Quan Niệm Giải Thoát

Trong Phật Giáo Và Ca-Tô Rô-Ma Giáo

Trần Chung Ngọc

https://sachhiem. net/TCN/TCNtg/TCN120.php

08-Feb-2012

Bản Tin Mật (Confidential) số 10 (Bulletin No 10, pp. 25-27) của Vatican: “Trong những xứ Phật Giáo, để khoác bộ áo văn hóa bản địa, giáo hội có thể và phải lấy những điều hay trong truyền thống Phật giáo và biến đổi chúng, cho chúng một ý nghĩa của Ki Tô Giáo để có thể áp dụng chúng vào đời sống của những tín đồ của Ki-Tô.

1.  2.

 

Nhân đọc bài:

Triết lý giải thoát của Ấn độ giáo và Phật giáo với Mầu nhiệm Cứu độ của Kitô giáo: Từ cái nhìn đối sánh đến ý kiến đối thoại

của Đăng Trình, do hoctran đăng trên www. lamhong. org

From: To Chuc Giao Diem <giaodiemonline@yahoo.com>
Date: 2012/1/10
Subject: Chuyển tiếp: Kính gửi….

.…

 

Tôi được Giao Điểm chuyển cho bài viết trên của Đăng Trình đăng trên www. lamhong. org . Bận vì sửa soạn ăn Tết nên đến nay tôi mới có thì giờ ngó đến bài viết này.   Đọc xong rồi thì lại không thể không viết một bài để giải hoặc Ki Tô Giáo, theo đúng chủ trương của Giao Điểm từ 20 năm nay. Tại sao lại phải giải hoặc Ki Tô Giáo ? Hi vọng bài này sẽ giải đáp phần nào và cho thấy đây là vấn đề cần thiết trong thời đại ngày nay, nhất là đối với người Việt Nam, vì hệ lụy của Ki Tô Giáo trên dân tộc Việt Nam không phải là nhỏ.

I. “Cứu Rỗi” Hay “Cứu Độ"?

Đọc bài Triết lý giải thoát của Ấn độ giáo và Phật giáo với Mầu nhiệm Cứu độ của Kitô giáo: Từ cái nhìn đối sánh đến ý kiến đối thoại của Đăng Trình tôi thấy nội dung không có gì lạ, lại vẫn chỉ là ... theo sách lược của giáo hội Ca-tô trong vài thập niên gần đây:

Làm ra vẻ hiểu biết nhưng hời hợt về các tôn giáo khác, nhất là Phật Giáo, và cuối cùng xuyên tạc hạ thấp các tôn giáo khác rồi đề cao những gì Ki Tô Giáo tin, tin nhưng mà không hiểu.

Trong phần đầu của bài viết, ông ta viết một số điều phổ thông quen thuộc về triết lý giải thoát của Ấn Độ Giáo và Phật Giáo. Về Phật Giáo, ông ta viết qua loa về Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên v…v… Sau đó, ông ta hạ một câu:   

Tuy nhiên, những phương cách giải thoát ấy có thật sự mang lại hạnh phúc cho con người và nhân quần xã hội không, đặc biệt là trong bối cảnh của xã hội kim tiền hôm nay, khi mà chính con người đang thấy những phát kiến khoa học giúp nối dài cánh tay sản xuất, thật sự đưa ra những giải đáp tích cực và thức thời cho họ về vô vàn các vấn nạn mà trong làn sương mù hư ảo của thời mông muội ban sơ người ta không thể lý giải được, và mở rộng những chân trời hưởng thụ của họ… Trong viễn cảnh như thế, một cái nhìn đối sánh với Kitô giáo từ góc độ giải thoát, thiết tưởng cần được luận bàn để những ai có ước vọng tìm hiểu Chân Lý Cứu Độ có một cái nhìn, dẫu còn phiến diện, nhưng cũng phần nào soi rọi được chút ánh quang nào đó cho nỗ lực tìm kiếm sự thật.” 

Và rồi ông ta bắt đầu nói về cái gọi là “Nhiệm Mầu Cứu Độ” của Ki Tô Giáo, một cái thuộc loại “lông rùa, sừng thỏ” mà ông ta không hề biết gì về nó, và trên thực tế không hề có trên thế gian, nhưng ông ta coi đó là sự thật mà nhân loại cần tìm kiếm.

Đặt câu hỏi: “Tuy nhiên, những phương cách giải thoát ấy có thật sự mang lại hạnh phúc cho con người và nhân quần xã hội không” thì có vẻ hơi thiếu đầu óc, vì ông ấy chưa từng tu tập theo những phương cách giải thoát ấy thì làm sao ông ta biết là nó có mang lại hạnh phúc hay không. Ý đồ hạ thấp tôn giáo khác của ông ta thật rõ ràng, nhưng những điều ông ta viết về cái gọi là “Nhiệm Mầu Cứu Độ”, nên hiểu là “Nhiệm Mầu Cứu Rỗi”,  chẳng qua chỉ là những kiến thức thuộc thế kỷ 17 mà ông ta được giáo hội nhồi sọ để mà “tin”, chứ không phải để “tìm hiểu”. Cho nên ông ta cho rằng cái điều mê tín “Nhiệm mầu Cứu Rỗi” mà ngày nay đã không còn bất cứ một giá trị nào trong giới trí thức, ở trong cũng như ở ngoài các Giáo hội Ki-tô, mới có thể mang lại hạnh phúc cho con người. Lẽ dĩ nhiên, thứ hạnh phúc đó chỉ có được sau khi chết, và từ xưa tới nay chưa có ai biết cái hạnh phúc đó như thế nào. Trên thực tế thì đó chỉ là sự mong ước (wishful thinking) về một viễn cảnh không chắc chắn. Và đối với người Việt Nam thì “Nhiệm mầu Cứu Rỗi” chỉ là một ảo tưởng, không bao giờ có thể có, nếu Đăng Trình chịu khó đọc Tân Ước, trong đó Chúa Giê-su đã khẳng định nhiều lần là nhiệm vụ của ông ta là chỉ cứu người Do Thái mà thôi.

Trong Ca-tô Giáo, những gì mà Giáo hội không hiểu, không giải thích được, thì họ dạy cho tín đồ đó là “mầu nhiệm” và tín đồ chỉ có việc tin không cần phải thắc mắc. Và vì cái gọi là “đức vâng lời” trong Ca-tô Rô-ma Giáo cho nên các tín đồ cứ tin mà không hiểu mình tin cái gì. Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu thực chất về cái gọi là “Mầu Nhiệm Cứu Độ” (sic) của ông Đăng trình.

Theo điều giảng của Ca-tô Giáo trên trang nhà:

https://2010menchuayeunguoi.blogspot.com/2010/01/goc-cua-tu-mau-nhiem-la-gi-vay.html

Từ "mầu nhiệm" như trong mầu nhiệm (bí tích) cứu chuộc. Gốc của từ mầu nhiệm là gì vậy?

- Quá sức người hiểu; Mầu nhiệm
- Khó hiểu: Mầu nhiệm
- Kín đáo: Nhiệm mật

Theo nghĩa thông dụng, mầu nhiệm là “những gì không thể biết được”, hay những kiến thức, những chân lý còn được giữ kín chưa tiết lộ cho ai biết.

Vài thí dụ điển hình về “mầu nhiệm”: Bí đặc, không làm sao giải thích được là một mẩu bánh làm bằng bột, sau khi được ông linh mục hoa tay làm phép lẩm bẩm vài câu chữ La-tinh thì mẩu bánh đó lại biến thành thân thể thực sự của Giê-su để cho tín đồ ăn và tin rằng “Chúa ở trong ta” thì Ca-tô giáo gọi đó là “bí tích” hay “mầu nhiệm ban thánh thể”. Hoặc nước lã được ông linh mục hoa tay làm phép cũng biến thành nước có thể chữa được người mù hay đủ mọi thứ bệnh như Alexandre de Rhodes lừa bịp người dân khi xưa cũng gọi là “mầu nhiệm nước thánh”.  Như vậy, khi Đăng Trình viết về “ước vọng tìm hiểu “Nhiệm mầu Cứu Rỗi” thì thực ra đó chỉ là một ảo vọng, chứng tỏ ông ta viết ra những điều mà không hiểu mình viết cái gì.  

Vậy mà Ca-tô Giáo tự nhận là văn minh tiến bộ nhất thế giới, đi đến các nước kém mở mang nhưng có nền văn hóa cao như Việt Nam để văn minh hóa các dân tộc mọi rợ trong đó.

Trong Ki Tô Giáo không làm gì có “cứu độ” mà chỉ có “Cứu Rỗi”. “Cứu độ” là từ, nói một cách nhẹ nhàng là Ca-tô Giáo “mượn mà không hỏi” của Phật Giáo, theo sách lược của Giáo hội đã chỉ thị mật cho các Giám mục địa phương.

Chứng minh:


ảnh minh họa trên wikipedia.org
cho từ "cứu rỗi" (salvation)

Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng của John Paul II, 1995, bản dịch với sự đóng góp của Tiến sĩ Trần Mỹ Duyệt, cựu thẩm phán Nguyễn Cần (Lữ Giang), Kỹ sư Trần Văn Trí, Giáo sư Trần Văn Nhượng, trang 76, có Chương với chủ đề “Tại Sao Nhân Loại Cần Được Cứu Rỗi? ” và Giáo hoàng đã giảng, ngoài viện ra câu John 3: 16 trong Tân Ước: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời. ” nhưng rồi quảng cáo cho “ơn Cứu Rỗi” của Giê-su: “Thiên Chúa đã không sai Con Ngài xuống thế gian để luận phạt nhưng để nhờ ngài mà thế gian được Cứu Rỗi. ”. Lẽ dĩ nhiên, chỉ cứu rỗi những người tin Giê-su, còn những người không tin thì vẫn bị luận phạt như thường. Chúng ta hãy tìm hiểu:

“Cứu rỗi” khác với “Cứu độ” như thế nào.

“Độ” là dìu dắt, cứu giúp, qua sông.  Trong Phật Giáo, khi nói đến “Phật độ” thì có nghĩa là những giáo lý của Đức Phật có tác dụng dìu dắt, mở mang trí tuệ con người để con người tự mình tu tập để qua sông, nghĩa là qua bờ bên kia, bờ bên này là mê, bờ bên kia là ngộ, là giải thoát khỏi vòng luân hồi.   Còn “Cứu Rỗi” trong Ca-tô Giáo là nghĩa của chữ “salvation”. Tự điển Anh-Việt dịch Salvation là: Cứu vớt linh hồn một người khỏi tội lỗi và các hậu quả của nó; sự cứu rỗi linh hồn; Còn theo Tự điển The American Heritage Dictionary thì nghĩa thần học của “salvation” là “Sự giải thoát phần hồn của con người khỏi năng lực hay sự trừng phạt của tội tổ tông; cứu chuộc (Salvation: The delivrance of man of his soul from the power or penalty of original sin; redemption), nếu con người thực sự có một phần hồn riêng biệt với thể xác, một điều hoang tưởng của nền thần học Ki Tô Giáo mà khoa học ngày nay đã bác bỏ. Và “Cứu Rỗi” chỉ là một niềm tin, một niềm hi vọng cho một đời sau của các tín đồ Ki Tô Giáo.

Để cho vấn đề được rõ ràng hơn, chúng ta cần phải biết người Ki-Tô-Giáo [Ca-tô và Tin lành] tin tưởng vào cái gì khi theo đạo Giê-su (Jesuism). Chẳng cần phải nói ai cũng biết là họ tin tưởng vào ơn “Cứu Rỗi” của con một người thợ mộc Do Thái, người mà họ cho là Chúa, Giê-su .

Nhưng thực ra “Cứu Rỗi” là gì? Nền Thần học Ki Tô Giáo có thể soi sáng cho chúng ta về vấn đề này.  

Theo https://vi. wikipedia. org  thì:

Trong thần học, sự cứu rỗi là một ý niệm trừu tượng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cơ Đốc giáo định nghĩa cứu rỗi là giải cứu khỏi sự câu thúc của tội lỗi và sự đoán phạt để có thể nhận lãnh sự sống đời đời của Thiên Chúa…

Tội lỗi ở đây chúng ta nên hiểu là “tội tổ tông” do sự sa ngã của Adam và Eve truyền lại cho nhân loại, theo luận điều thần học về một huyền thoại của dân tộc Do Thái trong thời bán khai. Vậy thực chất của ơn “cứu rỗi” là như thế nào và các tín đồ Ki Tô Giáo phải tin như thế nào mới có hi vọng được cứu rỗi. Chúng ta hãy đọc vài câu nói lên đức tin và hi vọng căn bản của người Ki Tô Giáo trong Kinh Tin Kính của các Tông đồ [Apostle’s Creed) :

Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu KiTô là con một Đức Chúa Cha cũng là Chúa chúng tôi…
chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết và táng xác,
xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại…
ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại…
Tôi tin hằng sống vậy.

Tôi tin…Tôi tin…Tôi tin… là căn bản hiểu biết và niềm hi vọng trong Ki Tô Giáo.  Với đức tin này người Ki Tô Giáo hi vọng ở những gì.  Vì tin rằng Chúa Giê-su "ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” và tin rằng “xác loài người ngày sau sống lại”, người Ca-tô Việt Nam rất hi vọng được Chúa Giê-su, đến ngày phán xét, ngày “cánh chung”, họ được Chúa xếp vào loại cừu, những người tin Chúa, phân biệt họ với loài dê, những người không tin Chúa mà Chúa sẽ đầy xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng của Chúa lòng lành thiêu đốt, rồi hóa phép làm cho thân xác của họ, bất kể chết từ bao giờ, chết trên giường bệnh, già, bình thường, hay chết tan xác ngoài mặt trận, sống lại, hợp với linh hồn của họ mà sau khi chết đã được giữ [ai giữ?] trong một kho chứa của Chúa, và rồi, cả hai phần hồn và phần xác, được Chúa cho lên thiên đường để sống đời đời cùng Chúa.  Chúng ta nên nhớ, Ca-tô Rô-ma Giáo tự nhận là tôn giáo văn minh tiến bộ nhất trên thế giới, tuyệt đối không có chút mê tín nào.

Nhưng tại sao gần đây chúng ta lại thấy Ca-tô Giáo thường dùng từ “Cứu độ” thay vì “Cứu rỗi”, trong khi “cứu rỗi” là niềm tin chính của họ.  Vì họ theo đúng sách lược “mượn mà không được phép” của cái đạo đã mang danh là đạo Chích [Xin đọc “Thiên Hồ! Đế Hồ” của Cụ Phan Bội Châu]. 

Chứng minh:

Trước hết, chúng ta hãy đọc một tài liệu của Linh Mục Kirati Boonchua, giáo sư triết tại đại học Chulalongkorn, Thái Lan:

Niềm Hãnh Diện Của Ki Tô Giáo: Mượn Và Mô Phỏng

Ki Tô Giáo không có cái gì là của mình cả. Ki Tô Giáo chỉ có thể mượn [nôm na là ăn cắp] và mô phỏng các tôn giáo khác. Điều này có đáng xấu hổ không? Tại sao Ki Tô Giáo lại phải xấu hổ? .

Giê-su không thiết lập một hệ thống triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức cho Ki Tô Giáo. Do đó, Ki Tô Giáo không hề có một hệ thống triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức của Ki Tô Giáo để có thể phô trương trước các tôn giáo khác. Chưa bao giờ có được một cái gì thực sự là của chính mình, đó là điều duy nhất mà Ki Tô Giáo có thể phô trương. Chúng ta, những tín đồ Ca Tô, hân hoan chấp nhận là triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức của chúng ta ngày nay đều là mượn và mô phỏng từ ngôn ngữ và văn hóa của những miền đất mà Ki Tô Giáo nảy nở trong đó. Chúng ta, những tín đồ Ca Tô, là những chuyên gia về kỹ thuật xảo trá... ”

The Proud of Christianity: Borrowing and Imitation

Christianity possesses nothing of its own. Christianity can only borrow and imitate others. Is it shameful? Why Christianity have to shame ? .

Jesus did not establish philosophical system, school of art and official language for Christianity. Therefore, Christianity possesses no Christian philosophy, art and official language in order to show to others.   Never having any authentic thing of its own is the only thing Catholics can show off. We, Catholics, delightfully accept that our present philosophy, art and official language are borrowed and imitated from the language and culture of the lands where Christianity has grown.   We, Catholics, are experts in manipulation.

(Lecture of Father Kirati Boonchua, Professor of philosophy at the Faculty of Arts, Chulalongkorn University) in “Life Review” a Catholic program in Bangkok, broadcasting on 8 December 1985)

Về thủ đoạn “mượn” những điều hay trong Phật Giáo,

chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Bản Tin Mật (Confidential) số 10 (Bulletin No 10, pp. 25-27) của Vatican: (*)

“Trong những xứ Phật Giáo, để khoác bộ áo văn hóa bản địa, giáo hội có thể và phải lấy những điều hay trong truyền thống Phật giáo và biến đổi chúng, cho chúng một ý nghĩa của Ki Tô Giáo để có thể áp dụng chúng vào đời sống của những tín đồ của Ki-Tô. ”

(In the Buddhist countries, in order to make its own cultural garnment, the Church can and must take on the good elements of the Buddhist tradition and transform them giving them a Christian meaning so as to adapt them to the life of the followers of Christ. )

Bởi vậy, gần đây chúng ta thấy Ca-tô Giáo, từ trên xuống dưới, đều đổi cái điều mê tín hoang đường “cứu rỗi” của Ca-tô Giáo thành “Cứu độ” để nhập nhằng lừa dối những đầu óc thấp kém. Lấy cái hay của người khác để dùng cho mình là điều ai cũng nên làm. Nhưng dùng kỹ xảo biến đổi nó đi và nhận là của mình thì đó là trò đạo văn, ma giáo, bất lương trí thức. Một thí dụ điển hình của trò này cũng nằm trong Bản Tin số 10 trên:

“Toàn thể Phật Giáo đặt căn bản trên Tứ Diệu Đế: Khổ, Nguồn gốc của Khổ, Diệt Khổ và Thoát Khổ. Tại sao sự truyền bá Phúc âm của Ki-Tô không thể cũng được thâu tóm trong bốn chân lý trên? Sự đau khổ chân thật của con người là tội lỗi. Giê-su đến để giải thoát con người khỏi sự đau khổ – tội lỗi. “ [Xin nhớ, khi giáo hội nói đến “sin” thì có nghĩa đó là “original sin”, tội tổ tông mà Thiên Chúa giáng cái tội của chính Thiên Chúa lên đầu nhân loại]

(The whole of Buddhism is based on the four thuths: sorrow, the cause of sorrow, the destruction of sorrow and liberation from sorrow. Why could not the spreading of the Gospel of Christ be summed up also in these four truths? The true sorrow of Man is sin. Jesus came to liberate Man from sorrow-sin. )

Chúng ta thấy ngay thủ đoạn bất lương của Ca Tô Giáo Rô Ma trong đoạn trên: ngoài việc “mượn” từ “cứu độ” của Phật Giáo còn xuyên tạc ý nghĩa của Tứ Diệu Đế, nghĩa là bốn chân lý chân thật của Phật Giáo, và biến đổi chúng thành ra hai điều mê tín hoang đường cho người Ca Tô. Bốn chân lý cao thượng của Phật Giáo có tính phổ quát mà mọi người chúng ta có thể chiêm nghiệm hàng ngày.

Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Tiến sĩ Phật học, đã vạch trần sự xuyên tạc của Mục sư Tống Tuyền Th về ý nghĩa của “Khổ” trong PhậtGiáo. Quan niệm về “Khổ” trong Phật Giáo không dính dáng gì đến cái gọi là “Tội” của Ki Tô Giáo, nhất lại là cái tội tổ tông hoang đường của Ki Tô Giáo mà một Giê-su hoang đường đã chuộc tội một cách hoang đường, tự trèo lên cây thập giá để cho người ta đóng đinh. Còn nếu tội là tội thế gian như giáo hoàng loạn luân, linh mục hiếp dâm, nữ tu hành hạ trẻ em v.v... trong lịch sử Ca Tô Giáo thì nếu Giê-su, một người Do Thái đã chết cách đây đã 2000 năm, thực sự có thể giải thoát những tội đó cho những người sống, cho tín đồ phạm những tội đó, thì ai muốn tin cứ việc tin, và cứ việc phạm tội. Nhưng hãy nên nhớ một điều, luật pháp thế tục bắt người phạm tội phải đền tội, và Chúa có muốn chuộc cũng không được. Làm sao mà một người có đầu óc có thể chấp nhận cái luận điệu quái gở, vô đạo đức và vô giá trị đó. Chúa chết rồi, lấy cái gì để chuộc? Giáo hội Ca-tô đã phải bỏ ra hàng tỷ đô-la trong các vụ linh mục loạn dâm để bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các “Cha cũng như Chúa” chứ không phải để chuộc những tội đó. Chúng ta nên nhớ, Ca-tô Rô-ma Giáo tự nhận là tôn giáo mạc khải, tông truyền, thánh thiện nhất trên thế giới, và các tín đồ cũng tin và thường khoe rằng mình đang ở trong một “hội thánh”...

II. Lý Trí Đối Với Đức Tin:
Một Con Đường Đi Tới Hiểu Biết, Một Con Đường Đi Tới Mê Tín.
(Reason versus Faith: A Path to Knowledge, a Path to Superstition)

Đối với những người am hiểu ít nhiều về tôn giáo thì ai cũng biết Phật Giáo là tôn giáo của “Trí Tuệ”, còn Ca-tô Rô-ma Giáo là tôn giáo của “Đức Tin”. Thật vậy, căn bản những niềm tin trong Ca-tô Rô-ma Giáo nằm trong Kinh Tin Kính của Ca-tô Rô-ma Giáo, trong đó là một loạt những “Tôi tin… Tôi tin…Tôi tin…”. Trong Phật Giáo cũng có Kinh Nền Tảng Đức Tin, nghĩa là Kinh Đức Phật thuyết cho người dân Kalama, trong đó là một loạt những điều Đức Phật khuyên “Đừng vội tin…Đừng vội tin…Đừng vội tin”, đừng vội tin ngay cả những lời Đức Phật nói, mà phải dùng lý trí để chiêm nghiệm xem điều đó có mang lại lợi ích cho tha nhân và cho chính mình hay không? Đó là sự khác biệt quan trọng giữa “đức tin” và “lý trí”. Khác biệt như thế nào.

Trong cuốn “Science & Religion: Opposing Viewpoints, Greenhaven Press, CA, 1988”, chúng ta có thể đọc trong phần Dẫn Nhập (Introduction), trang 14, về sự khác biệt đi tới sự thật của khoa học và tôn giáo như sau: “Khoa học leo từng bậc thang một của lý trí để tìm kiếm sự thật trong khi tôn giáo quỳ trước bàn thờ của đức tin. Phương pháp luận của khoa học gồm có sự quan sát và thí nghiệm trong khi tôn giáo ôm lấy sự mạc khải của thần linh. (Science climbs the ladder of reason in its search for truth while religion kneels before the altar of faith. The methodology of science includes observation and experimentation while religion embraces divene revelation). Tinh thần Phật Giáo cũng là tinh thần khoa học, leo từng bậc thang của lý trí để có thể phân biệt chân giả, và tu tập bản thân để thăng tiến tâm linh.

Trong cuốn “The Final Superstition: A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy”, Promotheus Books, New York, 1994, học giả Ca-tô Joseph L. Daleiden đã để ra nguyên Chương 10 để viết về đề tài: “Lý Trí Đối Với Đức Tin: Một Con Đường Đi Tới Hiểu Biết, Một Con Đường Đi Tới Mê Tín” (Reason versus Faith: A Path to Knowledge, a Path to Superstition). Tại sao tác giả lại nhận định như vậy? Vì theo định nghĩa của H. L. Mencken thì Faith hay Đức Tin là "một kiểu tin phi-lôgic vào sự xảy ra của những gì không chắc có thực" (an illogical belief in the occurrence of the improbable). Theo định nghĩa trong tự điển thì Faith hay Đức Tin là "sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực" (Firm beliefin something for which there is no proof. )Mặt khác. định nghĩa của Reason hay Lý Trí trong tự điển là "khả năng có những tư tưởng hợp lý, suy lý, hoặc phân biệt" (The capacity of rational thought, inference, or discrimination) hay "suy xét đúng, phán đoán hợp lý" (good judgment, sound sense).

Theo những định nghĩa trên thì hiển nhiên là Đức Tin trong tôn giáo và Lý Trí là hai từ có nghĩa loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), có cái này thì không có cái kia. Thật vậy, khi chúng ta dùng lý trí để xác định và chấp nhận một điều gì thì chúng ta không cần đến đức tin, và khi chúng ta tin vào điều gì mà không cần biết, không cần hiểu, không cần đến bằng chứng v…v…thì lý trí trở nên thừa thãi. Trong Phật Giáo cũng có chữ “Tín”, tin ở Phật, tin ở Thầy, Tổ, nhưng chúng ta phải hiểu là lòng tin trong Phật Giáo là do sự hiểu biết, do sự chứng nghiệm bản thân qua quá trình tu tập, chứ không phải mù lòa tin bướng tin càn, tin mà không hiểu rõ tại sao mình lại tin như vậy.

Đăng Trình viết: “Trên bình diện tư tưởng giải thoát, trong Ấn giáo và Phật giáo hay Cứu độ của Kitô giáo, được xem là có cùng ý nghĩa. ”, vậy chúng ta hãy đi vào một chút chi tiết về giáo lý giải thoát của Phật Giáo và niềm tin “cứu rỗi” của Ki Tô Giáo để xem cái gọi là “cùng ý nghĩa” của Đăng Trình là như thế nào. Tôi xin nhắc lại, Phật Giáo là đạo của “trí tuệ”, còn Ca-tô Rô-ma giáo là đạo của “đức tin”. Hiểu biết không thể nào có cùng nghĩa với mê tín.

Bài phân tích này dựa phần lớn vào những tài liệu hiện hữu, vào kinh điển Phật Giáo và Thánh Kinh Ca Tô, và nhất là dựa vào sự suy lý dưới ánh sáng của luận lý học (logic), của khoa học và những hiểu biết thông thường (common sense). Tuy nhiên, tôi cần phải minh định một điều: Bài khảo luận này không phải là một bài thuộc môn học so sánh các tôn giáo, lại càng không phải là một bài so sánh giáo lý Phật Giáo và Ca Tô Giáo để phân định đúng sai, hay dở. Chúng ta không thể nào so sánh, hay nói khác đi, lấy một giáo lý làm chuẩn để phê phán một giáo lý khác, điều mà John Paul II đã làm khi viết cuốn Crossing The Threshold of Hope, vì từ tinh thần, triết lý cho tới các phương pháp hành trì, các tôn giáo đều khác nhau. Bài này chỉ có mục đích duy nhất là trình bày khách quan những sự khác biệt căn bản trong giáo lý giải thoát của Phật Giáo và Ca Tô Giáo, những mâu thuẫn tự tại trong các giáo lý này, nếu có, để cho bạn đọc có thể có một ý niệm rõ ràng hơn về vấn đề giải thoát trong hai tôn giáo.

III. Quan Niệm Giải Thoát Trong Ca-Tô Rô-Ma Giáo

Chúng ta đã biết rằng Ca Tô Giáo là đạo cứu rỗi (Salvation Religion), và Phật Giáo là đạo Giác Ngộ (Religion of Enlightenment). Sự khác biệt này hết sức quan trọng nếu chúng ta muốn đi sâu vào vấn đề giải thoát trong mỗi tôn giáo.

Nói một cách ngắn gọn, thì sự giải thoát trong Ca Tô Giáo là sự "giải thoát khỏi tội qua một Đấng Cứu Rỗi" (Salvation from sin through a Savior). Tội này thường được biết là tội tổ tông chứ không phải các tội thường xẩy ra trong dân gian.  Nhưng vì ngày nay, tội tổ tông đã trở thành một điều hoang đường, nên để lừa dối con chiên, giữ họ trong bóng tối của sự hiểu biết, giáo hội cứ nói một cách nhập nhằng trống không là “sin” (tội lỗi), không giải thích đó là tội lỗi như thế nào, để mê hoặc con chiên tin rằng Giê-su có thể giải thoát mọi tội lỗi của mình, bất kể tội lỗi đó là như thế nào. Ingersoll đã nhận định: “Ca-tô Giáo còn tồn tại vì con chiên thì đần độn [stupid], và các linh mục thì xảo quyệt (cunning)”.

Nguyên thủy, giáo lý giải thoát này được đặt căn bản trên một số tín điều mà các tín đồ Ca Tô phải tin, và đức tin này là tuyệt đối, không có bàn cãi, suy luận, hoặc hiểu. Thí dụ, trong cuốn Crossing The Threshold of Hope, GH John Paul II đã đưa ra một số tín điều như: "Thánh Phao Lồ ý thức thâm sâu rằng Chúa Ki-Tô là căn nguyên, là tuyệt đối. ", "Chúa Ki-Tô là bí tích của Thiên Chúa vô hình", “Giáo Hoàng là một bí nhiệm" và khẳng định:  "Điều mặc khải nàydứt khoát, con người chỉ còn có thể hoặc chấp nhận, hoặc chối bỏ. " Cho nên các tín đồ Ca Tô chỉ còn có việc tin và tuân phục Giáo Hoàng. Lý trí hay khả năng suy luận của con người trở nên thừa thãi, vì không cần dùng đến trong một đức tin thuộc loại trên.

Muốn được giải thoát, một tín đồ Ca Tô phải tin vào nhiều tín điều (dogma) lắm, nhưng đại cương gồm có những tín điều chính sau đây:

1. Tin rằng có một vị Thần của Do Thái, được coi là Đấng Toàn Năng, Toàn Trí, Toàn Thiện, đã tạo dựng ra thế giới chúng ta đang sống, được coi là thế giới duy nhất, và loài người. Từ tín điều này, con người phải tin rằng Adam và Eve là Nguyên Tổ của loài người, có thể vì không muốn suốt đời bị ngu đần, không biết thế nào là phải là trái, nên cưỡng lời Thần ăn trái cây trên Cây Hiểu Biết để cho sáng mắt ra, biết thế nào là phải trái, nên bị coi là sa ngã gây thành tội Tổ Tông mà các thế hệ loài người cho tới ngày tận thế đều vướng phải cái tội tổ tông này và bị luận phạt.

2. Tin rằng Giê-Su (Jesus Christ) , một nhân vật lịch sử sống trong thời thống đốc Pontius Pilate, là người con duy nhất của Thiên Chúa, được phái xuống trần để chuộc cái tội tổ tông cho nhân loại, những người tin vào Người sẽ không bị luận phạt, được sống đời đời, lẽ dĩ nhiên sau khi chết. (John 3: 16)

3. Tin ở thuyết Chúa Ba Ngôi: Cha , Con và Thánh Ma (Holy Ghost) đều là một.

4. Tin rằng Giê-Su được sinh ra từ một trinh nữ (Virgin Birth)

5. Tin rằng Giê-Su tự nguyện leo lên cây Thập giá để cho người ta đóng đinh, hành động này là để chuộc tội tổ tông cho nhân loại, chết, xuống ngục tổ tông, nhưng sống lại sau ba ngày, và sau 40 ngày [đeo hỏa tiễn] bay lên trời ngồi bên phải Chúa Cha.

6. Tin rằng bột bánh Thánh là thịt của Giê-Su, rượu lễ là máu của Giê-Su, ăn uống vào sẽ được hiệp thông với Giê-Su, lẽ dĩ nhiên qua ngả Vatican vì Vatican có quyền dứt phép thông công của các tín đồ.

7. Tin rằng đến ngày cánh chung Giê-Su sẽ trở lại thế gian để phán xét và luận tội mọi người. Người nào tin Giê-Su thì được lên Thiên Đường, người nào không tin sẽ bị vĩnh viễn đầy hỏa ngục. (Matthew 25: 31-46)

Sáu tín điều đầu là để mê hoặc tín đồ, đồng thời để tạo quyền lực cho giới chăn chiên trên đám tín đồ thấp kém ở dưới. Tín điều số 7 là niềm tin chính của tín đồ về một cái bánh vẽ ở trên trời nhưng lại có tác dụng mạnh mẽ nhất để động não tín đồ. Đây chính là cái mà Đăng Trình gọi là “Mầu nhiệm cứu độ (sic)”. Nhưng Đăng Trình không biết rằng, trong giới trí thức Ki Tô Giáo ngày nay, cái mà Đăng Trình gọi là “Mầu nhiệm cứu độ (sic)” chỉ là điều mê tín đã lỗi thời, do đó đã không còn bất cứ một giá trị nào. Tòa Thánh đã công nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người, và phủ nhận sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục, vậy tất cả những gì nói về Thiên Chúa và Giê-su của Ki Tô Giáo chẳng qua chỉ là những luận điệu thần học cổ xưa. Nhận thức được như vậy nên dân Âu Châu và cả ở Mỹ Châu, tín đồ Ki Tô Giáo phần lớn đã bỏ đi lễ nhà thờ, vì không còn mấy người còn tin vào cái huyền thoại cứu rỗi đã lỗi thời này, [Xin đọc bài: “Huyền Thoại Cứu Rỗi” https://sachhiem. net/TCN/TCNtg/TCN36. php] của Linh mục James Kavanaugh, và bài “Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ” của Giám mục John Shelby Spong: https://sachhiem. net/TCN/TCNtg/TCN37. php. ]

Học giả Russell Shorto, sau khi duyệt qua những tác phẩm nghiên cứu về Giê-su trong vòng 200 năm gần đây, đã đưa ra một kết luận trong cuốn “Sự thật trong Phúc Âm” như sau:

Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Công giáo bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉlà huyền thoại... Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng– họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.

(Shorto, Russell, Gospel Truth, Riverhead Books, New York, 1997 : Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth... Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians. )

 a) Ai Còn Tin “Nhiệm Mầu Cứu Độ” ?

 Nhưng trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại và trước những kết quả nghiên cứu về Ki Tô Giáo trong ánh sáng của khoa học, ngay cả những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo cũng không còn tin vào cái gọi là “Mầu nhiệm cứu độ (sic)” của Đăng Trình. Sau đây là vài tài liệu điển hình của giới lãnh đạo trí thức trong Ki Tô Giáo:

Malachi Martin, giáo sư tại viện nghiên cứu Thánh Kinh của giáo hoàng tại Rô-ma dưới triều đại giáo hoàng John XXIII (Professor at the Pontifical Biblical Institute of Rome, served in the Vatican under Pope John XXIII), đã viết trong cuốn “Sự Suy Thoái Và Sụp Đổ của Giáo Hội Rô-Ma” (The Decline and Fall of the Roman Church) như sau, trang 230:

 Giáo Hoàng John XXIII nói trong buổi khai mạc Công Đồng Vatican IIngày 11 tháng 10, 1962, rằng “những giáo lý và quan niệm sai lầm vẫn còn tồn tại nhiều, nhưng ngày nay con người đã tự ý loại bỏ chúng… Nhưng nếu Roncalli (John XXIII)không thấy là điều giảng dạy mới của mình dẫn tới đâu, thì hàng trăm nhà thần học và giám mục đã thấy. Trong những thập niên 1960-70, sau khi Roncalli chết, họ đã từ bỏ niềm tin về tội tổ tông, về quỷ Satan, và về nhiều giáo lý căn bản khác.

(Martin, Malachi, The Decline and Fall of the Roman Church, p. 230: Pope John XXIII told the opening session of his council on October 11, 1962, that “false doctrines and opinions still abound, ” but that “today men spntaneously reject” them…But if Roncalli did not see where his new teaching was leading, hundreds of theologians and bishops did. In the sixties and the seventies after Roncalli’s death, they drew these conclusions and abandoned belief in original sin, in the Devil, and in many other fundamental doctrines. )

Trong cuốn "Theo Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Của Quyền Lực Thánh Kinh" (Going By the Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority), Mục sư Ernie Bringas, tốt nghiệp môn thần học tại đại học United Theological Seminary ở Dayton, Ohio, đưa ra nhận định:

 
Với sự tái khám phá phương pháp khoa học trong thế kỷ 16 ở Âu Châu và sự tiến triển tiếp theo của thời đại Khai sáng trong thế kỷ 18, một sự phân tích Thánh Kinh một cách thuần lý hơn là điều không thể tránh được. Trong một thế giới đang trở thành hướng theo tinh thần khoa học, những mô tả về Chúa đi trên sóng, về ma quỷ, thiên thần, những câu chuyện về sự sống lại của Chúa, và nhiều hiện tượng khác, càng ngày càng khó có thể chấp nhận như là những sự thực lịch sử.

  Trong những năm 1835-1836, cuốn "Khảo Sát Cặn Kẽ Về Đời Sống của Giê-su" (The Life of Jesus Critically Examined) của D. F. Strauss đã quy một số chuyện trong Tân Ước là "huyền thoại" và định nghĩa những câu chuyện phi lịch sử như trên là sự biểu thị của một chuỗi những ý tưởng tôn giáo. Ngày nay, kết quả những cuộc nghiên cứu phân tích tiếp tục hỗ trợ và xác nhận sự khẳng định này. Đa số các học giả coi những chuyện trong Tân Ước và bảy giáo lý giáo hội đưa ra sau đây đều là huyền thoại:

1. Đức Mẹ đồng trinh
2. Hiện thân của Chúa (Gót hiện thân thành người, nghĩa là, Gót là Giê- su. )
3. Nhiệm vụ chuộc tội của Chúa [kế hoạch cứu rỗi]
4. Sự sống lại của Chúa.
5. Sự thăng thiên của Chúa (Thân xác Chúa bay lên trời 40 ngày sau khi sống lại)
6. Chúa trở lại trần (để làm sống lại những người chết cho ngày phán xét cuối cùng)
7. Ngày phán xét cuối cùng (Gót phán xét mọi người khi Giê su trở lại trần thế)

   (With the rediscovery of the scientific method in 16th-century Europe and the subsequent evolvement of the Enlightenment during the 18th-century, it was inevitable that a more rational analysis of Scripture would occur. In a world becoming scientifically oriented, descriptions of walking on water, of demons, angels, resurrection stories, and other phenomena grew increasingly unacceptable as historical realities.
 In 1835-1836, The Life of Jesus Critically Examined, by D. F. Strauss, referred to some NT narratives as "myth" and defined those unhistorical elements as expressing a series of religious ideas. Today, analytical studies continue to support and confirm this assertion. The majority of scholars regard the following NT accounts and Church-developed doctrines as myth:

1. The virgin birth
2. The Incarnation (God in human form; that is, God as Jesus)
3. The work of Atonement (plan for salvation)
4. The resurrection
5. The ascension (Jesus' bodily ascent into heaven 40 days after the resurrection)
6. The Second Coming (the return of Jesus to raise the dead and to summon all to the Last Judgment)

7. The Last Judgment (the judgment of all by God at Christ's Second Coming)

Trong cuốn Một Ki Tô Giáo Mới Cho Một Thế Giới Mới (A New Christianity For A new World), xuất bản năm 2001. Giám Mục John Shelby Spong liệt kê ra 5 tín điều căn bản của Ki Tô Giáo như sau:

  

- Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa.

- Tư cách thần linh của Giê-su vì sinh ra từ một Nữ Trinh.

- Cái chết của Giê-su là để chuộc tội cho nhân loại, và máu của Giê-su là năng lực cứu rỗi (saving power of his blood).

- Thân xác Giê-su sống lại. Ngôi mộ trống là một sự thật cũng như chuyện Giê-su hiện ra sau khi chết.

- Giê-su sẽ trở lại để phán xét nhân loại.

Và Giám mục Spong đưa ra nhận định như sau:

Ngày nay, tôi thấy những tín lý căn bản này mà chúng ta thường hiểu theo truyền thống, không những chỉ là ngây ngô mà còn có thể phải dứt khoát loại bỏ. Trong thế hệ của chúng ta, không một tín điều nào ở trên được các học giả Ki Tô danh tiếng xác nhận.

[Today I find each of these fundamentals, as traditionally understood, to be not only naïve, but eminently rejectable. Nor would any of them be supported in our generation by reputable Christian scholars. ]

Chúng ta thấy, vì vẫn sống trong bóng tối, theo nhận định của Mục sư Ernie Bringas, nên phần lớn tín đồ Ki Tô Giáo vẫn còn tin vào những điều không thể tin được thuộc thế kỷ 17 . Đặc biệt là đối với các tín đồ Ca-tô Việt Nam, niềm tin cũ kỹ bắt nguồn từ một đầu óc cũ kỹ (an astrolabe mind)  rõ rệt nhất. Trong khuôn khổ bài này hiển nhiên tôi không thể luận về những gì mà các tín đồ Ca-tô phải tin. Tôi đã luận về những điều tín đồ Công Giáo tin trong cuốn “Đức Tin Công Giáo”, Giao Điểm xuất bản trước đây. Và cũng đã có rất nhiều nhà Thần Học và các học giả chuyên về tôn giáo viết về “đức tin Ca-tô” rồi. Trong bài này tôi chỉ bình luận về vài điểm dựa theo những hiểu biết mới nhất hiện nay về tín ngưỡng Ca Tô Giáo.

b) Tại Sao Con Chiên Vẫn Tin Thuyết Sáng Tạo ?

Thực ra thì bây giờ không còn mấy người thực sự còn tin ở thuyết sáng tạo: thế giới hiện hữu là do một vị Thần tạo ra trong 6 ngày rồi nghỉ ngày thứ bảy. Tất cả những khám phá mới nhất của khoa học: từ căn nguyên của vũ trụ, cấu hình của vũ trụ cho tới tuổi của vũ trụ và loài người, thứ tự xuất hiện các sinh vật và thực vật v.v... trên thế giới, đều hoàn toàn không phù hợp với những điều mô tả trong chương Sáng Thế kỷ của Thánh Kinh, chưa kể là những người viết Thánh Kinh, được coi là viết theo lời mặc khải của Thần, hoàn toàn mù tịt về vật lý, thiên văn, sinh học, địa chất học v.v... , và nhất là rất kém về phương diện đạo đức.

Robert Ingersoll, một tư tưởng gia lỗi lạc của Mỹ đã viết từ ngay cuối thế kỷ thứ 19:

"Có một người thông minh nào trên thế giới còn tin ở chuyện Vườn Eden (nơi Adam và Eve sa ngã. TCN)? Nếu anh thấy ai còn tin như vậy, hãy gõ lên trán họ, anh sẽ nghe thấy một tiếng vang"  (Is there an intelligent man or woman now in the world who believes in the Garden of Eden story? If you find any man who believes it, strike his forehead and you will hear an echo. )

Tòa Thánh Vatican và các giới chức lãnh đạo Ca Tô gần đây đã công nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc loài người và phủ nhận sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục, nhưng lẽ dĩ nhiên đa số tín đồ kém hiểu biết vẫn sống trong bóng tối vì bị các bề trên dấu kín, đâu có biết tới điều này. Và dù có biết đi chăng nữa họ cũng không dám đối diện với sự thật, vì đối diện với sự thật là thú nhận rằng niềm tin tôn giáo của mình không còn giá trị. Thật là tội nghiệp, vì tin vào những gì đã không còn giá trị thì thực ra có thể gọi đó là “đức tin” hay không?

Điều đáng nói là Giáo hội, đối với đám giáo dân đông đảo này Tòa Thánh vẫn chính thức rao truyền cho giáo dân phải tin vào thuyết sáng tạo, vẫn mang cái câu trong Tân Ước, John 3: 16, để lừa dối tín đồ, vẫn mê hoặc tín đồ về một ngày cánh chung của Chúa (Mathhtew 25: 31-46), và vẫn nhồi vào đầu óc tín đồ là Giáo hội là một Hội Thánh, duy nhất, thánh thiện, tông truyền v. v… bất kể cái lịch sử ô nhục đẫm máu của Giáo hội kéo dài suốt mười mấy thế kỷ cho đến tận ngày nay.

Chúng ta hãy nghe G. W. Foote giải thích trong cuốn Bible Romances:

"Trong mọi nước theo Ki-tô giáo, quần chúng được dạy từ thưở nhỏ rằng Thiên Chúa tạo ra vũ trụ trong 6 ngày và rồi nghỉ ngày thứ bảy. Nhưng mọi học sinh đều biết rằng thuyết này hoàn toàn sai, mọi khoa học gia coi thuyết này như là vô nghĩa, và giới giáo sĩ có học cũng đã bắt đầu giải thích khác đi. Nhưng họ phải giữ thuyết Sáng Tạo theo một nghĩa nào đó vì hai lý do chủ yếu. Thứ nhất, thuyết này đứng ngay trên ngưỡng cửa của Thánh Kinh, và nếu thuyết này chỉ là giả tưởng thì những gì tiếp theo nó không tránh khỏi mất giá trị. Thứ nhì, nó liên kết chặt chẽ với thuyết sa ngã của con người. Cả hai thuyết này hoặc cùng sống hoặc cùng chết với nhau. Nếu thuyết sa ngã của con người chỉ là một huyền thoại, thì Ki-Tô giáo sẽ trở thành thế nào? Mô thức giải thoát của Ki Tô giáo thật là vô nghĩa nếu không dựa trên thuyết sa ngã của con người. Không có thuyết sa ngã này, và lời nguyền rủa của Thần tiếp theo đó, sự cứu rỗi là một tín lý không có căn cứ, và Chúa Giáng Sinh, bị đóng đinh, và Phục Sinh là những sai lầm to lớn.

 Thuyết Sáng Tạo, như chúng tôi sẽ chứng tỏ sau đây, là một thuyết không tự hợp, tự mâu thuẫn, và vô nghĩa. Thuyết này cũng trái nghịch với những sự thực hiển nhiên nhất trong khoa học. "

(In every Christian country the masses of the people are taught in childhood that God created the universe in six days and rested on the seventh. Yet every student knows this is utterly false, every man of science regards it as absurd, and the more educated clergy, are beginning to explain it away. But they must retain the Creation Story in some sense or other, for two very strong reasons. First, it stands at the very threshold of the Bible, and if it is a mere fiction it inevitably throws discredit on all that follows. Secondly, it is inseparably connected with the Story of the Fall. Both live or perish together.   And if the Fall is to be regarded as a myth, what becomes of Christianity?   The Christian scheme of salvation is unintelligible without the antecedent doctrine of the Fall of Man. Without the Fall, and the ensuing curse, the Atonement is a baseless dogma, and the Incarnation, the Crucifixion, and the Resurrection are gigantic mistakes.

The Creation Story, as we shall attempt to show, is incoherent, self-contradictory, and absurd. It is also discordant with the plainest truth of Science. )

Nay chúng ta đã hiểu tại sao những người Ca-tô như Đăng Trình vẫn còn mê sảng viết về cái gọi là “mầu nhiệm cứu rỗi” của Ki Tô Giáo, trong khi cả một nền thần học của Ki Tô Giáo đã sụp đổ trước những khám phá bất khả phủ bác của khoa học mà chính Tòa Thánh cũng đã phải công nhận.

 

(xem tiếp --->)

-------------------------------------

(*) Chú thích của SH: S. Lokuang, "Buddhism on the Road to Renewal," Bulletin of the Secretarius pro non Christianis, No. 10, March 1969, pp. 20-27, quoted in PhraRajavaramuni (Prayudh Payutto), Thai Buddhism In the Buddhist World, (Bangkok: Mahachula Buddhist University), p. 91.

Đọc thêm câu tương tợ ở Phần V trong bài REPORT ON BUDDHISM trên https://www.crvp.org/