|
08-Feb-2012 |
1. 2.
(<--- xem phần trước)
IV. Giáo Lý Giải Thoát Trong Phật Giáo:
Sau đây tôi xin sang phần trình bày về giáo lý giải thoát
trong Phật Giáo theo sự hiểu biết của tôi, và tất nhiên còn nhiều
khiếm khuyết. Tôi viết đoạn này không phải để cho những tín
đồ Ca-tô như Đăng Trình đọc, vì tôi không tin rằng họ có thể
lãnh hội được những tư tưởng và triết lý trong đó. Tôi muốn
chia sẻ cùng đọc giả một chút kiến thức về một số tư tưởng của
Phật Giáo về quan niệm giải thoát.
Phật Giáo luôn luôn quan
niệm rằng: chúng sinh thì vô lượng, mà căn trí thì bất đồng,
và mỗi người có một nghiệp riêng,cho nên không thể có một pháp
môn giải thoát chung cho tất cả mọi chúng sinh. Người đời thường
coi Đức Phật như là một vị lương y vẹn tài. Và một vị lương
y thì không thể chữa bách bệnh bằng cùng một phương thuốc. Tuy
Đức Phật có khẳng định: "Cũng như nước biển chỉ có một
vị mặn, giáo lý của ta cũng chỉ có một vị, vị giải thoát"
nhưng con đường đi tới giải thoát không phải chỉ có một, và cái
vị giải thoát cũng có thể không hẳn hoàn toàn giống nhau đối
với tất cả mọi người. Phật Giáo nói tới con số 84,000 Pháp môn
đi tới giải thoát và chúng ta nên hiểu đây là một con số tượng
trưng, tuy có nhiều ý nghĩa, nhưng không phải là một con số toán
học chính xác.
Giáo lý Phật Giáo rất rộng, thích hợp với đủ mọi
lớp người, đủ mọi trình độ, từ bình dân đến trí thức, trong xã
hội. Chúng ta thấy trong Kinh Lăng Nghiêm có 25 Pháp môn viên
thông dẫn tới giải thoát. Và trong Kinh Hoa Nghiêm, cuộc hành
trình cầu đạo của Thiện Tài Đồng Tử đã học được với 53 vị Thiện-Tri-Thức,
gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, và được dạy cho 53 Pháp môn
tiến tới giải thoát khác nhau. Điều đặc biệt trong cuộc hành
trình cầu đạo của Thiện Tài là: sau khi đã học được trọn vẹn
với vị thầy thứ nhất của mình về đạo đức, học vấn và diệu dụng
thần thông, thì vị thầy thứ nhất này lại giới thiệu một vị thầy
khác và khuyên Thiện Tài hãy đến học thêm đạo với vị thầy thứ
hai, nói rằng “Đạo nghiệp của người ấy cao hơn ta”.
Vị thầy thứ hai lại giới thiệu cho Thiện Tài vị thầy thứ ba,
và cứ như vậy cho đến vị thầy thứ 51 là Đức Di Lặc, 52 là Bồ
Tát Văn Thù, và sau cùng là Bồ Tát Phổ Hiền. Trong số 53 vị
thầy này có đủ các hạng người: Bồ Tát, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni, Vua,
Nữ Nhân, Cư sĩ, Trưởng giả v…v…Đó là tinh thần học hỏi của
Phật Giáo. Lẽ dĩ nhiên không phải ai cũng theo được cuộc hành
trình cầu đạo như vậy, nhưng ít ra xuyên suốt những giáo lý mà
Thiện Tài Đồng Tử lãnh hội được chúng ta cũng có thể hiểu được
vài điều trong đó và áp dụng cho đời sống của chúng ta.
Bây giờ chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Phẩm "Nhập Pháp
Giới" để có thể hiểu thêm về ý nghĩa giải thoát trong Phật
Giáo:
Muốn tiến tới giải thoát, con người trước hết cần phát tâm
vô thượng Bồ Đề. Nhưng thế nào là phát Bồ Đề Tâm? Trong Kinh
Hoa Nghiêm, Hải Vân Tỳ Kheo giảng như sau:
Phát Bồ Đề Tâm là phát tâm đại bi, vì cứu khắp tất cả
chúng sanh. Là phát tâm đại từ, vì giúp khắp tất cả thế gian.
Là phát tâm an lạc, vì làm cho tất cả chúng sanh diệt tất cả
khổ. Là phát tâm lợi ích, vì làm cho tất cả chúng sanh lìa
ác pháp. Phát tâm ai mẫn, vì có ai kinh sợ thời đều giữ gìn.
Phát tâm vô ngại, vì rời bỏ tất cả chướng ngại. Phát tâm quảng
đại, vì tất cả các pháp giới đều đầy khắp. Phát tâm vô biên,
vì khắp cõi hư không đều qua đến. Phát tâm rộng rãi, vì đều
thấy tất cả Như Lai. Phát tâm thanh tịnh, vì trí không trái
với pháp tam thế. Phát tâm trí tuệ, vì vào khắp biển nhứt-thiết-trí-huệ.
[Trên đây chỉ là một đoạn ngắn nói về Bồ Đề Tâm của Hải Vân Tỳ
Kheo. Muốn biết rõ hơn về Bồ Đề Tâm, xin quý độc giả đọc 40
trang tuyên thuyết về Bồ Đề Tâm của Bồ Tát Di-Lặc trong Kinh
Hoa Nghiêm, Phẩm "Nhập Pháp Giới. "]
Nhưng nếu đã phát tâm bồ đề rồi thì con người có thể làm những
gì? Chúng ta hãy nghe Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết trong Kinh
Hoa nghiêm, Phẩm "Nhập Bất-Tư-Nghị Giải-Thoát Cảnh Giới
Phổ-Hiền Hạnh Nguyện":
Thiện Nam Tử!Trong các thứ cúng dường, Pháp cúng dường
là hơn hết. Pháp cúng dường là: Tu hành đúng theo lời Phật dạy
để cúng dường; chịu khổ thế cho chúng sanh để cúng dường; nhiếp
thọ chúng sanh để cúng dường; siêng năng tu tập căn lành để cúng
dường; không bỏ hạnh Bồ Tát để cúng dường; chẳng rời tâm bồ đề
để cúng dường.
Các Đức Như Lai như số cực vi trong tất cả cõi Phật khắp hư không pháp
giới mười phương ba đời toan muốn thị hiện nhập Niết-Bàn, cùng các Bồ Tát,
Thinh Văn, Duyên Giác, hữu học, vô học, cho đến tất cả các bậc thiện-tri-thức,
tôi đều khuyên mời xin đừng nhập Niết-Bàn, xin ở lại đời trải qua số kiếp
như vi trần trong tất cả cõi Phật, vì muốn cho chúng sanh được lợi lạc...
Bao nhiêu chúng sanh sai khác trong tất cả cõi ở mười phương Pháp-giới,
hư không giới... trong các loài ấy, nếu là kẻ có bịnh thì tôi vì họ mà
làm lương y, nếu ai bị lạc đường thì tôi vì họ mà chỉ cho con đường chánh,
nơi đêm tối tôi vì họ mà làm ngọn đuốc sáng, người nghèo thiếu tôi làm cho
được của báu. Bồ Tát bình đẳng lợi ích cho chúng sinh như vậy.
Vì sao thế? Vì Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sanh, thì chính là
tùy thuận cúng dường các Đức Phật. Còn tôn trọng và thừa sự chúng sanh
thì chính là tôn trọng và thừa sự các đức Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh
vui mừng thì chính là làm cho tất cả Như Lai vui mừng. Vì sao thế? Vì các
đức Như Lai dùng tâm đại bi mà làm thể. Nhơn nơi chúng sanh mà sanh lòng
đại bi, nhơn lòng đại bi mà phát tâm bồ đề, nhơn nơi tâm bồ đề mà thành bậc
vô thượng chánh đẳng chánh giác (nghĩa là hoàn toàn giác ngộ, hoàn toàn giải
thoát. TCN).
Ví như giữa chốn sa mạc có cây thọ vương to lớn, nơi gốc cây ấy được
nước rưới nhuần, thì cành lá hoa quả thảy đều sum sê tươi tốt.
Cây thọ-vương bồ đề ở chốn sa mạc sanh tử rộng lớn cũng như vậy: tất
cả chúng sanh là gốc rễ, Bồ Tát là hoa, Phật là quả. Dùng nước đại bi
đượm nhuần gốc rễ chúng sanh thì có thể trổ bông Bồ Tát trí huệ và kết
thành quả Phật toàn giác.
Vì sao thế? Bởi các Bồ Tát dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sanh,
thì có thể thành tựu quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cho nên quả Bồ
Đề thuộc về chúng sanh, vì nếu không chúng sanh, tất cả Bồ Tát trọn không
thể thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác...
Từ sự lễ kính ban đầu nhẫn đến tùy thuận có bao nhiêu công đức, thảy
đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sanh khắp trong hư không Pháp giới.
Nguyện cho tất cả chúng sanh thường được an lạc, không các bịnh khổ, muốn
thực hành pháp ác thảy đều không thành, còn tu nghiệp lành thì đều mau thành
tựu. Đóng chặt cửa của tất cả ác thú, mở bày đường chánh Nhơn-Thiên Niết-Bàn.
Nếu các chúng sanh nhơn vì trước kia chứa nhóm các nghiệp ác, nên chiêu cảm
tất cả quả rất khổ, tôi đều chịu thế cho, khiến chúng sanh đều được giải
thoát, rốt ráo thành tựu quả vô thượng Bồ Đề...
Đọc đoạn Kinh trên về hạnh nguyện của những người tu tập theo
Phật Pháp chúng ta có thấy cái gì có thể gọi là tiêu cực, bi
quan, xa lánh cuộc đời hay không? Hay trái lại, đó là những
hạnh nguyện hết sức tích cực, vị tha, vị chúng sinh, rất cao cả của người
Phật tử? Nhưng giải thoát trong Phật Giáo là giải thoát như thế nào? và
giải thoát khỏi cái gì? Phật giáo quan niệm nguồn gốc của sinh tử là vô
minh, và nguồn gốc của mọi khổ đau trên đời là vì ba độc: tham, sân, si.
Cho nên, một cách đại cương, chúng ta có thể nói trong Phật Giáo, giải
thoát là giải thoát khỏi bức màn vô minh để ra ngoài vòng sinh tử, và giải
thoát khỏi tham, sân, si để sống an lạc trên cõi đời. Như trên đã nói,
có nhiều con đường đi tới giải thoát, nhưng tựu trung không ngoài việc
tu tập để có thể nhận thức được rằng "sáu trần là hư huyễn,
chẳng thực, hay biến đổi. Kinh Kim Cương hình dung nó như mộng,
như bọt, như bóng. Triệt để giác ngộ được tính chất hư huyễn
chẳng thực của thế giới sáu trần thì sẽ được giải thoát tự tại. Nếu
thân tâm ở cõi thế gian sáu trần mà không bị sáu trần quấy nhiều,
dụ dỗ, mê hoặc thì sẽ chẳng sinh ra phiền não và được gọi là
người giải thoát. " ("Phật Học Quần Nghi" ,
Thích Thánh Nghiêm)
Để có một ý niệm rõ ràng hơn về giải thoát quan trong Phật Giáo,
sau đây tôi xin trích vài đoạn cốt yếu nói về giải thoát quan trong
Phật Giáo trong cuốn Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận của
Tiến Sĩ Kimura Taiken, do HT Thích Quảng Độ dịch sang tiếng
Việt:
“Lập trường chủ yếu của giải thoát quan Phật-giáo là vượt
ra ngoài cõi Dục (Dục giới). Phật Giáo không thừa nhận
thế-giới-quan Thần quyền, lại không thừa nhận cái "Ngã" cá
nhân bất biến, mà chủ trương hết thảy đều do nhân duyên hòa
hợp mà hiển hiện, và sở cứ của nhân duyên là ý chí của chúng
ta. Do đó, nếu muốn được giải thoát, con người phải cắt đứt
mọi nhân duyên, nghĩa là diệt hết dục vọng của ý chí. Theo
các học phái khác, giải thoát tức là đưa cái tiểu ngã của cá
nhân trở về với Đại ngã của một đấng sáng tạo ra vũ trụ. Nhưng
Phật Giáo vì không thừa nhận Thần quyền, nên gọi giải thoát
là Niết Bàn. Mà Niết-Bàn theo nghĩa đen là "dập tắt",
nghĩa là dập tắt hết dục vọng tồn tại và lấy đó làm lý tưởng
cứu kính. Các Kinh điển Đại Thừa, nhất là Kinh Bát Nhã,
đặc biệt thuyết minh về điểm này và mệnh danh là "Không", "Không
Không" rốt ráo là "Không", đó là chân tướng
của vũ trụ, và khi ta đã đạt được chân tướng ấy tức là đạt
đến giải thoát, đến Niết Bàn...
Các học phái khác lấy siêu nhiên (supernatural) làm
chủ nên không quá coi trọng đạo đức thế gian, nhưng Phật
thì lấy từ bi làm chủ, chuyên đứng về phương diện đạo đức
để giáo hóa loài người, đó là tiếng nói giải thoát. Tại
Ấn Độ có nhiều tôn giáo nhưng chỉ có Phật-Giáo là lấy toàn
thể nhân loại làm đối tượng để truyền giáo, và cũng chỉ
có Phật Giáo mới có những giáo lý làm thỏa mãn nhu cầu tinh
thần của mọi hạng người...
Tiến thêm một bước nữa mà khảo sát thì Phật, theo một
ý nghĩa nào đó, có thể được coi là một nhà đề xướng hiện
thực chủ nghĩa. Cái gọi là "giải thoát",
là "Niết Bàn", nếu không có ích lợi gì đối với cuộc
sống thực tế, thì tự nó cũng không có một ý nghĩa nào cả. Giải
thoát hay Niết Bàn, theo Phật, không phải chỉ có thể đạt được
sau khi chết, mà trái lại, nó có thể được chứng nghiệm
ngay ở hiện tại, ngay trong giây phút, nghĩa là bất cứ trong
giờ phút nào ta cắt đứt được mọi mối ràng buộc của tham lam,
của dục vọng, khiến cho tâm hồn thanh thản, lâng lâng, tự tại,
tự do, thì ngay giờ phút đó ta đã đạt đến cảnh giải thoát chân
thực rồi...
Do đó, trong Phật Giáo, nếu nói đến giải thoát mà
phủ nhận giá trị của thế giới hiện thực thì không những trái
với đạo lý mà còn làm hại cho chính Pháp rất nhiều. Nhưng
đây cũng lại là điểm vô cùng khó khăn, bởi lẽ vẫn sống trong
thế giới hiện thực mà làm cách nào để đừng bị mê hoặc, lôi
cuốn theo, để tìm cầu giải thoát khỏi hiện thực là một việc
mà có lẽ không ai dám tự phụ làm một cách dễ dàng...
Coi đó ta thấy chủ nghĩa giải thoát của Phật Giáo, nếu
chỉ nhìn bề ngoài, có vẻ như một chủ nghĩa "không tịch",
nhưng nếu căn cứ vào nhân cách hoạt động của đức Phật, do nhân
cách đó mà tìm hiểu ý nghĩa chân thực của giáo lý Ngài, ta
thấy Phật Giáo quyết không phải lấy hư vô làm lý tưởng, đó
là điều không một nhà học Phật chân chính nào phủ nhận...
Như thế chung cục nhận Phật là vị Nhân-Cách-Thần, nhận
Như Lai là chân ngã, rồi từ lập trường hiện tượng tức thật
tại mà xướng lên thuyết "tức thân thành Phật", cứ
như thế giáo lý Phật-giáo bắt đầu triển khai. Mà cái đặc
trưng nhất quán của chủ nghĩa giải thoát của Phật Giáo là ở
chỗ tự mình tuyệt đối mãn túc, rồi vì hạnh phúc của thế giới,
vì sự tiến bộ của nhân loại, đem hết sức mình ra làm việc với
một tâm hồn thái nhiên tự nhược, nghĩa là không đam mê, không
cố chấp, luôn luôn thanh thản tự do trước mọi hoàn cảnh. ”
Đó là tóm tắt đại cương về giải thoát quan trong Phật Giáo.
Chúng ta thấy rằng sự trình bày về giải thoát quan của Tiến Sĩ
Kimurai Taiken rất sát với nội dung Kinh điển Phật Giáo.
Tôi hi vọng, tới đây, quý độc giả đã nắm vững phần nào
căn bản khác biệt giữa giải thoát quan trong Phật Giáo và trong
Ca Tô Giáo. Cái căn bản khác biệt này là trong Phật Giáo, Phật
tử phải tự mình tu tập để tiến tới giải thoát, có thể ngay trong
cuộc đời này, và sự tu tập này đặt đối tượng trên phúc lợi không
chỉ riêng cho mình mà còn cho toàn thể chúng sanh. Trong Ca
Tô Giáo, vì là một tôn giáo cứu rỗi, lấy siêu nhiên làm chủ,
nên vấn đề đạo đức, tu tập không quan trọng, và con người chỉ
cần đặt tất cả vào một niềm tin ở một đấng siêu nhiên, quỳ trước
bàn thờ của “đức tin” và cầu nguyện, mong cầu được giải thoát
cho riêng mình: "Thiên Chúa quá thương yêu thế gian
đến nỗi ban con duy nhấtcủa Ngài, để những ai tin vào Người
sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời. " (Crossing
The Threshold of Hope, trang 76, trích dẫn John 3: 16), lẽ dĩ
nhiên là sau khi chết, không cần phải thắc mắc hay bận tâm đến
chuyện có thể chính ông bà tổ tiên của mình trước khi mình theo
Đạo, và bà con họ hàng bạn bè hay mọi chúng sanh khác, vì không
có cùng niềm tin như mình nên bị Chúa của mình đày vĩnh viễn
xuống hỏa ngục. Ca-tô Giáo tin rằng, chỉ cần một phương thuốc
“cứu rỗi” là có thể giải quyết khao khát của vô lượng chúng sinh,
căn trí bất đồng. Vậy cái “cùng ý nghĩa” của Đăng Trình về quan
niệm giải thoát của Phật Giáo và cái gọi là “Nhiệm mầu Cứu độ
(sic)” của Ki Tô Giáo là ở chỗ nào?
Vị kỷ đối với vị tha, đó là một đối ngược.
Một đối ngược khác thường được minh họa bởi hình ảnh sau đây:
giáo lý giải thoát của Phật Giáo là để cho những người tự tin,
tự mình bước đi những bước chân an lạc vững vàng trên trường
đời, và giáo lý giải thoát Ca-Tô là để cho những người thiếu
tự tin, không thể tự mình bước đi những bước chân vững vàng trên
mặt đất, không thể tự mình suy nghĩ, không dùng đến lý trí hay
khả năng suy luận của con người,hay nói cách khác, theo nhận
định của Robert G. Ingersoll: "những người cần có một
cặp nạng để lê lết trên cuộc đời, vì luôn luôn sợ sệt, nếu buông
cặp nạng ra thì sẽ chới với, cho nên phải nương tựa và trông
ngóng vào những quyền lực siêu nhiên cũng như những quyền lực
giả tạo trên thế gian. " (Xin đọc cuốn "Ingersoll,
The Magnificient" )
Sự phát triển ngày nay của Phật Giáo vào trong các xã hội Tây
phương và trên khắp thế giới thực sự đã giúp cho hàng triệu người
cất bỏ được cái cặp nạng làm mất phẩm giá con người này, và họ
đã bắt đầu tự mình bước đi những bước vững vàng, an lạc trên
mặt đất.
Lợi ích chỉ tới với những người có duyên.
V. Thực Trạng Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới
Ngày Nay:
Có một số người lo chuyện cải đạo ở Việt Nam. Chuyện con
người bị lôi kéo vào Ca-tô Giáo hay Tin Lành qua những thủ đoạn
bất chính thì ở đâu cũng có. Vấn đề ngày nay là thực chất Ki
Tô Giáo nói chung có giá trị đạo đức hay tâm linh đối với con
người hay không. Vậy thì khi người ta bị dụ dỗ hay mê hoặc để
vào đạo chỉ là chuyện bình thường, nhưng với thời gian, một khi
người ta nhận ra thực chất của Ki Tô Giáo thì người ta sẽ tự
động mà bỏ hay xa lánh. Điều này đã xẩy ra ở phương trời Âu
Mỹ. Cho nên vấn nạn cải đạo không đáng để phải lo, bởi vì, như
Tổng Thống Abraham Lincoln đã nói: “Anh có thể đôi khi lừa
gạt được mọi người, và một số người trong mọi thời,
nhưng không thể lừa gạt được mọi người trong mọi thời” (You
can fool all the people some of the time, and some of the people
all the time, but you cannot fool all the people all the time. )
Lịch sử chứng tỏ Giáo lý Ca-tô Rô-ma Giáo đã có thể lừa gạt được
hầu như mọi người ở Âu Châu trong một thời, và lừa gạt được một
số người trong mọi thời [những con chiên còn lại ngày nay], nhưng
không thể lừa gạt được mọi người trong mọi thời. Vì vậy mà Ca-tô
Giáo cũng như Tin Lành càng ngày càng suy thoái ở phương trời
Âu Mỹ vì không dễ có thể lừa gạt được con người mãi mãi. Do
đó, tôi tin tưởng rằng, bất kể Ki Tô Giáo dùng thủ đoạn gì để
cải đạo người khác, dùng bả vật chất hay nhập nhằng cứu độ với
cứu rỗi, hay bảo Chúa là ông Trời, hay xuyên tạc Phật Giáo v. v…,
họ sẽ không bao giờ có thể thành công vì không ai có thể ngăn
chận được sự tiến hóa trí thức của nhân loại. Ở một số nước
kém phát triển với những chính quyền mù mờ không nhìn ra tầm
quan trọng của sự tiến bộ trí thức của người dân nên Ki Tô Giáo
có thể vẫn có một số thành công giới hạn. Nhưng rồi trước sau
gì người dân cũng sẽ biết rõ bản chất thực sự của các tôn giáo
và họ sẽ có những quyết định hợp với trình độ hiểu biết về tôn
giáo thích hợp với thời đại như ở Âu Mỹ. Và nhất là, chân lý
ngàn đời của nhân loại là, tà không thể thắng được chánh.
Lịch sử chỉ đi có một chiều. Vài sự kiện sau đây về sự suy
thoái của Ki Tô Giáo trước sự thức tỉnh của Tây phương sẽ cho
chúng ta thấy rõ vấn đề.
Âu Châu và Mỹ Châu vốn là cái nôi của Ki Tô Giáo, nhưng ngày
nay Ki Tô Giáo ở những phương trời này lại bị phá sản, như học
giả Eliezer Berkovits đã viết về “sự phá sản đạo đức của
nền văn minh Ki Tô Giáo và sự phá sản Tâm Linh của Ki Tô Giáo” (The
moral bankrupcy of Christian civilization and the spiritual bankrupcy
of Christian religion) trong cuốn “Đạo Do Thái Trong Thời
Kỳ Hậu Ki Tô” (Judaism in the Post-Christian Era). Một
sự phá sản đạo đức và tâm linh như vậy thì không thể lừa gạt
được con người mãi mãi.
Thông tin mới nhất: Tin VOA/ Lisa Bryan, Xin đọc bài: Châu
Âu: Số Người Rời Bỏ Tôn Giáo Ngày Càng Đông [http://www. sachhiem. net/index. php? content=showrecipe&id=5197]
trong đó chúng ta thấy một hiện tu7o75ngla5 xẩy ra trong Ki Tô
Giáo: đó là tín đồ không những bỏ đạo còn chính thức xóa bỏ hiệu
lực của cái gọi là “bí tích rửa tội”, đòi nhà thờ phải bỏ tên
họ ra khỏi danh sách những người đã bị rửa tội, thường là từ
khi còn nhỏ, do sự vô minh của cha mẹ mang đến nhà thờ cho mấy
ông linh mục làm trò quỷ thuật, 3, 4 lần ra lệnh cho Chúa Thánh
Thần vào ngự trong đứa trẻ.
Đọc lịch sử Ki Tô Giáo, nhất là Ca-tô Rô-ma Giáo và những giáo
lý để nhồi vào đầu óc các tín đồ những điều hoang đường mê tín,
chúng ta thấy cả một sự băng loại đạo đức và tâm linh của Ki
Tô Giáo. Làm sao mà một tôn giáo tự nhận là “thánh thiện”, “tông
truyền”, lại có những “đại diện của Chúa”, Giáo hoàng, can tội
giết người, loạn luân, bao che các vụ loạn dâm v…v…, những “Chúa
thứ hai”, linh mục, can tội hiếp dâm ngay cả những chị em nữ
tu trong đạo của mình trên 27 quốc gia, hoặc cưỡng bách tình
dục ngay cả những trẻ em trong đạo ? Một Giáo hội với một
lịch sử không ít giáo hoàng đồi bại, không ít linh mục loạn dâm,
vô đạo đức, không ít nữ tu ác độc hành hạ trẻ mồ côi v…v. và
gần đây, từ Giáo hoàng trở xuống bao che tội ác cho nhau thì
không có tư cách để nói về đạo đức thế gian. Nhân loại đã
nhận ra điều này, đưa đến sự suy thoái không phương cứu vãn của
Ki Tô Giáo trên khắp thế giới. Một vài tài liệu sau đây hi vọng
có thể giúp người Ca-tô Việt Nam hiểu về thực trạng của Ki Tô
Giáo trên thế giới ngày nay.
Sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên thế giới, nhất là ở Âu Châu,
cái nôi của Ki Tô Giáo trước đây, đã là một sự kiện. Muốn biết
về một số yếu tố điển hình đưa đến vấn nạn suy thoái của Ki Tô
Giáo, độc giả có thể đọc: http://giaodiemonline. com/2007/06/tinlanh3. htm trong
đó có nhiều chi tiết và thống kê về tình trạng suy thoái trầm
trọng không phương cứu vãn của Ki Tô Giáo ở phương trời Âu Mỹ.
Ở đây tôi chỉ nêu một số thú nhận về tình trạng này của các bậc
lãnh đạo có uy tín trong Ki Tô Giáo.
Năm 1983, Malichi Martin, giáo sư dòng Tên tại Viện Nghiên
Cứu Thánh Kinh của Giáo hoàng, tiến sĩ về khoa ngôn ngữ Do Thái,
Khảo Cổ và Lịch Sử Đông Phương, đã từng phục vụ ở Vatican dưới
triều Giáo hoàng John XXIII, đã viết trong cuốn “Sự
Suy Sụp Của Giáo Hội Ca-Tô Rô Ma” [The
Decline and Fall of the Roman Church, Bantam Books, New
York], như sau, trang 1:
“Tiến trình bất ngờ và làm cho người ta phân vân nhất
trong 20 năm gần đây [nghĩa là từ thập niên 1960] là sự suy
thoái đột nhiên của giáo hội Ca-Tô Rô-ma trong tổ chức giáo quyền
và trong lý tưởng đồng nhất của giáo hội.
Với tình trạng ngày nay, có vẻ như không có một hi vọng
hợp lý nào để cho sự suy thoái đó ngưng lại. [Phù hợp với nhiều
lần than vãn Của Benedict XVI ngày nay]
Những thống kê đáng tin cậy và những chi tiết khác thật là
khủng khiếp cho đầu óc người Ca-Tô Rô-ma truyền thống. Khi vẽ trên một
biểu đồ từ năm 1965 đến năm 1980, số linh mục, nữ tu (các sơ), huynh
trưởng trong đạo, học sinh trung học, sinh viên đại học tư (của Ca Tô
Giáo), số người rửa tội, vào đạo, lấy người cùng đạo, dự lễ ban thánh thể,
xưng tội, thêm sức – mọi thống kê đáng kể hiện hữu -đều mô tả một
sự suy giảm chúc đầu xuống không ngừng. Thêm vào những yếu tố chính
trên là số tín đồ Ca Tô Rô-ma dứt khoát bác bỏ hoàn
toàn giáo lý của Rô-ma về ly dị, ngừa thai, phá thai, đồng giống luyến ái,
và Cộng sản.
(Malachi Martin,a Jesuit Professor at the Pontifical
Biblical Institute in Rome, doctorate in Semitic languages, archeology
and Oriental history, The Decline and Fall of the Roman Church,
a Bantam Book, NY, 1983, p. 1: The most surprising and the most puzzling
development in the last 20 years has been the sudden and undoubted
decline of the Church of Rome in its ecclesiastical organization and
ideological unity. As
things now stand, there appears to be no reasonable hope that this
decline can be arrested…
The relevant statistics and other details are horrendous for the
traditional Roman Catholic mind. When plotted on a graph covering
the years 1965-1980, the number of priests, nuns, religious brothers,
junior and senior high school students, private college students,
baptisms, conversions, inter-Catholic marriages, communions, confessions,
confirmations – every significant statistics available – describes
a plummeting, non-stop, downward drop. Added to these key factors
are the figures of those Roman Catholics who totally reject Roman
teaching about divorce, contraception, abortion, homosexuality,
and Communism. )
Trong bài “Hãy giữ đức tin” (Keeping
The Faith) trên tờ New York Times ngày 8 tháng 4, 2007,
chúng ta có thể đọc được vài đoạn như sau:
Phong cảnh giáo hội ở Âu Châu – không chỉ là Giáo hội Ca
Tô mà hầu như mọi hình thức tổ chức của Ki Tô Giáo – đang thay
đổi nhanh như chớp.
Có những ông giám mục Âu Châu cảm thấy rằng họ không còn có thể nói
về một Âu ChâuKi Tô Giáo mà không cảm thấy mình đang mạ lỵ sự thông minh
của quần chúng.
("The landscape of the church in Europe — and not just the
Catholic Church but nearly all forms of organized Christianity
– is changing at a lightning pace.
There are European bishops who feel you can’t talk about a Christian
Europe anymore without insulting people’s intelligence. ”)
Trước tình trạng con người Ki Tô trên khắp thế giới đang dần
dần từ bỏ niềm tin vào những giáo lý của Ca-tô Giáo, nhất là
vai trò cứu thế của Giê-su, Giáo hoàng Benedict XVI đã nhiều
lần thú nhận về sự suy thoái không cơ cứu vãn của Ca-Tô giáo
Rô-mavà Tin Lành ở Tây phương. Theo những tin tức
trên báo chí trên thế giới và cả trên tờ thông tin chính thức
của Vatican, tờ L’Osservatore Romano, vào những ngày
27, 28 tháng 7, 2005, thì Benedict XVI đã lên tiếng phàn nàn
như sau:
“Những tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương [Ki Tô Giáo] có
vẻ đang chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn
cần đến Thiên Chúa nữa.
Nhận xét của Ngài có vẻ bi quan và rầu rĩhơn GH tiền
nhiệm làJohn Paul II, người đã than phiền về sự suy thoái của đức tin
trong các quốc gia phát triển và nói rằng điều này giải thích sự vật lộn của
Giáo Hội Ca Tô đối với vấn đềsố người đi nhà thờ giảm rất nhiều trong
những năm gần đây. ”
(ROME (Reuters, July 27, 2005) - Mainstream churches in the West
appear to be dying as societies that are increasingly secular see less need
for God, Pope Benedict said in comments published on Wednesday.
His outlook was even glummer than that of his predecessor John
Paul, who lamented the decline of faith in the developed world and said it
explained the Catholic Church's struggle with falling attendance in the West
in recent years. )
Cũng theo tin hãng Reuters ở
Rome thì Giáo hoàng Benedict XVI đã phải đau lòng mà chấp nhận
một sự thực:
“Thật là khác lạ trong thế giới Tây Phương, một thế giới
mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới mà con
người càng ngày càng tỏ ra không cần đến Thiên Chúa, mà cũng
chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa. Những Giáo Hội
gọi là 'truyền thống' xem ra như đang chết dần. ”
Theo một phúc trình mới đây của Vatican thì trong
một số nước phát triển, Giáo dân đi dự lễ ngày Chủ Nhật chỉ
còn khoảng 5%. Ngài nói thêm: Tuy nhiên không phải chỉ có đạo
Ca-Tô Rô-ma bị như vậy mà Giáo Hội Tin Lành cũng bị ảnh hưởng
nặng hơn nữa trong thời điểm lịch sử này. Không thấy có giải
pháp nào mau chóng và thần diệu cả để cứu vãn giúp Giáo Hội
chúng ta cả.
(It is different in the Western world, a world which is tired
of its own culture, a world which is at the point where there’s no longer evidence
for a need of God, even less of Christ," he told a meeting of clergy in
the Italian Alps.
"The so-called traditional churches look like they are dying," he
said, according to a text published by Vatican daily L’osservatore Romano.
Participation at Sunday Mass in some developed countries was
as low as 5 percent, a recent Vatican report said.
"The Catholic Church is not doing as badly as the big Protestant
Churches but naturally it shares the problem of this moment in historỵ" "There’s
no system for a rapid change. ”)
Giáo hoàng khuyên tín đồ Ca Tô, nhắm vào khối tín đồ Ca Tô lạc
hậu ở Phi Châu, Nam Mỹ, Phi Luật Tân, và Việt Nam, hãy kiên trì
giữ vững đức tin, tiếp tục tiến bước trong đường hầm [keep walking
in the tunnel], có thể ánh sáng le lói của Chúa Ki-Tô sẽ xuất
hiện ở cuối đường hầm [Christ light would appear at the end].
Nhưng làm sao Giáo hoàng có thể cứu vãn được tình trạng suy thoái
của Ca-tô giáo nếu chỉ dựa trên sự kéo dài sự mê tín của số tín
đồ thấp kém ở dưới đã bị thuần hóa để tuyệt đối theo “đức vâng
lời”.
Gần đây nhất, ngày 9 tháng 4, 2007, Giáo hoàng
Benedict XVI lại cảnh báo là “Âu Châu có vẻ như sẽ mất đức
tin trong tương lai, và gọi những người Âu Châu chỉ muốn có ít
con là theo “chủ nghĩa cá nhân nguy hiểm” [trong khi cả
thế giới đang lo nạn nhân mãn và cổ súy hạn chế sinh đẻ]Giáo
hoàng nói: “Bất hạnh thay, chúng ta phải ghi nhận là
Âu Châu có vẻ như đang tuộtxuống một con đường có thể
đưa Âu Châu đến sự giã từ lịch sử” [Ki Tô Giáo vẫn cho rằng
lịch sử Âu Châu là lịch sử Ki Tô Giáo]
(Time, April 9, 2007: “One must unfortunately note that
Europe seems to be going down a road which could lead it to take its leave
from history”Pope Benedict XVI, warning that Europe appears to be losing
faith in its future, calling some Europeans’ desire to have fewer children
“dangerous individualism”. )
Các giáo hoàng John Paul II và Benedict XVI than
phiền về sự suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Ca Tô Giáo Rô
Ma nói riêng, kể ra là đã quá muộn. Sự suy thoái của Ki
Tô Giáo không chỉ mới xẩy ra trong triều chính của mấy ông này
mà đã xẩy ra từ lâu, từ nhiều thập niên trước, nếu không muốn
nói là nhiều thế kỷ trước. Thật vậy, nghiên cứu kỹ vấn
đề, chúng ta thấy thật ra sự suy thoái của Ki Tô Giáo không phải
trong thời đại này mới xảy ra mà đã bắt nguồn từ sự tiến bộ trí
thức của con người ít ra là từ cuộc Cách Mạng Khoa Học (The
Scientific Revolution) vào đầu thế kỷ 17, từ Thời Đại Lý
Trí (The Age of Reason) vào thế kỷ 18, Thời Đại
Khai Sáng (The Age of Enlightenment) vào thế kỷ 19, và Thời
Đại Phân Tích (The Age of Analysis) vào thế kỷ 20. Những
thời đại này đã kéo con người Tây phương ra khỏi Thời Đại
Của Đức Tin (The Age of Faith), một thời đại mà sự thống
trị của Ca-Tô Giáo Rô-ma đã đưa Âu Châu vào 1000 tăm tối được
biết dưới tên Thời Đại Trung Cổ(The Middle Ages) hay Thời
Đại Hắc Ám (The Dark Ages), hay Thời Đại Của Sự Man
Rợ Và Đen Tối Trí Thức (The age of barbarism and intellectual
darkness).
Còn về tình trạng các linh mục thì ngay từ năm
1990, linh mục David Rice dòng Đa Minh đã xuất bản cuốn Lời
Nguyện Tan Vỡ: Linh Mục Bỏ Đạo (Shattered Vows: Priests
Who Leave), đưa ra kết quả nghiên cứu của ông sau khi đi tới
nhiều nơi trên thế giới, tổng cộng 38 ngàn dặm (khoảng 60 ngàn
cây số), để phỏng vấn và tìm hiểu đời sống của các linh mục bỏ
đạo như sau:
“Một trăm ngàn ( 100000 ) linh mục Ca-tô
Rô-ma đã bỏ đạo trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại
có hơn một linh mục ra đi. Hầu như phân nửa số linh mục
Mỹ sẽ bỏ đạo – thường là để lập gia đình – chưa tới 25 năm
sau khi được tấn phong. Vatican không nói tới cuộc
di dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng khoảng nghiêm trọng
nhất mà giáo hội phải đối diện, kể từ khi có cuộc Cải Cách
Tin Lành.
(100,000 Roman Catholic priests have walked out in the last 20
years – more than one every two hours. Almost half of all American priests
will leave – most often, to marry – before the 25th anniversary of their ordination. The
Vatican won’t talk about this exodus, yet it is the most grievous crisis to
face the Church since the Protestant Reformation)
Trước tình trạng thê thảm này, để cứu giáo hội
của Chúa, tín đồ Ca-tô Việt Nam bèn xung phong đổ xô đi học nghề
linh mục. Thật vậy, ở trường dòng Dubuque, Iowa, có 70
người theo học nghề linh mục thì có tới 43 người là Việt Nam,
tỷ lệ hơn 60%, chẳng phải là vì “ơn kêu gọi” mà vì nghề linh
mục là nghề dễ kiếm ăn trên đám dân thấp kém. Đa số các
tân linh mục ngày nay là Mít, Mễ, Ba Lan, Phi Luật Tân. Nhưng
Giáo hoàng Benedict XVI lại không lấy đó làm vui, vì là “đại
diện của Chúa Ki Tô trên trần” (Vicar of Christ) nên ngài biết
hết, hiểu hết, và đã nhìn ra sự thật. Ngài phán: “Niềm
vui này đi kèm với một niềm cay đắng vì một số sẽ trở thành linh
mục này chỉ tìm kiếm một đời sống thoải mái hơn. Trở thành
linh mục, họ trở thành hầu như là một tộc trưởng của một bộ lạc,
đương nhiên là họ được ưu đãi và có một đời sống khác” (Benedict
said the "joy" at the growing numbers of churchmen
in the developing world is accompanied by "a certain bitterness" because
some would-be priests were only looking for a better life. “Becoming
a priest, they become almost like a head of a tribe, they are
naturally privileged and have another type of life," he
said...
Đó là những lời thú nhận của vị chủ chăn Ca-tô Rô-ma Giáo, của
Hội Đồng Giám Mục Âu Châu về sự suy sụp của Ca-tô Giáo ở Tây
phương, khoan kể đến những thông tin về tình trạng suy thoái
trên các diễn đàn truyền thông trên thế giới.
Thật vậy, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, những huyền
thoại về Gót nay đã không còn chỗ đứng trong giới hiểu biết.
Trong cuốn Những Phê Bình về Gót (Critiques of God), biên tập
bởi Peter A. Angeles, trong đó có 16 tác giả phê bình về mọi
lý luận thần học của Ki Tô Giáo, chúng ta có thể đọc đoạn sau
đây, trang xiii:
http://atheism. about. com/library/boo... itiquesGod. htm
Những niềm tin vào những đấng siêu nhiên đã biến khỏi nền
văn hóa của chúng ta. Bất cứ sự sùng tín đại cương nào về Gót
cũng đang trở thành mờ nhạt trong nền văn hóa của chúng ta. Gót
đã mất đi trụ xứ trong không gian như là một nước trên Thiên
đàng. Ông ta cũng mất đi chỗ đứng trong vũ trụ như là đấng đã
sáng tạo ra nó từ hư vô. Không phải là Gót bị đẩy ra một vùng
xa lắc xa lơ. Không phải vì ông ta trở thành một trừu tượng vô
thân thể (phi Nam phi Nữ). Mà vì chúng ta nhận thức
ra rằng chẳng làm gì có Gót để mà nói tới.
(Beliefs in supernatural beings have vanished from our culture.
Any general serious belief in God is fading in our culture. God
has lost his spatial location as a monarch in heaven. He has
lost his temporal precedence to the universe as its Creator ex
nihilo. It is not God is being relegated to a remote region.
It is not that God has become a bodiless abstraction (a sexist
It). It is the realization that there is no God to which to relate. )
Sau đây tôi chỉ nêu lên vài thông tin điển hình về hiện trạng
Ki Tô Giáo ở Âu Châu: Chúng ta hãy đọc một tài liệu về hiện trạng
vô thần đang lên và Ca-tô Giáo đang suy thoái ở Pháp, cái nôi
của Ca-tô Rô-ma Giáo trước đây: http://www. secularism. org. uk/numbero... erisesata. html
Trong bài với đầu đề “Số người vô thần ở Pháp gia tăng với
mức độ chưa từng thấy” (Number Of Atheists In France Rises
At An Unprecedented Rate), tờ báo Pháp “Le Monde” đưa ra kết
quả của một cuộc thăm dò ý kiến: “số người vô thần tăng từ
23% năm 1994 lên 31% ngày nay” (the number of people describing
themselves as atheists has risen to 31 per cent – from 23 per
cent in 1994), nghĩa là tăng thêm 5 triệu người vô thần trên
dân số khoảng 62 triệu. Kết quả thăm dò cũng cho biết chỉ có
51% dân Pháp còn cho mình là tín đồ Ca-tô, vào đầu thập niên
1980, con số này là 80%.
Tổng biên tập tờ “Le Monde”, Frederic Lenoir, viết: “Trong
định chế cũng như trong tâm tình tôn giáo của Ca-tô Giáo, Pháp
không còn là một quốc gia Ca-tô” (“In its institutions,
but also in its mentalities, France is no longer a Catholic country,”
wrote Frederic Lenoir, editor in chief of Le Monde des Religions. )
Cuộc thăm dò cũng cho biết chỉ có 10% đi lễ nhà thờ đều đặn,
phần lớn là ông già bà cả, và điều kỳ lạ là, 51% vẫn coi mình
là người Ca-tô, nhưng chỉ có một nửa tin vào “Gót” (Extraordinarily,
of the 51 per cent who still call themselves Catholics… only
half said they believed in God. ) Nhiều người nhận mình là người
Ca-tô vì đó là truyền thống gia đình (Many said they described
themselves as Catholics because it was a family tradition).
Chúng ta nên nhớ, Pháp là thủ phạm chính đã mang Ca-tô Rô-ma
Giáo đến Việt Nam, không phải để văn minh hóa dân tộc Việt Nam,
mà để đầu độc một số người Việt Nam thuộc thành phần thấp kém
nhất trong xã hội, bằng những điều hoang đường, mê tín, dối trá
như chúng ta có thể đọc trong cuốn Hành Trình Truyền Giáo của
tên thừa sai gián điệp thực dân Alexandre de Rhodes, mà ngày
nay đã không còn mấy giá trị ngay trong nước Pháp, biến họ thành
những kẻ phi dân tộc, phản bội quốc gia như lịch sử đã ghi rõ.
Người dân Pháp có truyền thống Ca-tô lâu đời hơn Việt Nam nhiều,
nhưng nay đã tỉnh, vậy tại sao người Ca-tô Việt Nam vẫn còn mê,
vẫn còn tin vào những điều mà chính Giáo hội đã bác bỏ, vẫn dùng
những thủ đoạn không mấy lương thiện để dụ người dân vào đạo?
Đó có phải là niềm hãnh diện hay chỉ chứng tỏ trong khi thế
giới đã tiến bộ mà mình cứ muốn đi giật lùi về những giá trị
tâm linh đã lỗi thời và đang bị thế giới loại bỏ.
Giáo hoàng Benedict XVI vẫn hi vọng có thể vớt vát được vài mẻ
cá ươn (Ki Tô Giáo vẫn coi kiếm được tín đồ là vớt được cá) ở
các nơi khác nên ngài khuyên tín đồ Ca-tô, nhắm vào khối tín
đồ Ca-tô giáo lạc hậu ở Phi Châu, Nam Mỹ, Phi Luật Tân, và Việt
Nam, hãy kiên trì giữ vững đức tin, và phải tiếp tục “loan báo
tin mừng” cho toàn dân, một ảo tưởng bắt nguồn từ sự vô vọng
về tình trạng suy sụp của Ki Tô Giáo ở phương trời Âu Mỹ. Và
thảm thay, một số Giám mục Việt Nam, cho đến ngày nay vẫn nhắm
mắt tuân theo cái lệnh “loan báo tin mừng” từ Vatican. Thật vậy,
trong bức thư nhan đề: “Tôi nghe thấy và học được gì từ những
cuộc gặp gỡ với Bộ Ngoại Giao và Bộ Truyền Giáo của Vatican trong
hai ngày 1 và 2 tháng 6. 2010” của Hồng Y Phạm Minh Mẫn,
chúng ta có thể đọc đoạn sau đây, chứng tỏ Vatican tiếp tục mê
hoặc giáo dân Việt Nam, và các bề trên Việt Nam vẫn nhắm mắt
theo lệnh từ Vatican để nhốt con chiên của mình vào cái ngục
tù tâm linh của Ca-tô Rô-Ma Giáo:
“Đồng thời, với kinh nghiệm 30 năm phục vụ ngành Ngoại Giao
của Vatican trong nhiều nước như Việt Nam, Đức Hồng Y Dias có
lưu ý đến nhiệm vụ của các giám mục trên đất nước Việt Nam hôm
nay, nhiệm vụ loan Tin Mừng, dẫn dắt các tín hữu đi trong ánh
sáng đức tin, xây dựng Giáo Hội hiệp thông và hiệp nhất trong
tình bác ái huynh đệ.
Trong Thư Ngỏ của GM Nguyễn Thái Hợp, ngày 4-10-2011, chúng ta
có thể đọc đoạn như sau: Dựa trên Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội
(nghĩa là của Vatican):
Nhiệm vụ của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu là phải sống
và loan báo Tin Mừng trong mọi nền văn hóa, môi trường kinh tế,
xã hội, chính trị… Tuy nhiên, do sứ vụ của mình, Giáo Hội không
thể đồng hóa với bất cứ một chế độ chính trị, một hệ thống
kinh tế hay một nền văn hóa nào.
Điều này nói lên rõ ràng hơn gì hết bản chất phi dân tộc, vô
tổ quốc của Ca-tô Rô-ma Giáo ở Việt Nam và chúng ta cảm thấy
thật tội nghiệp cho các con chiên, lớn cũng như nhỏ, đã mất dấu.
Điều lạ là những người như HY Phạm Minh Mẫn hay Gm Nguyễn Thái
Hợp lại không biết rằng, “Tin mừng” của Giê-su, nếu có, cũng
không có phần nào cho người Việt Nam. Tân Ước đã viết rõ như
vậy.
Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại
như trên, Ki Tô Giáo bắt buộc phải suy thoái, vì căn bản Ki Tô
Giáo là một tôn giáo thuộc loại mê tín nhất thế gian, nhốt tuyệt
đại đa số tín đồ vào một “đức tin” (faith) không cần biết không
cần hiểu. Nhưng sự tiến bộ trí thức của nhân loại đã khiến
cho không ít tín đồ vàmột số các vị lãnh đạo Ki Tô Giáo
nhận ra sự thật cay đắng này. Những niềm tin căn bản của
Ki Tô Giáo nói chung, ví dụ như chuyện Thiên Chúa sáng tạo ra
vũ trụ trong 6 ngày cách đây khoảng 6000 năm, chuyện vườn địa
đàng Eden, Adam và Eve sa ngã tạo nên tội tổ tông, Chúa Giê-su
sinh ra từ một nữ trinh, bị đóng đinh trên thấp giáchết
đi rồi sống lại sau ba ngày và rồi 40 ngày sau đó bay lên trời
ngồi bên phải của Chúa Cha, khả năng chuộc tội và cứu rỗi của
Giê-su v.v... , tất cả đều không còn chỗ đứng trong giới hiểu
biết và trí thức ngày nay. Bởi vậy nên một số các bậc lãnh
đạo trong Ki Tô Giáo cũng như một số học giả trí thức Ki Tô Giáo
đã cố gắng nghiên cứu, viết sách, trình bày sự thật để giáo dục
những tín đồ Ki Tô Giáo đáng thương của họ. Điều này đã
góp phần lớn trong sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên thế giới. Sau
đây là vài kết quả nghiên cứu điển hình của họ.
Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao Ki Tô Giáo lại suy
thoái, nếu nó thực sự là một tôn giáo có mục đích nâng cao
trình độ hiểu biết của con người, một tôn giáo đạo đức, một
tôn giáo có thể giúp cho con người thăng tiến lên một cảnh
giới cao hơn v…v…Ki Tô Giáo đã hoàn toàn thất bại trong
nhiệm vụ này như lịch sử đã chứng minh. Và
người ta đã kết luận rằng thay vì Ki Tô Giáo văn minh hóa
nhân loại thì chính sự tiến bộ của nhân loại đã văn minh hóa
Ki Tô Giáo. Vì những thanh gươm để giết
người và những bó đuốc để thiêu sống người đã bi tước khỏi
những bàn tay đẫm máu của Giáo hội Ca-tô (Xin đọc John Remsburg
trong “False Claims”). Đây là một sự thật không ai có thể chối
cãi.
Nhưng người Việt Nam chúng ta lại phải đối diện với một sự
thật đau lòng. Tất cả những tài liệu trên về sự suy thoái của
Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô Giáo nói riêng, đã nói rõ hơn gì
hết sự thức tỉnh của Tây phương. Trong khi đó thì Ca-tô Giáo
Việt Nam vẫn còn đang trong cơn mê, mê mẩn về những giáo lý mà
Tây phương không còn tin, không còn theo. Và ngày nay chúng
ta vẫn thấy những con chiên như Đăng Trình vẫn mang những đồ
phế thải của Âu Mỹ quảng cáo như những đồ châu báu cho Việt Nam.
Ảnh hưởng tai hại của một “đức tin” không cần biết, không cần
hiểu, thật không còn gì rõ rệt hơn nữa. Vì vậy, trong khi đa
số dân chúng Tây phương không còn đi lễ nhà thờ nữa, đã bỏ đi
những giáo lý đã lỗi thời thì ở Việt Nam và trong những cộng
đồng Công giáo ở hải ngoại, giáo dân vẫn tin vào sự phán xét
bất thiện của Giê su trong ngày cánh chung (Matthew 25: 31-46),
vẫn đi lễ nhà thờ nườm nượp, tin vào những lời dọa của các bề
trên là không đi lễ nhà thờ là một tội trọng, khôngđược Chúa
cho lên một thiên đường sau khi chết. Ở một vài giáo xứ Ca-tô
ở Việt Nam, giáo dân còn nghe lời các bề trên, đi lễ nhà thờ
hai ba lần một ngày, đi ngày không đủ, tranh thủ đi đêm, đi thêm
ngày “Chúa nhật”, sáng tối cầu nguyện xin cho cùng Chúa. Thật
là quá tội nghiệp đi.
VI. Thay Cho Kết Luận -
Nhận Định Vài Điều Giảng Đạo Đã Lỗi Thời Của Đăng Trình:
Trong cơn hấp hối, Giáo hội Ca-tô đã bùng lên như một ngọn lửa
trước khi tắt, một mặt tung ra những văn kiện và những tín lý
đã lỗi thời để giữ đám con chiên đầu óc yếu kém, một mặt khác,
muốn đi kiếm ăn nơi khác nên khuyến khích con chiên phải đi cắm
thánh giá ở những miền đất mới qua văn kiện “Tông Huấn Cải Đạo
Á Châu”. Nhưng ngày nay, Á Châu đâu có còn ở thế kỷ 17 như một
số cộng đồng Ca-tô, và người dân Á Châu đâu có còn ở trình độ
của những giáo dân ở Bùi Chu, Phát Diệm trong thế kỷ 17, 18,
cho nên sách lược Cải Đạo Á Châu làm sao có thể thành công khi
mà Á Châu đã biết rõ bản chất của Ki Tô Giáo. Ai có thể ngăn
chận được những thông tin về Ki Tô Giáo trên những tác phẩm nghiên
cứu của giới trí thức, ai có thể ngăn cản được những thông tin
về thực chất Ki Tô Giáo trên Internet.
Nhưng những con người mang thân phận của con chiên thì giáo hội
bảo sao thì làm vậy. Do đó chúng ta thấy xuất hiện những tác
phẩm, những bài viết, với mục đích nhập nhằng một anh thợ mộc
Do Thái với ông Trời của Việt Nam, đổi “Cứu rỗi” thành “Cứu độ”,
đồng thời xuyên tạc, ra công hạ thấp Phật Giáo rồi đánh bóng
Ki Tô Giáo một cách ngu si vô trí, có nghĩa là chỉ viết theo
cảm tính chứ không biết rõ sự thật. Ngu si vô trí vì vẫn mang
thông điệp của giáo hội hay những điều trong thánh kinh ra làm
như đó đều là những chân lý mạc khải, nhưng chỉ nói vu vơ vì
không có bất cứ một bằng chứng nào để chứng minh những điều đó
là đúng.
Gần đây chúng ta còn thấy có cả một chiến dịch bôi
nhọ Phật Giáo bằng luận điệu xuyên tạc, chụp vào đầu Phật Giáo
mọi tệ đoan xã hội như bùa ngải, luyện thiên linh cái, đốt vàng
mã v…v… mà không cần biết là những thứ đó tuyệt đối không dính
dáng gì đến Phật Giáo. Giáo lý Phật Giáo nằm ở đâu, nếu không
phải trong Kinh Điển Phật Giáo. Phật Giáo có thiên Kinh, vạn
quyển, nhưng thử tìm trong đó xem có chỗ nào đức Phật hay các
Tổ dạy con người phải đi giết người hay đắm mình trong những
điều mê tín như trên. Tuyệt đối không có. Trái lại, tại sao
Ca-tô giáo đi giết người ngoại đạo? Tại vì Chúa Cha dạy thế
trong Cựu Ước và Chúa Con (Giê-su) cũng dạy thế trong Tân Ước.
Tại sao Ca-tô Giáo thiêu sống người. Vì Chúa Con dạy thế trong
Tân Ước. Tại sao Ca-tô Giáo lại làm tiền phong hay theo gót
thực dân đi truyền đạo giả dối và cướp đất khắp nơi? Tại vì
Tân Ước dạy thế và Giáo hội dạy thế, tất cả là của Chúa và chỉ
có con cái Chúa mới có quyền được hưởng.
Sau đây tôi xin trích dẫn một vài điều Đăng Trình
(ĐT) viết để quảng cáo cho cái gọi là “Mầu nhiệm cứu độ (sic)” của Ki Tô
Giáo. Tôi sẽ không phê bình, chỉ đưa ra một số tài liệu để
đối chiếu với những gì Đăng Trình viết. Nếu quý vị không thấy
những lời sau đây của Đăng Trình là mê sảng, cuồng tín thì chắc
quý vị phải là một tín đồ Ca-tô.
ĐT: Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân
thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó... Tuy nhiên Giáo Hội
rao giảng và có bổn phận phải kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Ðấng
là “đường, sự thật và sự sống” (Gio 14,6), nơi Người, con người
tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn và nhờ Người, Thiên Chúa
giao hòa mọi sự với mình.
[Thiên Chúa là Thiên Chúa vô hình,
không thể mô tả được, không ai hiểu được, vậy trên đây có phải
là những lời mê sảng trong cơn mê không? Đường, sự thật và sự
sống của Giê-su như thế nào. Là con đường thiện hay con đường
ác? Tân Ước đã viết rất rõ. TCN]
ĐT: Hiến chế tín lý về Giáo Hội cũng đã nêu rõ:
“Thực ra, những gì thiện hảo trong tâm hồn và tư tưởng của
loài người, hoặc trong nghi lễ và văn hóa riêng của các dân
tộc, hoạt động của Giáo Hội không nhằm tiêu diệt chúng, nhưng
lành mạnh hóa, nâng cao và hoàn thành chúng, hầu làm vinh
danh Thiên Chúa, đánh bại ma quỉ và mưu cầu hạnh phúc cho con
người” (Lumen Gentium, 17).
[Đây là những lời huênh hoang láo lếu trịch thượng của Giáo
hội mà các con chiên ngu ngơ lập lại như cái máy. Một tôn giáo
đã mệnh danh là đạo bịp, đạo chích, và mê tín hạng nhất thì làm
sao có thể “lành mạnh hóa, nâng cao” các tôn giáo khác. Lịch
sử Ca-tô giáo đã chứng tỏ là giáo hội đã Vinh danh Thiên Chúa
bằng những cuộc thánh chiến, những hình cụ tra tấn khủng khiếp
nhất của các tòa án xử dị giáo, xử những kẻ mà giáo hội gọi là
lạc đạo hay giáo hội cho là phù thủy mà giáo hội mang đi thiêu
sống. Tổng số nạn nhân vô tội lên tới 200 triệu gồm cả Nam Phụ
Lão Ấu. Đi đến đâu, Giáo hội cũng toan tính phá hủy nền văn
hóa và truyền thống tốt đẹp của địa phương và thay thế vào đó
bằng một nền văn hóa hạ đẳng, ưa trả thù của Ca-tô Rô-ma Giáo.
Ai có thể phủ nhận những sự kiện lịch sử này, xin mời lên tiếng.
TCN].
ĐT: -Và Công đồng Vatican II cũng đã khai sinh môn “Thần
học về các Tôn giáo” để “hình thành một cách nhìn trân trọng
và tích cực hơn về vai trò cứu rỗi của các tôn giáo ngoài
Kitô giáo” [29].
Công đồng Vatican II cũng đã khai sinh môn “Thần học
về các Tôn giáo”,nhưng chúng ta đã biết Phật Giáo không
công nhận có một thần sáng tạo, trong Phật giáo không có thần
học, và trong Phật giáo cũng không có chuyện cứu rỗi hoang
đường, vậy thì Công Đồng Vatican đã khai sinh ra môn thần học
về một cái gì tưởng tượng, cũng như Thần Học Ki Tô Giáo, là
môn học về một Gót tưởng tượng. Trên thực tế, Thần học KiTô
Giáo là một môn học về một cái gì vô hình, không thể mô tả
được, không ai hiểu được, và không ai biết được (unknowable). Vì
vậy mấy người Ca-tô Việt Nam viết về Thần Học là viết trong
cơn mê sảng. Trong Ca-tô Rô-maGiáo, tín đồ chỉ có quyền
“quên mình trong vâng phục”, trung thành với “đức vâng lời”,
không có quyền thắc mắc, chỉ có quyền tin, không có quyền hiểu,
nên Giáo hội có muốn dạy sao về Gót, về một cái gì vô hình,
không thể mô tả được, không ai hiểu được, và không ai biết
được, cũng không thành vấn đề đối với con chiên, giáo hội dạy
sao thì cứ tin làm vậy. Khổ một nỗi, đối với người ngoại đạo,
xét theo logic thì tất cả những gì mà Ki-tô Giáo nói về Gót,
khẳng định là Gót, thế này, Gót thế nọ, ý Gót thế này, ý Gót
thế nọ, Gót thương yêu bạn, muốn bạn thế này thế nọ v.v...
chung qui cũng chỉ là đoán mò, nói chỉ để mà nói, thực
chất những khẳng định trên hoàn toàn vô nghĩa. Vô nghĩa ở
chỗ không ai thấy được Gót, (invisible), không ai biết gì về
Gót (unknowable), và không ai hiểu được Gót, (incomprehensible),
cho nên những gì nói về Gót, đều là do sự tưởng tượng hay mê
sảng của con người, thường là sự tưởng tượng của những người
không có mấy đầu óc, hoặc đầu óc rất xảo quyệt, đưa ra để lòe
bịp những người ít đầu óc. Sau đây là vài tài liệu về cái
gọi là nền thần học Ki Tô Giáo.
Tài Liệu:
Cái gì làm cho bất cứ ai nghĩ rằng Thần Học thật sự là
một chủ đề?
[What makes anyonethink that "theology" is a subject
at all? ]
Richard Dawkins in “The Emptiness of Theology”
Trong cuốn Một Linh Mục Hiện Đại Xét Về Giáo Hội Lỗi
Thời Của Mình, một cuốn sách đã được một số trí thức trong
cũng như ngoài giáo hội ca tụng, linh mục James Kavanaugh
đã đưa ra một nhận xét như sau về nền Thần học Ca-Tô:
Tuy nhiên, nền Thần học của chúng ta đã trở thành một
trò chơi học thuật. Đó là một mớ luật lệ tích tụ trong sự
cay đắng tôn giáo của những cuộc tranh chấp nhỏ mọn. Đó
là một chuyện cổ tích về những chân lý đã nhàm chán, chỉ có
tác dụng tước đoạt trách nhiệm cá nhân của con người và hạ
thấp con người thành một nô lệ vô danh sợ sệt. Thần học
đã tước đoạt đầu óc con người và chỉ để lại trong họ những
lời học thuộc lòng... Đó là nền Thần học mà tôi đã học và truyền
lại trong mọi kỳ xưng tội mà tôi nghe, trong mọi lớp học tôi
dạy, trong mọi bài giảng tôi nói cho đám con chiên đầy mặc
cảm tội lỗi.
[James Kavanaugh, A Modern Priest Looks At His Outdated Church,
p. 6: Our theology, however, has become a scholar's game. It
is a code of rules accumulated in the petty wars of religious
bitterness. It is a tale of tired truths, which only serve to
rob man of personal responsibility and reduce him to the listlessness
of a frightened slave. Theology took away man's mind and left
him memorized words... This is the theology I learned and transmitted
in every confession I heard, every class I taught, every sermon
I gave to the guilt-infected flock. ]
Để hiểu rõ hơn cái gọi là Thần Học Ki Tô Giáo, chúng ta hãy
đi thêm vào một số nhận định của cá học giả ở trong cũng như
ở ngoài các giáo hội Ki-tô:
Giáo sư David Voas, đại học New Mexico, Hoa Kỳ,tác giả
cuốn sách khảo cứu Tân Ước nổi tiếng: Cuốn Thánh Kinh Mang
Tin Dữ: Cuốn Tân Ước [The Bad News Bible: The New Testament,
Introduction]đã viết trong phần dẫn nhập như sau:
Thần học,đã mộtthời như là bà hoàng của các khoa
học, ngày nay có vẻ chỉ còn là bà hoàng của các tu viện, vẫn
đàm tiếu về cùng những chuyện cổ xưa sau khi các em nhỏ hát
Thánh ca đã trưởng thành và bỏ đi lâu rồi. Thật là đáng xấu
hổ... Thần học - chấp nhận như là môn học về Thần Ki Tô -
bị coi là không có chủ đề nào, hoặc ít nhất là không
có chủ đề nào chúng ta có thể nghiên cứu. Đó là ngành
học duy nhất với những chuyên gia thực sự không biết mình đang
nói cái gì.
Vì không có chất liệu cho chủ đề, các nhà Thần học phải
xử dụng đến hai lãnh vực kỳ quặc: óc tưởng tượng và Giáo quyền...
Ngày nay, các tư tưởng gia Ki Tô có nhiệm vụ chứng tỏ Thánh
Kinh có ý nghĩa, nhất quán, và có vẻ như là có thể biện hộ
cho vấn đề luân lý đạo đức trong đó. Điều này có thể thật
là khó khăn.
[David Voas, Theology, once queen of the sciences, now
seems merely queen of the cloisters, still gossiping about the
same old stories long after the choir boys have grown up and
moved on. It's a shame... Granted, theology - the study of God
- suffers from the suspicion that it has no subject, or at least
none we can study. It is the only field with experts who don't
know what they are talking about. Their subject matter being
inaccessible, theologians must resort to the odd couple of imagination
and authority... Christian thinkers now have the job of showing
that scripture makes sense, is consistent, and appears morally
defensible. This can be difficult. ]
Góp mặt với thế giới Âu Mỹ văn minh tiến bộ, một người “Công
Giáo Việt Nam da vàng” đạo gốc, Bùi Văn Chấn alias Charlie
Nguyễn, đã nhận xét rất chính xác khi ông viết về giá trị của
cái bằng đại học về thần học như sau [Charlie Nguyễn, Thực
Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Chúa (Garden Grove, CA: Giao
Điểm, 2003), tr. 355-56]:
“Cái gọi là sự học vấn của các trường tôn giáo hoặc sự uyên bác của học
sĩ Ulama thực chất chỉ là môn học “tán hươu tán vượn” về những điều huyền hoặc
của thần học (theology). Thần học Hồi Giáo cũng tương tự như thần
học của Do Thái Giáo hoặc Ki-tô Giáo. Thần học là một môn học đầy tính chất
hoang tưởng, viển vông và nhảm nhí. Càng đi sâu vào thần học, con người
càng lún sâu vào “ốc đảo tâm linh”, xa rời thực tế và đầy đặc những định kiến
sai lầm. Những mảnh bằng “Tiến Sĩ Thần Học” là những giấy chứng chỉ công
nhận sự ngu xuẩn của kẻ được cấp. Chỉ đến khi có cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ
đó mới cảm thấy xấu hổ là đã được cấp những mảnh bằng về thần học mà thôi. ”
Vì Thần học là môn học không có chủ đề, và vì Thần học
chỉ là một môn học đầy tính chất hoang tưởng, viển vông
và nhảm nhí,ít ra là đối với giới hiểu biết ngày nay,
cho nên John E. Remsburg đã viết trong cuốn False
Claims, p. 3:
Trong những giới thông minh ở Âu châu và Mỹ châu, nền
Thần học Ki Tô trên thực tế đã chết.
(Among the intelligent classes of Europe and America, Christian
theology is practically dead. )
Sau đây chúng ta hãy điểm qua một số nhận định của một số
bậc thức giả Tây phương về Thần học Ki Tô Giáo.
Robert G. Ingersoll: Hãy để thần học ra ngoài tôn giáo. Thần
học luôn luôn đưa những người tồi tệ nhất lên thiên đàng,
những người tốt nhất xuống hỏa ngục.
Letus put theology out of religion. Theology has always sent
the worst to heaven, the best to hell.
Hi vọng của khoa học là sự hoàn mỹ của loài người, hi vọng của thần
học là cứu rỗi một số ít người và sự đầy đọa hầu hết mọi người.
The hope of science is the perfection of the human race. The
hope of theology is the salvation of a few and the damnation
of almost everybody.
H. L. Mencken: Thần học: một nỗ lực để giải thích cái
không thể biết được bằng những lời không đáng để biết.
Theology: an effort to explain the unknowable by putting it into
terms of the not worth knowing.
Thần học Ki Tô Giáo không chỉ chống đối khoa học mà còn chống đối mọi
cách suy nghĩ hợp lý khác.
“Christian
theology is not only opposed to the scientific spirit; it is
opposed to every other form of rational thinking”
Bertrand Russell: Bạo hành được dùng trong thần học,
không trong số học.
Persecution is used in theology, not in arithmetic.
Marquis de Sade: Xét về những khái niệm đưa ra bởi các
nhà thần học, chúng ta phải kết luận là Gót sáng tạo ra hầu
hết mọi người để chứa họ đầy trong Hỏa ngục.
To judge from the notions expounded by theologians, one must
conclude that God created most men simply with a view to crowding
hell.
Và Alfred North Whitehead (1861-1947), một nhà Toán học và
Triết gia Mỹ cũng đưa ra nhận định:
Tôi coi nền thần học Ki Tô Giáo như là một trong những
tai họa lớn của nhân loại.
(I consider Christian theology to be one of the great disasters
of the human race).
Quý độc giả cũng nên đọc bài Sự Rỗng Không Của Thần Học [The
Emptiness of Theology] của Richard Dawkins. Bài này đã được
Lê Dọn Bàn dịch và đăng trên Giao Điểm:
http://www. giaodiemonline. com/noidung_detail. php? newsid=4958&PHPSESSID=d6d0d473da7e27bd24433cf83e3b7a4f
▸ ĐT -Khi nêu ra những điểm thuận hay nghịch giữa Ấn độ
giáo, Phật giáo với Kitô giáo trong việc tìm hiểu Kitô giáo,
mục đích của người viết không phải để khai thác những điểm
tương đồng và dị biệt, để thiết lập vị thế độc tôn của Kitô
giáo, hay là tìm các luận cứ và luận chứng để xây nên một thứ
“tôn giáo sen đầm” mà loại trừ những tôn giáo khác, bởi đó
là cách thức dễ gây ra những thảm kịch nhân gian khi tự cho
mình là cái rốn của vũ trụ. Ngụ ngôn thầy bói mù sờ voi vẫn
còn nguyên giá trị cho những ai có tham vọng muốn đẩy tôn giáo
của mình lên vị thế độc tôn.
Tài Liệu:
[Đăng Trình không biết rằng, ngày 5 tháng 9, 2000, Joseph
Ratzinger, với sự chấp thuận của John Paul II, đã tung ra bản
tuyên ngôn “Dominus Jesus” trong đó có hai điểm trịch
thượng đối với mọi tôn giáo khác như sau, ngụ ý phủ nhận các
tôn giáo khác:
1. “... như là một phương tiện đưa đến sự giải thoát, những
tôn giáo phi-KiTô thiếu sót một cách trầm trọng” (... non-Christian
religions are gravely deficient as a means of salvation)
2. “Giáo hội Ca-tô Rô-ma là phương tiện duy nhất đem đến
sự giải thoát cho toàn thể nhân loại” (The Roman
Catholic Church is the only instrument for the salvation of all
humanity)
Đăng Trình cũng lập lại những điều huênh hoang trên như con vẹt:
▸ ĐT: Tuy nhiên, nếu coi mọi tôn giáo đều như nhau tức là
đang rơi vào não trạng tương đối hóa tất cả, một thứ quan niệm
đánh đồng tất cả. Trong khi Kinh Thánh của Kitô giáo dạy rằng:
“Ðức Kitô là Ðấng Trung gian giữa Thiên Chúa và loài người”
(1 Tm. 2,5), “không ai đến được với Cha mà không qua Ngài” (Ga
14,6), “ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ, vì
dưới gầm trời này, không một danh nào khác được ban cho nhân
loại, để chúng ta phải nhờ vào đó mà được cứu độ”
Giáo sư Thần học Ca-tô nổi tiếng trên hoàn cầu, Hans
Kung, đã
đưa ra một nhận định về bản tuyên ngôn “Dominus Jesus” là “một
sự pha trộn của tính chất lạc hậu thời Trung Cổ và Tâm Lý Bệnh
Hoạn về Những Ảo Tưởng Hão Huyền về Quyền Lực hay Toàn Năng của
Vatican” (A mixture of medieval backwardness and Vatican
megalomania). (Megalomania =A psycho-pathological condition
in which fantasies of wealth, power or omnipotence predominate)].
▸ ĐT -Cứu độ trong Kitô giáo được hiểu là giải phóng con
người khỏi nô lệ tội lỗi: “Chúng ta đã làm nô lệ cho tội” (Rm
6,7), “Chúng ta bị trói buộc bởi lề luật của tội lỗi” (Rm 7,23),
“Tội lỗi thống trị chúng ta” (Rm 6,14), nhưng chúng ta được
giải thoát khỏi tội lỗi nhờ cái chết của Đức Giêsu (Rm 6,18. 20. 22),
để sẵn sàng phục vụ cho công lý và cho Chúa. Nhân loại tội
lỗi, cần phải được cứu độ mới có thể sống an vui ở đời này,
và nhất là sau khi chết, được hiệp thông với Thiên Chúa trong
hạnh phúc trường sinh bất tử trên Thiên đàng, nghĩa là con
người cũng đạt đến cảnh giới của tự do được hiểu như là hoa
quả của công chính, ân sủng và đời sống Kitô giáo nhờ giá máu
của Đức Giêsu Kitô đã đổ ra trên thập giá để giải thoát ta,
biến ta thành những con người tự do đích thực.
Tài Liệu:
Đông phương: Nhân chi sơ, tính bản thiện. Ki Tô Giáo: Nhân chi
sơ, tính bản ác. Giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận sự hiện
hữu của thiên đàng. Vậy mà con chiên Mít Đăng Trình vẫn viết
lên những lời mê sảng, mơ hồ, không giải thích là ông ta muốn
nói đến những tội lỗi nào. Nếu là tội tổ tông thì đó chỉ là
một chuyện hang đường của thời bán khai. Nếu là những tội lỗi
thế gian xẩy ra sau khi Giê-su đã chết và không biết gì về chúng
thì đương nhiên Giê-su là đồng lõa với những kẻ phạm tội. Nhưng
vấn đề là trong 4 Phúc Âm, không có chỗ nào Giê-su nói ra là
ông ta sẽ chết để giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi. Khi
được hỏi là phải làm gì để có cuộc sồng đời đời, ông ta đã trả
lời là hãy tuân theo những điều răn của Cha ông ta (Matthew 19:
16, 17), nghĩa là phải thi hành luật của Gót. Trong một trường
hợp khác, trước câu hỏi như trên, ông ta đã trả lời, là phải
yêu Gót và yêu đồng loại (Luke: 10: 25-28).
Sau đây là một tài liệu để mở mắt Đăng Trình. Trong bài “Huyền
Thoại Cứu Rỗi” (The Salvation Myth), Linh Mục James
Kavanaugh viết:
Nhưng đối với con người hiện đại. chuyện hi sinh
của Giê-su (bất kể là giáo hội giải thích là để cứu chuộc
tội cho nhân loại) chẳng có ý nghĩa gì mấy, trừ khi hắn
đã bị reo rắc sự sợ hãi và bị tẩy não từ khi mới sinh ra
đời (But to modern man, it makes far less sense
unless he has been suitably frightened and brainwashed from
birth). Đối với tôi (Linh mục James Kavanaugh), đó
là một huyền thoại “cứu rỗi” của thời bán khai, miêu tả một
người cha giận dữ, chỉ nguôi được cơn giận bằng cái chết
đầy máu me của chính con mình. Đó là một chuyện độc ác
không thể tưởng tượng được của thời bán khai (It
is a primitive tale of unbelievable cruelty).
Tôi chấp nhận sự kiện là Giê-su đã chết, và ngay cả đã bị
đóng đinh trên thập giá. Nhưng tôi không thể chấp nhận cái
huyền thoại là cái chết của ông ta là để chuộc tội cho tôi.
Huyền thoại “cứu rỗi” trong Tân Ước chỉ là một cách diễn giải. Đó
là một huyền thoại của thời bán khai, bản chất của nó giống
như những huyền thoại của các dân tộc bán khai ở khắp nơi,nhưng
nó hoang đường và ác độc hơn hầu hết các huyền thoại khác (But
it is more unbelievable and more cruel than most myths).
Tôi không muốn được “cứu rỗi” hay rửa sạch tội lỗi trong
máu của bất cứ ai. Tôi được cứu khỏi cái gì? Tôi
cũng không chấp nhận huyền thoại về một Thiên Chúa đòi hỏi đối
xử với con của mình là Giê-su bằng một loại công lý vô tình cảm
và đòi hỏi hắn phải chết để chuộc tội cho tôi. Cái huyền thoại
này cũng chẳng có gì hấp dẫn hơn vì ông ta đã vinh quang làm
cho con ông ta sống lại. Tôi không thể yêu một ông Cha như
vậy và cũng chẳng có gì cần phải biết ơn một đứa con như vậy. Tôi
không yêu cầu ông ta phải chịu đau khổ vì tôi và ngay cả muốn
ông ta làm như vậy.
▸ ĐT -Nhưng con người là loài thụ tạo, tương đối và hữu
hạn, nên không thể tự cứu lấy mình được. Nhờ tình thương vô
biên của Thiên Chúa đã hoàn toàn tự ý muốn cứu độ nhân loại,
nên Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người để chuộc
tội [tội tổ tông? ? ] cho loài người. Bởi vậy, ơn cứu
độ là ân huệ hoàn toàn do Chúa ban nhưng không, nhân loại không
có quyền đòi hỏi.
Tài Liệu: Thuyết Tiến Hóa đã là một sự kiện mà Công giáo đã
phải công nhận. Do đó con người không phải là loài thụ tạo do
Thiên Chúa của Đăng Trình tạo ra từ một cục đất sét. Tại sao
con người phải tự cứu lấy mình, làm sao mà phải cứu. Cái chuyện
tầm bậy về “tội tổ tông” mà vẫn còn mang ra nhắc lại như con
vẹt. Theo giáo lý Ca-tô, Thiên Chúa là đấng “vô hình” (invisible),
“không thể mô tả được” (ineffable), “không ai hiểu được” (incomprehensible).
Cho nên mọi điều nói về Thiên Chúa chỉ là đoán mò hoặc nói trong
cơn mê sảng.
▸ ĐT - Kế hoạch cứu độ nhân loại đã có từ nguyên thủy, từ
khi Thiên Chúa tạo dựng nên con người, tức là khi đến thời
gian đã ấn định, Thiên Chúa sẽ sai “Thánh tử” nhập thể và nhập
thế, mang thân phận phàm nhân, để chuộc tội cho nhân loại.
Chính Đức Giêsu Kitô, là Đấng Cứu Thế, là Ngôi Hai Thiên Chúa,
cũng gọi là Ngôi Lời nhập thể. Các nền văn minh, văn hoá,
và lịch sử của toàn thể thế giới từ nguyên thủy đều qui hướng,
chuẩn bị cho biến cố lịch sử độc nhất vô nhị này. [sic]
Tài Liệu: Nguyên thủy là lúc nào? Tuổi của trái đất:
khoảng 4. 5 tỷ năm; con người đã xuất hiện trên trái đất: khoảng
160. 000 năm [The discovery by Tim White and his team from the
University of California, Berkely, in 2003 of a single skull
in Ethiopia dating back some 160,000 years] và có thể cả triệu
năm. Thiên Chúa mới tạo dựng nên con người: khoảng 6000 năm.
Giê-su mới sinh ra đời: khoảng 2000 năm.
▸ ĐT - Dân tộc Do thái được Thiên Chúa tuyển chọn để chuẩn
bị một cách đặc biệt: các biến cố lịch sử, các nhà lãnh đạo,
các Ngôn sứ, tức là các vị phát ngôn viên của Thiên Chúa… đều
nhằm vào việc loan báo sự xuất hiện của một “Messia”, Đấng
cứu nhân độ thế. Do đó, có thể nói Cựu ước chuẩn bị cho Tân
ước. Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu chuộc cả nhân loại chứ không
chỉ riêng dân tộc Do thái.
Tài Liệu:
Matthew 7: 21-23: “Không phải người nào gọi Ta
là Chúa cũng được vào nước trời... Trong ngày phán xét sẽ có
nhiều người kêu nài: “Thưa Chúa, chúng tôi đã giới thiệu Chúa
cho nhiều người, đã dùng danh Chúa để đuổi quỷ và làm nhiều
phép lạ (như một LM ở Úc làm cho tượng ĐM Mary chảy dầu),
[và loan báo Tin mừng để mở mang “Nước Chúa”] . Nhưng ta
sẽ đáp: “Ta không hề biết các ngươi! Hãy cút đi cho khuất mắt
ta, vì các ngươi chỉ làm việc gian ác” [Các ngươi
không phải là người Do Thái. Ta sinh ra chỉ để cứu người Do
Thái mà thôi. Cha ta không biết, mẹ ta không biết, và ta
cũng không biết cái giống người Việt Nam là giống nào. ”]
Chứng minh?
Matthew 15: 24: Chúa Giê-su phán: “Ta được phái xuống
đây chỉ để cứu những con chiên lạc Do Thái mà thôi. ” [I
was not sent except to the lost sheep of the house of Israel]
Matthew 1: 21: Lời thiên sứ nói
với Joseph trong giấc mộng: “Và bà ta (Mary) sẽ
sinh ra một đức con trai, ngươi sẽ đặt tên nó là Giê-su,vì
nó sẽ cứu dân của nó [dân Do Thái] ra khỏi
tội lỗi [And she will bring forth a Son, you shall call
His name Jesus, for He will save His people from sins]
Luke 1: 32-33: Thiên sứ nói với Mary: Và Thiên
Chúa sẽ cho hắn (Giê-su) ngai của cha hắn là David. Và
Hắn sẽ trị vì ngôi nhà của Jacob mãi mãi và vương quốc
của hắn sẽ tồn tại mãi mãi. [And the Lord God will give
Him the throne of His father david. And He will reign
over the house of Jacob forever, and ofHis kingdom there
will be no end]
Matthew 10: 5-7, Giê-su bảo các tông đồ: “Không
được đi đến nơi nào có dân Gentiles, và không được vào thành
phố nào của dân Samaritan, mà chỉ được đi đến những con dân
Do Thái bị lạc. Trong khi đi hãy rao truyền tin Nước Trời
đã gần đến rồi. ”
Matthew 19: 28: Ta quả quyết với các con: Đến lúc
ta ngồi trên ngai vinh quang trên nước Trời , các con là môn
đệ ta cũng sẽ ngồi trên 12 ngai để xét xử 12 bộ lạc Do Thái.
Luke 22: 30: Các con sẽ được ăn uống chung bàn với
Ta trong Vương Quốc của Ta, và ngồi trên ngai xét xử 12 bộ lạc
Do Thái.
Matthew 10: 23: Giê-su hứa hẹn: “Ta bảo đảm với các
ngươi, các ngươi chưa đi hết các thành phố của Do Thái thì Con
của Người (nghĩa là Ta: Giê-su) đã đến rồi”. [Nghĩa
là Giê-su đã trở lại trần gian rồi “Second coming”]
Kể ra trích dẫn vài điều như trên cũng tạm đủ để cho đọc
giả thấy rõ chất thuốc phiện Ca-tô Giáo đã làm tê liệt đầu óc
của Đăng Trình như thế nào. Quý vị nào có can đảm muốn đọc thêm
Đăng trình xin mời vào www. lamhong. org.
Qua các phần trên, chúng ta thấy rằng phần lớn những tín
đồ Ca-tô Việt Nam vẫn còn sống trong bóng tối của sự hiểu biết
như Russell Shorto đã nhận định chung ở trên. Tôi thật sự không
thể ngờ được là người trí thức Ca-tô Việt Nam lại kém hiểu biết
về chính đạo của mình như vậy. Đối với những tín đồ sống trong
các ốc đảo ngu dốt (từ của Linh mục Trần Tam Tĩnh) thì không
nói làm gì, nhưng đối với giới trí thức mà ngày nay vẫn mê mẩn
về những điều hoang đường đã không còn giá trị thì thật là không
hiểu nổi. Phải chăng cái vòng kim cô của Ca-tô Giáo đã xiết
chặt trên đầu họ cho nên đầu óc họ đã bị mất đi khả năng suy
tư cho nên không thể làm gì khác hơn là nhắc lại những điều mà
họ đã bị nhồi vào đầu óc từ khi còn nhỏ. Vấn đề của chúng ta
ngày nay là làm sao để giúp các tín đồ Ca-tô Việt Nam ra khỏi
bóng tối, ra khỏi những mê muội về một nền thần học đã lỗi thời,
về những giáo lý có tính cách hạ thấp con người. Chỉ có những
con chiên mới cần đến người chăn chiên.
Nữ học giả Ca-Tô Joane H. Meehl, sau khi đã nhìn thấy rõ chủ
đích và những việc làm của Giáo hội Ca-Tô từ thế kỷ 4 cho tới
ngày nay, đã viết trong cuốn "Người Tín Đồ Ca-Tô Tỉnh
Ngộ" (The Recovering Catholic, Prometheus Book, 1995,
trang 288):
"Đạo Ca-Tô chỉ thịnh hành và phát triển trong
đám người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ bị khắc phục bằng
giáo dục (mở mang dân trí. TCN) và đời sống kinh tế
thoải mái. " (Catholicism thrives and grows among
the poor and ignorant. Itisovercomeby
educationand economic well-being).
Chúng ta không thể giúp các tín đồ Ca-tô về kinh tế, nhưng chúng
ta có thể giúp họ bằng giáo dục, nghĩa là mở mang đầu óc của
họ bằng những tài liệu nghiên cứu, thống kê của các tác giả Tây
Phương trong đó có một số linh mục và tín đồ Ki Tô Giáo, những
tài liệu trong lãnh vực học thuật (scholarship) mà tôi cho rằng
trong thời đại ngày nay, không có lý do gì người dân Việt Nam,
nhất là những tín đồ Ca-Tô ở Việt Nam, không được quyền biết,
mà trái lại vì tương lai dân tộc, người dân cần phải biết như
là một phần quan trọng của bộ kiến thức thời đại.
Mở mang dân trí, cập nhật hóa kiến thức thời đại, đây chính
là một nhiệm vụ quan trọng trong thời đại ngày nay, không chỉ
riêng của chính quyền mà là nhiệm vụ chung của mọi người dân
Việt Nam nào còn có lòng với dân tộc, đất nước, còn trân quý
truyền thống văn hóa và tôn giáo của Việt Nam. Tôi hi
vọng giới trí thức, nhất là giới trẻ ngày nay, hãy nhận thức
rõ tầm quan trọng của lãnh vực văn hóa này. Vì lợi
ích của mọi người, và vì tương lai của dân tộc và đất nước, chúng
ta hãy cùng nhau tích cực hoạt động trong đường hướng mở mang
dân trí, giúp người dân nhận thức được những sự thật về các tín
ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam.
Chúng ta hãy thể hiện hạnh từ
bi trong nhiệm vụ này. Từ là “Cho vui” và Bi là “Cứu khổ”. Giúp
cho người dân mở mang đầu óc, cập nhật hóa kiến thức thời đại,
nhận rõ chân thực, là mang đến cho họ một nguồn vui vô tận; giúp
cho người dân nhận rõ tỉnh thức, không bị huyễn hoặc bởi những
điều hoang đường, mê tín, cất bỏ lòng sợ hãi thần quyền, gánh
nặng Thiên Chúa vô hình trên vai, và thoát khỏi một tâm cảnh
nô lệ ngoại quyền, đó chính là cứu khổ. Với thiện tâm,
chứ không phải vì thù nghịch, chúng ta chỉ muốn giúp họ cất bỏ
được cái vòng kim cô của Công giáo xiết chặt trên đầu họ. Đó
là chuyện của chúng ta, còn họ có muốn chúng ta giúp hay không
thì đó là chuyện của họ. Phật Giáo dạy rằng, thấy việc tốt thì
cứ làm, đừng nghĩ đến truy cầu bất cứ điều gì. Đó là điều mà
tôi cùng nhiều người khác trong Giao Điểm và Sách Hiếm đã thực
hành trong nhiều năm nay.
Trần Chung Ngọc
Grayslake, IL.
Các bài tôn giáo cùng tác giả
▪
“Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần -
Trần Chung Ngọc dịch
▪
Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới -
Trần Chung Ngọc
▪
Huyền Thoại Cứu Rỗi -
Trần Chung Ngọc
▪
Lịch Sử các Giáo Hoàng -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 -
Trần Chung Ngọc
▪
TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 6 ▪
>>>