Mẹ Teresa :
Ánh Sáng và Bóng Tối
https://www.giaodiemonline.com/
Christopher Hitchens
https://sachhiem.net/TONGIAO/tgC/ChristopherHitchens.php
17 tháng
9, 2007
Nhà phê bình kịch liệt nhất về Mẹ Tê-rê-sa cho
rằng cuộc khủng hoảng niềm
tin của bà - tiết lộ trong
một cuốn sách sắp xuất bản
(“Come Be My Light”)
- đã bắt nguồn từ đặc tính
vô lý một cách nghiệt ngã
của đạo Ca-tô La-mã.
Bài đăng độc quyền ở tuần báo Newsweek – Ngày
29 tháng 8 năm 2007.
Christopher Hitchens Bình luận gia của
báo Vanity Fair và là tác
giả của nhiều tác phẩm,gồm
có: “Vị thế Truyền giáo: Mẹ
Tê-rê-da Trong Lý thuyết và
Thực hành” và cuốn mới nhất:
“Chúa Không Có Gì Vĩ
Đại”đang nằm trên bảng 10
cuốn sách bán chạy nhất nước
Mỹ của báo New York Times.
Ngày 29 tháng 8 năm 2007 - Việc xuất bản
cuốn nhật ký của Mẹ Tê-rê-da
về cuộc khủng hoảng niềm tin
của bà có thể được coi như
một hành động rất lương
thiện hoặc rất đáng nghi
(hoặc có thể là cả hai).
Những dòng chữ nguệch ngoạc
trong các tài liệu này của
cuốn sách đã được đưa ra
trong tiến trình khảo sát
xem bà có thể trở thành một
bậc thánh hay không. Linh
mục Brian Kolodiejchuk, một
thầy tu Gia Nã Đại, là người
điều khiển cuộc khảo sát này
và cũng là người phụ trách
xuất bản cuốn sách này.
Những lá thư này đã được Cơ
quan truyền thông Zenit xuất
bản lần đầu tiên năm 2002.
Cơ quan nầy là một cơ sở đặt
tại Tòa thánh Vatican có
liên hệ với một nhóm Công
giáo thiên hữu quá khích tên
là Quân đoàn của Ki-tô. Và
đây thật là một chọn lựa lạ
lùng: Hoặc là những con
chiên phải can đảm đối diện
với sự kiện là một nữ anh
hùng của họ đã mất niềm tin
hoặc là Giáo hội phải tuyên
dương một biểu tượng mà Giáo
hội biết rõ thực chất là một
bà già lẫn lộn đã mất niềm
tin vào Chúa Ki-tô?
Khủng hoảng niềm tin, hoặc như Thánh
John the Cross đặt tên là
“Đêm tối của linh hồn”,
không phải là một điều mới
lạ trong đạo Công giáo. Nữ
thánh Thérèse de Lisieux,
một nữ tu dòng Cát Minh của
thế kỷ 19 ở Pháp mà Mẹ
Tê-rê-da đã được mang cùng
tên, hình như đã chết trong
khi trãi qua một đêm tinh
thần mà bà thấy như đi qua
một cái hầm tối đen. Để cố
gắng bào chữa, nhiều nhà
thần học và cha giải tội đã
biện luận là những khủng
hoảng này thật sự là một
phương cách để xác nhận hoặc
chứng minh của niềm tin.
Linh mục Joseph Neumer, một
trong những thầy tu mà Mẹ
Tê-rê-da đã tiết lộ nỗi khắc
khoải của bà, đã ra lệnh cho
bà phải tin rằng vấn đề của
bà đã cho bà được dịp chia
sẽ với Khổ hình của Chúa
Ki-tô. Và sự vắng mặt của
Chúa là một cách thức “thể
hiện chắc chắn” của “sự có
mặt dấu kín” của Chúa trong
đời bà. Lời giải thích tuỳ
tiện nầy hình như đã làm cho
bà vui vẻ lên, dù là chỉ
trong chốc lát. (Đây có lẻ
là lúc để cho tôi được tuyên
bố ý kiến và, qua lời mời
của Vatican, xác nhận tôi
chống lại chuyện phong á
thánh và phong thánh cho Mẹ
Tê-rê-da. Tôi cũng xin thú
nhận niềm tin của tôi là khi
không có bằng cớ tức là khi
bằng cớ không có.)
Ngoài ra, đây không chỉ là một sự hoài
nghi thoáng qua. Hãy đọc một
vài điều bà đã nói với các
vị cố vấn: “Đối với tôi, sự
im lặng và sự trống không
quá lớn đến nổi tôi nhìn mà
không thấy gì, - lắng tai mà
không nghe gì - lưỡi động
đậy mà không nói được gì.”
“Khát vọng sâu sắc của tôi
đối với Chúa – và … bị từ
chối - trống không – không
niềm tin – không tình thương
– không nhiệt tâm – [Sự cứu
rỗi của] Linh hồn không có
một hấp dẫn gì nữa – Thiên
đường mất hết ý nghĩa”. ”Tôi
hoạt động để làm gì? Nếu
không có Chúa – thì cũng
chẳng có linh hồn - nếu
chẳng có Linh hồn thì Chúa
Ki-tô hỡi – Ngài cũng chẳng
có thật.” Tựa như những tín
hiệu truyền tin Morse thời
xưa, những chấm và gạch khó
hiểu lại càng làm cho lời
kêu cứu bi thảm và vang vọng
nhiều hơn.
Đối với một người Công giáo, “sự vắng
mặt của Chúa trong tim hay
trong thánh thể” không thể
là một chuyện nhỏ nhặt như
Linh mục Kolodiejchuk đã
trình bày. Bí tích của giáo
dân không thể trải qua một
suy tư sai lầm. Và đã có
những chỉ dấu đây đó cho
thấy Mẹ Tê-rê-da đã lo sợ là
bà đang gây nguy khốn cho
linh hồn của bà. Bà nghĩ là
bà không nên suy nghĩ những
điều như vầy: “Có quá nhiều
câu hỏi trong tâm tư tôi mà
tôi không dám đối diện – vì
sợ phạm thượng - Nếu Chúa
hiện hữu – xin Ngài hãy tha
thứ cho con – Khi tôi cố
gắng nâng tư tưởng lên đến
Thiên đàng – thì có một sự
rỗng không đầy cáo buộc đến
nổi chính những tư tưởng ấy
quay trở lại và đâm vào hồn
tôi như một lưỡi dao nhọn -
Người ta nói Chúa yêu tôi -
vậy mà thực tế đen tối, lạnh
lùng và rỗng không đã to lớn
đến nổi không có gì chạm đến
linh hồn tôi cả. Có phải tôi
đã phạm một lầm lỗi khi nhắm
mắt bước theo Tiếng gọi của
Thánh Tâm?” Câu hỏi cuối
cùng này thực là một câu hỏi
cực kỳ khó khăn cho người
Công giáo.
Với những sự kiện như vậy mà tôi nói
không có gì đáng ngạc nhiên
thì có vẻ dễ dàng.Tôi cũng
muốn nói rằng
đây là kết qủa hiễn
nhiên của một giáo điều đã
dạy người ta hãy tin vào
những điều vô lý rồi lại làm
cho họ cảm thấy phạm tội và
khốn khổ khi khi lý trí bẩm
sinh của họ vạch ra sự vô lý
của giáo điều.
Trường hợp của bà Mẹ
Tê-rê-da không thể chấp nhận
quyền năng lớn lao của “niềm
tin” là trường hợp của một
người đàn bà cố gắng để
thành thật với chính mình
trong khi – và đây là điểm
quan trọng - nổ lực để làm
gương cho mọi người.
Và tôi tin là tôi có thể giải thích cuộc
khủng khoảng này. Giải thích
này đến từ ý kiến của Lord
Macaulay khi phê bình tác
phẩm “Lịch sử các Giáo
hoàng” của Leopold von
Ranke. Ông viết: “Giáo hội
Công giáo La Mã thông hiểu
rất rõ hơn các giáo hội khác
cách thức ứng sử với
những người có nhiệt tình [tác giả Hitchens nhấn
mạnh ]. Các vị Giám mục khôn
ngoan đã biết từ lâu phải
đối xử cẩn thận với những
con chiên cuồng tín và quá
tích cực. Sau khi bị Evelyn
Waugh, một người cãi đạo tối
bảo thủ, thuyết giảng về đạo
giáo, Giáo hoàng đã phải kết
luận bằng lời nói thầm:
“Vâng thưa ông Waugh, tôi
cũng theo đạo Công giáo”.
Khi Mẹ Tê-rê-da nổi loạn lần
đầu tiên để thoát khỏi cuộc
đời trầm lặng của một nữ tu
dòng Loreto Sisters năm 1946
bằng cách xin phép các Mẹ bề
trên để lập một dòng mới -
Truyền giáo Cứu Tế - , bà đã
bị từ chối và được lệnh hãy
ở yên trong nơi chốn nhỏ
nhoi đã được chỉ định. Từ
đó, vị Tổng giám mục địa
phương Ferdinand Perier đã
nhận ra ông có trong tay một
con chiên thật sự: Một người
đàn bà rất khiêm tốn đồng
thời cũng vô cùng tự tôn.
(Cuốn sách “Hãy Đến Soi Sáng
Cho Tôi” của Mẹ Tê-rê-davới
một tiểu tựa như muốn ám chỉ
là Chúa xin bà hãy đến soi
sáng cho Chúa chứ không phải
ngược lại).Bà đã làm mệt
giáo phận với đòi hỏi là
tham vọng của bà phải được
Vatican xét xử. Sau hai năm
cầu khẩn và xin xỏ, ước mong
của bà đã được chấp thuận.
Và hai tháng sau khi bắt đầu
chương trình từ thiện ở
Calcutta năm 1948, ma quỷ đã
đến với bà và hình như nó ở
lại mãi với bà. Bà đã đạt
được điều bà mong muốn nhưng
điều này là một thất vọng
não nề cho bà.
Vì vậy, hình như tất cả những gì làm cho
Mẹ Tê-rêda nổi tiếng - những
cực khổ triền miên, những
khắc khổ cay đắng, những
chính thống đậm đặc của tôn
giáo – là một phần của sự
phấn đấu của Mẹ Tê-rê-da để
chiến thắng sự khổ sở ở
trong lòng. Hãy nhìn đoạn
đường mà Mẹ Tê-rê-da đã đi
qua để thấy sự khổ sở của Mẹ
Tê-rê-da là qủa thật như
vậy.Sau 10 năm day dứt vì
nghi hoặc, bà tìm được một
thoáng tĩnh tâm với cái chết
của Giáo hoàng Pius XII
trong mùa Thu 1958. Trong
khi cầu nguyện cho Giáo
hoàng trong một buổi lễ cầu
hồn, bà đã thấy tâm hồn vượt
thoát khỏi “đêm dài đen tối
…nổi khổ đau lạ lùng”. Tuy
nhiên thoáng tĩnh tâm này
chỉ kéo dài được 5 tuần lễ
rồi bà lại rơi vào “căn hầm”
cũ. Ngay sau đó là Công đồng
Hai của Vatican với những
đổi mới. Tại một đại hội
Công giáo ở Bombay (Ấn độ),
bà đã quyết liệt chống lại
những đổi mới này. Theo bà,
điều cần thiết là phải tăng
gia hoạt động và niềm tin
chứ không phải là những tư
duy mới. Rõ ràng đây là một
biểu hiệu cho thấy bà đang
cần đánh tan nghi hoặc cho
chính bà và cho những người
Công giáo khác.
Vài năm sau, bà trở nên nổi tiếng khắp
toàn cầu nhờ cuốn phim (và
sách) về cuộc đời của bà:
“Vài điều rất đẹp cho Chúa”
do văn sĩ lập dị Malcolm
Muggeridge thực hiện. Sau
đó, tiếng tăm của bà đã vang
lừng đến mức Giáo hội, quên
luôn cả sự nhắc nhở của Lord
Macaulay, đã phải bỏ qua
chuyện trừng phạt cái nhiệt
tình tôn giáo chính thống
của bà. Nhà thơ kiêm triết
gia (George) Santayana đã
định nghĩa cuồng tín là “cố
gắng gấp đôi sau khi đã quên
mất mục tiêu”. Trong tinh
thần đó, Mẹ Tê-rê-da đã sử
dụng những tranh đấu chống
ly-dị, chống phá thai, chống
thuốc ngưà thai như những
phương tiện hiện thực để xóa
đi sự hoài nghi về Chúa của
bà: Đây là một cố gắng mãnh
liệt đến gần như là điên
cuồng của bà để xoá tan đi
nổi sợ hãi “vắng mặt Chúa”
trong bà. Khác với số đông
những nhân vật nổi tiếng Mẹ
Tê-rê-da càng được ca ngợi
thì bà lại càng đau khổ (Sau
khi nhận được một trong
những giải thưởng quốc tế,
bà đã viết trong nhật ký:
“Điều này không có giá trị
gì với tôi cả vì tôi không
có Chúa”.)
Tuy không muốn đẩy sự phân tích của tôi
quá xa nhưng tâm trạng nghi
hoặc Chúa của Mẹ Tê-rê-da
cũng có thể giúp giải thích
được lý do vì sao bà đã làm
những chuyện mà ngay cả
những người thán phục bà
cũng ngỡ ngàng: nhận tiền ăn
cắp của nhà độc tài Duvalier
của Tahiti, những thỏa thuận
với nhà độc tài Indira
Gandhi, với gian thương
Charles Keating (nổi tiếng
trong vụ án quỹ tiết kiệm
phá sản năm 1989). Lo gì
chuyện đầu hàng những rác
rưỡi của thế giới bẩn thĩu
này, nếu ta biết sử dụng rác
rưỡi để lấy hết sức xóa bỏ
những lo âu, nghi ngại? Ta
cũng không thắc mắc khi có
được một niềm tin tuyệt đối
vào chủ thuyết. Mỗi người
theo đạo Công giáo đều phải
coi chuyện phá thai là một
sự ghê tởm (và tôi cũng
vậy), nhưng không vì vậy mà
phải quá khích đến như Mẹ
Tê-rê-da là đã tuyên bố
trong buổi lễ nhận giải
Nobel rằng phá thai là sự đe
dọa lớn nhất cho nền hoà
bình của thế giới. Điều này
chỉ có thể đến từ một tâm
trạng bất an và cuồng tín
hơn cả giáo điều của đạo
Công giáo của Mẹ Tê-rê-da.
Vào cuối đời bà, Tổng Giám mục D’Souza ở
Calcutta cho biết, những
khắc khoải và những đêm thức
trắng của Mẹ Tê-rê-da đã tạo
nhiều lo âu đến nổi giáo hội
phải làm lễ trừ quỷ ám cho
bà. Cũng theo vị Tổng Giám
mục này, phương pháp trừ quỷ
ám của thời Trung cổ đã giúp
cho bà có những đêm ngủ ngon
giấc trước khi bà qua đời.
Mọi người đều vui mừng là bà
đã tìm được sự bình an cho
tâm hồn. Nhưng từ đó, bà lại
được gán cho khả năng “làm
phép lạ” cứu người bị bệnh
dù bà đã chết: Một loại
chuyện mà không một bác sĩ
nào trong vùng Bengal có thể
(nói một cách nhẹ nhàng) xác
nhận. Tôi xin nói điều này
một cách tỉnh táo nhất:
Giáo hội Công giáo
hãy có một sự liêm sĩ căn
bản để cho người đàn bà đau
khổ và khốn nạn này được yên
nghỉ và đừng dùng nổi khắc
khoải triền miên của bà để
truyền đạo cho những người
nhẹ dạ đi tin một tín ngưỡng
mà chính bà đã ngừng tin
tưởng từ rất lâu.
Source: https://www.msnbc.msn.com/id/20497111/site/newsweek/ , https://old.richarddawkins.net/articles/1582-teresa-bright-and-dark
Teresa, Bright and Dark
The nun's leading critic argues that her
crisis of faith—revealed in
newly published letters—was
brought on by the crushing
unreasonableness of the
Roman Catholic Church.
A Newsweek
exclusive
By Christopher
Hitchens
Newsweek Updated: 10:46 a.m. PT Aug 29, 2007
Aug. 29, 2007
- … The publication of
Mother Teresa’s letters,
concerning her personal
crisis of faith, can be seen
either as an act of
considerable honesty or of
extraordinary cynicism (or
perhaps both of the above).
These scrawled, desperate
documents came to light as
part of the investigation
into her suitability for
sainthood; an investigation
conducted by Father Brian
Kolodiejchuk, the Canadian
priest who is the editor of
this volume. And they were
actually first published in
the fall of 2002, by the
Zenit news agency—a
Vatican-based outlet
associated with a militant
Catholic right-wing group
known as the Legion of
Christ. So, which is the
more striking: that the
faithful should bravely
confront the fact that one
of their heroines all but
lost her own faith, or that
the Church should have gone
on deploying, as an icon of
favorable publicity, a
confused old lady who it
knew had for all practical
purposes ceased to believe?
Crises of
faith, or “dark nights of
the soul” as they were
termed by St. John of the
Cross, are not a new idea to
Roman Catholics. St. Therese
of Lisieux, the 19th-century
French Carmelite who was the
namesake of Mother Teresa,
seems to have died while
enduring an experience of
spiritual night that she
likened to a dark tunnel.
Making the best of it, many
confessors and theologians
have even argued that such
tests are actually a kind of
confirmation or vindication.
The Rev. Joseph Neuner, one
of those to whom Mother
Teresa turned in her own
agony, enjoined her to
believe that her ordeal gave
her a share in the Passion
of Christ, and that His
absence was in a way a “sure
sign” of his “hidden
presence” in her life. This
slightly convenient
diagnosis seems to have
cheered her up, if only
temporarily. (Here might be
the place to declare my
interest, and to state that
at the invitation of the
Vatican, I testified against
the beatification and
canonization of Mother
Teresa, as well as to
confess that I tend to
believe that the absence of
evidence is the evidence of
absence.)
Moreover, this
was no mere temporary
visitation of doubt. Here
are some of the things that
she told her various
advisers. “For me, the
silence and the emptiness is
so great, that I look and do
not see,—Listen and do not
hear—the tongue moves but
does not speak.” “Such deep
longing for God—and …
repulsed—empty—no faith—no
love—no zeal.—[The saving
of] Souls holds no
attraction—Heaven means
nothing.” “What do I labor
for? If there be no
God—there can be no soul—if
there is no Soul then
Jesus—You also are not
true.” Like an old-fashioned
Morse signal, the cryptic
and dot-dash punctuation
somehow serves to emphasize
and amplify the distress.
It is no small
thing for a Catholic to feel
no “presence” whatever,
“neither in her heart nor in
the eucharist,” as Father
Kolodiejchuk has phrased it.
The sacrament of the mass is
not to be undergone in a
wrong frame of mind, and
there are hints here and
there that Mother Teresa was
afraid she was endangering
her soul. She felt that she
should not even be thinking
such things: “So many
unanswered questions live
within me afraid to uncover
them—because of the
blasphemy—If there be
God—please forgive me—When I
try to raise my thoughts to
Heaven—there is such
convicting emptiness that
those very thoughts return
like sharp knives and hurt
my very soul.—I am told God
loves me—and yet the reality
of darkness and coldness and
emptiness is so great that
nothing touches my soul. Did
I make a mistake in
surrendering blindly to the
Call of the Sacred Heart?”
That last question in
particular must have been an
annihilating difficult one
to face.
Now, it might
seem glib of me to say that
this is all rather
unsurprising, and that it is
the inevitable result of a
dogma that asks people to
believe impossible things
and then makes them feel
abject and guilty when their
innate reason rebels. The
case of Mother Teresa, who
could not force herself into
accepting the facile
cure-all of “faith,” is that
of a fairly simple woman
struggling to be honest with
herself, while also—this is
important—striving to be an
example to others. And I
believe I have a possible
explanation for the crisis.
It derives from something
that Lord Macaulay said,
when reviewing Leopold von
Ranke’s "History of the
Popes." The Roman Catholic
Church, he wrote,
“thoroughly understands what
no other Church has ever
understood,
how to deal with
enthusiasts” [my italics]. Wise
bishops have long known to
beware of the fanatical and
the overzealous. After being
lectured on doctrinal
matters by the
ultraconservative convert
Evelyn Waugh, the pope is
said to have concluded the
audience by murmuring, “Yes,
Mr. Waugh. I am a Catholic,
too.” When Mother Teresa
first rebelled against the
quiet life of the Loreto
Sisters in 1946, and sought
permission from her
superiors to start a new
order—The Missionaries of
Charity—she was at first
turned down and told to stay
in her allotted place of
humility. The local
archbishop, a man named
Ferdinand Perier, then found
he had a true believer on
his hands: a woman hungry
for humility and yet
fantastically immodest.
(“Come Be My Light,” the
slightly sickly subtitle of
this book, is what Mother
Teresa claims, not that she
said to Jesus, but that He
said to her.) Only after she
had wearied the diocese with
demands that her ambition be
referred to the Vatican did
she finally, after two years
of pleading and cajoling,
get her way. And then, two
months after she started her
own show in Calcutta in
1948, the demons checked in
and, in effect, never quite
checked out again. She got
what she wanted, and found
it a crushing
disappointment.
It seems,
therefore, that all the
things that made Mother
Teresa famous—the endless
hard toil, the bitter
austerity, the ostentatious
religious orthodoxy—were
only part of an effort to
still the misery within.
Again, the timeline would
seem to support this
interpretation. After 10
years of gnawing doubt, she
reported a brief remission
on the death of Pope Pius
XII in the fall of 1958.
Praying for him at a requiem
mass, she found herself
relieved of “the long
darkness … that strange
suffering.” The respite only
lasted for five weeks and
then she was back “in the
tunnel” once more. Soon
after came the reforms of
the Second Vatican Council,
which at a gathering of
India’s Catholics in Bombay
she violently opposed,
saying that what was wanted
was not new thinking but
more work and more faith.
What could be a clearer
indication of a deep need to
suppress all doubt, both in
herself and others?
Not many years
later, she became a
world-class celebrity with
the film (and book) about
her: "Something Beautiful
for God," authored by the
worldly English eccentric
Malcolm Muggeridge. After
that, her star power was so
intense that the Church
forgot Macaulay’s wisdom and
gave up any attempt to
discipline her apparently
enthusiastic fundamentalism.
If Santayana was right to
define fanaticism as
“redoubling your efforts
when you have forgotten your
aim,” then Mother Teresa’s
international crusade
against divorce, abortion
and contraception was the
tribute that doubt paid to
certainty: a strenuous and
almost hysterical effort to
drown out the awful fear of
“absence.” One strongly
suspects that, like not a
few overpromoted figures,
she suffered from more
self-hatred the more she was
overpraised. (After
receiving one of many
international prizes, she
wrote: “This means nothing
to me, because I don’t have
Him.”)
Not perhaps to
push my analysis too far,
but it could also explain
some of the things that
alarmed even her defenders:
the accepting of stolen
money from the Duvalier
dictatorship in Haiti, for
example, or the compromises
she made with the tyrannical
Indira Gandhi or the shady
Charles Keating of
savings-and-loan notoriety.
Who cares about ignoble
surrenders to the things of
this impure world if they
will fuel the endless drive
to abolish misgiving through
overwork? The same goes for
the alarming doctrinal
excesses. Every Catholic is
supposed to regard abortion
as an abomination (and,
if it matters, I concur).
But surely it takes someone
both insecure and fanatical
to exceed the official
teaching and to tell the
Nobel Prize audience, as she
did, that abortion is the
greatest threat to world
peace?
Toward the end
of her days, we have been
informed by Archbishop
D’Souza of Calcutta, her
troubled and sleepless
condition gave rise to such
concern that she was
subjected to an exorcism.
According to this same
clerical authority, the
medieval banishment of the
demons allowed her a good
night’s sleep before her
death. One is glad to learn
of it, and to know that she
found a sort of peace. But
since then, she has been
posthumously exploited for
having worked a medical
“miracle” from beyond the
grave: an episode which (to
put it mildly) no
respectable Bengali
physician can confirm. I say
it as calmly as I can—the
Church should have had the
elementary decency to let
the earth lie lightly on
this troubled and miserable
lady, and not to invoke her
long anguish to recruit the
credulous to a blind faith
in which she herself had
long ceased to believe.
Christopher Hitchens
is a columnist for Vanity
Fair and the author of “The
Missionary Position: Mother
Teresa in Theory and
Practice.” His most recent book
is “God Is Not Great."