NOEL – Phiếm Luận Về Chữ Trinh Của Thúy Kiều!
Tài Ngô
http://sachhiem.net/TONGIAO/tgN/NgoTai.php
02-Jan-2019
LTS: Bài viết dưới đây đã được công bố trên facebook của tác giả Tài Ngô ngày 19 tháng 12, 2018. Hôm nay tuy đã 1 tuần sau lễ Noel, nhưng thiết nghĩ đề tài này vẫn luôn luôn thích hợp ngày nào nhà thờ còn gọi Trinh Nữ, còn cầu Đức Mẹ Đồng Trinh, Đức Mẹ Vô Nhiễm,... (SH)
Mỗi năm, cứ đến cuối tháng 12 dương lịch, lại rộ lên không khí lễ hội của “mùa nô-en”. Các dịch vụ kinh doanh ăn theo giáng sinh không dễ gì từ bỏ cơ hội ăn nên làm ra này. Bên cạnh đó, các phương tiện truyền thông Kitô giáo hoạt động nhộn nhịp hơn mọi khi. Tôi cũng định viết điều gì đó, nhưng chợt thấy trong số các bài cũ, có bài viết về đề tài này, đọc lại cũng thấy vui vui, post lên ai thích thì đọc, không thích xin vui lòng bỏ qua…
- Giáng sinh của Chúa Giêsu - Tác giả Trần Công Tiến, bài đăng trên Tiếng Nói Giáo Dân.
Tác giả Trần Công Tiến “mừng giáng sinh” với “Ý nghĩa biểu tượng của sự đồng trinh”.
Trong bài “Giáng sinh của Chúa Giêsu”, ông Trần Công Tiến nhận định: “Đối với nhiều người, việc thu thai và sinh con mà vẫn đồng trinh là một việc không xẩy ra. Đối với nhiều người khác việc đó có thể xẩy ra, bởi vì đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể có. Cuộc tranh biện này đã diễn ra, hiện đang diễn ra và sẽ còn diễn ra không biết đến bao giờ mới ngừng.”
Ý kiến của ông Trần Công Tiến là:
“Vậy câu chuyện về Chúa Giê-su đầu thai bởi Thánh Thần và sự đồng trinh của bà Ma-ri-a có ý nghĩa biểu tượng rằng Chúa Giê-su là hiện thân của Đạo hiểu như một thực thể khác vật chất”.
Tác giả Trần Công Tiến xác tín chuyện “Ma-ri-a đồng trinh có ý nghĩa biểu tượng” và khước từ mọi cuộc tranh biện bằng một phụ chú: “Như vậy cuộc tranh biện về “thụ thai mà vẫn còn đồng trinh” là một tranh luận không cần thiết.”
Tôn trọng đề nghị “KHÔNG TRANH LUẬN” của tác giả nên tôi đành nói chuyện ngoài lề.
Trước hết, xin mượn vài câu Kiều của Nguyễn Du để luận về ý nghĩa biểu tượng của chữ trinh:
“Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.”
“Chữ trinh” của Nguyễn Du trong Kiều quả đúng là “chữ trinh của biểu tượng”. Đối với Thúy Kiều, “ong qua bướm lại” trong suốt 15 năm ở chốn lầu xanh, vậy mà Kiều vẫn tuyên bố chắc nịch:
“Chữ trinh còn một chút này”…
Đây không phải là bài giảng văn của học sinh trung học, nên tôi muốn kết luận cho sớm sớm một chút. Vắn tắt là: Trinh tiết của Thúy Kiều nếu hiểu theo nghĩa đen thì chắc khỏi cần bàn, vì nó đã “tiêu” từ lâu, ngay từ ngày đầu tiên “nhập môn” ở chốn lầu xanh. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa bóng, tức nghĩa biểu tượng thì Kiều còn “trinh nguyên”. Sở dĩ tôi dám khẳng định điều này vì chính miệng Thúy Kiều nói ra: “chữ trinh còn một chút này”. Và người có quyền thẩm định câu nói của Kiều tuyệt đối đúng chính là cha đẻ ra Kiều: Nguyễn Du tiên sinh.
Chính Nguyễn Du đã xác định trong “đạo đàn bà”, thì “chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”. Trong “ba bảy đường” đó, Nguyễn Du đã chọn một đường cho Kiều “giữ trinh”, đó là đường “hiếu”:
“Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay ?”
Bây giờ, tôi có quyền tuyên bố mà không sợ ai bắt bí: “Như vậy cuộc tranh biện về “chữ trinh” của Thúy Kiều là một tranh luận không cần thiết”.
Tôi rất mong “chữ trinh” của bà Ma-ri-a cũng rõ ràng, minh bạch như “chữ trinh” của Thuý Kiều để chấm dứt chuỗi tranh biện vô bổ, đúng như sự thừa nhận của ông Trần Công Tiến: “Cuộc tranh biện này đã diễn ra, hiện đang diễn ra và sẽ còn diễn ra không biết đến bao giờ mới ngừng.”
Nhưng tại sao người ta đọc Kiều chỉ để thưởng thức văn chương của cụ Nguyễn Du, mà chẳng ai buồn tranh luận về “chữ trinh” của Thúy Kiều? Trong khi đó, “chữ trinh” của Ma-ri-a lại là đề tài tranh luận “còn diễn ra không biết đến bao giờ mới ngừng.”? Câu trả lời chỉ có thể là:
“chữ trinh” của Ma-ri-a không được rõ ràng, minh bạch, hoàn toàn khác với “chữ trinh” của Thúy Kiều.
Xin ông Trần Công Tiến đừng nghĩ rằng tôi đang bắt đầu muốn tranh luận với ông về “chữ trinh” của Ma-ri-a. Thực ra sự tranh luận chỉ xảy ra đối với những người anh em Kitô giáo với nhau thôi, ví dụ giữa Công giáo với Tin Lành ở Bắc Ái Nhĩ Lan, họ không chỉ tranh luận bằng lời mà còn cả bom mìn, súng đạn… Đối với những người Châu Á phi Kitô giáo, họ không phải mất thời giờ vào những cuộc tranh luận vô bổ như thế, ngoại trừ trường hợp gặp phải mấy tay “truyền giáo” cố đấm ăn xôi, đang muốn thu góp con chiên về cho giáo hội, nói càn, nói bướng, buộc họ vào thế phải tranh luận.
Trong bài viết “Giáng sinh của Chúa Giêsu”, tác giả Trần Công Tiến phân biệt hai loại người. Loại người thứ nhất cho rằng: “việc thu thai và sinh con mà vẫn đồng trinh là một việc không xẩy ra.” Loại người thứ hai: “việc đó có thể xẩy ra, bởi vì đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể có.” Tôi đoan chắc ông Tiến thuộc loại người thứ hai, và tiền đề: “đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể có”, đã bít hết mọi ngõ ngách của lý trí, còn “luận” đâu nữa để mà “tranh”…
Chỉ còn lại một chút xíu lấn cấn tôi muốn nêu ra, chỉ để “thắc mắc” thôi, chứ không phải để tranh luận. Theo tôi, điểm nhấn của bài viết “Giáng sinh của Chúa Giêsu” chính là “biểu tượng đồng trinh của Ma-ri-a trong việc sinh Giê-su”. Tại sao cứ phải là “biểu tượng” với “không biểu tượng?” Hiểu theo nghĩa biểu tượng, tức nghĩa bóng, là “đồng trinh”, đã có nghĩa bóng tất phải có nghĩa đen. Vậy nghĩa đen là gì? Cũng “đồng trinh” chăng? Đen cũng “đồng trinh” mà bóng cũng “đồng trinh” thì nghĩa đen với nghĩa bóng làm chi cho rách việc… Hay người ta phải hiểu theo kiểu “chữ trinh” của Thúy Kiều. Nghĩa là cô ấy cũng “nát bét” ra rồi, nhưng hiểu theo nghĩa biểu tượng thì cô ấy vẫn “đồng trinh”! Nếu hiểu như thế thì lại “phạm thánh”, vì tín lý Công giáo buộc tín đồ phải tin “Đức Mẹ trọn đời đồng trinh ”…
“Chữ trinh” của Thúy Kiều còn có “ba bảy đường” để hiểu, còn “chữ trinh” của Ma-ri-a có mấy đường? Nếu chỉ một đường duy nhất là “trọn đời đồng trinh” thì cần quái gì đến nghĩa biểu tượng… Như trên đã nói: “chữ trinh” của Ma-ri-a không rõ ràng minh bạch bằng “chữ trinh” của Thúy Kiều, chính là ở điểm này.
Thắc mắc tí chút cho vui vậy thôi, chứ tất cả đều nằm trong sách lược của Vatican. Sách lược đó là gì? Thật chẳng mấy khó khăn để nhận ra điều này, khi nhìn vào quá trình “tiến hóa” tín lý Công giáo La Mã. Những tín điều cũ kỹ lạc hậu phải được tân trang, cải tiến cho phù hợp với tiến trình đi lên của tri thức thời đại. Xin nêu vài ví dụ để chứng minh:
Tín lý về “hoả ngục” trước đây được hiểu là có nơi chốn rõ ràng, Augustinô xác định “hoả ngục” ở trong lòng đất! là nơi khóc lóc nghiến răng, tội nhân bị đốt bằng lửa vĩnh cửu… Nhưng nay “hỏa ngục” được giải thích chỉ là trạng thái đánh mất sự bình an trong chúa, đánh mất tình yêu cứu độ của ngài (?). “Luyện ngục” cũng thế, chính các công đồng Lyon, Florence, Trentô xác định, đó là nơi “tạm giam”, về hình thức trừng phạt tuy có nhẹ hơn đôi chút so với “hỏa ngục”, nhưng cũng rất ghê rợn… Các công đồng này công bố: sẽ phạt vạ tuyệt thông nếu tín đồ nào cho rằng, các linh hồn sạch tội được lên thẳng thiên đàng mà không vào “luyện ngục” để nhận “hình phạt tạm”…
Thế nhưng ngày nay thì sao? Giáo sư Nguyễn Chính Kết, tác giả bài “Việc độ vong trong Kitô giáo và Phật giáo” đã giải thích về luyện ngục như sau: “Sự thanh luyện đó được gọi là «luyện ngục». Chữ ngục khiến người ta liên tưởng tới một nơi chốn, một cảnh tù đày. Thực ra không nên hiểu cụ thể như thế. Nên hiểu đó là một tình trạng của tâm hồn được thanh luyện, được thánh hóa bằng những đau khổ nội tại cũng như ngoại tại”
Tại sao tín đồ Công giáo ngày nay rất thoải mái giải thích tín lý, thánh kinh mà không bị phạt “vạ tuyệt thông”. Trong khi điều này trước kia bị giáo hội cấm: “không ai được phép giải thích tín lý hay thánh kinh theo ý riêng”? Rất dễ hiểu vì một mình Vatican không đủ sức chỉnh lý, sửa chữa những tín lý lạc hậu, họ buộc phải nhờ đến giới trí thức, các nhà thần học chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư trên khắp thế giới “suy tư thần học” hộ. Vatican chỉ ngồi một chỗ thu hoạch những “suy tư” có lý, bổ sung, sửa chữa những tín điều ấu trĩ…
Ngày nay, trong thế giới Công giáo, nhà nhà làm thần học, người người làm thần học, thần học gia chuyên nghiệp, thần học gia nghiệp dư, thi nhau làm thần học, trăm hoa đua nở, tạo thành một hoạt cảnh bát nháo, khiến Vatican đôi lúc phải đau đầu. Điển hình là vấn đề “thiên tính duy nhất” của Giêsu đã bị các nhà thần học gà mờ làm “tương đối hóa”, khiến Vatican không thể không đưa ra văn kiện Dominus Jesus để cảnh giác. Sự kiện này là một bằng chứng về tình trạng bát nháo nêu trên.
Một ví dụ khác. Việc “thiên chúa hóa” ông trời trong văn hóa Đông Phương, Nếu không nhờ mấy ông thần… học gia mũi tẹt da vàng, liệu Vatican hiểu được “ông trời” của người Việt đến bao nhiêu phần trăm?
Trở lại với “cái trinh” của Ma-ri-a, giả sử nay mai Vatican công bố “tín điều” mới: “Còn trinh” hay “mất trinh” chẳng phải vấn đề quan trọng, cái chính là Ma-ri-a sinh ra Giê-su mà không cần đến tinh trùng đàn ông. Có nghĩa là Ma-ri-a vẫn tuyệt đối đồng trinh nếu hiểu theo nghĩa biểu tượng… Nếu tín điều này được công bố, công đầu sẽ thuộc về một nhà thần học Việt Nam: Trần Công Tiến…
Tài Ngô
Nguồn FB Tài Ngô 19 tháng 12, 2018 lúc 14:51
___________
Mời đọc thêm:
- "Kinh Thánh Mới" của Bùi Đức An
Trang Thời Sự