●   Bản rời    

Giáo Lý Giải Thoát Trong Phật Giáo

Quan Niệm Giải Thoát

Trong Phật Giáo Và Ca-Tô Rô-Ma Giáo

Trần Chung Ngọc

http://sachhiem. net/TCN/TCNtg/TCN120a.php

08-Feb-2012

1.  2.

(<--- xem phần trước)

 IV. Giáo Lý Giải Thoát Trong Phật Giáo:

Sau đây tôi xin sang phần trình bày về giáo lý giải thoát trong Phật Giáo theo sự hiểu biết của tôi, và tất nhiên còn nhiều khiếm khuyết. Tôi viết đoạn này không phải để cho những tín đồ Ca-tô như Đăng Trình đọc, vì tôi không tin rằng họ có thể lãnh hội được những tư tưởng và triết lý trong đó. Tôi muốn chia sẻ cùng đọc giả một chút kiến thức về một số tư tưởng của Phật Giáo về quan niệm giải thoát.

Phật Giáo luôn luôn quan niệm rằng: chúng sinh thì vô lượng, mà căn trí thì bất đồng, và mỗi người có một nghiệp riêng,cho nên không thể có một pháp môn giải thoát chung cho tất cả mọi chúng sinh. Người đời thường coi Đức Phật như là một vị lương y vẹn tài. Và một vị lương y thì không thể chữa bách bệnh bằng cùng một phương thuốc. Tuy Đức Phật có khẳng định: "Cũng như nước biển chỉ có một vị mặn, giáo lý của ta cũng chỉ có một vị, vị giải thoát"  nhưng con đường đi tới giải thoát không phải chỉ có một, và cái vị giải thoát cũng có thể không hẳn hoàn toàn giống nhau đối với tất cả mọi người. Phật Giáo nói tới con số 84,000 Pháp môn đi tới giải thoát và chúng ta nên hiểu đây là một con số tượng trưng, tuy có nhiều ý nghĩa, nhưng không phải là một con số toán học chính xác.

Giáo lý Phật Giáo rất rộng, thích hợp với đủ mọi lớp người, đủ mọi trình độ, từ bình dân đến trí thức, trong xã hội. Chúng ta thấy trong Kinh Lăng Nghiêm có 25 Pháp môn viên thông dẫn tới giải thoát. Và trong Kinh Hoa Nghiêm, cuộc hành trình cầu đạo của Thiện Tài Đồng Tử đã học được với 53 vị Thiện-Tri-Thức, gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, và được dạy cho 53 Pháp môn tiến tới giải thoát khác nhau. Điều đặc biệt trong cuộc hành trình cầu đạo của Thiện Tài là: sau khi đã học được trọn vẹn với vị thầy thứ nhất của mình về đạo đức, học vấn và diệu dụng thần thông, thì vị thầy thứ nhất này lại giới thiệu một vị thầy khác và khuyên Thiện Tài hãy đến học thêm đạo với vị thầy thứ hai, nói rằng “Đạo nghiệp của người ấy cao hơn ta”. Vị thầy thứ hai lại giới thiệu cho Thiện Tài vị thầy thứ ba, và cứ như vậy cho đến vị thầy thứ 51 là Đức Di Lặc, 52 là Bồ Tát Văn Thù, và sau cùng là Bồ Tát Phổ Hiền. Trong số 53 vị thầy này có đủ các hạng người: Bồ Tát, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni, Vua, Nữ Nhân, Cư sĩ, Trưởng giả v…v…Đó là tinh thần học hỏi của Phật Giáo. Lẽ dĩ nhiên không phải ai cũng theo được cuộc hành trình cầu đạo như vậy, nhưng ít ra xuyên suốt những giáo lý mà Thiện Tài Đồng Tử lãnh hội được chúng ta cũng có thể hiểu được vài điều trong đó và áp dụng cho đời sống của chúng ta.

Bây giờ chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Phẩm "Nhập Pháp Giới" để có thể hiểu thêm về ý nghĩa giải thoát trong Phật Giáo:

Muốn tiến tới giải thoát, con người trước hết cần phát tâm vô thượng Bồ Đề. Nhưng thế nào là phát Bồ Đề Tâm? Trong Kinh Hoa Nghiêm, Hải Vân Tỳ Kheo giảng như sau:

Phát Bồ Đề Tâm là phát tâm đại bi, vì cứu khắp tất cả chúng sanh. Là phát tâm đại từ, vì giúp khắp tất cả thế gian.   Là phát tâm an lạc, vì làm cho tất cả chúng sanh diệt tất cả khổ. Là phát tâm lợi ích, vì làm cho tất cả chúng sanh lìa ác pháp. Phát tâm ai mẫn, vì có ai kinh sợ thời đều giữ gìn.   Phát tâm vô ngại, vì rời bỏ tất cả chướng ngại. Phát tâm quảng đại, vì tất cả các pháp giới đều đầy khắp. Phát tâm vô biên, vì khắp cõi hư không đều qua đến. Phát tâm rộng rãi, vì đều thấy tất cả Như Lai. Phát tâm thanh tịnh, vì trí không trái với pháp tam thế. Phát tâm trí tuệ, vì vào khắp biển nhứt-thiết-trí-huệ.

[Trên đây chỉ là một đoạn ngắn nói về Bồ Đề Tâm của Hải Vân Tỳ Kheo. Muốn biết rõ hơn về Bồ Đề Tâm, xin quý độc giả đọc 40 trang tuyên thuyết về Bồ Đề Tâm của Bồ Tát Di-Lặc trong Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm "Nhập Pháp Giới. "]

Nhưng nếu đã phát tâm bồ đề rồi thì con người có thể làm những gì? Chúng ta hãy nghe Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết trong Kinh Hoa nghiêm, Phẩm "Nhập Bất-Tư-Nghị Giải-Thoát Cảnh Giới Phổ-Hiền Hạnh Nguyện":

Thiện Nam Tử!Trong các thứ cúng dường, Pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng dường là: Tu hành đúng theo lời Phật dạy để cúng dường; chịu khổ thế cho chúng sanh để cúng dường; nhiếp thọ chúng sanh để cúng dường; siêng năng tu tập căn lành để cúng dường; không bỏ hạnh Bồ Tát để cúng dường; chẳng rời tâm bồ đề để cúng dường.

Các Đức Như Lai như số cực vi trong tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới mười phương ba đời toan muốn thị hiện nhập Niết-Bàn, cùng các Bồ Tát, Thinh Văn, Duyên Giác, hữu học, vô học, cho đến tất cả các bậc thiện-tri-thức, tôi đều khuyên mời xin đừng nhập Niết-Bàn, xin ở lại đời trải qua số kiếp như vi trần trong tất cả cõi Phật, vì muốn cho chúng sanh được lợi lạc...

Bao nhiêu chúng sanh sai khác trong tất cả cõi ở mười phương Pháp-giới, hư không giới... trong các loài ấy, nếu là kẻ có bịnh thì tôi vì họ mà làm lương y, nếu ai bị lạc đường thì tôi vì họ mà chỉ cho con đường chánh, nơi đêm tối tôi vì họ mà làm ngọn đuốc sáng, người nghèo thiếu tôi làm cho được của báu. Bồ Tát bình đẳng lợi ích cho chúng sinh như vậy.

Vì sao thế? Vì Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sanh, thì chính là tùy thuận cúng dường các Đức Phật. Còn tôn trọng và thừa sự chúng sanh thì chính là tôn trọng và thừa sự các đức Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng thì chính là làm cho tất cả Như Lai vui mừng. Vì sao thế? Vì các đức Như Lai dùng tâm đại bi mà làm thể. Nhơn nơi chúng sanh mà sanh lòng đại bi, nhơn lòng đại bi mà phát tâm bồ đề, nhơn nơi tâm bồ đề mà thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác (nghĩa là hoàn toàn giác ngộ, hoàn toàn giải thoát. TCN).

Ví như giữa chốn sa mạc có cây thọ vương to lớn, nơi gốc cây ấy được nước rưới nhuần, thì cành lá hoa quả thảy đều sum sê tươi tốt.

Cây thọ-vương bồ đề ở chốn sa mạc sanh tử rộng lớn cũng như vậy: tất cả chúng sanh là gốc rễ, Bồ Tát là hoa, Phật là quả. Dùng nước đại bi đượm nhuần gốc rễ chúng sanh thì có thể trổ bông Bồ Tát trí huệ và kết thành quả Phật toàn giác.

Vì sao thế? Bởi các Bồ Tát dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sanh, thì có thể thành tựu quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cho nên quả Bồ Đề thuộc về chúng sanh, vì nếu không chúng sanh, tất cả Bồ Tát trọn không thể thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác...

Từ sự lễ kính ban đầu nhẫn đến tùy thuận có bao nhiêu công đức, thảy đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sanh khắp trong hư không Pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sanh thường được an lạc, không các bịnh khổ, muốn thực hành pháp ác thảy đều không thành, còn tu nghiệp lành thì đều mau thành tựu. Đóng chặt cửa của tất cả ác thú, mở bày đường chánh Nhơn-Thiên Niết-Bàn. Nếu các chúng sanh nhơn vì trước kia chứa nhóm các nghiệp ác, nên chiêu cảm tất cả quả rất khổ, tôi đều chịu thế cho, khiến chúng sanh đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu quả vô thượng Bồ Đề...

Đọc đoạn Kinh trên về hạnh nguyện của những người tu tập theo Phật Pháp chúng ta có thấy cái gì có thể gọi là tiêu cực, bi quan, xa lánh cuộc đời hay không? Hay trái lại, đó là những hạnh nguyện hết sức tích cực, vị tha, vị chúng sinh, rất cao cả của người Phật tử? Nhưng giải thoát trong Phật Giáo là giải thoát như thế nào? và giải thoát khỏi cái gì? Phật giáo quan niệm nguồn gốc của sinh tử là vô minh, và nguồn gốc của mọi khổ đau trên đời là vì ba độc: tham, sân, si. Cho nên, một cách đại cương, chúng ta có thể nói trong Phật Giáo, giải thoát là giải thoát khỏi bức màn vô minh để ra ngoài vòng sinh tử, và giải thoát khỏi tham, sân, si để sống an lạc trên cõi đời. Như trên đã nói, có nhiều con đường đi tới giải thoát, nhưng tựu trung không ngoài việc tu tập để có thể nhận thức được rằng "sáu trần là hư huyễn, chẳng thực, hay biến đổi. Kinh Kim Cương hình dung nó như mộng, như bọt, như bóng. Triệt để giác ngộ được tính chất hư huyễn chẳng thực của thế giới sáu trần thì sẽ được giải thoát tự tại. Nếu thân tâm ở cõi thế gian sáu trần mà không bị sáu trần quấy nhiều, dụ dỗ, mê hoặc thì sẽ chẳng sinh ra phiền não và được gọi là người giải thoát. " ("Phật Học Quần Nghi" , Thích Thánh Nghiêm)

Để có một ý niệm rõ ràng hơn về giải thoát quan trong Phật Giáo, sau đây tôi xin trích vài đoạn cốt yếu nói về giải thoát quan trong Phật Giáo trong cuốn Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận của Tiến Sĩ Kimura Taiken, do HT Thích Quảng Độ dịch sang tiếng Việt:

Lập trường chủ yếu của giải thoát quan Phật-giáo là vượt ra ngoài cõi Dục (Dục giới). Phật Giáo không thừa nhận thế-giới-quan Thần quyền, lại không thừa nhận cái "Ngã" cá nhân bất biến, mà chủ trương hết thảy đều do nhân duyên hòa hợp mà hiển hiện, và sở cứ của nhân duyên là ý chí của chúng ta. Do đó, nếu muốn được giải thoát, con người phải cắt đứt mọi nhân duyên, nghĩa là diệt hết dục vọng của ý chí. Theo các học phái khác, giải thoát tức là đưa cái tiểu ngã của cá nhân trở về với Đại ngã của một đấng sáng tạo ra vũ trụ. Nhưng Phật Giáo vì không thừa nhận Thần quyền, nên gọi giải thoát là Niết Bàn. Mà Niết-Bàn theo nghĩa đen là "dập tắt", nghĩa là dập tắt hết dục vọng tồn tại và lấy đó làm lý tưởng cứu kính. Các Kinh điển Đại Thừa, nhất là Kinh Bát Nhã, đặc biệt thuyết minh về điểm này và mệnh danh là "Không", "Không Không" rốt ráo là "Không", đó là chân tướng của vũ trụ, và khi ta đã đạt được chân tướng ấy tức là đạt đến giải thoát, đến Niết Bàn...

 Các học phái khác lấy siêu nhiên (supernatural) làm chủ nên không quá coi trọng đạo đức thế gian, nhưng Phật thì lấy từ bi làm chủ, chuyên đứng về phương diện đạo đức để giáo hóa loài người, đó là tiếng nói giải thoát. Tại Ấn Độ có nhiều tôn giáo nhưng chỉ có Phật-Giáo là lấy toàn thể nhân loại làm đối tượng để truyền giáo, và cũng chỉ có Phật Giáo mới có những giáo lý làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của mọi hạng người...

 Tiến thêm một bước nữa mà khảo sát thì Phật, theo một ý nghĩa nào đó, có thể được coi là một nhà đề xướng hiện thực chủ nghĩa. Cái gọi là "giải thoát", là "Niết Bàn", nếu không có ích lợi gì đối với cuộc sống thực tế, thì tự nó cũng không có một ý nghĩa nào cả. Giải thoát hay Niết Bàn, theo Phật, không phải chỉ có thể đạt được sau khi chết, mà trái lại, nó có thể được chứng nghiệm ngay ở hiện tại, ngay trong giây phút, nghĩa là bất cứ trong giờ phút nào ta cắt đứt được mọi mối ràng buộc của tham lam, của dục vọng, khiến cho tâm hồn thanh thản, lâng lâng, tự tại, tự do, thì ngay giờ phút đó ta đã đạt đến cảnh giải thoát chân thực rồi...

 Do đó, trong Phật Giáo, nếu nói đến giải thoát mà phủ nhận giá trị của thế giới hiện thực thì không những trái với đạo lý mà còn làm hại cho chính Pháp rất nhiều. Nhưng đây cũng lại là điểm vô cùng khó khăn, bởi lẽ vẫn sống trong thế giới hiện thực mà làm cách nào để đừng bị mê hoặc, lôi cuốn theo, để tìm cầu giải thoát khỏi hiện thực là một việc mà có lẽ không ai dám tự phụ làm một cách dễ dàng...

 Coi đó ta thấy chủ nghĩa giải thoát của Phật Giáo, nếu chỉ nhìn bề ngoài, có vẻ như một chủ nghĩa "không tịch", nhưng nếu căn cứ vào nhân cách hoạt động của đức Phật, do nhân cách đó mà tìm hiểu ý nghĩa chân thực của giáo lý Ngài, ta thấy Phật Giáo quyết không phải lấy hư vô làm lý tưởng, đó là điều không một nhà học Phật chân chính nào phủ nhận...

 Như thế chung cục nhận Phật là vị Nhân-Cách-Thần, nhận Như Lai là chân ngã, rồi từ lập trường hiện tượng tức thật tại mà xướng lên thuyết "tức thân thành Phật", cứ như thế giáo lý Phật-giáo bắt đầu triển khai. Mà cái đặc trưng nhất quán của chủ nghĩa giải thoát của Phật Giáo là ở chỗ tự mình tuyệt đối mãn túc, rồi vì hạnh phúc của thế giới, vì sự tiến bộ của nhân loại, đem hết sức mình ra làm việc với một tâm hồn thái nhiên tự nhược, nghĩa là không đam mê, không cố chấp, luôn luôn thanh thản tự do trước mọi hoàn cảnh. ”

Đó là tóm tắt đại cương về giải thoát quan trong Phật Giáo. Chúng ta thấy rằng sự trình bày về giải thoát quan của Tiến Sĩ  Kimurai Taiken rất sát với nội dung Kinh điển Phật Giáo.

Tôi hi vọng, tới đây, quý độc giả đã nắm vững phần nào căn bản khác biệt giữa giải thoát quan trong Phật Giáo và trong Ca Tô Giáo. Cái căn bản khác biệt này là trong Phật Giáo, Phật tử phải tự mình tu tập để tiến tới giải thoát, có thể ngay trong cuộc đời này, và sự tu tập này đặt đối tượng trên phúc lợi không chỉ riêng cho mình mà còn cho toàn thể chúng sanh. Trong Ca Tô Giáo, vì là một tôn giáo cứu rỗi, lấy siêu nhiên làm chủ, nên vấn đề đạo đức, tu tập không quan trọng, và con người chỉ cần đặt tất cả vào một niềm tin ở một đấng siêu nhiên, quỳ trước bàn thờ của “đức tin” và cầu nguyện, mong cầu được giải thoát cho riêng mình: "Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban con duy nhấtcủa Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời. " (Crossing The Threshold of Hope, trang 76, trích dẫn John 3: 16), lẽ dĩ nhiên là sau khi chết, không cần phải thắc mắc hay bận tâm đến chuyện có thể chính ông bà tổ tiên của mình trước khi mình theo Đạo, và bà con họ hàng bạn bè hay mọi chúng sanh khác, vì không có cùng niềm tin như mình nên bị Chúa của mình đày vĩnh viễn xuống hỏa ngục. Ca-tô Giáo tin rằng, chỉ cần một phương thuốc “cứu rỗi” là có thể giải quyết khao khát của vô lượng chúng sinh, căn trí bất đồng. Vậy cái “cùng ý nghĩa” của Đăng Trình về quan niệm giải thoát của Phật Giáo và cái gọi là “Nhiệm mầu Cứu độ (sic)” của Ki Tô Giáo là ở chỗ nào?

Vị kỷ đối với vị tha, đó là một đối ngược.

Một đối ngược khác thường được minh họa bởi hình ảnh sau đây: giáo lý giải thoát của Phật Giáo là để cho những người tự tin, tự mình bước đi những bước chân an lạc vững vàng trên trường đời, và giáo lý giải thoát Ca-Tô là để cho những người thiếu tự tin, không thể tự mình bước đi những bước chân vững vàng trên mặt đất, không thể tự mình suy nghĩ, không dùng đến lý trí hay khả năng suy luận của con người,hay nói cách khác, theo nhận định của Robert G. Ingersoll: "những người cần có một cặp nạng để lê lết trên cuộc đời, vì luôn luôn sợ sệt, nếu buông cặp nạng ra thì sẽ chới với, cho nên phải nương tựa và trông ngóng vào những quyền lực siêu nhiên cũng như những quyền lực giả tạo trên thế gian. " (Xin đọc cuốn "Ingersoll, The Magnificient" )

Sự phát triển ngày nay của Phật Giáo vào trong các xã hội Tây phương và trên khắp thế giới thực sự đã giúp cho hàng triệu người cất bỏ được cái cặp nạng làm mất phẩm giá con người này, và họ đã bắt đầu tự mình bước đi những bước vững vàng, an lạc trên mặt đất.

Lợi ích chỉ tới với những người có duyên.

V.  Thực Trạng Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới Ngày Nay:

Có một số người lo chuyện cải đạo ở Việt Nam. Chuyện con người bị lôi kéo vào Ca-tô Giáo hay Tin Lành qua những thủ đoạn bất chính thì ở đâu cũng có. Vấn đề ngày nay là thực chất Ki Tô Giáo nói chung có giá trị đạo đức hay tâm linh đối với con người hay không. Vậy thì khi người ta bị dụ dỗ hay mê hoặc để vào đạo chỉ là chuyện bình thường, nhưng với thời gian, một khi người ta nhận ra thực chất của Ki Tô Giáo thì người ta sẽ tự động mà bỏ hay xa lánh. Điều này đã xẩy ra ở phương trời Âu Mỹ. Cho nên vấn nạn cải đạo không đáng để phải lo, bởi vì, như Tổng Thống Abraham Lincoln đã nói: “Anh có thể đôi khi lừa gạt được mọi người, và một số người trong mọi thời, nhưng không thể lừa gạt được mọi người trong mọi thời” (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time. )  Lịch sử chứng tỏ Giáo lý Ca-tô Rô-ma Giáo đã có thể lừa gạt được hầu như mọi người ở Âu Châu trong một thời, và lừa gạt được một số người trong mọi thời [những con chiên còn lại ngày nay], nhưng không thể lừa gạt được mọi người trong mọi thời. Vì vậy mà Ca-tô Giáo cũng như Tin Lành càng ngày càng suy thoái ở phương trời Âu Mỹ vì không dễ có thể lừa gạt được con người mãi mãi. Do đó, tôi tin tưởng rằng, bất kể Ki Tô Giáo dùng thủ đoạn gì để cải đạo người khác, dùng bả vật chất hay nhập nhằng cứu độ với cứu rỗi, hay bảo Chúa là ông Trời, hay xuyên tạc Phật Giáo v. v…, họ sẽ không bao giờ có thể thành công vì không ai có thể ngăn chận được sự tiến hóa trí thức của nhân loại. Ở một số nước kém phát triển với những chính quyền mù mờ không nhìn ra tầm quan trọng của sự tiến bộ trí thức của người dân nên Ki Tô Giáo có thể vẫn có một số thành công giới hạn. Nhưng rồi trước sau gì người dân cũng sẽ biết rõ bản chất thực sự của các tôn giáo và họ sẽ có những quyết định hợp với trình độ hiểu biết về tôn giáo thích hợp với thời đại như ở Âu Mỹ. Và nhất là, chân lý ngàn đời của nhân loại là, tà không thể thắng được chánh.

Lịch sử chỉ đi có một chiều. Vài sự kiện sau đây về sự suy thoái của Ki Tô Giáo trước sự thức tỉnh của Tây phương sẽ cho chúng ta thấy rõ vấn đề.

Âu Châu và Mỹ Châu vốn là cái nôi của Ki Tô Giáo, nhưng ngày nay Ki Tô Giáo ở những phương trời này lại bị phá sản, như học giả Eliezer Berkovits đã viết về “sự phá sản đạo đức của nền văn minh Ki Tô Giáo và sự phá sản Tâm Linh của Ki Tô Giáo” (The moral bankrupcy of Christian civilization and the spiritual bankrupcy of Christian religion) trong cuốn “Đạo Do Thái Trong Thời Kỳ Hậu Ki Tô” (Judaism in the Post-Christian Era). Một sự phá sản đạo đức và tâm linh như vậy thì không thể lừa gạt được con người mãi mãi.

Thông tin mới nhất: Tin VOA/ Lisa Bryan, Xin đọc bài:  Châu Âu: Số Người Rời Bỏ Tôn Giáo Ngày Càng Đông [http://www. sachhiem. net/index. php? content=showrecipe&id=5197] trong đó chúng ta thấy một hiện tu7o75ngla5 xẩy ra trong Ki Tô Giáo: đó là tín đồ không những bỏ đạo còn chính thức xóa bỏ hiệu lực của cái gọi là “bí tích rửa tội”, đòi nhà thờ phải bỏ tên họ ra khỏi danh sách những người đã bị rửa tội, thường là từ khi còn nhỏ, do sự vô minh của cha mẹ mang đến nhà thờ cho mấy ông linh mục làm trò quỷ thuật, 3, 4 lần ra lệnh cho Chúa Thánh Thần vào ngự trong đứa trẻ.

Đọc lịch sử Ki Tô Giáo, nhất là Ca-tô Rô-ma Giáo và những giáo lý để nhồi vào đầu óc các tín đồ những điều hoang đường mê tín, chúng ta thấy cả một sự băng loại đạo đức và tâm linh của Ki Tô Giáo. Làm sao mà một tôn giáo tự nhận là “thánh thiện”, “tông truyền”, lại có những “đại diện của Chúa”, Giáo hoàng, can tội giết người, loạn luân, bao che các vụ loạn dâm v…v…, những “Chúa thứ hai”, linh mục, can tội hiếp dâm ngay cả những chị em nữ tu trong đạo của mình trên 27 quốc gia, hoặc cưỡng bách tình dục ngay cả những trẻ em trong đạo ? Một Giáo hội với một lịch sử không ít giáo hoàng đồi bại, không ít linh mục loạn dâm, vô đạo đức, không ít nữ tu ác độc hành hạ trẻ mồ côi v…v. và gần đây, từ Giáo hoàng trở xuống bao che tội ác cho nhau thì không có tư cách để nói về đạo đức thế gian.  Nhân loại đã nhận ra điều này, đưa đến sự suy thoái không phương cứu vãn của Ki Tô Giáo trên khắp thế giới. Một vài tài liệu sau đây hi vọng có thể giúp người Ca-tô Việt Nam hiểu về thực trạng của Ki Tô Giáo trên thế giới ngày nay.

Sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên thế giới, nhất là ở Âu Châu, cái nôi của Ki Tô Giáo trước đây, đã là một sự kiện. Muốn biết về một số yếu tố điển hình đưa đến vấn nạn suy thoái của Ki Tô Giáo, độc giả có thể đọc: http://giaodiemonline. com/2007/06/tinlanh3. htm trong đó có nhiều chi tiết và thống kê về tình trạng suy thoái trầm trọng không phương cứu vãn của Ki Tô Giáo ở phương trời Âu Mỹ.   Ở đây tôi chỉ nêu một số thú nhận về tình trạng này của các bậc lãnh đạo có uy tín trong Ki Tô Giáo.

Năm 1983, Malichi Martin, giáo sư dòng Tên tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh của Giáo hoàng, tiến sĩ về khoa ngôn ngữ Do Thái, Khảo Cổ và Lịch Sử Đông Phương, đã từng phục vụ ở Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, đã viết trong cuốn Sự Suy Sụp Của Giáo Hội Ca-Tô Rô Ma [The Decline and Fall of the Roman Church, Bantam Books, New York], như sau, trang 1:

“Tiến trình bất ngờ và làm cho người ta phân vân nhất trong 20 năm gần đây [nghĩa là từ thập niên 1960] là sự suy thoái đột nhiên của giáo hội Ca-Tô Rô-ma trong tổ chức giáo quyền và trong lý tưởng đồng nhất của giáo hội.

Với tình trạng ngày nay, có vẻ như không có một hi vọng hợp lý nào để cho sự suy thoái đó ngưng lại. [Phù hợp với nhiều lần than vãn Của Benedict XVI ngày nay]

 Những thống kê đáng tin cậy và những chi tiết khác thật là khủng khiếp cho đầu óc người Ca-Tô Rô-ma truyền thống. Khi vẽ trên một biểu đồ từ năm 1965 đến năm 1980, số linh mục, nữ tu (các sơ), huynh trưởng trong đạo, học sinh trung học, sinh viên đại học tư (của Ca Tô Giáo), số người rửa tội, vào đạo, lấy người cùng đạo, dự lễ ban thánh thể, xưng tội, thêm sức – mọi thống kê đáng kể hiện hữu -đều mô tả một sự suy giảm chúc đầu xuống không ngừng. Thêm vào những yếu tố chính trên là số tín đồ Ca Tô Rô-ma dứt khoát bác bỏ hoàn toàn giáo lý của Rô-ma về ly dị, ngừa thai, phá thai, đồng giống luyến ái, và Cộng sản.

(Malachi Martin,a Jesuit Professor at the Pontifical Biblical Institute in Rome, doctorate in Semitic languages, archeology and Oriental history, The Decline and Fall of the Roman Church, a Bantam Book, NY, 1983, p. 1: The most surprising and the most puzzling development in the last 20 years has been the sudden and undoubted decline of the Church of Rome in its ecclesiastical organization and ideological unity.  As things now stand, there appears to be no reasonable hope that this decline can be arrested…

The relevant statistics and other details are horrendous for the traditional Roman Catholic mind. When plotted on a graph covering the years 1965-1980, the number of priests, nuns, religious brothers, junior and senior high school students, private college students, baptisms, conversions, inter-Catholic marriages, communions, confessions, confirmations – every significant statistics available – describes a plummeting, non-stop, downward drop. Added to these key factors are the figures of those Roman Catholics who totally reject Roman teaching about divorce, contraception, abortion, homosexuality, and Communism. )

Trong bài Hãy giữ đức tin (Keeping The Faith) trên tờ New York Times ngày 8 tháng 4, 2007, chúng ta có thể đọc được vài đoạn như sau:

Phong cảnh giáo hội ở Âu Châu – không chỉ là Giáo hội Ca Tô mà hầu như mọi hình thức tổ chức của Ki Tô Giáo – đang thay đổi nhanh như chớp.

 Có những ông giám mục Âu Châu cảm thấy rằng họ không còn có thể nói về một Âu ChâuKi Tô Giáo mà không cảm thấy mình đang mạ lỵ sự thông minh của quần chúng.

("The landscape of the church in Europe — and not just the Catholic Church but nearly all forms of organized Christianity – is changing at a lightning pace.

There are European bishops who feel you can’t talk about a Christian Europe anymore without insulting people’s intelligence. ”)

Trước tình trạng con người Ki Tô trên khắp thế giới đang dần dần từ bỏ niềm tin vào những giáo lý của Ca-tô Giáo, nhất là vai trò cứu thế của Giê-su, Giáo hoàng Benedict XVI đã nhiều lần thú nhận về sự suy thoái không cơ cứu vãn của Ca-Tô giáo Rô-mavà Tin Lành ở Tây phương. Theo những tin tức trên báo chí trên thế giới và cả trên tờ thông tin chính thức của Vatican, tờ L’Osservatore Romano, vào những ngày 27, 28 tháng 7, 2005, thì Benedict XVI đã lên tiếng phàn nàn như sau:

 “Những tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương [Ki Tô Giáo] có vẻ đang chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn cần đến Thiên Chúa nữa.

 Nhận xét của Ngài có vẻ bi quan và rầu rĩhơn GH tiền nhiệm làJohn Paul II, người đã than phiền về sự suy thoái của đức tin trong các quốc gia phát triển và nói rằng điều này giải thích sự vật lộn của Giáo Hội Ca Tô đối với vấn đềsố người đi nhà thờ giảm rất nhiều trong những năm gần đây. ”

 (ROME (Reuters, July 27, 2005) - Mainstream churches in the West appear to be dying as societies that are increasingly secular see less need for God, Pope Benedict said in comments published on Wednesday.

 His outlook was even glummer than that of his predecessor John Paul, who lamented the decline of faith in the developed world and said it explained the Catholic Church's struggle with falling attendance in the West in recent years. )

Cũng theo tin hãng Reuters ở Rome thì Giáo hoàng Benedict XVI đã phải đau lòng mà chấp nhận một sự thực:

“Thật là khác lạ trong thế giới Tây Phương, một thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới mà con người càng ngày càng tỏ ra không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa. Những Giáo Hội gọi là 'truyền thống' xem ra như đang chết dần. ”

Theo một phúc trình mới đây của Vatican thì trong một số nước phát triển, Giáo dân đi dự lễ ngày Chủ Nhật chỉ còn khoảng 5%. Ngài nói thêm: Tuy nhiên không phải chỉ có đạo Ca-Tô Rô-ma bị như vậy mà Giáo Hội Tin Lành cũng bị ảnh hưởng nặng hơn nữa trong thời điểm lịch sử này. Không thấy có giải pháp nào mau chóng và thần diệu cả để cứu vãn giúp Giáo Hội chúng ta cả.

 (It is different in the Western world, a world which is tired of its own culture, a world which is at the point where there’s no longer evidence for a need of God, even less of Christ," he told a meeting of clergy in the Italian Alps.

  "The so-called traditional churches look like they are dying," he said, according to a text published by Vatican daily L’osservatore Romano.

  Participation at Sunday Mass in some developed countries was as low as 5 percent, a recent Vatican report said.

  "The Catholic Church is not doing as badly as the big Protestant Churches but naturally it shares the problem of this moment in historỵ" "There’s no system for a rapid change. ”) 

 

Giáo hoàng khuyên tín đồ Ca Tô, nhắm vào khối tín đồ Ca Tô lạc hậu ở Phi Châu, Nam Mỹ, Phi Luật Tân, và Việt Nam, hãy kiên trì giữ vững đức tin, tiếp tục tiến bước trong đường hầm [keep walking in the tunnel], có thể ánh sáng le lói của Chúa Ki-Tô sẽ xuất hiện ở cuối đường hầm [Christ light would appear at the end].   Nhưng làm sao Giáo hoàng có thể cứu vãn được tình trạng suy thoái của Ca-tô giáo nếu chỉ dựa trên sự kéo dài sự mê tín của số tín đồ thấp kém ở dưới đã bị thuần hóa để tuyệt đối theo “đức vâng lời”.

 Gần đây nhất, ngày 9 tháng 4, 2007, Giáo hoàng Benedict XVI lại cảnh báo là “Âu Châu có vẻ như sẽ mất đức tin trong tương lai, và gọi những người Âu Châu chỉ muốn có ít con là theo “chủ nghĩa cá nhân nguy hiểm” [trong khi cả thế giới đang lo nạn nhân mãn và cổ súy hạn chế sinh đẻ]Giáo hoàng nói: “Bất hạnh thay, chúng ta phải ghi nhận là Âu Châu có vẻ như đang tuộtxuống một con đường có thể đưa Âu Châu đến sự giã từ lịch sử” [Ki Tô Giáo vẫn cho rằng lịch sử Âu Châu là lịch sử Ki Tô Giáo]

 (Time, April 9, 2007: “One must unfortunately note that Europe seems to be going down a road which could lead it to take its leave from history”Pope Benedict XVI, warning that Europe appears to be losing faith in its future, calling some Europeans’ desire to have fewer children “dangerous individualism”. )

  Các giáo hoàng John Paul II và Benedict XVI than phiền về sự suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Ca Tô Giáo Rô Ma nói riêng, kể ra là đã quá muộn. Sự suy thoái của Ki Tô Giáo không chỉ mới xẩy ra trong triều chính của mấy ông này mà đã xẩy ra từ lâu, từ nhiều thập niên trước, nếu không muốn nói là nhiều thế kỷ trước. Thật vậy, nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta thấy thật ra sự suy thoái của Ki Tô Giáo không phải trong thời đại này mới xảy ra mà đã bắt nguồn từ sự tiến bộ trí thức của con người ít ra là từ cuộc Cách Mạng Khoa Học (The Scientific Revolution) vào đầu thế kỷ 17, từ Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason) vào thế kỷ 18, Thời Đại Khai Sáng (The Age of Enlightenment) vào thế kỷ 19, và Thời Đại Phân Tích (The Age of Analysis) vào thế kỷ 20. Những thời đại này đã kéo con người Tây phương ra khỏi Thời Đại Của Đức Tin (The Age of Faith), một thời đại mà sự thống trị của Ca-Tô Giáo Rô-ma đã đưa Âu Châu vào 1000 tăm tối được biết dưới tên Thời Đại Trung Cổ(The Middle Ages) hay Thời Đại Hắc Ám (The Dark Ages), hay Thời Đại Của Sự Man Rợ Và Đen Tối Trí Thức (The age of barbarism and intellectual darkness).

  Còn về tình trạng các linh mục thì ngay từ năm 1990, linh mục David Rice dòng Đa Minh đã xuất bản cuốn Lời Nguyện Tan Vỡ: Linh Mục Bỏ Đạo (Shattered Vows: Priests Who Leave), đưa ra kết quả nghiên cứu của ông sau khi đi tới nhiều nơi trên thế giới, tổng cộng 38 ngàn dặm (khoảng 60 ngàn cây số), để phỏng vấn và tìm hiểu đời sống của các linh mục bỏ đạo như sau:

Một trăm ngàn ( 100000 ) linh mục Ca-tô Rô-ma đã bỏ đạo trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn một linh mục ra đi. Hầu như phân nửa số linh mục Mỹ sẽ bỏ đạo – thường là để lập gia đình – chưa tới 25 năm sau khi được tấn phong.  Vatican không nói tới cuộc di dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng khoảng nghiêm trọng nhất mà giáo hội phải đối diện, kể từ khi có cuộc Cải Cách Tin Lành.

(100,000 Roman Catholic priests have walked out in the last 20 years – more than one every two hours. Almost half of all American priests will leave – most often, to marry – before the 25th anniversary of their ordination. The Vatican won’t talk about this exodus, yet it is the most grievous crisis to face the Church since the Protestant Reformation)

  Trước tình trạng thê thảm này, để cứu giáo hội của Chúa, tín đồ Ca-tô Việt Nam bèn xung phong đổ xô đi học nghề linh mục. Thật vậy, ở trường dòng Dubuque, Iowa, có 70 người theo học nghề linh mục thì có tới 43 người là Việt Nam, tỷ lệ hơn 60%, chẳng phải là vì “ơn kêu gọi” mà vì nghề linh mục là nghề dễ kiếm ăn trên đám dân thấp kém. Đa số các tân linh mục ngày nay là Mít, Mễ, Ba Lan, Phi Luật Tân. Nhưng Giáo hoàng Benedict XVI lại không lấy đó làm vui, vì là “đại diện của Chúa Ki Tô trên trần” (Vicar of Christ) nên ngài biết hết, hiểu hết, và đã nhìn ra sự thật. Ngài phán: “Niềm vui này đi kèm với một niềm cay đắng vì một số sẽ trở thành linh mục này chỉ tìm kiếm một đời sống thoải mái hơn. Trở thành linh mục, họ trở thành hầu như là một tộc trưởng của một bộ lạc, đương nhiên là họ được ưu đãi và có một đời sống khác” (Benedict said the "joy" at the growing numbers of churchmen in the developing world is accompanied by "a certain bitterness" because some would-be priests were only looking for a better life. “Becoming a priest, they become almost like a head of a tribe, they are naturally privileged and have another type of life," he said...

Đó là những lời thú nhận của vị chủ chăn Ca-tô Rô-ma Giáo, của Hội Đồng Giám Mục Âu Châu về sự suy sụp của Ca-tô Giáo ở Tây phương, khoan kể đến những thông tin về tình trạng suy thoái trên các diễn đàn truyền thông trên thế giới.

Thật vậy, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, những huyền thoại về Gót nay đã không còn chỗ đứng trong giới hiểu biết. Trong cuốn Những Phê Bình về Gót (Critiques of God), biên tập bởi Peter A. Angeles, trong đó có 16 tác giả phê bình về mọi lý luận thần học của Ki Tô Giáo, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây, trang xiii:

http://atheism. about. com/library/boo... itiquesGod. htm

Những niềm tin vào những đấng siêu nhiên đã biến khỏi nền văn hóa của chúng ta. Bất cứ sự sùng tín đại cương nào về Gót cũng đang trở thành mờ nhạt trong nền văn hóa của chúng ta. Gót đã mất đi trụ xứ trong không gian như là một nước trên Thiên đàng. Ông ta cũng mất đi chỗ đứng trong vũ trụ như là đấng đã sáng tạo ra nó từ hư vô. Không phải là Gót bị đẩy ra một vùng xa lắc xa lơ. Không phải vì ông ta trở thành một trừu tượng vô thân thể (phi Nam phi Nữ). Mà vì chúng ta nhận thức ra rằng chẳng làm gì có Gót để mà nói tới.

(Beliefs in supernatural beings have vanished from our culture. Any general serious belief in God is fading in our culture. God has lost his spatial location as a monarch in heaven. He has lost his temporal precedence to the universe as its Creator ex nihilo. It is not God is being relegated to a remote region. It is not that God has become a bodiless abstraction (a sexist It). It is the realization that there is no God to which to relate. )

Sau đây tôi chỉ nêu lên vài thông tin điển hình về hiện trạng Ki Tô Giáo ở Âu Châu: Chúng ta hãy đọc một tài liệu về hiện trạng vô thần đang lên và Ca-tô Giáo đang suy thoái ở Pháp, cái nôi của Ca-tô Rô-ma Giáo trước đây: http://www. secularism. org. uk/numbero... erisesata. html

Trong bài với đầu đề “Số người vô thần ở Pháp gia tăng với mức độ chưa từng thấy” (Number Of Atheists In France Rises At An Unprecedented Rate), tờ báo Pháp “Le Monde” đưa ra kết quả của một cuộc thăm dò ý kiến: “số người vô thần tăng từ 23% năm 1994 lên 31% ngày nay” (the number of people describing themselves as atheists has risen to 31 per cent – from 23 per cent in 1994), nghĩa là tăng thêm 5 triệu người vô thần trên dân số khoảng 62 triệu. Kết quả thăm dò cũng cho biết chỉ có 51% dân Pháp còn cho mình là tín đồ Ca-tô, vào đầu thập niên 1980, con số này là 80%.

Tổng biên tập tờ “Le Monde”, Frederic Lenoir, viết: “Trong định chế cũng như trong tâm tình tôn giáo của Ca-tô Giáo, Pháp không còn là một quốc gia Ca-tô” (“In its institutions, but also in its mentalities, France is no longer a Catholic country,” wrote Frederic Lenoir, editor in chief of Le Monde des Religions. ) Cuộc thăm dò cũng cho biết chỉ có 10% đi lễ nhà thờ đều đặn, phần lớn là ông già bà cả, và điều kỳ lạ là, 51% vẫn coi mình là người Ca-tô, nhưng chỉ có một nửa tin vào “Gót” (Extraordinarily, of the 51 per cent who still call themselves Catholics… only half said they believed in God. ) Nhiều người nhận mình là người Ca-tô vì đó là truyền thống gia đình (Many said they described themselves as Catholics because it was a family tradition).

Chúng ta nên nhớ, Pháp là thủ phạm chính đã mang Ca-tô Rô-ma Giáo đến Việt Nam, không phải để văn minh hóa dân tộc Việt Nam, mà để đầu độc một số người Việt Nam thuộc thành phần thấp kém nhất trong xã hội, bằng những điều hoang đường, mê tín, dối trá như chúng ta có thể đọc trong cuốn Hành Trình Truyền Giáo của tên thừa sai gián điệp thực dân Alexandre de Rhodes, mà ngày nay đã không còn mấy giá trị ngay trong nước Pháp, biến họ thành những kẻ phi dân tộc, phản bội quốc gia như lịch sử đã ghi rõ. Người dân Pháp có truyền thống Ca-tô lâu đời hơn Việt Nam nhiều, nhưng nay đã tỉnh, vậy tại sao người Ca-tô Việt Nam vẫn còn mê, vẫn còn tin vào những điều mà chính Giáo hội đã bác bỏ, vẫn dùng những thủ đoạn không mấy lương thiện để dụ người dân vào đạo?  Đó có phải là niềm hãnh diện hay chỉ chứng tỏ trong khi thế giới đã tiến bộ mà mình cứ muốn đi giật lùi về những giá trị tâm linh đã lỗi thời và đang bị thế giới loại bỏ.

Giáo hoàng Benedict XVI vẫn hi vọng có thể vớt vát được vài mẻ cá ươn (Ki Tô Giáo vẫn coi kiếm được tín đồ là vớt được cá) ở các nơi khác nên ngài khuyên tín đồ Ca-tô, nhắm vào khối tín đồ Ca-tô giáo lạc hậu ở Phi Châu, Nam Mỹ, Phi Luật Tân, và Việt Nam, hãy kiên trì giữ vững đức tin, và phải tiếp tục “loan báo tin mừng” cho toàn dân, một ảo tưởng bắt nguồn từ sự vô vọng về tình trạng suy sụp của Ki Tô Giáo ở phương trời Âu Mỹ. Và thảm thay, một số Giám mục Việt Nam, cho đến ngày nay vẫn nhắm mắt tuân theo cái lệnh “loan báo tin mừng” từ Vatican. Thật vậy, trong bức thư nhan đề: “Tôi nghe thấy và học được gì từ những cuộc gặp gỡ với Bộ Ngoại Giao và Bộ Truyền Giáo của Vatican trong hai ngày 1 và 2 tháng 6. 2010” của Hồng Y Phạm Minh Mẫn, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây, chứng tỏ Vatican tiếp tục mê hoặc giáo dân Việt Nam, và các bề trên Việt Nam vẫn nhắm mắt theo lệnh từ Vatican để nhốt con chiên của mình vào cái ngục tù tâm linh của Ca-tô Rô-Ma Giáo:

Đồng thời, với kinh nghiệm 30 năm phục vụ ngành Ngoại Giao của Vatican trong nhiều nước như Việt Nam, Đức Hồng Y Dias có lưu ý đến nhiệm vụ của các giám mục trên đất nước Việt Nam hôm nay, nhiệm vụ loan Tin Mừng, dẫn dắt các tín hữu đi trong ánh sáng đức tin, xây dựng Giáo Hội hiệp thông và hiệp nhất trong tình bác ái huynh đệ.

Trong Thư Ngỏ của GM Nguyễn Thái Hợp, ngày 4-10-2011, chúng ta có thể đọc đoạn như sau: Dựa trên Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội (nghĩa là của Vatican):

Nhiệm vụ của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu là phải sống và loan báo Tin Mừng trong mọi nền văn hóa, môi trường kinh tế, xã hội, chính trị… Tuy nhiên, do sứ vụ của mình, Giáo Hội không thể đồng hóa với bất cứ một chế độ chính trị, một hệ thống kinh tế hay một nền văn hóa nào.

Điều này nói lên rõ ràng hơn gì hết bản chất phi dân tộc, vô tổ quốc của Ca-tô Rô-ma Giáo ở Việt Nam và chúng ta cảm thấy thật tội nghiệp cho các con chiên, lớn cũng như nhỏ, đã mất dấu. Điều lạ là những người như HY Phạm Minh Mẫn hay Gm Nguyễn Thái Hợp lại không biết rằng, “Tin mừng” của Giê-su, nếu có, cũng không có phần nào cho người Việt Nam. Tân Ước đã viết rõ như vậy.

Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại như trên, Ki Tô Giáo bắt buộc phải suy thoái, vì căn bản Ki Tô Giáo là một tôn giáo thuộc loại mê tín nhất thế gian, nhốt tuyệt đại đa số tín đồ vào một “đức tin” (faith) không cần biết không cần hiểu. Nhưng sự tiến bộ trí thức của nhân loại đã khiến cho không ít tín đồ vàmột số các vị lãnh đạo Ki Tô Giáo nhận ra sự thật cay đắng này. Những niềm tin căn bản của Ki Tô Giáo nói chung, ví dụ như chuyện Thiên Chúa sáng tạo ra vũ trụ trong 6 ngày cách đây khoảng 6000 năm, chuyện vườn địa đàng Eden, Adam và Eve sa ngã tạo nên tội tổ tông, Chúa Giê-su sinh ra từ một nữ trinh, bị đóng đinh trên thấp giáchết đi rồi sống lại sau ba ngày và rồi 40 ngày sau đó bay lên trời ngồi bên phải của Chúa Cha, khả năng chuộc tội và cứu rỗi của Giê-su v.v... , tất cả đều không còn chỗ đứng trong giới hiểu biết và trí thức ngày nay. Bởi vậy nên một số các bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo cũng như một số học giả trí thức Ki Tô Giáo đã cố gắng nghiên cứu, viết sách, trình bày sự thật để giáo dục những tín đồ Ki Tô Giáo đáng thương của họ. Điều này đã góp phần lớn trong sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên thế giới. Sau đây là vài kết quả nghiên cứu điển hình của họ.

Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao Ki Tô Giáo lại suy thoái, nếu nó thực sự là một tôn giáo có mục đích nâng cao trình độ hiểu biết của con người, một tôn giáo đạo đức, một tôn giáo có thể giúp cho con người thăng tiến lên một cảnh giới cao hơn v…v…Ki Tô Giáo đã hoàn toàn thất bại trong nhiệm vụ này như lịch sử đã chứng minh. Và người ta đã kết luận rằng thay vì Ki Tô Giáo văn minh hóa nhân loại thì chính sự tiến bộ của nhân loại đã văn minh hóa Ki Tô Giáo.  Vì những thanh gươm để giết người và những bó đuốc để thiêu sống người đã bi tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Giáo hội Ca-tô (Xin đọc John Remsburg trong “False Claims”). Đây là một sự thật không ai có thể chối cãi.

Nhưng người Việt Nam chúng ta lại phải đối diện với một sự thật đau lòng. Tất cả những tài liệu trên về sự suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô Giáo nói riêng, đã nói rõ hơn gì hết sự thức tỉnh của Tây phương. Trong khi đó thì Ca-tô Giáo Việt Nam vẫn còn đang trong cơn mê, mê mẩn về những giáo lý mà Tây phương không còn tin, không còn theo. Và ngày nay chúng ta vẫn thấy những con chiên như Đăng Trình vẫn mang những đồ phế thải của Âu Mỹ quảng cáo như những đồ châu báu cho Việt Nam.   Ảnh hưởng tai hại của một “đức tin” không cần biết, không cần hiểu, thật không còn gì rõ rệt hơn nữa. Vì vậy, trong khi đa số dân chúng Tây phương không còn đi lễ nhà thờ nữa, đã bỏ đi những giáo lý đã lỗi thời thì ở Việt Nam và trong những cộng đồng Công giáo ở hải ngoại, giáo dân vẫn tin vào sự phán xét bất thiện của Giê su trong ngày cánh chung (Matthew 25: 31-46), vẫn đi lễ nhà thờ nườm nượp, tin vào những lời dọa của các bề trên là không đi lễ nhà thờ là một tội trọng, khôngđược Chúa cho lên một thiên đường sau khi chết. Ở một vài giáo xứ Ca-tô ở Việt Nam, giáo dân còn nghe lời các bề trên, đi lễ nhà thờ hai ba lần một ngày, đi ngày không đủ, tranh thủ đi đêm, đi thêm ngày “Chúa nhật”, sáng tối cầu nguyện xin cho cùng Chúa. Thật là quá tội nghiệp đi.

VI. Thay Cho Kết Luận -
Nhận Định Vài Điều Giảng Đạo Đã Lỗi Thời Của Đăng Trình:

Trong cơn hấp hối, Giáo hội Ca-tô đã bùng lên như một ngọn lửa trước khi tắt, một mặt tung ra những văn kiện và những tín lý đã lỗi thời để giữ đám con chiên đầu óc yếu kém, một mặt khác, muốn đi kiếm ăn nơi khác nên khuyến khích con chiên phải đi cắm thánh giá ở những miền đất mới qua văn kiện “Tông Huấn Cải Đạo Á Châu”. Nhưng ngày nay, Á Châu đâu có còn ở thế kỷ 17 như một số cộng đồng Ca-tô, và người dân Á Châu đâu có còn ở trình độ của những giáo dân ở Bùi Chu, Phát Diệm trong thế kỷ 17, 18, cho nên sách lược Cải Đạo Á Châu làm sao có thể thành công khi mà Á Châu đã biết rõ bản chất của Ki Tô Giáo. Ai có thể ngăn chận được những thông tin về Ki Tô Giáo trên những tác phẩm nghiên cứu của giới trí thức, ai có thể ngăn cản được những thông tin về thực chất Ki Tô Giáo trên Internet.

Nhưng những con người mang thân phận của con chiên thì giáo hội bảo sao thì làm vậy. Do đó chúng ta thấy xuất hiện những tác phẩm, những bài viết, với mục đích nhập nhằng một anh thợ mộc Do Thái với ông Trời của Việt Nam, đổi “Cứu rỗi” thành “Cứu độ”, đồng thời xuyên tạc, ra công hạ thấp Phật Giáo rồi đánh bóng Ki Tô Giáo một cách ngu si vô trí, có nghĩa là chỉ viết theo cảm tính chứ không biết rõ sự thật. Ngu si vô trí vì vẫn mang thông điệp của giáo hội hay những điều trong thánh kinh ra làm như đó đều là những chân lý mạc khải, nhưng chỉ nói vu vơ vì không có bất cứ một bằng chứng nào để chứng minh những điều đó là đúng.

Gần đây chúng ta còn thấy có cả một chiến dịch bôi nhọ Phật Giáo bằng luận điệu xuyên tạc, chụp vào đầu Phật Giáo mọi tệ đoan xã hội như bùa ngải, luyện thiên linh cái, đốt vàng mã v…v… mà không cần biết là những thứ đó tuyệt đối không dính dáng gì đến Phật Giáo. Giáo lý Phật Giáo nằm ở đâu, nếu không phải trong Kinh Điển Phật Giáo. Phật Giáo có thiên Kinh, vạn quyển, nhưng thử tìm trong đó xem có chỗ nào đức Phật hay các Tổ dạy con người phải đi giết người hay đắm mình trong những điều mê tín như trên. Tuyệt đối không có. Trái lại, tại sao Ca-tô giáo đi giết người ngoại đạo? Tại vì Chúa Cha dạy thế trong Cựu Ước và Chúa Con (Giê-su) cũng dạy thế trong Tân Ước.   Tại sao Ca-tô Giáo thiêu sống người. Vì Chúa Con dạy thế trong Tân Ước. Tại sao Ca-tô Giáo lại làm tiền phong hay theo gót thực dân đi truyền đạo giả dối và cướp đất khắp nơi? Tại vì Tân Ước dạy thế và Giáo hội dạy thế, tất cả là của Chúa và chỉ có con cái Chúa mới có quyền được hưởng.

Sau đây tôi xin trích dẫn một vài điều Đăng Trình (ĐT) viết để quảng cáo cho cái gọi là “Mầu nhiệm cứu độ (sic)” của Ki Tô Giáo. Tôi sẽ không phê bình, chỉ đưa ra một số tài liệu để đối chiếu với những gì Đăng Trình viết. Nếu quý vị không thấy những lời sau đây của Đăng Trình là mê sảng, cuồng tín thì chắc quý vị phải là một tín đồ Ca-tô.

ĐT:  Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó... Tuy nhiên Giáo Hội rao giảng và có bổn phận phải kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Ðấng là “đường, sự thật và sự sống” (Gio 14,6), nơi Người, con người tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn và nhờ Người, Thiên Chúa giao hòa mọi sự với mình.

[Thiên Chúa là Thiên Chúa vô hình, không thể mô tả được, không ai hiểu được, vậy trên đây có phải là những lời mê sảng trong cơn mê không? Đường, sự thật và sự sống của Giê-su như thế nào. Là con đường thiện hay con đường ác? Tân Ước đã viết rất rõ. TCN]

ĐT: Hiến chế tín lý về Giáo Hội cũng đã nêu rõ: “Thực ra, những gì thiện hảo trong tâm hồn và tư tưởng của loài người, hoặc trong nghi lễ và văn hóa riêng của các dân tộc, hoạt động của Giáo Hội không nhằm tiêu diệt chúng, nhưng lành mạnh hóa, nâng cao và hoàn thành chúng, hầu làm vinh danh Thiên Chúa, đánh bại ma quỉ và mưu cầu hạnh phúc cho con người” (Lumen Gentium, 17).

[Đây là những lời huênh hoang láo lếu trịch thượng của Giáo hội mà các con chiên ngu ngơ lập lại như cái máy. Một tôn giáo đã mệnh danh là đạo bịp, đạo chích, và mê tín hạng nhất thì làm sao có thể “lành mạnh hóa, nâng cao” các tôn giáo khác. Lịch sử Ca-tô giáo đã chứng tỏ là giáo hội đã Vinh danh Thiên Chúa bằng những cuộc thánh chiến, những hình cụ tra tấn khủng khiếp nhất của các tòa án xử dị giáo, xử những kẻ mà giáo hội gọi là lạc đạo hay giáo hội cho là phù thủy mà giáo hội mang đi thiêu sống. Tổng số nạn nhân vô tội lên tới 200 triệu gồm cả Nam Phụ Lão Ấu. Đi đến đâu, Giáo hội cũng toan tính phá hủy nền văn hóa và truyền thống tốt đẹp của địa phương và thay thế vào đó bằng một nền văn hóa hạ đẳng, ưa trả thù của Ca-tô Rô-ma Giáo.   Ai có thể phủ nhận những sự kiện lịch sử này, xin mời lên tiếng.   TCN].

ĐT: -Và Công đồng Vatican II cũng đã khai sinh môn “Thần học về các Tôn giáo” để “hình thành một cách nhìn trân trọng và tích cực hơn về vai trò cứu rỗi của các tôn giáo ngoài Kitô giáo” [29].

Công đồng Vatican II cũng đã khai sinh môn “Thần học về các Tôn giáo”,nhưng chúng ta đã biết Phật Giáo không công nhận có một thần sáng tạo, trong Phật giáo không có thần học, và trong Phật giáo cũng không có chuyện cứu rỗi hoang đường, vậy thì Công Đồng Vatican đã khai sinh ra môn thần học về một cái gì tưởng tượng, cũng như Thần Học Ki Tô Giáo, là môn học về một Gót tưởng tượng. Trên thực tế, Thần học KiTô Giáo là một môn học về một cái gì vô hình, không thể mô tả được, không ai hiểu được, và không ai biết được (unknowable). Vì vậy mấy người Ca-tô Việt Nam viết về Thần Học là viết trong cơn mê sảng. Trong Ca-tô Rô-maGiáo, tín đồ chỉ có quyền “quên mình trong vâng phục”, trung thành với “đức vâng lời”, không có quyền thắc mắc, chỉ có quyền tin, không có quyền hiểu, nên Giáo hội có muốn dạy sao về Gót, về một cái gì vô hình, không thể mô tả được, không ai hiểu được, và không ai biết được, cũng không thành vấn đề đối với con chiên, giáo hội dạy sao thì cứ tin làm vậy. Khổ một nỗi, đối với người ngoại đạo, xét theo logic thì tất cả những gì mà Ki-tô Giáo nói về Gót, khẳng định là Gót, thế này, Gót thế nọ, ý Gót thế này, ý Gót thế nọ, Gót thương yêu bạn, muốn bạn thế này thế nọ v.v... chung qui cũng chỉ là đoán mò, nói chỉ để mà nói, thực chất những khẳng định trên hoàn toàn vô nghĩa. Vô nghĩa ở chỗ không ai thấy được Gót, (invisible), không ai biết gì về Gót (unknowable), và không ai hiểu được Gót, (incomprehensible), cho nên những gì nói về Gót, đều là do sự tưởng tượng hay mê sảng của con người, thường là sự tưởng tượng của những người không có mấy đầu óc, hoặc đầu óc rất xảo quyệt, đưa ra để lòe bịp những người ít đầu óc. Sau đây là vài tài liệu về cái gọi là nền thần học Ki Tô Giáo.

Tài Liệu:

Cái gì làm cho bất cứ ai nghĩ rằng Thần Học thật sự là một chủ đề?

[What makes anyonethink that "theology" is a subject at all? ]

Richard Dawkins in “The Emptiness of  Theology

Richard Dawkins

Trong cuốn Một Linh Mục Hiện Đại Xét Về Giáo Hội Lỗi Thời Của Mình, một cuốn sách đã được một số trí thức trong cũng như ngoài giáo hội ca tụng, linh mục James Kavanaugh  đã đưa ra một nhận xét như sau về nền Thần học Ca-Tô:

Tuy nhiên, nền Thần học của chúng ta đã trở thành một trò chơi học thuật. Đó là một mớ luật lệ tích tụ trong sự cay đắng tôn giáo của những cuộc tranh chấp nhỏ mọn. Đó là một chuyện cổ tích về những chân lý đã nhàm chán, chỉ có tác dụng tước đoạt trách nhiệm cá nhân của con người và hạ thấp con người thành một nô lệ vô danh sợ sệt. Thần học đã tước đoạt đầu óc con người và chỉ để lại trong họ những lời học thuộc lòng... Đó là nền Thần học mà tôi đã học và truyền lại trong mọi kỳ xưng tội mà tôi nghe, trong mọi lớp học tôi dạy, trong mọi bài giảng tôi nói cho đám con chiên đầy mặc cảm tội lỗi.

[James Kavanaugh, A Modern Priest Looks At His Outdated Church, p. 6: Our theology, however, has become a scholar's game. It is a code of rules accumulated in the petty wars of religious bitterness. It is a tale of tired truths, which only serve to rob man of personal responsibility and reduce him to the listlessness of a frightened slave. Theology took away man's mind and left him memorized words... This is the theology I learned and transmitted in every confession I heard, every class I taught, every sermon I gave to the guilt-infected flock. ]

Để hiểu rõ hơn cái gọi là Thần Học Ki Tô Giáo, chúng ta hãy đi thêm vào một số nhận định của cá học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-tô:

Giáo sư David Voas, đại học New Mexico, Hoa Kỳ,tác giả cuốn sách khảo cứu Tân Ước nổi tiếng: Cuốn Thánh Kinh Mang Tin Dữ: Cuốn Tân Ước [The Bad News Bible: The New Testament, Introduction]đã viết trong phần dẫn nhập như sau:

Thần học,đã  mộtthời như là bà hoàng của các khoa học, ngày nay có vẻ chỉ còn là bà hoàng của các tu viện, vẫn đàm tiếu về cùng những chuyện cổ xưa sau khi các em nhỏ hát Thánh ca đã trưởng thành và bỏ đi lâu rồi. Thật là đáng xấu hổ... Thần học - chấp nhận như là môn học về Thần Ki Tô - bị coi là không có chủ đề nào, hoặc ít nhất là không có chủ đề nào chúng ta có thể nghiên cứu. Đó là ngành học duy nhất với những chuyên gia thực sự không biết mình đang nói cái gì.

 Vì không có chất liệu cho chủ đề, các nhà Thần học phải xử dụng đến hai lãnh vực kỳ quặc: óc tưởng tượng và Giáo quyền...   Ngày nay, các tư tưởng gia Ki Tô có nhiệm vụ chứng tỏ Thánh Kinh có ý nghĩa, nhất quán, và có vẻ như là có thể biện hộ cho vấn đề luân lý đạo đức trong đó. Điều này có thể thật là khó khăn.

[David Voas, Theology, once queen of the sciences, now seems merely queen of the cloisters, still gossiping about the same old stories long after the choir boys have grown up and moved on. It's a shame... Granted, theology - the study of God - suffers from the suspicion that it has no subject, or at least none we can study. It is the only field with experts who don't know what they are talking about. Their subject matter being inaccessible, theologians must resort to the odd couple of imagination and authority... Christian thinkers now have the job of showing that scripture makes sense, is consistent, and appears morally defensible. This can be difficult. ]

Góp mặt với thế giới Âu Mỹ văn minh tiến bộ, một người “Công Giáo Việt Nam da vàng” đạo gốc, Bùi Văn Chấn alias Charlie Nguyễn, đã nhận xét rất chính xác khi ông viết về giá trị của cái bằng đại học về thần học như sau [Charlie Nguyễn, Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Chúa (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2003), tr. 355-56]:

“Cái gọi là sự học vấn của các trường tôn giáo hoặc sự uyên bác của học sĩ Ulama thực chất chỉ là môn học “tán hươu tán vượn” về những điều huyền hoặc của thần học (theology). Thần học Hồi Giáo cũng tương tự như thần học của Do Thái Giáo hoặc Ki-tô Giáo. Thần học là một môn học đầy tính chất hoang tưởng, viển vông và nhảm nhí. Càng đi sâu vào thần học, con người càng lún sâu vào “ốc đảo tâm linh”, xa rời thực tế và đầy đặc những định kiến sai lầm. Những mảnh bằng “Tiến Sĩ Thần Học” là những giấy chứng chỉ công nhận sự ngu xuẩn của kẻ được cấp. Chỉ đến khi có cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ đó mới cảm thấy xấu hổ là đã được cấp những mảnh bằng về thần học mà thôi. ”

Vì Thần học là môn học không có chủ đề, và vì Thần học chỉ là một môn học đầy tính chất hoang tưởng, viển vông và nhảm nhí,ít ra là đối với giới hiểu biết ngày nay, cho nên John E. Remsburg đã viết trong cuốn False Claims, p. 3:

 Trong những giới thông minh ở Âu châu và Mỹ châu, nền Thần học Ki Tô trên thực tế đã chết.

(Among the intelligent classes of Europe and America, Christian theology is practically dead. )

Sau đây chúng ta hãy điểm qua một số nhận định của một số bậc thức giả Tây phương về Thần học Ki Tô Giáo.

Robert G. Ingersoll: Hãy để thần học ra ngoài tôn giáo. Thần học luôn luôn đưa những người tồi tệ nhất lên thiên đàng, những người tốt nhất xuống hỏa ngục.

Letus put theology out of religion. Theology has always sent the worst to heaven, the best to hell.

 Hi vọng của khoa học là sự hoàn mỹ của loài người, hi vọng của thần học là cứu rỗi một số ít người và sự đầy đọa hầu hết mọi người.

The hope of science is the perfection of the human race. The hope of theology is the salvation of a few and the damnation of almost everybody.

H. L. Mencken: Thần học: một nỗ lực để giải thích cái không thể biết được bằng những lời không đáng để biết.

Theology: an effort to explain the unknowable by putting it into terms of the not worth knowing.

Thần học Ki Tô Giáo không chỉ chống đối khoa học mà còn chống đối mọi cách suy nghĩ hợp lý khác.

“Christian theology is not only opposed to the scientific spirit; it is opposed to every other form of rational thinking”

Bertrand Russell: Bạo hành được dùng trong thần học, không trong số học.

Persecution is used in theology, not in arithmetic.

Marquis de Sade: Xét về những khái niệm đưa ra bởi các nhà thần học, chúng ta phải kết luận là Gót sáng tạo ra hầu hết mọi người để chứa họ đầy trong Hỏa ngục.

To judge from the notions expounded by theologians, one must conclude that God created most men simply with a view to crowding hell.

Alfred North Whitehead (1861-1947), một nhà Toán học và Triết gia Mỹ cũng đưa ra nhận định:

 Tôi coi nền thần học Ki Tô Giáo như là một trong những tai họa lớn của nhân loại.

(I consider Christian theology to be one of the great disasters of the human race).

Quý độc giả cũng nên đọc bài Sự Rỗng Không Của Thần Học [The Emptiness of Theology] của Richard Dawkins. Bài này đã được Lê Dọn Bàn dịch và đăng trên Giao Điểm:

http://www. giaodiemonline. com/noidung_detail. php? newsid=4958&PHPSESSID=d6d0d473da7e27bd24433cf83e3b7a4f

▸ ĐT -Khi nêu ra những điểm thuận hay nghịch giữa Ấn độ giáo, Phật giáo với Kitô giáo trong việc tìm hiểu Kitô giáo, mục đích của người viết không phải để khai thác những điểm tương đồng và dị biệt, để thiết lập vị thế độc tôn của Kitô giáo, hay là tìm các luận cứ và luận chứng để xây nên một thứ “tôn giáo sen đầm” mà loại trừ những tôn giáo khác, bởi đó là cách thức dễ gây ra những thảm kịch nhân gian khi tự cho mình là cái rốn của vũ trụ. Ngụ ngôn thầy bói mù sờ voi vẫn còn nguyên giá trị cho những ai có tham vọng muốn đẩy tôn giáo của mình lên vị thế độc tôn.

Tài Liệu:

[Đăng Trình không biết rằng, ngày 5 tháng 9, 2000, Joseph Ratzinger, với sự chấp thuận của John Paul II, đã tung ra bản tuyên ngôn “Dominus Jesus” trong đó có hai điểm trịch thượng đối với mọi tôn giáo khác như sau, ngụ ý phủ nhận các tôn giáo khác:

1. “... như là một phương tiện đưa đến sự giải thoát, những tôn giáo phi-KiTô thiếu sót một cách trầm trọng” (... non-Christian religions are gravely deficient as a means of salvation)

2. “Giáo hội Ca-tô Rô-ma là phương tiện duy nhất đem đến sự giải thoát cho toàn thể nhân loại” (The Roman Catholic Church is the only instrument for the salvation of all humanity)

Đăng Trình cũng lập lại những điều huênh hoang trên như con vẹt:

▸ ĐT: Tuy nhiên, nếu coi mọi tôn giáo đều như nhau tức là đang rơi vào não trạng tương đối hóa tất cả, một thứ quan niệm đánh đồng tất cả. Trong khi Kinh Thánh của Kitô giáo dạy rằng: “Ðức Kitô là Ðấng Trung gian giữa Thiên Chúa và loài người” (1 Tm. 2,5), “không ai đến được với Cha mà không qua Ngài” (Ga 14,6), “ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này, không một danh nào khác được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào đó mà được cứu độ”

Giáo sư Thần học Ca-tô nổi tiếng trên hoàn cầu, Hans Kung, đã đưa ra một nhận định về bản tuyên ngôn “Dominus Jesus” là “một sự pha trộn của tính chất lạc hậu thời Trung Cổ và Tâm Lý Bệnh Hoạn về Những Ảo Tưởng Hão Huyền về Quyền Lực hay Toàn Năng của Vatican” (A mixture of medieval backwardness and Vatican megalomania). (Megalomania =A psycho-pathological condition in which fantasies of wealth, power or omnipotence predominate)].

▸ ĐT -Cứu độ trong Kitô giáo được hiểu là giải phóng con người khỏi nô lệ tội lỗi: “Chúng ta đã làm nô lệ cho tội” (Rm 6,7), “Chúng ta bị trói buộc bởi lề luật của tội lỗi” (Rm 7,23), “Tội lỗi thống trị chúng ta” (Rm 6,14), nhưng chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi nhờ cái chết của Đức Giêsu (Rm 6,18. 20. 22), để sẵn sàng phục vụ cho công lý và cho Chúa. Nhân loại tội lỗi, cần phải được cứu độ mới có thể sống an vui ở đời này, và nhất là sau khi chết, được hiệp thông với Thiên Chúa trong hạnh phúc trường sinh bất tử trên Thiên đàng, nghĩa là con người cũng đạt đến cảnh giới của tự do được hiểu như là hoa quả của công chính, ân sủng và đời sống Kitô giáo nhờ giá máu của Đức Giêsu Kitô đã đổ ra trên thập giá để giải thoát ta, biến ta thành những con người tự do đích thực.

Tài Liệu:

Đông phương: Nhân chi sơ, tính bản thiện. Ki Tô Giáo: Nhân chi sơ, tính bản ác. Giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận sự hiện hữu của thiên đàng. Vậy mà con chiên Mít Đăng Trình vẫn viết lên những lời mê sảng, mơ hồ, không giải thích là ông ta muốn nói đến những tội lỗi nào. Nếu là tội tổ tông thì đó chỉ là một chuyện hang đường của thời bán khai. Nếu là những tội lỗi thế gian xẩy ra sau khi Giê-su đã chết và không biết gì về chúng thì đương nhiên Giê-su là đồng lõa với những kẻ phạm tội. Nhưng vấn đề là trong 4 Phúc Âm, không có chỗ nào Giê-su nói ra là ông ta sẽ chết để giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi. Khi được hỏi là phải làm gì để có cuộc sồng đời đời, ông ta đã trả lời là hãy tuân theo những điều răn của Cha ông ta (Matthew 19: 16, 17), nghĩa là phải thi hành luật của Gót. Trong một trường hợp khác, trước câu hỏi như trên, ông ta đã trả lời, là phải yêu Gót và yêu đồng loại (Luke: 10: 25-28).

Sau đây là một tài liệu để mở mắt Đăng Trình. Trong bài “Huyền Thoại Cứu Rỗi” (The Salvation Myth), Linh Mục James Kavanaugh viết:

L.M. James Kavanaugh

Nhưng đối với con người hiện đại. chuyện hi sinh của Giê-su (bất kể là giáo hội giải thích là để cứu chuộc tội cho nhân loại) chẳng có ý nghĩa gì mấy, trừ khi hắn đã bị reo rắc sự sợ hãi và bị tẩy não từ khi mới sinh ra đời (But to modern man, it makes far less sense unless he has been suitably frightened and brainwashed from birth). Đối với tôi (Linh mục James Kavanaugh), đó là một huyền thoại “cứu rỗi” của thời bán khai, miêu tả một người cha giận dữ, chỉ nguôi được cơn giận bằng cái chết đầy máu me của chính con mình. Đó là một chuyện độc ác không thể tưởng tượng được của thời bán khai (It is a primitive tale of unbelievable cruelty).

Tôi chấp nhận sự kiện là Giê-su đã chết, và ngay cả đã bị đóng đinh trên thập giá. Nhưng tôi không thể chấp nhận cái huyền thoại là cái chết của ông ta là để chuộc tội cho tôi.   Huyền thoại “cứu rỗi” trong Tân Ước chỉ là một cách diễn giải. Đó là một huyền thoại của thời bán khai, bản chất của nó giống như những huyền thoại của các dân tộc bán khai ở khắp nơi,nhưng nó hoang đường và ác độc hơn hầu hết các huyền thoại khác (But it is more unbelievable and more cruel than most myths).

Tôi không muốn được “cứu rỗi” hay rửa sạch tội lỗi trong máu của bất cứ ai. Tôi được cứu khỏi cái gì? Tôi cũng không chấp nhận huyền thoại về một Thiên Chúa đòi hỏi đối xử với con của mình là Giê-su bằng một loại công lý vô tình cảm và đòi hỏi hắn phải chết để chuộc tội cho tôi. Cái huyền thoại này cũng chẳng có gì hấp dẫn hơn vì ông ta đã vinh quang làm cho con ông ta sống lại. Tôi không thể yêu một ông Cha như vậy và cũng chẳng có gì cần phải biết ơn một đứa con như vậy. Tôi không yêu cầu ông ta phải chịu đau khổ vì tôi và ngay cả muốn ông ta làm như vậy.

▸ ĐT -Nhưng con người là loài thụ tạo, tương đối và hữu hạn, nên không thể tự cứu lấy mình được. Nhờ tình thương vô biên của Thiên Chúa đã hoàn toàn tự ý muốn cứu độ nhân loại, nên Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người để chuộc tội [tội tổ tông? ? ] cho loài người. Bởi vậy, ơn cứu độ là ân huệ hoàn toàn do Chúa ban nhưng không, nhân loại không có quyền đòi hỏi.

Tài Liệu: Thuyết Tiến Hóa đã là một sự kiện mà Công giáo đã phải công nhận. Do đó con người không phải là loài thụ tạo do Thiên Chúa của Đăng Trình tạo ra từ một cục đất sét. Tại sao con người phải tự cứu lấy mình, làm sao mà phải cứu. Cái chuyện tầm bậy về “tội tổ tông” mà vẫn còn mang ra nhắc lại như con vẹt. Theo giáo lý Ca-tô, Thiên Chúa là đấng “vô hình” (invisible), “không thể mô tả được” (ineffable), “không ai hiểu được” (incomprehensible).   Cho nên mọi điều nói về Thiên Chúa chỉ là đoán mò hoặc nói trong cơn mê sảng.

▸ ĐT - Kế hoạch cứu độ nhân loại đã có từ nguyên thủy, từ khi Thiên Chúa tạo dựng nên con người, tức là khi đến thời gian đã ấn định, Thiên Chúa sẽ sai “Thánh tử” nhập thể và nhập thế, mang thân phận phàm nhân, để chuộc tội cho nhân loại. Chính Đức Giêsu Kitô, là Đấng Cứu Thế, là Ngôi Hai Thiên Chúa, cũng gọi là Ngôi Lời nhập thể. Các nền văn minh, văn hoá, và lịch sử của toàn thể thế giới từ nguyên thủy đều qui hướng, chuẩn bị cho biến cố lịch sử độc nhất vô nhị này. [sic]

Tài Liệu: Nguyên thủy là lúc nào? Tuổi của trái đất: khoảng 4. 5 tỷ năm; con người đã xuất hiện trên trái đất: khoảng 160. 000 năm [The discovery by Tim White and his team from the University of California, Berkely, in 2003 of a single skull in Ethiopia dating back some 160,000 years] và có thể cả triệu năm. Thiên Chúa mới tạo dựng nên con người: khoảng 6000 năm.   Giê-su mới sinh ra đời: khoảng 2000 năm.

▸ ĐT - Dân tộc Do thái được Thiên Chúa tuyển chọn để chuẩn bị một cách đặc biệt: các biến cố lịch sử, các nhà lãnh đạo, các Ngôn sứ, tức là các vị phát ngôn viên của Thiên Chúa… đều nhằm vào việc loan báo sự xuất hiện của một “Messia”, Đấng cứu nhân độ thế. Do đó, có thể nói Cựu ước chuẩn bị cho Tân ước. Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu chuộc cả nhân loại chứ không chỉ riêng dân tộc Do thái.

Tài Liệu:

Matthew 7: 21-23: “Không phải người nào gọi Ta là Chúa cũng được vào nước trời... Trong ngày phán xét sẽ có nhiều người kêu nài: “Thưa Chúa, chúng tôi đã giới thiệu Chúa cho nhiều người, đã dùng danh Chúa để đuổi quỷ và làm nhiều phép lạ (như một LM ở Úc làm cho tượng ĐM Mary chảy dầu), [và loan báo Tin mừng để mở mang “Nước Chúa”] . Nhưng ta sẽ đáp: “Ta không hề biết các ngươi! Hãy cút đi cho khuất mắt ta, vì các ngươi chỉ làm việc gian ác” [Các ngươi không phải là người Do Thái. Ta sinh ra chỉ để cứu người Do Thái mà thôi. Cha ta không biết, mẹ ta không biết, và ta cũng không biết cái giống người Việt Nam là giống nào. ”]

Chứng minh?

Matthew 15: 24: Chúa Giê-su phán: “Ta được phái xuống đây chỉ để cứu những con chiên lạc Do Thái mà thôi. ” [I was not sent except to the lost sheep of the house of Israel]

Matthew 1: 21: Lời thiên sứ nói với Joseph trong giấc mộng: “Và bà ta (Mary) sẽ sinh ra một đức con trai, ngươi sẽ đặt tên nó là Giê-su,vì nó sẽ cứu dân của nó [dân Do Thái] ra khỏi tội lỗi [And she will bring forth a Son, you shall call His name Jesus, for He will save His people from sins]

Luke 1: 32-33: Thiên sứ nói với Mary:  Và Thiên Chúa sẽ cho hắn (Giê-su) ngai của cha hắn là David. Và Hắn sẽ trị vì ngôi nhà của Jacob mãi mãi và vương quốc của hắn sẽ tồn tại mãi mãi. [And the Lord God will give Him the throne of His father david. And He will reign over the house of Jacob forever, and ofHis kingdom there will be no end]

Matthew 10: 5-7,  Giê-su bảo các tông đồ: “Không được đi đến nơi nào có dân Gentiles, và không được vào thành phố nào của dân Samaritan, mà chỉ được đi đến những con dân Do Thái bị lạc. Trong khi đi hãy rao truyền tin Nước Trời đã gần đến rồi. ”

Matthew 19: 28: Ta quả quyết với các con: Đến lúc ta ngồi trên ngai vinh quang trên nước Trời , các con là môn đệ ta cũng sẽ ngồi trên 12 ngai để xét xử 12 bộ lạc Do Thái.

Luke 22: 30: Các con sẽ được ăn uống chung bàn với Ta trong Vương Quốc của Ta, và ngồi trên ngai xét xử 12 bộ lạc Do Thái.  

Matthew 10: 23: Giê-su hứa hẹn: “Ta bảo đảm với các ngươi, các ngươi chưa đi hết các thành phố của Do Thái thì Con của Người (nghĩa là Ta: Giê-su) đã đến rồi”. [Nghĩa là Giê-su đã trở lại trần gian rồi “Second coming”]

Kể ra trích dẫn vài điều như trên cũng tạm đủ để cho đọc giả thấy rõ chất thuốc phiện Ca-tô Giáo đã làm tê liệt đầu óc của Đăng Trình như thế nào. Quý vị nào có can đảm muốn đọc thêm Đăng trình xin mời vào www. lamhong. org.

Qua các phần trên, chúng ta thấy rằng phần lớn những tín đồ Ca-tô Việt Nam vẫn còn sống trong bóng tối của sự hiểu biết như Russell Shorto đã nhận định chung ở trên. Tôi thật sự không thể ngờ được là người trí thức Ca-tô Việt Nam lại kém hiểu biết về chính đạo của mình như vậy. Đối với những tín đồ sống trong các ốc đảo ngu dốt (từ của Linh mục Trần Tam Tĩnh) thì không nói làm gì, nhưng đối với giới trí thức mà ngày nay vẫn mê mẩn về những điều hoang đường đã không còn giá trị thì thật là không hiểu nổi. Phải chăng cái vòng kim cô của Ca-tô Giáo đã xiết chặt trên đầu họ cho nên đầu óc họ đã bị mất đi khả năng suy tư cho nên không thể làm gì khác hơn là nhắc lại những điều mà họ đã bị nhồi vào đầu óc từ khi còn nhỏ. Vấn đề của chúng ta ngày nay là làm sao để giúp các tín đồ Ca-tô Việt Nam ra khỏi bóng tối, ra khỏi những mê muội về một nền thần học đã lỗi thời, về những giáo lý có tính cách hạ thấp con người. Chỉ có những con chiên mới cần đến người chăn chiên.

Nữ học giả Ca-Tô Joane H. Meehl, sau khi đã nhìn thấy rõ chủ đích và những việc làm của Giáo hội Ca-Tô từ thế kỷ 4 cho tới ngày nay, đã viết trong cuốn "Người Tín Đồ Ca-Tô Tỉnh Ngộ" (The Recovering Catholic, Prometheus Book, 1995, trang 288):

 "Đạo Ca-Tô chỉ thịnh hành và phát triển trong đám người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ bị khắc phục bằng giáo dục (mở mang dân trí. TCN) và đời sống kinh tế thoải mái. " (Catholicism thrives and grows among the poor and ignorant. Itisovercomeby educationand economic well-being).

Chúng ta không thể giúp các tín đồ Ca-tô về kinh tế, nhưng chúng ta có thể giúp họ bằng giáo dục, nghĩa là mở mang đầu óc của họ bằng những tài liệu nghiên cứu, thống kê của các tác giả Tây Phương trong đó có một số linh mục và tín đồ Ki Tô Giáo, những tài liệu trong lãnh vực học thuật (scholarship) mà tôi cho rằng trong thời đại ngày nay, không có lý do gì người dân Việt Nam, nhất là những tín đồ Ca-Tô ở Việt Nam, không được quyền biết, mà trái lại vì tương lai dân tộc, người dân cần phải biết như là một phần quan trọng của bộ kiến thức thời đại.  

 Mở mang dân trí, cập nhật hóa kiến thức thời đại, đây chính là một nhiệm vụ quan trọng trong thời đại ngày nay, không chỉ riêng của chính quyền mà là nhiệm vụ chung của mọi người dân Việt Nam nào còn có lòng với dân tộc, đất nước, còn trân quý truyền thống văn hóa và tôn giáo của Việt Nam. Tôi hi vọng giới trí thức, nhất là giới trẻ ngày nay, hãy nhận thức rõ tầm quan trọng của lãnh vực văn hóa này. Vì lợi ích của mọi người, và vì tương lai của dân tộc và đất nước, chúng ta hãy cùng nhau tích cực hoạt động trong đường hướng mở mang dân trí, giúp người dân nhận thức được những sự thật về các tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam.

 Chúng ta hãy thể hiện hạnh từ bi trong nhiệm vụ này. Từ là “Cho vui” và Bi là “Cứu khổ”. Giúp cho người dân mở mang đầu óc, cập nhật hóa kiến thức thời đại, nhận rõ chân thực, là mang đến cho họ một nguồn vui vô tận; giúp cho người dân nhận rõ tỉnh thức, không bị huyễn hoặc bởi những điều hoang đường, mê tín, cất bỏ lòng sợ hãi thần quyền, gánh nặng Thiên Chúa vô hình trên vai, và thoát khỏi một tâm cảnh nô lệ ngoại quyền, đó chính là cứu khổ. Với thiện tâm, chứ không phải vì thù nghịch, chúng ta chỉ muốn giúp họ cất bỏ được cái vòng kim cô của Công giáo xiết chặt trên đầu họ. Đó là chuyện của chúng ta, còn họ có muốn chúng ta giúp hay không thì đó là chuyện của họ. Phật Giáo dạy rằng, thấy việc tốt thì cứ làm, đừng nghĩ đến truy cầu bất cứ điều gì. Đó là điều mà tôi cùng nhiều người khác trong Giao Điểm và Sách Hiếm đã thực hành trong nhiều năm nay.

Trần Chung Ngọc

Grayslake, IL.

 


Các bài tôn giáo cùng tác giả


 ▪ “Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo  - Trần Chung Ngọc

Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo - Trần Chung Ngọc

Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! - Trần Chung Ngọc

Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” - Trần Chung Ngọc

Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần - Trần Chung Ngọc dịch

Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới - Trần Chung Ngọc

Huyền Thoại Cứu Rỗi  - Trần Chung Ngọc

Lịch Sử các Giáo Hoàng - Trần Chung Ngọc

Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll - Trần Chung Ngọc

Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái - Trần Chung Ngọc

Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - Trần Chung Ngọc

Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 - Trần Chung Ngọc

Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 - Trần Chung Ngọc

Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 - Trần Chung Ngọc

Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 - Trần Chung Ngọc

TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S - Trần Chung Ngọc

Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 - Trần Chung Ngọc

Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 - Trần Chung Ngọc

Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái - Trần Chung Ngọc

Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo - Trần Chung Ngọc


▪ 1 2 3 4 5 6 >>>

Trang tôn giáo




Đó đây


2024-04-20 - KHÔNG BIẾT NHỤC - Nhóm Việt Nam vinh danh các liệt sĩ Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam - Chủ nhật ngày 17/3/2024, 1 nhóm Việt Nam đến viếng mộ 5.099 quân nhân Hàn chết trong chiến tranh ở Việt Nam. Dòng chữ trên một tấm có nội dung: “Bởi vì các chiến sĩ của các bạn yên nghỉ ở đây, đất nước chúng ta đứng vững với niềm tự hào.” Thật là không biết nhục!!

2024-04-19 - Israel Tấn Công Trả Đũa Iran -

2024-04-19 - 80 Năm Thực Dân Pháp Đô Hộ Việt Nam - Văn minh hay bóc lột? -

2024-04-19 - HOÀNG NAM: DÂN TA ĐÃ QUÁ NHÂN TỪ VỚI HỌ NGÔ - Gửi Hoàng Nam, chủ kênh Challenge Me.

2024-04-18 - "THUẾ THUỘC ĐỊA" - 60 NĂM CHÂU PHI VẪN LÀ BÒ SỮA NUÔI BÉO NƯỚC PHÁP -

2024-04-18 - Ổi Xanh: 274. Ông Võ Văn Thưởng từ chức. Thái độ của HDH và một số YouTuber... bố đời. -

2024-04-17 - Sidney, Úc: 1 Giám mục bị đâm trong lúc làm lễ - Không biết Chúa làm gì mà bắt các giám mục của Chúa phải đổ vỏ! Các đây mấy năm, có viên chức chính phủ đề nghị treo bảng ở các nhà thờ "Đây là nơi nguy hiểm cho trẻ con"

2024-04-16 - Đọc báo QĐND - Bài viết: Không "chính trị hoá" các vụ án kinh tế -

2024-04-14 - Trực tiếp tại Ấp Chiến Lược Bolsa? Quê hương Nhà dâm chủ cuội Nguyễn Văn Đài Rè - Bạn có tin ở đây là Hưng Yên, gần Hà Nội? Cứ tưởng như một thành phố ở Châu Âu!

2024-04-13 - Nhận Diện Cách Mạng Màu Tại Việt Nam -



▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 >>>




Thư, ý kiến ngắn
● 2024-04-21 - KHÔNG BIẾT NHỤC - Một Nhóm Việt Nam vinh danh các lính Hàn trong chiến tranh Việt Nam! - SH sưu tầm -

● 2024-04-19 - “CỬA LÒ - KHÁT VỌNG TOẢ SÁNG” - Nguyễn Tiến Trung -

● 2024-04-16 - Bất bình trước sự san bằng, trộn lẫn CHÍNH /TÀ của những người mù sử: HOÀNG NAM - Chủ kênh Challenge Me - FB Lý Thái Xuân -

● 2024-04-01 - Phim ĐÀO PHỞ & PIANO -Tại sao không nên đánh dấu người yêu nước bằng biểu hiệu của một tập thể thiểu số - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-21 - CHỐNG CỘNG: Chuyện cười ra nước mắt ở Sở Học Chánh Tacoma, Wa - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-09 - Tổng thống Nga, Vladimir Putin đọc thông điệp gửi Quốc hội Liên bang (29/2/2024) - Gò Vấp -

● 2024-03-09 - Các hoạt động của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc trong những năm 1942-1954 - trích Hồi ký Nguyễn Đình Minh -

● 2024-03-08 - Hồi ký lịch sử 1942-1954 - Liên Quan đến Giám mục Lê Hữu Từ, Khu tự trị Phát Diệm, Công Giáo Cứu Quốc - VNTQ/ Khôi Nguyên Nguyễn Đình Thư -

● 2024-02-15 - Trương vĩnh Ký dưới con mắt của người dân - Trần Alu Ngơ -

● 2024-02-14 - Các nhà hoạt động ẤN ĐỘ GIÁO phản đối chuyến viếng thăm của Giáo hoàng John Paul II - FB An Thanh Dang -

● 2024-02-09 - “KHÁT VỌNG NON SÔNG” của VTV1 và chuyện Trương Vĩnh Ký - Nguyễn Ran -

● 2024-02-05 - Góc kể công - Đồng bào Rô ma giáo cũng có người yêu nước vậy! Đúng. - Lý Thái Xuân -

● 2024-02-01 - Câu Lạc Bộ Satan Sau Giờ Học Dành Cho Trẻ 5-12 Tuổi Sắp Được Khai Trương Ở Cali, Hoa Kỳ - Anh Nguyen -

● 2024-01-29 - Giáo hội Rô ma giáo Đức "chết đau đớn" khi 520.000 người rời bỏ trong một năm - The Guardian -

● 2024-01-29 - Một tên Thượng Đế-Chúa ngu dốt về vũ trụ, nhưng thích bốc phét là tạo ra vũ trụ - Ri Nguyễn gửi Phaolo Thai & John Tornado -

● 2024-01-29 - Kinh "Thánh" dạy Con Chiên Giết Tất Cả Ai Theo Tôn Giáo Khác - Ri Nguyễn vs John Tomado -

● 2024-01-29 - Nhân Quyền Ở Nước Mỹ: Vụ Án Oan, 70 Năm Sau Khi Tử Hình Bé George Stinney - - Giác Hạnh sưu tầm -

● 2024-01-29 - NOEL - Ba Giáo Hoàng John Paul II, Benedict XVI, Francis I Thú Nhận Đã Bịp Chiên- Cừu Chuyện Jesus Ra Đời - Ri Nguyen -

● 2024-01-29 - Một dàn đồng ca, ngày càng đặt câu hỏi về quyền lực của Giáo hoàng - John L. Allen Jr. -

● 2024-01-29 - Tỷ lệ phá thai nơi người công giáo lại cao hơn nơi người ngoài công giáo! - Lê Hải Nam -


▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 >>>