ 
										truyền thiêng liêng của người Ả Rập. 
										Càng ngày Muhammad càng tỏ ra là một 
										người nguy hiểm! 
				 Do sự tức giận đó nên số 
										người tự nguyện tham gia đoàn quân tiếp 
										cứu Sufyan ghi tên rất đông và gồm cả 
										những người thân thiết của Muhammad nữa. 
										Chỉ trong một thời gian rất ngắn, giới 
										lãnh đạo Mecca đã qui tụ được trên một 
										ngàn người, trong đó có chú ruột của 
										Muhammad là Abbas, hai em họ chí thân đã 
										từng sống chung với Muhammad dưới một 
										mái nhà từ nhỏ (đó là hai con trai của 
										Abu Talif, chú ruột kiêm cha nuôi của 
										Muhammad từ lúc 8 tuổi), tù trưởng bộ 
										lạc Amir là bạn thân kiêm anh rễ của vợ 
										Muhammad và có cả Hakim là cháu ruột của 
										bà Khadija (vợ đầu của Muhammad). 
				 Ngay chiều hôm đó, đoàn quân 
										tiếp cứu rời Mecca tiến về Badr. Họ phải 
										đi qua Badr đến địa điểm trên bờ biển 
										Hồng Hải để gặp đoàn lữ hành của Sufyan. 
										Quân số của cả hai đoàn gộp lại lên tới 
										trên 2000 người. Ỷ vào quân số đông gấp 
										bốn lần quân số của Muhammad nên họ yên 
										tâm lên đường trở về Mecca. 
				 Toán thám báo của Muhammad 
										báo cáo cho biết đoàn quân đông đảo của 
										Sufyan sắp đi ngang qua Badr. Muhammad 
										kêu gọi mọi người phải quyết tâm chiến 
										đấu dù phải đối đầu với bạn bè hoặc 
										người ruột thịt. Muhammad bố trí người 
										tại các giếng nước ở Badr để ngăn chặn 
										mọi nguồn nước uống. Số quân còn lại núp 
										sau các đụn cát. Muhammad căn dặn mọi 
										người phải tiêu diệt những người lãnh 
										đạo của Mecca ngay từ đầu để gây rối 
										loạn hàng ngũ của địch. Muhammad không 
										sợ quân số đông của Mecca vì ông biết rõ 
										những người chỉ huy của họ chỉ quen chỉ 
										huy những nhóm nhỏ mà thôi. Khi có quân 
										số đông, họ sẽ không biết điều động và 
										phối hợp ra sao. 
				 Quân số của Muhammad tuy ít 
										nhưng Muhammad có tài chỉ huy, quân lính 
										dưới quyền ông tuyệt đối vâng lời và có 
										kỷ luật. 
				 Trưa hôm sau, đoàn lữ hành 
										của Abu Sufyan và đoàn tiếp cứu của 
										Mecca từ từ tiến vào Badr. Các cung thủ 
										của Muhammad núp sau các đụn cát đột 
										nhiên xuất hiện và ưu tiên nhắm bắn các 
										cấp chỉ huy của đoàn lữ hành. Chỉ trong 
										khoảnh khắc, 50 người chỉ huy đoàn lữ 
										hành bỏ xác tại trận. Đoàn người lữ hành 
										và tiếp cứu hoảng hồn bỏ chạy tán loạn. 
										Quân của Muhammad từ mọi hướng xông ra 
										chém giết nhiều vô kể. Một số tàn quân 
										của Mecca sống sót chạy thoát. Muhammad 
										chiếm được hàng trăm lạc đà và ngựa, 
										tịch thu nhiều vũ khí, quân trang và 
										hàng hóa ngoại nhập đủ loại. Muhammad 
										cho giải 70 tù binh về Medina. Điều đặc 
										biệt là những tù binh này hầu hết đều là 
										bạn bè hoặc họ hàng của những người Hồi 
										Giáo trước đây ở Mecca di cư về Medina. 
				 Trong số đó có Suhayl, tù 
										trưởng bộ lạc Amir là bạn thân của 
										Muhammad trước đây và là anh chồng cũ 
										của Sawdah, vợ của Muhammad hiện nay. 
										Quan trọng hơn cả là tù binh Abbas, chú 
										ruột của Muhammad. Sau đó là Aquil và 
										Nawfal là hai con trai của Abu Talif, 
										chú ruột kiêm cha nuôi của Muhammad. 
										Còn một người nữa cũng quan trọng không 
										kém là Abu Alas, con rễ của Muhammad. 
										Abu Alas lấy cô con gái áp út của 
										Muhammad tên là Zaynab. Vì Abu không 
										chịu theo đạo Hồi và không di cư đến 
										Medina nên Zaynab phải ở lại Mecca với 
										chồng con. 
				 Khi đoàn quân của Muhammad 
										chiến thắng trở về, tất cả mọi người Hồi 
										Giáo ở Medina chạy ra đón mừng với niềm 
										hân hoan chưa từng có. Bởi vì cứ mỗi lần 
										đoàn quân chiến thắng trở về thì tất cả 
										những đồ cướp được (loots) đều phân phát 
										cho tất cả mọi người. Lần này họ hy vọng 
										sẽ nhận được nhiều hàng hóa ngoại nhập 
										quí hiếm mà bình thường họ không thể có 
										được. 
				 Trong lúc đó, ba bộ lạc Do 
										Thái tại Medina tỏ ra hết sức lo ngại vì 
										những người Ả Rập Hồi Giáo quá hiếu 
										chiến hiếu sát sẽ trở thành một mối nguy 
										hiểm khó lường trong tương lai. 
				 Tại Mecca cũng như tại khắp 
										nơi trên bán đảo Ả Rập, tin tức về trận 
										đánh ở Badr đã làm mọi người phải bàng 
										hoàng vì sự tổn thất lớn lao về người và 
										của mà Muhammad đã gây ra cho Mecca. 
										Không riêng gì Mecca mà cả những bộ lạc 
										Bedouin và Do Thái cũng phải e dè và 
										chuẩn bị đối phó với Muhammad. 
				 Muhammad và các tín đồ của 
										ông không quan tâm đến những vấn đề nói 
										trên. Trái lại, mọi người đều cảm thấy 
										rất phấn khởi sau một chiến thắng lớn 
										hơn dự tưởng. Muhammad càng thêm tin 
										tưởng rằng Chúa đã phù hộ một cách đặc 
										biệt cho đoàn quân Hồi Giáo của ông. 
										Chính Thiên Chúa đã tiêu diệt người 
										Mecca chứ không phải ông diệt họ. Diệt 
										địch nhân danh Chúa là đặc quyền của 
										người Hồi Giáo. Ông đã diễn đạt những ý 
										trên trong kinh Koran như sau: 
				 "Anh đã không giết người như 
										anh nghĩ mà là Chúa đã giết họ. Khi anh 
										quật ngã họ nhưng không phải do anh mà 
										là Chúa đã quật họ. Đó là đặc quyền mà 
										Chúa đã ban cho những tín đồ của Ngài". 
										(You did not slay the ennemies, but God 
										slew them. When thou threw it was not 
										thyself that threw, but God threw. And 
										that He might confer on the believers a 
										fair benefits - Koran 8:17). 
				 Mặc dầu thực hiện những hành 
										vi cướp của giết người nhưng Muhammad và 
										các tín đồ vẫn tin tưởng mình có chính 
										nghĩa và luôn luôn được Thiên Chúa phù 
										hộ, cho nên dù cho quân số ít cũng vẫn 
										có thể đánh thắng những kẻ địch đông hơn 
										gấp bội. 
				 Kinh Koran viết về điều này 
										như sau: 
				 
				" Nếu quân số của 
										anh chỉ có hai mươi, nhưng đều là những 
										người kiên cường, các anh sẽ chiến thắng 
										hai trăm địch. Nếu quân số của anh có 
										một ngàn, các anh sẽ chiến thắng hai 
										ngàn địch. Đó là sự cho phép của Chúa". 
				 (If there be twenty of you - 
										patient men. 
				 You will overcome two 
										hundred. 
				 If there be one thousand of 
										you. 
				 You will overcome two 
										thousand, 
				 by the leave of God. God is 
										with the patient - Koran 8:67) 
				 Cái ý nghĩ cho rằng Thiên 
										Chúa đứng cùng phe với mình trong các 
										cuộc chiến tranh là một đặc tính trong 
										truyền thống của các đạo thờ Thiên Chúa, 
										bao gồm cả đạo Do Thái, đạo Ki Tô và đạo 
										Hồi. 
				 -Thánh kinh Cựu Ước Exodus 
										của đạo Do Thái kể chuyện Mai-sen dẫn 
										dân Do Thái đến Biển Đỏ thì được Chúa 
										hóa phép cho nước biển rẽ sang hai bên 
										tạo thành con đường cho dân Do Thái đi 
										qua đáy biển an toàn. Liền sau đó thì 
										đoàn quân của vua Pharaon Ai Cập ập tới 
										để rượt bắt những người Do Thái. Khi 
										đoàn quân Ai Cập đi xuống con đường dưới 
										đáy biển thì Chúa hóa phép cho nước biển 
										từ hai bên ập lại khiến cho đoàn quân Ai 
										Cập bị chết đuối hết. Mai-sen và dân Do 
										Thái quì xuống cảm ơn Chúa và xưng tụng 
										Chúa là "Thiên Chúa của các đạo binh" 
				 - Người Công Giáo cũng bắt 
										chước người Do Thái tin rằng Thiên Chúa 
										luôn luôn đứng về phe với họ để giúp họ 
										chống lại mọi kẻ thù. Tại các buổi lễ ở 
										nhà thờ, người Công Giáo luôn luôn đọc 
										kinh trong đó có câu: "Thánh, Thánh, 
										Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, 
										vinh danh Chúa trên các tầng trời!" 
				 Đối với Muhammad, mặc dầu 
										ông dạy các tín đồ tin tưởng vào sự phù 
										hộ đặc biệt của Chúa, nhưng ông là người 
										rất thực tế nên làm việc gì cũng phải 
										tính toán cẩn thận. Sau trận đánh ở 
										Badr, Muhammad biết Mecca sẽ nhất định 
										trả thù bằng cách kéo quân đến tấn công 
										Medina. Do đó, việc trước tiên ông phải 
										làm là đối xử tốt với các tù binh. 
				 Trước hết, ông đích thân đi 
										điểm mặt 70 tù binh. Ông nhận ra hai 
										người trước đây đã nhục mạ ông khi ông 
										giảng đạo tại Mecca. Ông ra lệnh cho 
										quân lính mang hai người đó ra chợ chém 
										đầu. Sáu mươi tám người còn lại được cởi 
										trói nhưng đều bị nhốt trong nhà giam. 
										Tất cả đều được cho ăn uống tử tế. 
				 Trong đêm hôm đó, Muhammad 
										không ngủ được vì cảm thấy thương ông 
										chú ruột là Abbas và hai người em họ đã 
										sống với ông trên mười năm tại nhà ông 
										chú Abu Talib, đó là Aquil và Nawfal. 
										Sáng hôm sau Muhammad ra lệnh phóng 
										thích ba người này. Mấy hôm sau, nhiều 
										thân nhân của các tù binh mang tiền hoặc 
										vàng bạc đến Medina để xin chuộc mạng 
										cho các tù binh. 
				 Sau khi nghe tin chồng là 
										Abu-Alas bị bắt làm tù binh ở Medina, 
										Zaynab (con gái của Muhammad) vội gom 
										tiền bạc và nữ trang rồi đưa cho anh của 
										chồng là Amir đến Medina nộp tiền chuộc 
										(ransom) cho Muhammad để lãnh Abu-Alas 
										về. Trong số nữ trang Amir giao nộp có 
										cái vòng đeo tay của bà Khadija thường 
										đeo lúc còn sống, trước khi chết bà đã 
										trao lại cho Zaynab. Vừa nhìn thấy chiếc 
										vòng đó, Muhammad nhận ra ngay đó là 
										chiếc vòng đầy kỷ niệm của người vợ yêu 
										quí nhất đời của ông. Ông xúc động bật 
										khóc rồi trả lại hết mọi thứ cho Amir. 
										Ông cho gọi Abu Alas đến để yêu cầu 
										người con rễ phải đưa Zaynab và đứa cháu 
										ngoại đến Medina sống với ông. Trong lúc 
										này tại Medina chỉ còn lại cô gái út tên 
										Fatimah, 20 tuổi, là người thân duy nhất 
										sống gần ông mà thôi. Sau khi Abu Alas 
										hứa thực hiện lời ông yêu cầu, y liền 
										được thả tự do. 
				 Chỉ vài tuần lễ sau trận 
										đánh Badr, tại Medina diễn ra hai đám 
										cưới linh đình: 
				 - Đám cưới thứ nhất của 
										Fatimah và Ali. Ali là con trai út của 
										ông chú Abu Talib. Khi ông Talib qua đời 
										thì Ali mới 5 tuổi, Muhammad đem về nuôi 
										từ đó đến nay. Ali và Fatimah đã sống 
										với nhau chung một nhà từ nhỏ đến lớn 
										nên rất hiểu nhau. 
				 - Đám cưới thứ hai là của 
										chính Muhammad và cô Hafsah, 18 tuổi, 
										con gái của bạn Muhammad là Umar. 
				 Năm 625, Muhammad 55 tuổi, 
										cô vợ bé bỏng mà Muhammad yêu quí nhất 
										là Aisha - con gái út của Abu Bakr - năm 
										nay vừa tròn 11 tuổi. Mặc dầu còn nhỏ 
										xíu nhưng Aisha cũng biết ghen với các 
										bà vợ khác của Muhammad. Tuy nhiên, 
										trong đám cưới này, Aisha không ghen với 
										Hafsah mặc dầu Hafsah rất đẹp. Cô bé 
										Aisha tuy còn nhỏ nhưng rất thông minh. 
										Cô bé hiểu rằng: Cha cô là Abu Bakr cũng 
										như cha của Hafsah là Umar đều đã gã con 
										gái để kết thân với Muhammad. Từ mấy năm 
										nay, Abu Bakr và Umar đã là hai cộng sự 
										viên quan trọng nhất của Muhammad. Vì 
										cùng hiểu như vậy nên Aisha và Hafsah 
										trở thành đôi bạn chí cốt cho đến chết. 
										Quả nhiên về sau Abu Bakr và Umar đều 
										trở thành những người kế vị Muhammad và 
										đều là những người then chốt nắm vận 
										mạng của Hồi Giáo trong thời sơ khai. 
				 Sau những tổn thất nặng nề 
										tại Badr, giới lãnh đạo Mecca quyết tâm 
										tăng cường binh lực để tiêu diệt căn cứ 
										địa Medina của Muhammad. Một mặt Mecca 
										thu phục các bộ lạc Bedouin thiện chiến 
										làm đồng minh. Mặt khác Mecca ngấm ngầm 
										liên lạc với ba bộ lạc Do Thái ở Medina 
										làm nội ứng. 
				 Điểm yếu của Mecca là nhiều 
										chiến sĩ tài giỏi đã chẳng may tử trận 
										tại Badr, nay chỉ còn lại một người có 
										khả năng chỉ huy quân sự là Abu Sufyan.
										 
				 Abu Sufyan vô cùng căm thù 
										Muhammad vì hai con trai của ông và cha 
										vợ của ông đều bị tử trận ở Badr. Từ 
										tháng 3 năm 625, Sufyan bắt đầu mở chiến 
										dịch phục thù. Trong một đêm, Sufyan dẫn 
										200 quân đến bố trí bên ngoài thành 
										Medina, sau đó ông một mình đột nhập vào 
										thành liên lạc với bộ lạc Do Thái Bani 
										Nadir. Ông được bộ lạc này cung cấp 
										nhiều tin tức về quân số và hệ thống 
										phòng thủ của Muhammad. Trước khi trời 
										sáng, Sufyan bắt hai người Hồi Giáo đem 
										ra ngoài thành chém đầu rồi nổi lửa đốt 
										đồng lúa trước khi rút lui. Đến khi 
										Muhammad hay tin, đem quân đuổi theo thì 
										đoàn quân của Sufyan đã phi ngựa chạy 
										xa. 
				 Sau vụ này, Muhammad cho 
										toán tình báo của ông đi điều tra. Kết 
										quả tình báo cho biết bộ lạc Do Thái 
										Bani Nadir đã thông đồng với Abu Sufyan. 
										Bộ lạc này có khoảng một ngàn người 
										chuyên nghề thợ rèn và thợ thủ công. Mấy 
										hôm sau, nhân một vụ xích mích giữa một 
										nhóm người Do Thái với một nhóm người Ả 
										Rập Hồi Giáo, kết quả của vụ ẩu đả là 
										một người Do Thái và một người Ả Rập bị 
										tử thương. 
				 Muhammad nhân cơ hội này đem 
										quân bao vây khu vực của bộ lạc Bani 
										Nadir. Sau hai tuần lễ bao vây, Muhammad 
										không thấy các bộ lạc Do Thái khác có 
										phản ứng gì và cũng không thấy quân 
										Mecca tới cứu đồng minh của họ. Tù 
										trưởng bộ lạc Do Thái Bani Nadir không 
										hy vọng được tiếp cứu nên phải đầu hàng 
										và xin Muhammad tha mạng. Muhammad ra 
										lệnh toàn thể bộ lạc Bani Nadir phải rời 
										khỏi Medina và chỉ được mang theo các 
										động sản gọn nhẹ. Tất cả nhà cửa ruộng 
										vườn đều bị tịch thu. 
				 Sau khi bộ lạc Do Thái Bani 
										Nadir bị đuổi ra khỏi Medina thì tại ốc 
										đảo này vẫn còn lại hai bộ lạc Do Thái 
										khác là bộ lạc Aws và bộ lạc Khasraj. 
				 Ngày 11 tháng 3 năm 625, 
										Mecca quyết định mở cuộc tấn công 
										Medina. Tổng số quân huy động được lên 
										tới 3000 người với 3000 lạc đà và 200 
										ngựa, tất cả được đặt dưới quyền chỉ huy 
										của Abu Sufyan. Cuộc chuyển quân bằng 
										lạc đà đi rất chậm nên mất mười ngày 
										đoàn quân mới tới gần Medina. 
				 Muhammad hay tin nên đem một 
										ngàn quân đi nghênh chiến tại Uhud, cách 
										Medina 20 dặm về phía nam. Ngày 
										23-3-625, quân hai bên đối diện nhau tại 
										Uhud. Điều đặc biệt là đằng sau đoàn 
										quân của Sufyan còn có một đoàn quân phụ 
										nữ gồm toàn những người có chồng, con 
										trai hoặc cha bị tử trận ở Badr. Họ dàn 
										hàng ngang phía sau các đoàn quân vừa 
										đánh trống tambourines vừa ca hát để 
										khích lệ tinh thần của các binh sĩ 
										Mecca. Đoàn phụ nữ này được đặt dưới sự 
										chỉ huy của bà Hind là vợ của Sufyan. Bà 
										Hind thề trước đoàn quân là sẽ mổ bụng 
										ăn gan của Hamzah, một quân sĩ của 
										Muhammad bị nhận diện là người đã giết 
										cha của bà Hind tại trận Badr. 
				 Trong trận này, Muhammad và 
										quân sĩ chỉ mãi lo đối phó với đoàn quân 
										của Sufyan ở phía trước mặt mà không đề 
										phòng ở phia sau lưng. Bất thần đoàn 
										cung thủ của Sufyan đã núp sẵn ở những 
										đụn cát phía sau tiến lên bắn như mưa 
										vào đoàn quân Hồi Giáo. Sáu mươi lăm 
										quân Hồi chết liền tại chỗ và hàng trăm 
										người khác bị thương, trong đó có 
										Muhammad. Vì Muhammad bị bất tỉnh nên 
										quân Hồi lo rút lui để bảo vệ chủ tướng. 
										Rất may là quân Mecca tuy đông gấp ba 
										lần quân Hồi nhưng đã không truy kích. 
										Quân Hồi phải để xác đồng đội ở lại 
										chiến trường. Đoàn quân Mecca trả thù 
										bằng cách cắt xẻo những xác chết của 
										quân Hồi. Riêng xác của Hamzah bị quân 
										Mecca mổ bụng moi gan để đưa cho vợ của 
										Sufyan là bà Hind. Mụ này cắn một miếng 
										ăn sống để thực hiện đúng với lời thề 
										trước hàng quân trước đó. 
				 Sau vụ thất trận bi thảm tại 
										Uhud, tinh thần của cả cộng đồng Hồi 
										Giáo (Umma) xuống thấp chưa từng thấy. 
										Nhiều tín đồ trước đây đã nghe Muhammad 
										thuyết giảng là Thiên Chúa đứng về phe 
										của Hồi Giáo: "Hai mươi người đánh thắng 
										hai trăm - Đó là đặc quyền Chúa ban cho 
										các tín đồ của Ngài - Koran 8:17". Nay 
										giáo chủ bị thương bất tỉnh, quân bị 
										chết nhiều và đoàn quân Hồi chưa kịp 
										đánh đã phải rút chạy. Nhiều tín đồ tỏ ý 
										thất vọng và coi trận Uhud là một dấu 
										hiệu cho thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi tiên 
										tri Muhammad. 
				 Mấy hôm sau, Muhamamad phục 
										hồi sức khỏe, ông viết vào kinh Koran 
										mấy câu thơ nhắc nhở tín đồ: "Các tín đồ 
										không nên coi thất bại ở trận Uhud là 
										dấu hiệu của Thiên Chúa đã ruồng bỏ tiên 
										tri của ngài, hãy coi đó là dịp để xem 
										ai là tín đồ chân chính và ai không là 
										chân chính - Koran 3:13, 3:152". 
				
				 
				2.  Harem 
										của tiên tri tại Medina.- 
				Trận đánh Uhud ngày 23 
										tháng 3 năm 625 đã để lại chiến trường 
										65 xác người Hồi Giáo và tại Medina 65 
										người phụ nữ góa chồng. Vài tháng sau 
										lại có thêm 50 người nữa bị quân Mecca 
										phục kích giết chết. Kết quả là tại 
										Medina đã có trên một trăm góa phụ. Đứng 
										trước thảm cảnh này, Muhammad đã viết 
										những câu thơ trong kinh Koran nhằm 
										khuyến khích đàn ông Hồi Giáo lấy thêm 
										vợ: 
				 
				"Nếu thấy điều đó 
										là tốt cho anh 
				 Hãy lấy thêm hai, ba, bốn 
										vợ". 
				 (Marry such women as seem 
										good to you 
				 two, three or four - Koran 
										4:3) 
				 "Hãy lấy những người đàn bà 
										không có chồng  
				 ở trong cộng đồng của các 
										người". 
				 (Marry the spouseless among 
										you - Koran 24:33). 
				 Khi viết những câu thơ có 
										tính cách cổ vũ chế độ đa thê, Muhammad 
										không hề nghĩ đến chuyện thỏa mãn dục 
										tình một cách ích kỷ mà chỉ nghĩ đến một 
										nhiệm vụ xã hội. Trong hoàn cảnh xã hội 
										Ả Rập lúc đó các bà góa khó có thể sống 
										một mình vì những người góa bụa cô đơn 
										thường hay bị các kẻ gian lạm dụng hoặc 
										bắt nạt. Do đó, các góa phụ rất cần phải 
										có người đàn ông giúp đỡ và che chở. 
				 Kinh Koran đòi hỏi những 
										người đàn ông có nhiều vợ phải dành cho 
										mỗi người vợ một số lượng thời gian bằng 
										nhau và phải đối xử công bình như nhau. 
										Trước biến cố này, Muhammad chỉ có 3 
										người vợ là Saudah (29 tuổi) Aisha (11 
										tuổi) và Hafsah (18 tuổi). Để thực hiện 
										điều ông vừa viết trong kinh Koran, 
										Muhammad lấy bà vợ thứ tư là Zaynab 
										Kuzaymah, vợ góa của một chiến sĩ mới tử 
										trận trong tháng giêng năm 624 tại Badr. 
										Vài tháng sau ông cưới bà vợ thứ năm là 
										Salamah 29 tuổi, vợ góa của người em họ. 
										Nàng rất thông minh và khá xinh đẹp, về 
										sau nàng là một cố vấn đắc lực cho 
										Muhammad về nhiều phương diện. 
				 Đến lần cưới bà vợ thứ sáu, 
										Muhammad gặp phải những điều tai tiếng 
										dị nghị và một số chuyện phiền phức 
										khác. Vào đầu năm 626, Muhammad đến thăm 
										người con nuôi tên là Zayd mà ông đã 
										nuôi từ lúc còn nhỏ ở Mecca. Vợ của Zayd 
										từ trong nhà chạy ra mở cửa để đón 
										khách. Vì thấy Muhammad đến thăm bất ngờ 
										nên nàng vỗ tay reo mừng và tỏ ra rất 
										hân hạnh được đón tiếp Muhammad. 
				 Vợ của Zayd tên Zaynab 
										Jahsh, 30 tuổi, có một nét đẹp đặc biệt 
										là rất mặn mà duyên dáng. Hôm gặp nàng 
										ra mở cửa đón chào, Muhammad bị choáng 
										váng trước vẻ đẹp của nàng nên đã nói 
										những lời khen ngợi khiến cho nàng cảm 
										động. Sau đó Zaynab nói thẳng với chồng 
										là nàng muốn ly dị để lấy Muhammad nếu 
										Muhammad đồng ý cưới nàng. Zayd rất đau 
										khổ về chuyện này nhưng vì sau đó bị vợ 
										thúc ép nên Zayd đành phải đến gặp 
										Muhammad để hỏi xem Muhammad có muốn lấy 
										Zaynab làm vợ không. Muhammad trả lời 
										đồng ý nên Zayd về làm thủ tục ly dị vợ. 
				 Mấy bữa sau, một đám cưới 
										linh đình được tổ chức, Zaynab Jahsh từ 
										vị trí con dâu (nuôi) trở thành vợ của 
										người cha nuôi chồng cũ. 
				 Trong tiệc cưới có nhiều 
										người đàn ông đến tham dự đã ở nán lại 
										quá lâu để chiêm ngưỡng sắc đẹp mặn mà 
										của cô dâu đặc biệt này. Muhammad muốn 
										đuổi họ về nhưng lại không muốn làm mất 
										lòng họ. Vì không thấy Muhammad nói gì 
										nên những người đàn ông đó đã đến sát 
										gần các bà vợ của Muhammad và nói chuyện 
										một cách xàm sỡ. Muhammad thấy cần phải 
										có biện pháp ngăn cách những người đàn 
										ông đầy dục vọng này tách rời khỏi các 
										bà vợ trẻ đẹp của ông. Muhammad đã viết 
										những câu thơ để diễn đạt ý này như sau: 
				 
				"Các tín đồ đừng 
										nên vào nhà của Tiên Tri 
				
				để dùng bữa mà không để ý đến giờ giấc 
										thích hợp 
				
				Trừ khi các người được Tiên Tri cho phép 
				
				Nếu các người được Tiên Tri mời thì cứ 
										vào ăn 
				
				Nhưng khi ăn xong thì giải tán 
				
				Đừng nói chuyện quá nhiều làm phiền lòng 
										Tiên Tri 
				
				Vì ngài rất ngượng phải đuổi các người 
										đi 
				
				Nếu các người muốn hỏi những người vợ 
										của Tiên Tri về bất cứ chuyện gì. Hãy 
										nói chuyện với họ đằng sau tấm mạng che 
										mặt. Điều này làm cho trái tim của các 
										người và của các nàng được thanh khiết". 
				(Believers! do not enter the house of 
										the Prophet 
				For a meal without waiting for the 
										proper time 
				Unless you are given leave. 
				But if you are invited, enter. 
				When you have eaten, disperse. 
				Do not engage in familiar talk 
				 
				For this would annoy the Prophet 
				And he would be ashamed to bid you go 
				If you ask his wives for anything, speak 
										to them from behind a curtain (hijab) 
										.This is more chaste for your hearts and 
										their hearts - Koran 33: 53) 
				
				Mấy 
										câu thơ trên đây rất nổi tiếng trong thế 
										giới Hồi Giáo. Người ta gọi là "Những 
										câu thơ của bức màn che" (The Verses of 
										the curtain). Bức màn che đó chính là 
										tấm mạng che mặt (veil) của phụ nữ Hồi 
										Giáo, tiếng Ả Rập gọi là HIJAB. Thông 
										thường thì tấm vải này có màu đen và đủ 
										rộng để che kín đầu, tóc, phủ đến vai và 
										che kín cả mặt, chỉ chừa khoảng trống 
										nhỏ ở đôi mắt để người phụ nữ có thể 
										nhìn đường. Cũng từ khi có mấy câu thơ 
										đó xuất hiện, các bà vợ của Muhammad đều 
										phải che mạng mỗi khi bước chân ra khỏi 
										nhà hoặc khi tiếp chuyện với mọi người 
										ngoài gia đình. Đó cũng là khuôn vàng 
										thước ngọc về việc đeo mạng của phụ nữ 
										trong thế giới Hồi Giáo sau này! 
				
				Đầu 
										năm 627, Aisha 13 tuổi, nàng bắt đầu đến 
										tuổi dậy thì nên bỗng nhiên trổ mã lớn 
										vượt lên và đẹp hẳn ra. Muhammad yêu 
										thích Aisha hơn tất cả các cô vợ khác 
										nên đi đâu ông cũng mang theo Aisha. 
										Thậm chí có một hôm Muhammad mang quân 
										đi phục kích để chận đánh bộ lạc Do Thái 
										Bani trên bờ biển Hồng Hải, ông cũng dẫn 
										Aisha đi theo bên mình. 
				
				Sau 
										trận tấn công vũ bão của Muhammad, bộ 
										lạc Do Thái Bani bỏ chạy tán loạn, Lịch 
										sử không nói tới số thương vong của họ 
										là bao nhiêu, chỉ nói họ đã để lại chiến 
										trường 2000 lạc đà, 5000 con cừu và 200 
										phụ nữ. Muhammad tuyển chọn một cô đẹp 
										nhất tên là Juwayriah để lấy làm vợ. Số 
										phụ nữ còn lại sẽ được trả tự do sau khi 
										thân nhân của họ mang tiền đến chuộc. 
				
				Trên 
										đường từ mặt trận trở về Medina, tại một 
										nơi nghỉ chân, Aisha lẻn xuống khỏi kiệu 
										trên lưng lạc đà để đi vệ sinh. Lúc trở 
										lại chỗ cũ thì đoàn quân đã đi khỏi. 
										Trong lúc nàng đang lo sợ thì có một 
										thanh niên tên Safwan là lính hậu vệ của 
										đoàn quân từ phía sau đi tới, Aisha vội 
										lật cái mạng của nàng ra để Safwan nhận 
										diện. Safwan không còn cách nào khác hơn 
										là bế nàng lên lưng lạc đà của chàng để 
										cả hai người cùng cưỡi về Medina. 
				
				Khi 
										thấy Safwan và Aisha cùng ngồi trên lưng 
										lạc đà về Medina một lúc sau khi cả đoàn 
										quân đã trở về hết, mọi người ở Medina 
										bắt đầu bàn tán về đức hạnh của Aisha. 
										Muhammad tức giận nổi ghen và không muốn 
										nhìn mặt Aisha nữa. Aisha quá đau khổ 
										vì bị hiểu lầm nên sinh bệnh. Trong lúc 
										đang đau khổ mà không thể giải bày thì 
										Aisha nghe thấy Ali nói với Muhammad 
										rằng: "Trên đời này thiếu gì đàn bà, cha 
										có thể lấy người vợ khác tốt hơn". Câu 
										nói của Ali như nhát dao đâm thấu tim 
										của Aisha và sau này Aisha sẽ không tha 
										thứ cho Ali. 
				(Ba 
										mươi năm sau, khi Ali lên làm vua 
										(Caliph) của Hồi Giáo thì Aisha lãnh đạo 
										một cuộc cách mạng chống Ali). 
				
				Mấy 
										hôm sau, Muhammad suy nghĩ lại và chợt 
										hiểu ra rằng Aisha chỉ là một cô bé ngây 
										thơ vô tội nên ông đã làm hòa với Aisha. 
										Cha mẹ Aisha thấy vậy rất vui mừng nên 
										khuyên Aisha cám ơn Muhammad. Aisha 
										thẳng thắn trả lời: "Con không cám ơn ai 
										hết, kể cả tiên tri Muhammad. Con chỉ 
										cám ơn một người duy nhất là Thiên 
										Chúa". Muhammad nghe vậy rất cảm phục 
										Aisha vì nàng tuy nhỏ nhưng đã tỏ ra là 
										có bản lãnh vững vàng, có đức tin mạnh 
										và không hề sợ hãi. Từ đó cho đến lúc 
										chết, Muhammad không yêu ai hơn yêu 
										Aisha. 
				
				
				Vì 
										tình cảm thiên vị của Muhammad dành cho 
										Aisha quá lộ liễu nên các cô vợ khác của 
										Muhammad ghen tuông và khiếu nại, viện 
										cớ kinh Koran dạy người chồng phải đối 
										xử công bằng với các bà vợ. Từ đó ông 
										phải theo thứ tự ngủ đêm tại mỗi phòng 
										với một cô. Mỗi khi đi đâu, ông phải rút 
										thăm để biết ai là người sẽ cùng đi với 
										ông trong cuộc hành trình. Tuy nhiên, 
										mỗi khi Muhammad đến đền thờ để giảng 
										đạo thì chỉ có một người duy nhất luôn 
										luôn ở bên cạnh ông là Aisha. Ông nói 
										với mọi người rằng Aisha cũng có ơn mặc 
										khải của Thiên Chúa giống như ông. Một 
										hôm cô con gái cưng của Muhammad là 
										Fatimah khuyên cha không nên quá gần gũi 
										với Aisha. Muhammad hỏi lại: "Chẳng lẽ 
										con không yêu người cha yêu quí nhất hay 
										sao?". 
				
				Sau 
										khi Muhammad qua đời, Aisha trở thành 
										người quan trọng nhất về giáo lý và luật 
										pháp của Hồi Giáo. 
				
				
				3. Vụ thảm sát 700 người Do Thái 
										tại Medina.- 
				
				Tháng 3 năm 627, Mecca huy động 10.000 
										quân với dự tính phá tan căn cứ địa 
										Medina của Muhammad. Trong khi đó, 
										Muhammad cũng đã chuẩn bị đối phó bằng 
										cách mua chuộc một số quân thiện chiến 
										của bộ lạc Bedouin. Nhờ đó quân số chiến 
										đấu của Muhammad đã lên tới 3000 người. 
										Điểm lợi nhất cho Muhammad là căn cứ địa 
										Medina được thiên nhiên bảo vệ ba phía 
										bằng những sườn núi nham thạch rất dốc. 
										Chỉ còn một phía duy nhất trống trải là 
										phia bắc của ốc đảo mà thôi. 
				
				Vì 
										biết trước việc Mecca sắp tấn công nên 
										Muhammad ra lệnh cho các tín đồ gặt lúa 
										và tích trữ lương thực. Sau đó ông huy 
										động toàn dân ở Medina đào một cái hào 
										thật sâu suốt dọc phía bắc của ốc đảo. 
										Số đất đào được đắp thành lũy cao. Đây 
										là một phương cách phòng thủ chưa từng 
										thấy ở Ả Rập. Sáng kiến này do một tín 
										đồ Hồi Giáo gốc Ba Tư là Salman đưa ra. 
										Hào sâu sẽ chận đứng bước tiến của các 
										đoàn kỵ binh của địch vì ngựa không thể 
										nhảy qua để tiến vào ốc đảo. Lũy cao sẽ 
										là cái lá chắn hữu hiệu các loạt tên của 
										địch, trái lại, quân Hồi Giáo có núp sau 
										lũy để bất thần bắn ra những loạt tên để 
										diệt địch. 
				
				Ngày 
										31-3 năm 627, mười ngàn quân Mecca kéo 
										tới Medina. Khi đến trước cửa ngõ phia 
										bắc của ốc đảo, các đoàn quân của Mecca 
										đều phải khựng lại vì ngựa cũng như 
										người đều không thể vượt qua hào sâu lũy 
										cao. Trong khi đó, quân của Muhammad núp 
										trên lũy cao bắn tên xuống như mưa gây 
										nhiều thương vong cho quân Mecca. Quân 
										Mecca không còn cách nào khác hơn là rút 
										ra xa khỏi tầm tên bắn để đóng quân bao 
										vây. Sau 3 tuần lễ bao vây, quân Mecca 
										bị cạn hết lương thực và nước uống. 
										Người, ngựa và lạc đà đều bị đói và khát 
										nên không thể ở lại lâu hơn, cuối cùng 
										cả đoàn quân 10.000 người đành phải âm 
										thầm rút lui. 
				
				Trước khi có vụ tấn công của Mecca, tin 
										tình báo đã cho Muhammad biết về những 
										âm mưu của bộ lạc Do Thái Aws làm nội 
										ứng cho Mecca để chống lại Hồi Giáo. Sau 
										khi đoàn quân của Mecca đã rút hết, 
										Muhammad quyết định phải tiêu diệt bộ 
										lạc Aws để trừ hậu hoạn. Ông ra lệnh cho 
										các tín đồ đào một cái hố lớn tại chợ 
										Medina. Sau đó ông trực tiếp chỉ huy 
										cuộc bao vây khu vực của bộ lạc Aws để 
										bắt hết mọi người đàn ông của bộ lạc 
										này. Chỉ có một số rất ít người Do Thái 
										được các tín đồ Hồi Giáo xin với 
										Muhammad cho tha mạng, số còn lại khoảng 
										700 người đàn ông Do Thái bị trói từng 
										người và bị đưa ra cái hố lớn ở giữa chợ 
										Medina để chém đầu. Sau đó, các xác chết 
										được xô xuống hố lấp lại thành một nấm 
										mồ tập thể. 
				
				Trong vụ thảm sát này có một người đàn 
										bà duy nhất bị chém đầu. Đó là người đàn 
										bà Do Thái bị người Hồi Giáo tố cáo là 
										đã lợi dụng lúc quân Mecca bao vây 
										Medina để ném đá vào người Hồi Giáo. 
				Về sau, Aisha đã kể chuyện về người 
										đàn bà Do Thái này như sau: "Bà ta đến 
										nói chuyện với tôi trong khi Muhammad 
										đang tàn sát người Do Thái ở chợ Medina. 
										Rồi đột nhiên người ta đến bắt bà ấy. 
										Tôi ngạc nhiên hỏi: "Có chuyện gì xảy ra 
										cho bà vậy?" Bà ta bình tĩnh trả lời: 
										"Người ta đem tôi đi chém đầu". Tôi liền 
										hỏi: "Về tội gì?". Bà ta đáp: "Về một 
										việc mà tôi đã làm". Liền sau đó bà ta 
										bị chặt đầu tại chợ. Aisha kể tiếp: "Tôi 
										sẽ không bao giờ quên được người đàn bà 
										Do Thái can đảm phi thường - Bà ta vẫn 
										cười trong lúc bị lôi đến pháp trường để 
										chém đầu". Vợ con của 700 người bị chém 
										đầu đều bị trói đem đi bán ở các chợ nô 
										lệ. 
				(Muhammad, 
										a biography of the prophet, by Karen 
										Amstrong - Chapter 8, 164-210). 
				
				GIAI ĐOẠN 
										SAU (627-632) TẠI MEDINA
				 Sau năm năm đầu chiếm cứ 
										Medina (622-627), Muhammad và cộng đồng 
										Hồi Giáo đã gây ra nhiều cuộc đột kích 
										đẫm máu để tấn công các đoàn thương buôn 
										của Mecca nhằm mục đích cướp ngựa, lạc 
										đà, vũ khí, tiền bạc và đủ loại hàng hóa 
										vừa để sống còn tại ốc đảo Medina vừa để 
										tăng cường lực lượng quân sự. Sau vụ 
										trục xuất bộ lạc Do Thái Bani và vụ tàn 
										sát bộ lạc Do Thái Aws, danh tiếng của 
										Muhammad được loan đi khắp vùng và ai 
										cũng phải nể sợ. Các bộ lạc Bedouin 
										trước đây là đồng minh với Mecca, nay sợ 
										sẽ bị Muhammad trả thù nên tuyên bố 
										không liên kết với Mecca nữa. 
				 Trong tình hình thuận lợi 
										hiện tại, Muhammad quyết định: Trước hết 
										thống nhất tất cả các bộ lạc Ả Rập thành 
										một quốc gia. Bộ lạc nào tách rời sẽ bị 
										trừng phạt. Sau đó sẽ chiếm thành phố 
										Becca làm thủ đô phát triển đạo Hồi. 
				 Tuy chưa phải là một quốc 
										vương nhưng Muhammad đã viết thư và sửa 
										soạn những món quà quí giá rồi cử nhiều 
										phái đoàn đến yết kiến các hoàng đế của 
										đế quốc Byzantine và đế quốc Ba Tư, các 
										vua Ai Cập và Ethiopia. 
				 Sau đó ông gửi thư đến các 
										bộ lạc Ả Rập, không phân biệt họ theo 
										tôn giáo nào. Trong thư ông nhấn mạnh: 
										"Đạo Do Thái là đạo của con cháu Jacob, 
										đạo Hồi là đạo của con cháu Ismael. Kinh 
										Thánh Cựu Ước bằng tiếng Hebrew của Do 
										Thái, Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp của Ki 
										Tô Giáo, Kinh Koran bằng tiếng Arabic là 
										Kinh Thánh của người Ả Rập". Ông không 
										yêu cầu mọi người theo đạo Hồi nhưng yêu 
										cầu tất cả các bộ lạc Ả Rập gia nhập 
										"Cộng Đồng Ả Rập", tương tự như "umma" ở 
										Medina. Sau thư mời nói trên, nhiều bộ 
										lạc Ả Rập xin gia nhập "umma", đặc biệt 
										là các bộ lạc Bedouine. Chỉ còn lại 3 bộ 
										lạc không chiu gia nhập là các bộ lạc 
										Asad, Thalabah và Sad. Từ cuối năm 627 
										đến cuối năm 628, Muhammad mang quân đi 
										tấn công để trừng phạt 3 bộ lạc nói 
										trên. 
				 Cũng trong thời gian này, 
										Muhammad mở những cuộc tấn công các đoàn 
										thương mại Mecca với chủ đích phá vỡ 
										hoàn toàn thế độc quyền thương mại của 
										thành phố này với các xứ phương Bắc. Để 
										chính thức cạnh tranh với Mecca, 
										Muhammad lập các đoàn lữ hành tải hàng 
										từ Medina đi bán ở Syria và Ba Tư, sau 
										đó mua các hàng quí hiếm của ngoại quốc 
										đem về Medina để biến ốc đảo này trở nên 
										một thành phố sầm uất. 
				 Trong một vụ phục kích cướp 
										hàng của Mecca, không ngờ chuyến hàng đó 
										là của Abu Alas, con rễ của Muhammad. 
										Trước đây, Abu Alas không chiu theo đạo 
										Hồi nên vẫn ở lại Mecca và không theo vợ 
										con đến Medina. Sau vụ bị cướp hết hàng 
										này, Abu Alas buộc lòng phải đến Medina 
										gặp vợ là Zaynab nhờ can thiệp. Zaynab 
										đến gặp cha để xin lại số hàng cho 
										chồng. Muhammad đồng ý với điều kiện Abu 
										Alas phải về ở hẳn tại Medina đoàn tụ 
										với vợ con. Sau đó Abu Alas được trả 
										toàn bộ số hàng hóa đưa về Mecca bán rồi 
										trở lại Medina theo đạo Hồi để được sống 
										yên ổn với vợ con. 
				 Đầu năm 628, nhân dịp tháng 
										ba là tháng hành hương đền thờ Kaaba tại 
										Mecca theo tục lệ cổ truyền của các dân 
										tộc Ả Rập. Muhammad báo trước cho Mecca 
										biết ông sẽ hướng dẫn 1000 tín đồ đến 
										hành hương tại đền thờ Kaaba và không 
										mang theo vũ khí, chỉ đem theo 70 con 
										lạc đà để làm lễ hy sinh (animal 
										sacrifice) mà thôi. Mặc dầu tuyên bố 
										không mang theo vũ khí nhưng tất cả mọi 
										tín đồ của Muhammad đều dấu trong áo 
										choàng những đoản kiếm và dao găm đề 
										phòng bất trắc. 
				 Khi đoàn người của Muhammad 
										đến gần Mecca thì bị viên chức cao cấp 
										của thành phố là Khalid dẫn 200 kỵ binh 
										ra ngăn chặn không cho vào thành phố. 
										Muhammad cảnh cáo Khalid không nên tấn 
										công đoàn người của ông, nếu tấn công sẽ 
										bị đánh trả đích đáng. Khalid đành 
										nhượng bộ và để cho đoàn người của 
										Muhammad tự do đến đền thờ Kaaba. 
				 Đầu năm 629, một số bộ lạc 
										Do Thái ở những ốc đảo phía Bắc Medina 
										tỏ ra thù ghét Muhammad. Muhammad quyết 
										định mang 600 quân đến bao vây thị trấn 
										ở gần nhất là Khaybar. Thị trấn này được 
										bảo vệ bởi một hệ thống thành lũy và 7 
										pháo đài. Trước hết, Muhammad để quân 
										bao vây thị trấn này trong một tháng. 
										Sau đó quân Hồi bất thần tấn công và 
										triệt hạ từng pháo đài một. Cuối cùng 
										mọi bộ lạc Do Thái ở đây xin đầu hàng, 
										nộp một nửa các huê lợi chà là ngũ cốc 
										và xin được làm chư hầu của Medina. 
				 Những bộ lạc Do Thái ở kế 
										cận Khaybar đều xin ký hòa ước thần phục 
										Muhammad. Một tù trưởng Do Thái ở thị 
										trấn Fadak tên là Huyay muốn cầu thân 
										với Muhammad nên đã gả cho Muhammad cô 
										con gái út 17 tuổi rất đẹp tên là 
										Safyah. 
				 Cũng trong thời gian này, 
										người anh họ của Muhammad qua đời, 
										Muhammad lấy vợ của anh ta tên là 
										Ramlah. Do những cuộc hôn nhân xảy ra 
										dồn dập sau này nên harem của Muhammad 
										đã trở nên khá đông. Các bà vợ của 
										Muhammad chia thành hai phe. Phe trẻ gồm 
										có Aisha 15 tuổi, Hafsah 17 tuổi và 
										Safyah 17 tuổi tạo thành bộ ba (The 
										Trio) tách rời và chống lại các "bà già" 
										của Muhammad! 
				 Tháng 3 năm 629, Muhammad tổ 
										chức cuộc hành hương đền thờ Kaaba với 
										2600 người tham dự. Lần này đến Mecca, 
										đoàn người của Muhammad không gặp một sự 
										cản trở nào cả. Nhân dịp này, Muhammad 
										tình cờ gặp lại người chú họ tên là 
										Abbas cùng đi hành hương với cô em gái 
										rất đẹp tên là Maymunah. Muhammad xin 
										cưới người cô họ này và tổ chức đám cưới 
										ngay tại Mecca. Lợi dụng tiệc cưới làm 
										cơ hội giải hòa, Muhammad mời tất cả các 
										kẻ thù của ông tại Mecca đến dự tiệc 
										cưới. Không ngờ người chỉ huy quân sự 
										cao cấp nhất ở Mecca là Khalid nhận lời 
										mời đến dự tiệc cưới của Muhammad. Sau 
										tiệc cưới, Khalid tự nguyện xin theo đạo 
										Hồi. Đây là thành công bất ngờ và hết 
										sức lớn lao của Muhammad. 
				 Khi phái đoàn 2600 người vào 
										làm lễ tại đền thờ Kaaba, Bilal là người 
										da đen đầu tiên theo đạo Hồi đã leo lên 
										nóc đền thờ Kaaba kêu gọi mọi người cầu 
										nguyện ba lần một ngày. Đến đêm cuối 
										cùng của chương trình hành hương, toàn 
										thể 2600 người lặng lẽ rút êm ra khỏi 
										thành phố mà không ai hay biết. 
										Muhammad cố ý thực hiện điều này để cho 
										dân Mecca biết rằng Cộng Đồng Hồi Giáo 
										là một tập thể gắn bó với nhau bằng đức 
										tin, có tổ chức chu đáo với tinh thần kỷ 
										luật rất cao. 
				 Khalid đi theo Muhammad về 
										Medina. Trước đây Khalid là vị tướng chỉ 
										huy quân Mecca đối đầu với Muhammad tại 
										các trận Uhud và trận Trench (hào lũy). 
										Muhammad hết sức vui mừng đón nhận 
										Khalid. Từ đó Khalid trở thành một trong 
										những dũng tướng của Muhammad tại 
										Medina. 
				 Cuối năm 629, Muhammad làm 
										một cuộc mạo hiểm đầy tham vọng là đánh 
										chiếm xứ Syria. Ông sai Khalid, Zayd và 
										Jafar dẫn 3000 quân tinh nhuệ và vũ 
										trang hùng hậu đi thử thời vận. Khi tới 
										biên giới Syria, quân thám báo của 
										Khalid cho biết đế quốc Byzantine có 
										10.000 quân tại đây. Khalid không dám 
										đối đầu nên đành rút quân về Jordan dừng 
										chân. Đế quốc Byzantine cho rằng quân 
										Hồi đã dám vô cớ kéo đến khiêu khích nên 
										cho quân truy kích đến tận Jordan. Sau 
										một trận đánh không cân sức, quân Hồi bị 
										giết rất nhiều, trong số đó có Zayd (con 
										nuôi của Muhammad) và Jafar. Khalid dẫn 
										đám tàn quân trở lại Medina. Muhammad 
										rất đau buồn vì đã tính sai nước cờ. 
										Trong thời gian đó có một chuyện vui cho 
										riêng Muhammad. Vua Muquaquis của Ai Cập 
										gửi tặng cho Muhammad một cô gái nô lệ 
										gốc Ai Cập rất đẹp tên là Myriam. Cô này 
										theo đạo Ki Tô Chính Thống (Coptic 
										Christian) Muhammad say mê sắc đẹp của 
										Myriam đến nỗi ông bỏ bê tất cả các cô 
										khác. Do vậy mà cơn sóng gió trong harem 
										nổi lên. Ít lâu sau, Myriam mang bầu và 
										sinh ra một đứa bé trai kháu khỉnh. 
										Muhammad đặt tên là Ibrahim (tức 
										Abraham). Ngoài Myriam ra không có một 
										cô nào trong harem sinh con cho Muhammad 
										nên ông càng say mê Myriam hơn nữa. 
				 Aisha, Hafsa và Safyah tổ 
										chức một cuộc nổi loạn trong harem. Mũi 
										dùi tấn công chĩa vào Myriam. Cuộc chiến 
										tranh giữa những người vợ khiến cho 
										Muhammad chịu không nổi nên ông đành 
										phải ngủ đêm tại sàn nhà của đền thờ. 
										Sau đó ông cất một căn gác nhỏ gần nơi 
										đền thờ để mỗi đêm leo lên đó nằm chèo 
										queo một mình. Ông cảm thấy có nhiều vợ 
										cũng chẳng vui sướng gì và ông muốn xa 
										rời tất cả các bà vợ trẻ đẹp của mình. 
										Tuy nhiên, ông cũng không muốn các bà vợ 
										của ông rơi vào tay kẻ khác sau khi ông 
										qua đời. Do đó, ông viết vào kinh Koran 
										mấy vần thơ để qui định hai điều sau 
										đây: 
				 1. Hãy gọi các bà vợ của 
										tiên tri là "các bà mẹ của các tín đồ" 
										(Mothers of the faithful). 
				 2. Sau khi tiên tri qua đời, 
										các bà vợ của Ngài không được lấy chồng 
										khác. 
				 (The Prophet has a greater 
										claim on the faithful than they have on 
										themselves and his wives are their 
										mothers - Koran 33: 6 / Nor that you 
										should marry his wives after him ever, 
										surely this is grievous in the sight of 
										Allah - Koran 33: 53). 
				Nhân dịp mùa chay Ramadan trong tháng 
										giêng năm 630, Muhammad tổ chức một cuộc 
										hành hương vĩ đại tại Mecca với sự tham 
										dự của 10.000 tín đồ có võ trang. 
				 
				
				Muhammad báo trước cho Mecca biết điều 
										đó. Lãnh đạo tối cao của Mecca lúc đó là 
										Abu Sufyan tự xét không đủ sức chống lại 
										Muhammad nên khuyên mọi người không 
										chống cự. Chỉ có ba tù trưởng của ba bộ 
										lạc Ả Rập thù ghét Muhammad quyết tâm 
										chống lại. Khi đoàn quân hành hương của 
										Muhammad đến cổng thành Mecca thì ba tù 
										trưởng Ikrimah, Swafan và Suhayl mang 
										quân ra nghênh chiến. Nhưng chỉ trong 
										khoảnh khắc, đoàn quân Hồi Giáo dưới sự 
										chỉ huy của Khalib đã dẹp tan đoàn quân 
										của các bộ lạc thù địch. Các tù trưởng 
										Ikrimah và Safwan bỏ trốn. Tù trưởng 
										Suhayl đầu hàng. Đoàn quân 10.000 người 
										của Muhammad tràn vào chiếm thành phố 
										Mecca không tốn một giọt máu. 
				 Muhammad căng lều sát cạnh 
										đền thờ Kaaba để làm chỗ trú ngụ cho ông 
										cùng với hai người vợ. Ngoài ra còn có 
										Fatimah là con gái út của ông và chồng 
										là Ali. 
				 Sau khi tất cả mọi người đều 
										tắm rửa sạch sẽ, Muhammad cùng với 
										10.000 chiến sĩ đi vòng quanh đền thờ 
										Kaaba 7 vòng. Bảy vòng này tượng trưng 
										cho 7 tầng của Thiên Đàng. Trong đền thờ 
										có Tảng Đá Đen linh thiêng, cứ đi một 
										vòng thì Muhammad chạm tay vào hòn đá 
										đen một lần. Mỗi lần chạm tay vào hòn đá 
										đen như vậy, Muhammad kêu to lên: 
										"Al-lah Akbar" (Vinh Danh Thiên Chúa). 
										Mười ngàn tín đồ hô theo vang dội như 
										lời reo mừng chào đón chiến thắng cuối 
										cùng của đạo Hồi trên thành phố Mecca. 
				 Sau khi đi hết 7 vòng quanh 
										đền thờ Kaaba, Muhammad và tùy tùng leo 
										lên nóc đền thờ đập nát 360 tượng thần. 
										Bên trong đền thờ có một số tranh vẽ 
										trên tường cũng bị phá hủy, ngoại trừ 
										những bức tranh vẽ hình Chúa Jesus được 
										giữ lại mà thôi. Những bức hình Chúa 
										Jesus có thể đã được những người Ki Tô 
										Giáo vẽ trong đền thờ dưới thời vương 
										quốc Abyssinia cai trị bán đảo Ả Rập từ 
										525 đến 570. 
				 Sau khi chiếm Mecca bằng một 
										phương cách hòa bình, Muhammad ban hành 
										lệnh ân xá cho tất cả mọi người đã chống 
										Hồi Giáo, ngoại trừ 10 người có nợ máu 
										quá nặng, trong số đó có mụ Hind (vợ của 
										Sufyan) đã từng mổ bụng ăn gan Hamzah 
										(một chiến sĩ Hồi Giáo bị tử thương ở 
										Uhud). 
				 Khi mụ Hind bị bắt đưa đến 
										trình diện Muhammad, mụ đã khôn khéo 
										thưa rằng: "Kính thưa tiên tri, ngài là 
										sứ giả của Thiên Chúa, bây giờ ngài 
										không thể lên án phạt tôi vì tôi đã 
										tuyên xưng đức tin Hồi Giáo". Muhammad 
										tươi cười trả lời: "Tất nhiên là mụ đã 
										được trả tự do". 
				 Muhammad đã tha tội chết cho 
										mụ Hind một phần vì mụ đã nhận theo Hồi, 
										nhưng phần quan trọng hơn là vì chồng 
										của mụ (Abu Sufyan) đã có công lớn trong 
										việc thuyết phục thành phố Mecca không 
										chống cự Muhammad nên ông mới có thể 
										chiếm Mecca một cách dễ dàng như vậy. 
										Muhammad đã thưởng công rất lớn cho kẻ 
										thù cũ là Abu Sufyan bằng cách giao cho 
										y và gia đình nắm giữ các chức vụ quan 
										trọng của thành phố Mecca. Sau này con 
										cháu của Sufyan đã lập nên triều đại 
										Ummayad, đóng đô tại Damacus (Syria) và 
										truyền ngôi qua 14 đời vua. 
				 Một nhân vật khác bị 
										Muhammad thù ghét và lên án tử hình là 
										Abdallah, anh nuôi của Uthman. Khi biết 
										mình có tên trong sổ đen của Muhammad, 
										Abdallah đã đến nhờ Uthman can thiệp xin 
										tha mạng. Uthman là người thân tín của 
										Muhammad đã dẫn Abdallah đến gặp chủ 
										tướng. Muhammad chẳng những tha mạng mà 
										còn tin dùng Abdallah. Về sau, Abdallah 
										trở thành một nhân vật quan trọng trong 
										Hồi Giáo. 
				 Sau khi chiếm thành phố 
										Mecca vào tháng giêng năm 630, Muhammad 
										sáp nhập quân của thành phố này với quân 
										của Medina để thành lập một đạo quân Hồi 
										Giáo lên tới 30.000 ngưòi. Tháng 10 năm 
										630, Muhammad cùng Abu Sufyan dẫn đoàn 
										quân này đến thành phố Tabuk, cách 
										Medina 250 dặm về phía bắc. Muhammad cho 
										quân nghỉ dưỡng sức 10 ngày tại thành 
										phố này. Sau đó, Muhammad và Sufyan xua 
										quân tấn công một tiểu quốc của đế quốc 
										Byzantine. Vua của tiểu quốc này là 
										Yuhunna xin đầu hàng và xin thần phục 
										Muhammad. Các cộng đồng Ả Rập và Do Thái 
										tại Jarba và Adruh (tức xứ Jordan ngày 
										nay), đều xin làm chư hầu của Muhammad. 
				 Tháng giêng năm 631, tất cả 
										các bộ lạc trên bán đảo Ả Rập bao la 
										(gấp 8 lần diện tích Việt Nam) đều được 
										đặt dưới sự cai trị của Muhammad. 
				 Đến đầu năm 632, nhiều chiến 
										sĩ Hồi Giáo cảm thấy mỏi mệt vì những 
										cuộc chinh chiến liên miên trong nhiều 
										năm qua. Muhammad cổ võ tinh thần mọi 
										người với lý luận cho rằng những cuộc 
										chinh chiến đó cốt để thực hiện Ý Chúa 
										(God's Will). Việc thực hiện ý Chúa 
										trong lịch sử loài người không bao giờ 
										ngừng nên người Hồi Giáo phải luôn luôn 
										tiếp tục chiến đấu. 
				 Cuộc chiến đấu để truyền đạo 
										lúc đầu luôn luôn bằng phương tiện quân 
										sự và chính trị để dẫn đến sự phục tòng 
										tôn giáo. Hồi Giáo có nghĩa là phục tòng 
										(Islam means submission). Khi Hồi Giáo 
										toàn trị trên một xã hội phục tòng tôn 
										giáo thì đó là một xã hội hòa bình, nói 
										đúng hơn là Hòa Bình Hồi Giáo (Pax 
										Islamica). Muhammad chú ý thực hiện cuộc 
										chiến đấu trên cả hai mặt: quân sự và 
										tôn giáo. 
				 Về quân sự, Muhammad trông 
										cậy vào Abu Sufyan và Khalid. Về tôn 
										giáo, Muhammad chú trọng thuyết giảng 
										cho bốn người chủ yếu là Abu Bakr, Umar, 
										Uthman và Ali. Trong bốn người này, 
										Muhammad yêu thương nhất Ali vì Ali là 
										con út của ông chú Abu Talib đã nuôi 
										Muhammad từ nhỏ đến lớn. Cũng vì yêu 
										thương Ali nên ông đã gả con gái út là 
										Fatimah cho Ali. Vợ chồng Ali có hai đứa 
										con trai tên là Hassan và Husayn. 
										Muhammad cũng rất yêu thương hai đứa 
										cháu ngoại này. Ông thường làm ngựa cho 
										hai đứa cháu cưỡi trên lưng chạy khắp 
										nhà. Sau này, hai đứa cháu ngoại của 
										Muhammad bị phe Hồi Giáo Sunni giết chết 
										và trở thành hai vị đại thánh tử đạo của 
										giáo phái Shiite. Người Chàm ở Việt Nam 
										theo đạo Hồi có nơi thờ Ali và đọc kinh 
										cầu nguyện xưng tụng Ali là con của 
										Thiên Chúa (Son of God). 
				 Đầu năm 632, đứa con trai út 
										của Muhammad với cô gái Ai Cập Myriam bị 
										bệnh chết. Muhammad khóc lóc thảm thiết. 
										Ông cũng linh cảm sắp chết nên nói với 
										mọi người: "Tôi sắp đoàn tụ với đứa con 
										trai yêu quí của tôi". Cuối tháng 2 năm 
										632, Muhammad yêu cầu mọi người cùng các 
										bà vợ đưa ông đến viếng đền thờ Kaaba ở 
										Mecca lần cuối cùng. 
				 Sau khi viếng Kaaba, ông yêu 
										cầu mọi người đưa ông lên núi Arafat. 
										Tại đây ông giảng bài giảng giã từ 
										(Farewell Sermon) nhấn mạnh: Mọi tín đồ 
										Hồi Giáo là anh em (Muslims are 
										brethen). 
				 Sau đó, Muhammad được đưa 
										trở về Medina. Từ đó ông bị chứng đau 
										đầu liên miên. Chứng đau đầu có thể do 
										hậu quả của lần ông bị thương nơi đầu 
										trong trận Uhud trước đây. Các bà vợ đều 
										lo lắng chăm sóc Muhammad nhưng ông yêu 
										cầu đưa ông về phòng của Aisha. Lúc này 
										Aisha vừa tròn 18 tuổi. Nàng đặt ông gối 
										đầu lên đùi của nàng và nàng yêu cầu cha 
										ruột là Abu Bakr đọc kinh cầu nguyện cho 
										tiên tri. 
				 Ngày 18 tháng 6 năm 632, 
										Muhammad trút hơi thở cuối cùng trong 
										vòng tay của Aisha. 
				 Khi hay tin Muhammad qua 
										đời, nhiều phụ nữ tại Medina than khóc 
										thảm thiết, nhiều người khác hướng mặt 
										về đền thờ cầu nguyện. 
				 Trước khi Muhammad qua đời, 
										ông không hề dự liệu cắt cử người kế 
										nhiệm. Nay sự việc ông mất xảy ra quá 
										đột ngột đã khiến cho cả cộng đồng lúng 
										túng không biết phải bầu chọn ai. Ali là 
										người thân của Muhammad nhưng vì quá trẻ 
										nên không được bầu. Abu Badr lớn tuổi và 
										có uy tín nhất đã được cộng đồng bầu lên 
										làm người đầu tiên kế vị Muhammad. Abu 
										Badr được coi như là vị giáo chủ giáo 
										phái Sunni (Đa Số) của Hồi Giáo. 
				 
				
				
				
				Charlie Nguyễn 
				  
Các chương khác trong sách: 
				 
				Các Mô Hình Sinh Hoạt trong Thế Giới Hồi Giáo Cái Nôi của Đạo Hồi  Hồi Giáo Tại Trung Đông Hồi Giáo Tại Á Châu Hồi Giáo Tại Âu Châu và Mỹ Châu Hồi Giáo và Chủ Nghĩa Khủng Bố Năm Nghĩa Vụ Tín Đồ Hồi Giáo Sáu Trụ Cột của Đức Tin Hồi Giáo Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Nghiệp Muhammad tại Medina Thân Phận Phụ Nữ Hồi Giáo Thân Thế Muhammad tại Mecca Tìm Hiểu Kinh Koran Tệ Nạn Phân Hóa Trong Nội Bộ Hồi Giáo
 
				  |