Tây Phương Đã Tiếp Nhận Đạo Phật Như Thế Nào?
Quán Như
https://sachhiem.net/TONGIAO/tgQ/QuanNhu02.php
17 tháng 2, 2011
Phần 1
Từ thân thế mù mờ…
Hiện nay Phật giáo được xem là tôn giáo
phát triển nhanh nhứt ở Tây phương và
theo những thống kê gần nhất, số người
hành trì theo đạo Phật trên toàn thế
giới có thể vượt qua cả con số tín đồ Ky
Tô. Quan trọng nhất là đạo Phật được
nhiều học giả nghiên cứu tôn giáo công
nhận là tôn giáo hoà bình vĩ đại nhất
của nhân loại.
Các tác
phẩm tố cáo lòng cuồng tín và bạo hành
của các tôn giáo lớn kết luận là nhờ
không có giáo điều và lòng tin mù quáng
nên đạo Phật không dính líu đến các cuộc
chiến cục bộ vào cuối thế kỷ 20 và đầu
thế kỷ 21 (1). Tuy nhiên trước khi được
Tây Phương chấp nhận như một triết lý và
tôn giáo, đạo Phật đã phải trãi qua
những cơn sóng cuồng nộ, không phải chỉ
từ các giáo sĩ dòng Tên trong phái bộ
truyền giáo hải ngoại của Thiên Chúa,
một số các triết gia và học giả nghiên
cứu tôn giáo đã gieo mối nghi ngờ và lên
tiếng cảnh báo dân chúng Tây phương về
cơn ác mộng ‘hư vô’ của một tôn giáo
‘thờ phụng hình tượng mê tín’ từ phương
Đông.
Từ ngữ Buddhism (Bouddhisme) chỉ được
Tây phương dùng để gọi Phật giáo sau năm
1820 sau khi tác phẩm Recherche sur
Budou ou Bouddu (sic) của
Michel-Jean-Francois Ozeray ra đời vào
năm 1817. Ozeray không biết nên diễn âm
tên của Đức Phật một ‘h’ hay hai ‘h’, có
‘o’ hay không có ‘o’! Các nhà ‘nghiên
cứu’ Burnouf (được xem là học giả nghiên
cứu Phật giáo đầu tiên ở Pháp) và Lassen
gọi là ‘Bouddaism’. Các triết gia Đức
như Schopenhauer gọi là ‘Buddhaismus’,
Hegel gọi là ‘Buddhismus’. Kể từ sau tác
phẩm The History and Doctrine of
Buddhism của Edward Upham (1829),
tên Buddhism này mới trở thành tên tiêu
chuẩn. Địa chỉ, căn cước và thời đại của
Đức Phật cũng lờ mờ. Dù Hoàng đế Asoka
(A Dục) đã từng gởi nhiều phái đoàn
truyền giáo qua tận Hy Lạp dưới thời
Alexandre, các tăng sĩ được gọi với cái
tên “Samaneans”, có lẽ phiên âm
tiếng Phạn tương đương với chữ Sa Môn.
Sự giao lưu văn hóa giữa Hy lạp và Ấn Độ
xảy ra vào khoảng thế kỷ thứ Tư B.C khi
Alexandre xâm chiếm quốc gia này.
Alexandre không phải là người võ biền
tầm thường. Ông là học trò của Aristotle
và các nhà trí thức và nghệ nhân tùy
tùng chắc đã mang về Hy Lạp nhiều di vật
văn hóa Ấn. Vào thế kỷ thứ Ba trước công
nguyên, Hoàng đế A Dục đã thành lập một
bộ Tôn giáo và gởi nhiều phái đoàn
truyền giáo dưới 5 triều đình Hy Lạp mà
tên tuổi con ghi đầy đủ. Gần đây người
ta mới khám phá tại Afghanistan một vài
bia đá của Hoàng Đế A Dục viết bằng
tiếng Hy Lạp và Aramaic, ngôn ngữ của
Jesus. Trong kinh Na Tiên Tỳ Kheo vấn
đáp (The Milanda-panha) vua
Milanda được nhận diện là vua Menandros
của Hy Lạp gởi tới cai trị vùng Tây Bắc
Ấn vào thế kỷ thứ nhất trước Công
Nguyên. (2) Vài trăm năm đầu tăng già
không tôn thờ tượng
Phật và hình tượng đức Phật có nhiều khả
năng bị ảnh hưởng của mỹ thuật Hy Lạp!
Tuy nhiên hiện nay không có tài liệu nào
cho thấy vết tích của sự hiện diện của
Phật giáo ở Hy Lạp, có thể vì dấu bụi
thời gian mà cũng có thể do những hủy
hoại cố ý khi Ky Tô khi được Constantine
biến tôn giáo này thành quốc giáo. Sách
vỡ ngoại giáo Pagan không sống sót được
huống gì là tài liệu liên quan đến Phật
Giáo.
Đến ông
‘mọi đen’
Đến thế kỷ 16 khi dòng Tên thành lập
những phái bộ truyền giáo hải ngoại, các
linh mục Thiên Chúa có nhắc một các mơ
hồ một tôn giáo ‘Fo’ ở Trung Quốc, Xaca
ở Nhật (có lẽ âm chữ Buddha). Thái độ
hung hãn của các linh mục truyền giáo
đối với Phật Giáo ở Nhật phản ảnh qua lá
thư của Francis Xavier viết cho người
sáng lập dòng Tên, Ignatius Loyola, gọi
các tăng sĩ Phật giáo là ‘những con heo
rừng’ và tin tưởng lạc quan là với sự
‘chăm sóc’ của các linh mục dòng Tên,
dân chúng Nhật và Trung Quốc sẽ bỏ tôn
giáo thờ ‘hình tượng mê tín’ để cải đạo
theo Jesus, người cứu rỗi của cả nhân
loại’. (3)
Đại học Thiên Chúa Louvain, nơi đã đào
tạo một số trí thức Thiên Chúa Việt Nam,
cón lưu trữ một ‘báo cáo lưu hành nội
bộ’ của các nhà truyền giáo viết bằng La
Tinh, đã được dịch ra tiếng Đức, Pháp,
Tây Ban Nha và Ý. Tuy nhiên các bản báo
cáo này không chủ ý nghiên cứu Phật Giáo
mà chỉ nhằm tìm cách để cải đạo tập thể
như trong báo cáo của Francis Xavier
nhằm cho thấy ‘nhu cầu khẩn cấp’ để cải
đạo những người thờ ‘thần tượng mê tín’.
Tuy thế cũng có vài báo cáo của một số
linh mục truyền giáo chứa nhiều chi tiết
khá trung thực vẫn còn lưu trữ trong các
dòng tu đặc biệt của Vatican và hiện vẫn
chưa được giải mật phổ biến.
Các giáo sĩ dòng Tên, như De Guignes,
‘lên án’ Đức Phật đã bỏ vợ con, gia đình
để ôm lấy một tôn giáo hủy diệt có tên
là Samanean (sic). Các tín đồ Phật giáo
muốn đi tìm điều gì? ‘Đi tìm sự hủy diệt
của chính mình trong hư vô’ (4). Giáo sĩ
dòng tên này cũng không quên phê phán là
đạo Phật vô thần.
Một nhà truyền giáo khác, Ozanam, trong
Essai sur le Bouddhisme, nhắc
đến sự chống đối những nổ lực cải đạo
tập thể dân chúng ở các nước như Nhật,
Trung Quốc và Việt Nam ‘trong vòng 300
năm tôn giáo này đã chống đối lại nổ lực
cải đạo của phái đoàn truyền giáo. Bằng
cách dùng bạo lực và tra tấn, các tín đồ
các tôn giáo này đã tự bảo vệ một cách
vô vọng. Đó là một tôn giáo đã đặt thánh
giá dưới chân của những thương gia tại
các hải cảng Nhật, đã ra dụ cấm đạo ở
các thành phố ở Tonkin và Trung Quốc, và
trong vòng 3 năm, đã thủ tiêu 3 giám mục
và 20 linh mục, nhốt các người tân tòng
trong các cũi sắt cho đến chết. Cái tôn
giáo đó tự gọi là Phật Giáo.’ (5) Thì ra
không phải chỉ có Việt Nam cấm truyền
đạo vì muốn bế quan toả cảng, cà Nhật và
Trung Quốc cũng cấm đạo vì biết các ‘cố
đạo’ là những tên lính tiên phong’ trong
việc mở rộng nước Chúa.
Không có lời kết án hạ tiện nào mà
Ozanam không dùng: ma quỉ (diabolical),
thú vật (bestial), hung tàn (cruel), sát
nhân (murderous), vô luân (licentious)
sa đọa (debauched) , điên rồ (madness)
tàn ác hơn hoàng đế Neron, Commodus và
Heliogabalus”. Ozaman so sánh Đức Phật
với Satan và xem đạo Phật là một đạo
nguy hiểm nhất!
đến cơn
ác mộng đe dọa Âu Châu
Sau khi khám phá ra ‘bản chất’ của Phật
giáo là ‘hư vô’ và ‘hủy diệt’, các nhà
truyền giáo Thiên Chúa càng thấy thêm
nhu cầu cấp bách ‘cải đạo’ dân chúng ở
Đông Á và Đông Nam Á đang theo một tôn
giáo đe dọa ‘thông minh bình thường’ và
nhất là đe dọa ‘giáo hội’. Một giáo sư
tại đại học Thiên Chúa Louvaine, Felix
Nève, dựa trên thông tin từ tác phẩm của
một nhà nghiên cứu Burnouf, tuyên bố sứ
mạng chinh phục ‘linh hồn’ Đông Phương
là chương trình thiên khải
và nhiệm vụ của tín đồ
Ky Tô. (6) Luận văn của Felix Nève được
xuất bản năm 1846, hơn nửa thế kỷ sau
cách mạng Pháp! Vài mươi năm sau Pháp nổ
tiếng súng đầu tiên ở Đà Nẵng để mở
đường cho giáo hội tiện việc rao giảng
‘tin mừng’ cho dân Việt Nam.
Ít nhất cho đến thể kỷ 19 Phật giáo vẫn
còn được xem như là tôn giáo thời hồng
hoang ‘sơ khai’, nghĩa là có mặt trước
cả thời Vệ Đà và Bà La Môn! Phật tử hay
nói đến 32 ‘tướng tốt’ của Đức Phật,
nhưng một số các học giả Tây phương khi
nhìn hình tượng Đức Phật, phân vân về
căn cước và quê hương của Đức Phật. Hình
tượng Đức Phật da đen, môi dầy và tóc
quăn rối bù thành từng lọn nhỏ, giống
như các thanh thiếu niên ngày nay để tóc
kinky, nên nhà ‘đông phương học’ William
Jones cho rằng có thể Đức Phật là người
Ethiopian hơn là người Ấn. Captain
Robert Percival nói một cách chắc nịt là
tóc của Đức Phật dày, đen, quăn rối bù
giống như một người gốc Phi Châu.(4)
Alexandre de Rhodes trong phép giảng 8
ngày, gọi đức Phật là ‘thằng mọi đen”
chắc cũng lấy thông tin từ nguồn này !
Ngôn ngữ các ‘cố đạo’ đối với dân của
các nước thuộc địa cũng đều giống nhau:
khinh miệt, trịch thượng và thiếu ‘văn
hóa’. Mãi đến năm 1850, một trong những
nhà nghiên cứu Phật học nghiêm túc đầu
tiên của Pháp, Eugene Burnouf, mới cải
chánh: tóc của đức Phật không phải rối
bù, mà chỉ quăn, nên không phải là hậu
duệ của người Phi Châu!
Những lập luận lẩm cẩm kéo dài mãi đến
năm 1817 Đức Phật mới được đánh giá là
một ‘triết giá’ đáng lưu ý, một hiền giả
đi tìm con đường hạnh phúc cho nhân
loại. Và hiền giả này không phải là thần
thánh mà đơn giản chỉ là một con
người. Khi gọi Đức Phật là một
triết gia, Ozeray chỉ muốn nói tới hình
ảnh của minh triết Hy Lạp, và là những
người dùng lý trí chống lại giáo điều,
thực hành con đường làm chủ bản thân để
thực hiện mục tiêu đạo đức. Độc giả còn
nhớ lời trăn trối của Pascal: mong ước
một ngày nào thần linh (tôn giáo, giáo
điều) được thay thế bởi các triết gia.
Ozeray cũng bắt đầu đề cập đến thân thế
của Đức Phật, tuy chưa chính xác, nhưng
cũng trình bày được những nét chính về
con người và thời đại Đức Phật: Sinh ở
Ceylon (thực ra ở Nepal) vào năm 1029 BC
(thực ra sau đó hơn nửa thế kỷ). Ozeray
cũng đề cập đến 5 giới cấm và thái độ
chống đối của Đức Phật tế tự ‘hy sinh’
các thú vật của Ấn Giáo, cũng như chống
đối chế độ đẵng cấp cha truyền con nối
bất công và vô nhân ở Ấn Độ. Ozeray con
ước đoán con số tín đồ ở các nước theo
Phật giáo Nam Phương và Bắc phương có
hơn trăm triệu, nhiều hơn cả tín đồ Ky
Tô. Không ai biết ông dựa vào con số
thống kê khả tín nào, nhưng ông đã đặt
Phật Giáo ít nhất ngang hàng với Do Thái
và Ky Tô ở Tây phương. Những điều Ozeray
đề cập ngày nay không có gí mới lạ, tuy
nhiên đó là một bước đột phá so với kiến
thức về Phật giáo thời bấy giờ.
Ngoài thái độ thù nghịch của các nhà
truyền giáo, các nhà nghiên cứu tôn giáo
và ngôn ngữ Đông Phương, các triết gia
hàng đầu ở Tây Phương như Hegel và
Nietzsche, cũng xem Phật giáo là mối đe dọa cho tư tưởng và tôn
giáo. Những công trình giới thiệu Phật
giáo cũng bắt đầu nghiêm túc hơn, nhưng
vì nguồn tài liệu thiếu thốn, vì mối ám
ảnh là thời đại hư vô có thể sắp sửa
tràn ngập văn hóa và tư tưởng Tây
phương, Phật giáo trở thành mối đe dọa,
một cơn ác mộng mà Tây phương phải đối
phó. Năm 1829 tờ nhật báo Le Globe
của Pháp đăng một bài báo mở đầu cho
nhiều thập niên trong đó các công trình
nghiên cứu cố gắng trả lời những câu hỏi
như, mối liên hệ giữa Phật giáo và Ấn
giáo, nguyên nhân Phật giáo biến mất
không còn để lại dấu vết đáng kể gì ở Ấn
và tại sao Phật giáo lại truyền sang các
nước làng giềng, giáo lý căn bản và ngôn
ngữ truyền thừa, đức Phật có phải là hóa
thân của Vishnu như Ấn giáo cố tình
‘xuyên tạc’ hay không.
Nhóm học giả Pháp, do Eugene Burnouf dẫn
đầu cùng với Victor Cousin, được xem là
những người khai sáng các công trình về
Phật giáo ở Âu Châu. Burnouf nghiên cứu
từ nguồn Pali và sau đó, Sanskrit, và cả
Zen. Ông được bầu làm hội viên Academie des Inscriptions et
Belles-Lettres vào năm mới 31 tuổi.
Năm 1844 ông xuất bản Introduction à
l’histoire du Buddhisme Indien và nhóm triết gia Đức như Schopenhauer,
Hegel và Nietzsche chịu ảnh hưởng của
tác phẩm này rất nhiều. Chính Burnouf là
người đầu tiên báo động Phật giáo là tôn
giáo ‘hư vô’, ‘con ma hư vô’, một tôn
giáo chủ trương ‘hủy diệt hoàn toàn’.
Bournouf cho rằng Phật giáo chủ trương
vô thần, không chấp nhận một thượng đế
sáng tạo, trong khi Ky Tô bảo vệ ‘linh
hồn’ bất tử. Vì là một học giả, không
thù nghịch và thiên kiến đối với Phật
giáo như các nhà truyền giáo Ky tô, ngôn
ngữ của Burnouf rất cẩn trọng. Ông nói,
sau khi nghiên cứu ý niệm Nát Bàn, ông nghĩ là Đức Phật Shakya (Đức
Phật đến bây giờ mới được gọi đúng tên)
cho rằng hủy diệt là nguyên tắc suy tư
đưa con người đến chỗ an lạc tối thượng
và Phật giáo là một tôn giáo ‘hư vô’.
Burnouf dùng ẩn dụ của Đức Phật giải
thích sự chấm dứt sinh mạng con người
qua hình ảnh của cây nến sắp tắt.
Nhân vật thứ hai có ảnh hưởng đến các
triết gia và các người nghiên cứu Đông
Phương trong nửa thế kỷ sau là Victor
Cousin. Thoạt đầu Cousin cho Ấn Độ chưa
có triết lý, mà chỉ là mớ tư tưởng hỗn
độn giữa thần thoại và tôn giáo, chỉ là
thứ triết lý thời khai sinh. Những chỉ
một thời gian ngắn sau Cousin đổi thái
độ, xem lịch sử triết học Ấn độ phản ảnh
lịch sử rút ngắn của lịch sử triết lý
(Tây phương). Cousin than phiền là vào
năm 1829, chưa có một kinh điển hay sách
vở nào từ tiếng Phạn hay Pali được dịch
ra tiếng Pháp. Tuy nhiên Cousin cũng giữ
lập trường lúc đầu cho Phật giáo chủ
trương hư vô. Một học trò của Cousin là
Saint Hilaire, chuyên nghiên cứu về các
tài liệu từ tiếng Sanskrit, cũng xác
nhận mối lo sợ về ‘mối đe dọa’ của Phật
Giáo, một tôn giáo xem hư vô là mục tiêu
và ‘cứu rỗi’ cuối cùng.
Học trò của Cousin, Barthelemy
Saint-Hilaire không có được ngôn ngữ hòa
nhã như thầy và gán cho Phật giáo đủ mọi
nhãn hiệu, tôi xin giữ nguyên văn trong
ngoặc vì sợ không đủ chữ để phiên dịch:
tồi tệ và phi lý (deplorable and
absurd), ghê tởm (hideous), xây dựng
trên nền tảng của những nguyên lý buồn
thảm (sad principles), đầy rẫy những sai
lầm quái dị (monstrous errors), ý nghĩa
ảm đạm (gloomy meanings) dẫn đến đạo đức
tự sát (moral suicide). Nói tóm lại một
tôn giáo đáng ghê tởm nhất (most
revolting of religion). (7) Ngay cả các
giáo sĩ dòng tên cũng chào thua nghệ
thuật phê bình kiểu này!
Vào hậu bán thế kỷ 19 một số học giả như
Sylvain Levi bắt đầu dịch các kinh đại
thừa từ Sanskrit. Một số nhà nghiên cứu
nổi tiếng khác như Paul Demeville, La
Valle de Poussin dịch A Tỳ Đạt Ma Câu Xá
Luận (Abhidharma-Kosa) của
Vasubandu (Thế Thân- Lê Mạnh Thát làm
luận án tiến sĩ về bộ luận này), Eteinne
Lamotte, bộ tự điển của học giả Đan Mạch
V. Trenckner, học giả Hà Lan J.W.de
Jong…Ở Nga một nhóm học giả đã cổ động
nghiên cứu có tánh cách khoa học về Phật
Giáo, nổi tiếng nhất là Scherbatsky với
bộ Buddhist Logic.
Đến nhà
minh triết & giáo chủ tôn giáo
Từ một nhân vật mù mờ về căn cước. quốc
tịch và thời đại, bỗng nhiên Đức Phật
được tôn kính như một triết gia. Trong
khi Schopenhauer xem triết lý bi quan
của mình có vài điểm tương đồng với Phật
giáo, hai triết gia Đức khác là Hegel và
Nietzsche thấp thoáng thấy Phật giáo là
một mối đe dọa mới ‘Phật giáo xem hư vô
là nguyên tắc bắt đầu cho tất cả, và mục
tiêu cuối cùng của tất cả’ (9) (Hegel,
Encyclopédie des sciences
philosophics en abrége, 1827, dẫn
chứng lại từ Droit). Trong các khóa
giảng từ năm 1827 đến 1831 về nghệ
thuật, tôn giáo và lịch sử thế giới,
Hegel bắt đầu có thông tin chính xác hơn
về Đức Phật, như việc xác nhận Đức Phật
là một nhân vật lịch sử, thế nhưng Hegel
bỗng lớn tiếng cảnh báo về cơn ác mộng
‘hư vô’. Theo Hegel hình ảnh an nhiên
của Đức Phật, ngồi tham thiền kiết già
phản ảnh cho một thái độ trở về với
chính mình ‘từ hư vô mà đến, về hư vô mà
đi’. Mục đích tối hậu của Phật giáo là
một quá trình hủy hoại (vernichtung),
hoà nhập ‘linh hồn’ trong cõi Niết Bàn
tĩnh mặc. Hình ảnh này có lẽ đúng với Ấn
Giáo hơn là Phật giáo vì Phật giáo không
có ý niệm ‘linh hồn’, không có tiểu ngã
cũng như không có Đại ngã. Đó là những
gì mà Hegel hiểu về Niết Bàn và xem ‘cõi
Niết Bàn’ tương đương với hư vô.
Kiến thức về Phật giáo vào giữa thế kỷ
19 tương đối nghiêm túc, đáng tiếc một
triết gia tầm cở như Hegel vẫn đồng hóa
nát bàn với hư vô tuy ngôn ngữ phê phán
của Hegel vẫn giữ được nét trong sáng
của biện chứng triết học. Nếu dẫn chứng
ngoài ngữ cảnh, người ta có thể hiểu kết
luận của Hegel về Phật giáo là ‘một tôn
giáo hư vô, hủy diệt, vô thần và thách
thức Thượng Đế lẫn con người’. Giả sử
như Hegel đọc được Trung Quán Luận của
Long Thọ hay Tâm Kinh, ông có thể thay
đổi cái nhìn về Phật giáo không? Về cuối
đời khi có thêm nhiều tài liệu chính xác
hơn, Hegel tỏ ra hòa dịu hơn và kết luận
trong các khóa giảng là đạo Phật ‘hoàn
toàn xứng đáng được gọi là Triết
Lý’.(10) Thái độ cao ngạo có thể phản
ảnh tâm lý ngấm ngầm xem thường văn hoá
và triết lý đông phương nói chung, tự
xem là chỉ có minh triết Hy Lạp mới là ‘quê
nhà’ và trung tâm văn hóa của
Tây Phương, Trái Tim của Đức.
Các
triết gia Đức Frankfurt
Mối liên hệ giữa tư tưởng Ấn Độ nói
chung, và Phật giáo nói riêng, và các
triết gia Frankfurt mật
thiết hơn các nhà nghiên cứu từ trước.
Schopenhauer, thường được xem là Phật tử
đầu tiên ở Tây Phương. Schopenhauer mua
được một tượng Phật mạ vàng từ Tây Tạng
chưng bày trong phòng làm việc.
Schopenhauer không nhận mình chịu ảnh
hưởng của Phật và chỉ xem lý thuyết của
mình và tư tưởng của Đức Phật có nhiều
điểm tương đồng. Schopenhauer rất trân
quí pho tượng đồng có nụ cười thanh
thoát, ngồi trên hoa sen và sung sướng
khoe như trẻ con, cho tượng của mình
chính hiệu Tây tạng, trong khi một người
bạn khác chỉ có pho tượng gỗ từ Trung
Quốc! Schopenhauer cũng tiết lộ là ông
thường trì chú ‘Om, Mani, Padme, Hum!’
Trong phụ bản tác phẩm The World as
Will and as Representation xuất bản
vào năm 1859, Schopenhauer ca ngợi hết
lời: “Vì giá trị tuyệt hảo và sự thật từ
bên trong, Đạo Phật nên được xem như tư
tưởng hàng đầu”. (11). Khoảng năm 1860
các đại học Đức có nhiều công trình
nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Ấn Độ
và nhiều nhận định cho rằng Ấn Độ là quê
hương thứ hai của đại học Đức! Dân Đức
thường hãnh diện về chủng tộc thuần
chủng Aryan của mình và sau này đưa đến
thực hiện chủ nghĩa Quốc Xã, tìm thấy
dân Aryan ở Bắc Ấn là những người ‘đồng
chủng’, gọi là chủng tộc Indo-Germanic.
Có người ví von là dân Đức là ngưòi Ấn
Độ của Âu Châu, hay nếu gỡ lớp bề mặt
của một người Đức, người ta sẽ thấy các
lớp bên dưới là chân dung của một người
theo đạo Phật! Schopenhauer tiên đoán là
sự ‘trở về’ của đạo Phật cho thấy sự
tinh khiết hóa tư tưởng Âu Châu, nhất là
các huyền thoại của Do Thái Giáo. Tuy
nhiên người bỏ nhiều công phân tích Phật
giáo và sự khủng hoảng tâm linh Âu Châu
sau thời kỳ khai sáng, chính là người
tuyên bố Thượng đế đã chết!
Nietzsche và Phật Giáo
Ở Việt Nam
người viết về triết gia Nietzsche nhiều
nhất là Phạm Công Thiện. Những hố thẳm
triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là
những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý
Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát
khỏi không khí ‘hư vô’ sau khi các triết
gia thời khai sáng. Nhưng người nghiên
cứu Nietzsche nghiêm chỉnh nhất là Linh
Mục Lê Tôn Nghiêm. Thái độ nghiêm chỉnh
này đưa đến chuyện mất niềm tin
vào một Thượng Đế tưởng tượng. Lê Tôn
Nghiêm có một phản ứng can đảm là trả áo
vì không còn đủ niềm tin của một người
chăn chiên. Mấy triết gia Việt nam đi
trước thời đại. Họ đặt vấn đề hố thẳm
của tư tưởng vào thập niên 60 vì hai
thập niên sau, ở Anh Quốc, có một phong
trào nghiên cứu tư tưởng Nietzsche được
phát khởi một cách rầm rộ. Hội Nghiên
Cứu Nietzsche được thành lập tại Anh vào
năm 1990 và sách vở nghiên cứu Nietzsche
tràn ngập thị trường chữ nghĩa. Các bài
nghiên cứu về sự liên hệ giữa tư tưởng
Nietzsche và Socrate, Kant,
Schopenhauer, Heiddegger, thi sĩ Blake,
Darwin, các nhà phê bình hậu hiện đại,
thái độ của ông về Ky Tô Giáo, Phật
Giáo vân vân...được in ra nhan nhản. Các
lời phát biểu của Nietzsche thường gây
ra tranh cãi được phân tích tường tận.
Tuy nhiên
không phải triết gia nào cũng có thiện
cảm với Nietzsche. Bertrand Russell vốn
nhạy cảm với chủ nghĩa quốc xã, nên cho
Nietzsche cổ võ một thứ triết lý ‘con
người quyền lực’, nhằm loại bỏ những
người hoặc chủng loại kém cỏi (như Quốc
Xã đã tiêu diệt Do Thái và thí nghiệm
tạo những con người tuyệt hảo như trong
phim The Boys From Brazil do
Gregory Peck đóng vai chính) khỏi mặt
địa cầu và chỉ còn lại những con người
hoàn hảo theo kiểu Nietzsche, một con
người 'không còn tình cảm, tàn nhẫn,
gian trá, chỉ chuyên nghĩ tới quyền
lực'.
Nói tới
Nietzsche là phải nói tới 'đối thủ' của
ông, người mà ông đã khai tử một cách
gọn gàng; 'Thượng Đế đã chết'.
Thượng Đế ngày xưa được ưa chuộng bao
nhiêu thì bây giờ bị lạnh nhạt bấy
nhiêu, nhất là ở Tây Phương. Ngay cả
hàng ngũ chăn chiên cũng không còn mấy
người tin là Thượng Đế có thật (ít nhất
là Thượng Đế hữu ngã). Tuỳ Viên báo chí
của Tổng Giám Mục Canterbury (Giáo
Trưởng cao nhất của Anh Giáo) đã tuyên
bố trong tờ Independence là có nhiều Mục
Sư không còn tin tưởng
vào sự hiện diện của Thượng Đế nữa,
nhưng vẫn tiếp tục chăn chiên. Nói một
cách khác các ứng viên Mục Sư Anh
Giáo không còn phải xác nhận lòng tin
Thượng Đế trước khi được tuyển, hay cả
khi được phong vào hàng ngũ Tổng Giám
Mục.
Phần 2
Từ trước
đến lúc bấy giờ, Phật Giáo được truyền
bá qua Tây Phương thường qua các công
trình của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ và
đông phương và các triết gia. Chưa có
người Phật tử da trắng nào nghiên cứu
đạo Phật và thực hành chánh pháp để
truyền bá sang Tây phương, nói chi là
cộng đồng ‘Phật tử’.
Hai Phật tử
da trắng đóng góp quan trọng trong việc
phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ và sau đó ở
Á Châu. Người thứ nhất là “Đại tá’ Henry
Steel Olcott, người cùng sáng lập ra hội
Thông Thiên Học thế giới với Madam
Helena Petrova Blavatsky, gốc Nga. Cả
hai chưa biết nhiều về giáo lý Đức Phật
mà chỉ chú ý tới những hiện tượng ‘thần
bí’. Sau nội chiến Nam Bắc ở Mỹ, dù
xương sống tôn giáo ở Mỹ là Tin Lành,
hiện tượng cầu hồn và ‘đối thoại’ với
người ở bên kia ‘cõi âm’ khá phổ biến,
có lẽ là một như cầu để làm nhẹ nỗi đau
của thân nhân của các chiến sĩ trận
vong. Hiện tượng gọi là ‘ngoại cảm’
không liên hệ, nếu không muốn nói là
tương phản, với giáo lý vô ngã của đạo
Phật, nhưng được ngay cả các nhật báo
lớn ở Mỹ đề cập và ‘nghiên cứu’ về các
‘hiện tượng tâm linh’ huyền bí. Và có
huyền bí nào hơn các nhà tu khổ hạnh
yogi râu tóc bạc phơ sống trong các hang
động ở Tây Tạng trên dãy Hy Mã Lạp Sơn,
có thể đạt tới trình trạng ‘xuất hồn’ đi
trên mặt nước. Chỉ thiếu có chuyện biến
nước thành rượu!
Colonel
Olcott gặp Madam Blavatsky (bà thích
được gọi tắt là HPB) tại một trang trại
‘nghe đồn’ là có nhiều hồn ma bóng quế
và được các nhà ‘ngoại cảm’, tức là các
bà đồng bóng, tụ tập nghiên cứu. Các báo
Mỹ ở New York cho đây là một sự lừa bịp
trắng trợn, nhưng trình độ dân trí lúc
bấy giờ, nhiều người vẫn bán tín bán
nghi. Đại tá Olcott quyết định tự mình
điều tra. Mối hội ngộ này đã làm nẩy nở
một sự hợp tác ‘tinh thần’ nhiều năm
trong quá trình phục hưng Phật giáo. Vào
ngày 17 tháng 11 năm 1875 Hội Thông
Thiên Học (Theosophical Society) được
thành lập, mục đích nhằm nghiên cứu
‘luật lệ điều hành vũ trụ’, thành lập
một Cộng Đồng Huynh Đệ không phân biệt
chủng tộc, giới tính, giai cấp’ để
nghiên cứu tôn giáo, triết lý và khoa
học hiện đại! Quan trọng hơn nữa mục
đích của Hội nhằm nghiên cứu những hiện
tượng ‘không giải thích’ được trong
thiên nhiên và khả năng tiên tri của con
người. (1) Hội Thông Thiên Học gần gũi
với hội Sấm Trạng Trình, Bà Chúa Xứ hay
Đức Thánh Mẫu hơn là một hội Phật học!
Sau khi bị các nhà phê bình tôn giáo Mỹ chỉ
trích tác phẫm Isis Unveiled
của bà là thứ rác rưới đáng vứt
bỏ, HPB có ý định muốn đem Hội Thông
Thiên Học gia nhập Hội Tam Điểm
(Masonic), một đối thủ của Thiên Chúa
Giáo ở Tây phương. Duyên nghiệp giữa hai
nhân vật này với Phật giáo còn nhiều khi
cả hai quyết định làm chuyến phiêu lưu
qua Ấn. HPB và Olcott đến Ấn vào năm
1879 và vì bị nghi ngờ có liên hệ đến
các nhân vật trong phong trào quốc gia
Ấn, họ bị mật thám Anh theo dõi. Trong
một thời gian ngắn, cả hai không đạt
được tiến bộ đáng kể nào trong việc
truyền bá Thông Thiên Học trong giới trí
thức thực dân Anh cũng như Ấn, cả hai
quyết định qua Sri Lanka (bấy giờ là
Ceylon), nơi Phật giáo hưng thịnh nhờ nổ
lực truyền bá đạo Phật của con trai
hoàng đế Asoka. Ceylon bị các nhóm thực
dân Bồ Đào Nha và Hoà Lan thống trị
trước đó và các thừa sai Thiên Chúa đã
tìm cách cải đạo tập thể dân chúng
Ceylon như tại Nam Mỹ và Việt Nam, nhưng
đa số dân chúng vẫn giữ lòng tin vào
chánh pháp, trừ một thiểu số trong sắc
tộc Tamils. Các giáo sĩ Tin Lành tuy
không hung hăng như các thừa sai Thiên
Chúa, nhưng lúc cặp bài trùng này đến
Ceylon, trên toàn quốc chỉ có 4 trường
học được xem chịu ảnh hưởng của Phật
giáo trong khi có 805 trường ‘đạo’. Khi
hai người tới thành phố ven biển Galle
vào ngày 25 tháng Năm 1880, các hàng
ngàn thuyền nhỏ treo cờ xí phất phới và
hàng ngàn Phật tử với trang phục mặc
trong các ngày đại lễ trãi thảm ‘trắng’
đón hai người. Giống như trường hợp kỳ
diệu của Hoàng Đế A Dục ngày xưa, ngày
25 tháng Năm, HPB và Đại Tá Olcott quỳ
dưới chân một nhà sư Tích Lan trong một
ngôi chùa làm lễ thọ Tam Quy Ngũ Giới
bằng tiếng Pali. Họ là hai công dân Mỹ
(HPB mới nhập tịch Mỹ vào năm trước) đầu
tiên chính thức thọ tam quy ngũ giới
theo nghi thức Phật giáo.
Tuy nhiên
nhận thức về Phật giáo của hai Phật tử
Tây Phương đầu tiên vẫn còn có ‘vấn đề’.
HPB nghĩ Phật giáo là hệ thống tín
ngưỡng ‘tâm truyền’ (esoteric) có trước
thời Vệ Đà (!), còn Đại tá Olcott thì
nghĩ Phật giáo tương tợ như ‘túi khôn’
của Áo Nghĩa Thư (Upanishads). Đại tá
nói “Phật giáo của chúng tôi nghĩ không
phải là tín ngưỡng mà chỉ là một hệ
thống triết lý”. (2) Dù là nhận thức của
cặp Phật tử này có chính thống hay
không, họ cũng được mời giảng pháp ở các
chùa có hàng vạn Phật tử tham dự. Hội
Thông Thiên Học được thành lập ở Colombo
trở thành môi trường xúc tác trong việc
thành lập hàng trăm trường Phật giáo
khác và có ảnh hưởng quyết định trong
việc phục hồi Phật giáo ở Ấn độ Lá cờ
ngũ sắc do Olcott thiết kế dưới sự đồng
ý của vị vị sư cả Tích Lan sau này trở
thành biểu tượng cho sự thống nhất Phật
giáo thế giới. Tác phẩm Buddhist
Catechism do Olcott viết nhằm giáo
dục cho trẻ con đã được dùng giảng dạy
trong các trường Phật giáo ở Tích Lan.
Tình trạng Phật giáo ở Ấn và Tích Lan cũng
tiêu điều. Trừ một số ít vị chân tu, các
vị sư Sinhalese hầu hết đã bỏ truyền
thống ngồi Thiền. Tăng già chỉ còn
nghiên cứu và tụng kinh và giữ giới, hy
vọng ‘kiếp sau’ sinh vào một cõi khác
tốt hơn. Chỉ còn một ít các chân tu ở
Miến Điện còn giữ thực tập truyền thống
Thiền quán. Quần chúng Phật tử thì rất
ít biết về giáo lý do đó không đủ khả
năng phản biện những luận điệu phỉ báng
mà các nhà truyền giáo Tin Lành cố tình
vo tròn bóp méo. Vào thế kỷ 12 ở Ấn Độ,
sau khi 10 ngàn tăng già bị quân Hồi
giáo Thổ Nhĩ Kỳ tàn sát, và nhất là
thiếu việc tham dự của quần chúng trong
việc hành trì, nên Phật giáo hầu như
không còn dấu vết gì, trừ mấy thánh tích
tiêu điều hoang phế.
Olcott
quyết định viết Buddhist Catechism (Cũng
như Bible, Catechism là từ ngữ của Ky
Tô) giới thiệu các quan niệm căn bản
trong Phật giáo. Để sửa soạn cho tác
phẩm này, Olcott đã đọc hàng ngàn trang
sách nghiên cứu Phật giáo bằng Anh Ngữ
và Pháp ngữ. Nhờ thế hiểu biết về Phật
giáo của Olcott bắt đầu có vẻ chính
thống hơn, ông không còn nhắc đến những
hiện tượng tâm linh huyền bí nữa cũng
như không còn giải thích Phật giáo dưới
mầu sắc của Vệ Đà. Olcott đề nghị dùng
từ ngữ Buddha-Dharma thay cho Buddhism,
vì ‘ism’ thường mang tánh cách giáo
điều, trong khi Phật giáo là tôn giáo
‘chống giáo điều’. Nói theo Alan Watts,
Phật giáo là tôn giáo khô ng tôn giáo (a
religion of no religion).
Một may mắn
khác cho Phật giáo Tích Lan là sự hiện
diện của một viên thẩm phán trẻ tuổi Anh
được bổ nhiệm làm việc, Rhy-Davids. Ông
thường được yêu cầu giải quyết các tranh
chấp luật pháp về những tranh chấp liên
hệ đến tôn giáo. Rhys-Davids quyết định
học tiếng Pali để có thể đọc được giới
luật Vinaya, để tránh những quyết định
vi phạm đến luật lệ truyền thống. Vị
giáo thọ, sư cả Unnanse Yatramulle,
không những dạy Rhys-Davids Pali mà còn
khuyến khích ông học kinh điển Phật
giáo. Thán phục kiến thức và phong thái
giản dị của vị giáo thọ này, Rhys-Davids
tìm cách thu thập tam tạng Pali lúc đó
còn lưu trữ trên lá bối. Khi trở lại Anh
vào năm 1881, ông thành lập hội Pali
Text Society. Hội này sưu tầm những
sách viết về Phật giáo ở các thư viện Âu
Châu và kinh điển viết bằng Pali ở Tích
Lan và phiên âm ra mẫu tự La Tinh. Phu
nhân của ông, Bà Carolyn Rhys-Davids là
một cánh tay đắc lực trong việc sưu tầm
các Thánh điển Đông phương (Sacred
Books of the East), sau này do Max
Muller biên tập và xuất bản.
Dựa vào
kinh điển Pali, các học giả Âu Châu
thường xem Tích Lan là quê hương của một
dòng Phật giáo nguyên thủy ‘tinh khiết’
nhất ở Á Châu- gần gũi nhất với những gì
Đức Phật dạy các đệ tử đầu tiên, trong
khi xem Phật giáo Đại Thừa, nhất là đạo
Phật Trung Hoa, bị vướng mắc trong các
triết lý siêu hình và tập tục mê tín.
Kinh điển hệ Pali của Nam tông phản ảnh
tinh hoa những lời dạy của Đức Phật, vừa
có tánh cách khoa học, duy lý và đầy
nhân tình. Theo họ, Phật giáo Bắc tông
cũng giống như giáo Hội Thiên Chúa La Mã
tràn ngập nghi lễ và thần thánh (Bồ Tát)
và do giới ‘tư tế’ (Tăng già) kiểm soát
và điều khiển. Còn Nam tông giống như
thệ phản Tin Lành, thường duy lý và chú
trọng đến đạo đức. Việc các nhà nghiên
cứu Tây phương đầu tiên chú trọng đến
Phật giáo nguyên thủy để phát hiện ra
tinh hoa của đạo Phật là một điều dễ
hiểu.
Quan điểm
của Pali Text Society đúng hay sai là
chuyện khác, nhưng hạnh nguyện của
Olcott là đoàn kết các tông phái Phật
giáo duới một lá cờ, theo nghĩa đen cũng
như nghĩa bóng. Olcott nghĩ là một phong
trào Phật giáo thống nhất sẽ có khả năng
giúp các nước theo Phật giáo có thêm
quyền lực chính trị hơn là quan tâm đến
vấn đề kinh điển hay giáo lý. Lá cờ Phật
giáo được ông vẽ kiểu và năm 1889 dưới
sự hướng dẫn của sư cả Sumangala, phản
ảnh có quyết tâm này. Tác phẩm Buddhist Chatechism đề cập đến
những điểm tinh yếu mà các môn phái đều
có thể chấp nhận. Tác phẩm này được dịch
ra tiếng Nhật và Sankrit và hầu hết các
ngôn ngữ Âu châu. Olcott hy vọng tất cả
các môn phái đều chấp nhận là cờ này như
một biểu trưng cho lòng tin của Phật tử
và phục vụ mục tiêu tương tự như biểu
tượng Thập Giá cho các tín đồ Ky Tô. (3)
Và trong lễ Phật đản năm 1889, lần đầu
tiên là cờ Phật giáo tung bay trên tất
cả mọi ngôi chùa và tư gia tại Tích Lan
và Olcott tự hào đây là lá cờ ‘đẹp nhất’
trong số các cờ quốc tế. Nếu Olcott còn
sống đến năm 1963, ông có lẽ còn thêm
chữ ‘linh thiêng’, khi Phật tử Việt Nam
đồng thanh nhấn mạnh “cờ Phật giáo
không thể bị triệt hạ” trong phong
trào chống chánh sách kỳ thị tôn giáo
của chánh phủ Diệm.
Vận động
phục hưng Phật giáo của Olcott lan tận
bên Nhật. Năm 1988 Nhật gởi một sứ giả
sang Colombo mời Olcott sang Nhật.
Noguchi phát biểu trước hội nghị hàng
năm của Thông Thiên Học họp ở Adyar là
họ mong Olcott đến Nhật để “phục hồi hy
vọng cho người già, làm tăng can đảm
trong tim thanh niên, để chứng tỏ là các
sinh viên được đào tạo trong các trường
đại học và cao đẵng của chúng tôi hay
những sinh viên du học ở các nước Mỹ và
Âu Châu là, khoa học Tây phương không
phải là không sai lầm và không thể thay
thế cho tôn giáo (truyền thống) tự nhiên
của chúng tôi”. (4) Olcott chấp nhận lời
mời và Phật giáo Tích Lan tổ chức một
buổi tiễn biệt trọng thể chưa bao giờ
có. Tăng thống Sumangala cầu nguyện tam
bảo gia hộ cho sứ mạng của Olcott thành
công. Điều ngoạn mục nhất là tăng thống
gởi cho Ủy Ban Phật giáo Nhật một bức
thư biểu lộ tình pháp hữu giữa Phật giáo
Tích Lan và Nhật. Đây là cuộc giao tiếp
đầu tiên sau nhiều thế kỹ lạnh nhạt giữa
hai tông phái Nam và Bắc tông.
Khi đến
Nhật Olcott khám phá tông phái bảo trợ
chuyến sang Nhật là Tịnh Độ (Shin shu).
Để thể hiện mục tiêu đoàn kết tôn giáo,
Olcott yêu cầu ban bảo trợ phải mời thêm
các đại diện của các tông phái khác. Hố
chia rẻ của các tông phái Nhật Bản rất
sâu xa nhưng cuối cùng họ cũng phải
nhượng bộ để thành lập một ủy ban liên
tôn Phật Giáo Nhật. Trong buổi gặp mặt
đầu tiên, Olcott đọc bức thư của Tăng
thống Tích Lan đã được phiên dịch ra
tiếng Nhật cho các đại biểu trong ủy
ban.
Tướng quân đội Mỹ, Henry Steel Olcott
(1832-1907). Một nhân vật được coi là
người làm hiện đại Phật giáo thông qua
việc diễn dịch Đạo Phật dưới lăng kính
của người Tây phương
Trong 3
tháng tiếp đó Olcott trình bày chừng 75
lần Pháp thoại và theo ước tính của ông,
có chừng 187 ngàn phật tử Nhật tham dự.
Phật tử Nhật yêu cầu ông lập lại nghi lễ
thọ Tam Quy Ngũ Giới bằng tiếng Pali.
Khi Olcott trở về Tích Lan vài tháng sau
đó, có ba nhà sư Nhật theo ông để học
tiếng Pali và tìm hiểu Phật Giáo Nam
Tông. Thực ra trước đó hai năm đã có một
nhà sư Nhật trẻ khác đến Tích Lan học
đạo, Soyen Shaku. Ông sau này là đại
biểu của Nhật trong Hội nghị Phật giáo
thế giới, Một đệ tử của Soyen Shaku, vài
chục năm sau đã gây một phong trào thực
hành Thiền tại Mỹ. Người đó là Đại Sư
D.T. Suzuki.
Khi HPB qua
đời và Thông Thiên Học bị các nhóm học
giả thân Ấn giáo thao túng, Olcott nẫy
ra ý tưởng thành lập Hội Liên Hữu Phật
giáo (Budhist League). Ông kêu gọi các
đại diện Phật giáo các nước họp tại
Adyar. Năm 1890 các đại biểu Phật Giáo
Tích Lan, Miến Điện và Nhật thảo luận
trong vòng 2 tuần lễ về dự thảo giáo lý
chính của Phật giáo (Xem Chương Phật
Giáo dước góc độ Hiện Đại) Soyen nhận
xét là giáo lý Đại thừa còn nhiều điểm
hơn là 14 điều do Olcott đề nghị. Olcott
sau đó còn phải nổ lực thuyết phục các
tông phái khác như Zen, Bạch Liên , Tào
Động và Thiên Thai chấp nhận.
Người Hộ pháp không nhà
Tuy nhiên
thành quả lớn nhất của hai Phật tử da
trắng đầu tiên và hội Thông Thiên Học là
đã nuôi dưỡng một nhân vật đóng vai trò
chính yếu trong việc hồi sinh Phật giáo
ở Tích Lan và Ấn độ, cư sĩ Anagarika
Dharmapala, nghĩa đen là người Hộ Pháp
không nhà.
Thế danh
của ông hộ pháp này là David
Hewavitarne, sinh vào ngày 14 tháng 9
năm 1864 có cơ duyên tiếp xúc với Olcott
và Madam Blavatsky lúc mới 16 tuổi. Dù
là Phật tử thuần thành, David được gởi
theo học một trường đạo (và có tên thánh
là David!). Cũng như các ‘trường đạo’
tại các thuộc địa khác, học sinh phải
tham gia thánh lễ hàng ngày và dĩ nhiên
phải học kỹ thánh kinh. Tuy nhiên nhờ
kiến thức về thánh kinh này, nhờ tinh
thần phân tích, Dharmapala có dịp nhìn
thấy những mâu thuẫn và phi lý trong
thần học Ky Tô. Có lần chàng học sinh
trẻ này bị phạt vì dám lấy một ngày nghỉ
để dự lễ đản sinh của Đức Phật. Một lần
khác chính David chứng kiến cảnh các tín
đồ cuồng tín Tin Lành, vẽ thập giá trên
trán, tấn công một đám rước lễ Phật giáo
diễn hành ngang trường. David sau đó
không chịu trở lại học các trường đạo.
Với sự đồng ý và bảo trợ của cha và gia
đình, David xin gia nhập hội Thông Thiên
học và được Madame HPB đỡ đầu.
Dharmapala
đi từ làng này sang làng khác và càng
ngày càng thấm thía những bất công do
chế độ thực dân gây ra. Về mặt kinh tế
và xã hội, các thành phần ‘cải đạo’ theo
ngoại bang (phần lớn là Tamils) chiếm
địa vị ăn trên ngồi trước. Về mặt tinh
thần, các giáo sĩ thừa sai tìm mọi cách
bứng gốc rễ văn hóa của sắc tộc
Sinhalese tại Ceylon, nơi đã hãnh diện
về truyền thống Phật giáo hàng ngàn năm,
nhờ những nổ lực hoằng pháp của các giáo
đoàn do con trai của hoàng đế A Dục
thành lập. Năm 1886, David Hewavitarne
quyết định từ bỏ các mục tiêu quyền lợi
trần thế và quyết đem cả đời mình để
phục vụ người khác. Dharmapala có nghĩa
là ‘hộ pháp’ và Anagarika là kẻ không
nhà. Những gì mà nhà ‘hộ pháp không nhà’
truyền giảng là một thứ tôn giáo quốc
gia nhắm thức tỉnh quần chúng khỏi tình
trạng ù lì của đám đông bị áp bức, đã
phải chịu đựng nghèo khó hàng mấy thế
kỷ. Ông đã tiêm vào đầu óc dân chúng
Tích Lan khả năng tự trọng và hãnh diện
về tôn giáo truyền thống (5)
Một công
lớn nữa của Dharmapala là hồi phục Phật
Giáo Ấn Độ, hay ít nhất là thắng tích Bồ
Đề đạo tràng. Ông qua thăm Ấn lần đầu
vào năm 1891 với một nhà sư Nhật đang ở
Tích Lan học đạo. Cả hai đọc tác phẩm
Ánh Sáng Châu Á (The Light of Asia)
của Edwin Arnold. Tác phẩm này đã
in 80 phiên bản khác nhau và số phát
hành từ nửa triệu bản đến một triệu bản.
Thi phẩm này trình bày căn bản giáo lý
của Đức Phật như Tứ Diệu Đế và Bát Chánh
Đạo nhờ đó không ai có thể trình bày Đạo
Phật một cách sai lạc có ác ý. Arnold
viết những bài báo cảnh báo về sự điêu
tàn của các thánh tích như Bồ đề Đạo
Tràng Gaya và vuờn Lộc Uyển ở Sarnath
nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên.
Arnold viết trên the London Telegraph: “Tôi
đã chứng kiến tượng Phật cao chừng một
thước còn nguyên vẹn đang bi chôn vùi
dưới đống rác. Các trụ đá Asoka, những
di vật khảo cổ lâu đời nhất rãi rác làm
đá trãi đường và làm trụ chống nhà bếp
của Mahant (ông ‘chủ’ mới của thánh
địa)”. Bài báo của Arnold làm hàng triệu
Phật tử cảm động và được mọi người lưu ý
ngay. Sau khi thảo luận với tăng thống
Sumagala, Arnold và Olcott tập hợp cộng
đồng Phật tử quốc tế làm kiến nghị Nữ
Hoàng mua lại Bồ Đề Đạo Tràng và phục
hồi thánh tích này.
Đạo Phật
hầu như đã biến mất ở Ấn Độ từ thế kỷ 12
hay 13 sau khi đoàn kỵ mã Hồi giáo Thổ
giết hơn 10 ngàn tăng già và thiêu hủy
hầu hết các chùa chiền. Ấn giáo lẳng
lặng ‘đồng hoá’ Phật giáo bằng cách xem
Đức Phật là hóa kiếp lần thứ 3 hay thứ 4
của thần Vishnu. Nơi Đức Phật thành đạo,
Gaya, biến thành nơi thờ phượng của Ấn
giáo. Quì trước tượng Phật cổ,
Dharmapala nguyện là sẽ tìm mọi cách hồi
phục đạo tràng Gaya và những thánh tích
khác cho Phật giáo cũng như phục hưng
đạo Phật tại Ấn Độ. Trong nổ lực thực
hiện mục tiêu này ông thành lập hội Maha
Bodhi (Đại Giác Ngộ) và xuất bản Tập San
Maha Bodhi. Những thánh tích hiện nay
được phục hồi và mỗi năm có hàng vạn
người chiêm bái là nhờ công của người Hộ
Pháp không nhà này.
Tuy nhiên
biến cố khiến Dharmapala thành người đại
diện cho phong trào phục hưng Phật giáo
ở Đông và Đông Nam Á là Quốc Hội Tôn
Giáo Quốc Tế được tổ chức tại Chicago
vào năm 1893. Chủ tịch hội nghị này là
Mục Sư J.H. Barrows nhờ đọc các bài báo
của Dharmapala trên tập san Maha Bodhi
nên viết thư mời ông tham dự. Với hậu
thuẫn của Tăng Thống Sumagala,
Dharmapala quyết định lên đường sang Mỹ
và mang theo hàng ngàn văn bản tam quy
ngũ giới mà HPB và Olcott đã đọc lúc quy
y.
Phần lớn
đại biểu hội nghị nhiều giáo phái Tin
Lành đang tranh chấp nhau, Thiên Chúa ,
Anh Giáo nhưng các tôn giáo phi-Ky tô
như Nhật, Ấn Độ (Hindu, Parsis, Silks và
Jains), Thái Lan, Ceylon. Lãnh sự Trung
Quốc đại diện Khổng và Phật. Hội nghị
nhằm phản ảnh tinh thần khám phá của
Columbus và nhiều thính đường được xây
dựng mới toang bên cạnh hồ Michigan.
Anagarita Dharmapala được vinh dự ngồi
hàng ghế đầu bên cạnh Hồng Y Gibbon của
Thiên Chúa, đại sư Swami Vivekananda và
được đọc diễn văn kết thúc trong ngày
khai mạc. Với mái tóc quăn đen để ngang
vai, mắt sáng quắc tự tin nhìn thẳng vào
thính giả hội trường, giọng nói sang
sảng của người truyền giáo, lưu loát
trong diễn đạt Anh Ngữ, Dharmapala chinh
phục ngay được các đại diện như một đại
biểu thống nhất các tôn phái Phật Giáo
đang gieo truyền Ánh Sáng Á Châu vào thế
giới văn minh Ky Tô. Nhiều người so sánh
phong thái của Dharmapala với chúa Jesus
(6) Ngoài Dharmapala, có lẽ chỉ có đạo
sĩ Vivekenanda được các đại biểu khác
chú ý và kính trọng nhất.
Dharmapala
không bỏ lỡ dịp này để xác nhận vị trí
độc đáo của Phật giáo so với Ấn Giáo và
Ky Tô giáo. Vì không cóThượng đế, đấng
Sáng tạo, nên Phật giáo không cần phải
biện chính bằng bất cứ một ‘phép lạ’ nào
mâu thuẫn với khám phá khoa học và Phật
giáo chính là tôn giáo nối liền với khoa
học. Dharmapala cũng phê bình thái độ
mập mờ của Ân giáo, xem Phật giáo như
một phần của tôn giáo truyền thống,
trong khi giữa Ấn Giáo và Phật có nhiều
sai khác không thể nào ‘hòa giải' được:
“Hai mươi lăm thế kỷ trước đây Ấn Độ
đã chứng kiến một cuộc cách mạng tri
thức và tôn giáo nhằm lật đổ tôn giáo
độc thần, do các đẵng cấp giáo sĩ ích kỹ
độc quyền tế tự để thành lập một tôn
giáo tổng hợp, một hệ thống đời sống và
tư tưởng có tên thích hợp là Dharma”(7)
Dharmapala
và đại biểu Nhật, Soyen Shaku tìm được
người ‘tri kỷ’, Dr Paul Carus, biên tập
tập san The Monist và Open
Court Press trong việc giới thiệu
đạo Phật vào Mỹ (Carus là một di dân gốc
Đức). Carus cũng tin rằng Phật giáo có
thể ‘sống chung’ với khoa học hơn là các
tôn giáo độc thần khác như Ky Tô và Ấn
Giáo. Carus mời Soyen dịch và biên tập
một số tác phẩm Đông phương. Soyen nhũn
nhặn từ chối vì khả năng Anh Ngữ của
mình, thay vào đó giới thiệu một người
học trò trẻ, Daisetz Teitaro Suzuki,
người đóng vai trò trọng yếu trong việc
giới thiệu Thiền vào đất Mỹ sau này. Vào
ngày cuối của đại hội, một tin giật gân
được loan báo: Ông Charles T. Strauss,
một thương gia gốc Do Thái tại New York,
quì trước Dharmapala, thọ tam quy ngũ
giới do người hộ pháp không nhà đọc bằng
tiếng Pali. Strauss là người đầu tiên
được nhận vào cộng đồng Phật tử chính
trên đất Mỹ.
Một chi
tiết khác về Dharmapala là ông vẫn sống
và làm việc như một người cư sĩ (tương
tự như cư sĩ Ambedkar, người đã làm lễ
quy y cho gần một triệu người
Intouchables vào năm 1956). Vào những
ngày cuối đời (1933) Dharmapala mới yêu
cầu một tăng đoàn Tích Lan làm lễ quy y
cho ông vào năm 1931. Ông nguyện là sẽ
trở lại cõi ta bà ‘25 lần’ để truyền bá
chánh pháp và phục hưng Phật giáo tại Ấn
độ. Hơn 15 năm sau, vào năm 1949, chánh
phủ Ấn độ dành được độc lập từ thực dân
Anh đồng ý trả Bồ Đề Đạo Tràng và các
thánh tích khác lại cho Phật tử cai
quản.
Phần 3
Khi Hồng Hạc bay về…
Sau đại
hội, Phật giáo được xem như đại diện
tinh hoa của văn hóa Á Châu nói chung.
Nhờ các tài liệu càng ngày càng chính
xác, kinh điển được dịch ra các ngôn ngữ
Tây phương và chế độ thực dân gần tới
giai đoạn cáo chung, nên các luận điệu
của các thừa sai không còn ảnh hưởng như
trong các thế kỷ trước. Nhà Hộ Pháp
không nhà Dharmapala nói Anh ngữ sành
sõi, với phong thái của một đạo sĩ Đông
Phương theo trí tưởng tượng của người
Mỹ, trình bày Phật giáo theo quan niệm
Tây phương đã khiến quần chúng tiếp nhận
sứ điệp về Phật giáo một cách thiện cảm.
Trong bài diễn văn trong buổi lễ khai
mạc Dharmapala đã xác nhận vị trí độc
đáo của đạo Phật: “Đấng tạo hóa không có
vị trí nào trong đạo Phật do đó đạo Phật
không cần bịa đặt ra bất cứ huyền thoại
hay ‘phép lạ’ nào trái ngược với khám
phá khoa học. Trong một bài diễn thuyết
thứ hai, ‘Món Nợ của Thế giới đối
với Đức Phật’, Dharmapala tuyên bố:
Đối tượng tư tưởng khai sáng hiện
nay không còn nhắm về thần học nữa nhưng
về triết lý và tâm lý.” (8)
Nhà xã hội
học Arnold Toynbee tuy không đến dự Hội
nghị nhưng gởi một bức thư ủng hộ.
Toynbee có một tiên đoán quan trọng là,
đối với những nhà lịch sử trong tương
lai, một trong những biến cố ngoạn mục
nhất trong thế kỷ 20, là sự gặp gỡ giữa
Phật giáo và Ky Tô giáo. Sự giao lưu văn
hóa này chưa biết sinh ra hợp lưu nào,
nhưng chắc chắn phải là ngoạn mục. (9)
Từ đầu thế
kỷ đến chừng năm 1935, các công trình
nghiên cứu Phật giáo thường được chia
làm 3 trường phái. Trường phái thứ nhất
do các nhà nghiên cứu Anh-Đức như T.W.
Rhys Davids và H.Oldenberg, thường dựa
trên kinh điển Pali mà họ xem như phản
ảnh trung thực nhất giáo thuyết của đức
Phật. Cho tới ít nhất năm 1914 các nhà
nghiên cứu này băn khoăn đi tìm dấu vết
của một thứ Phật giáo ‘nguyên thủy’,
‘tinh khiết’ và ‘chân thật’. Khi các nhà
ngôn ngữ khám phá ra ngôn ngữ giảng pháp
của Đức Phật là Maghadi, không phải là
Pali. Pali cũng chẳnh qua là một phương
ngữ khác như Sanskrit, nên các học giả
Pali không còn cơ sở để khẳng quyết Phật
giáo Pali là ‘nguyên thủy nhất’.
Khoảng năm
1916 một nhóm nhà nghiên cứu khác ở Nga,
thường gọi là ‘trường phái Leningrad’ do
Stcherbatsky, Rosenberg và Obermiller
nghiên cứu kinh điển để tìm ra một thứ
Phật giáo khách quan hơn là Phật giáo do
các nhà nghiên cứu Âu châu ‘tái cấu
trúc’. Trường phái này nhìn Phật giáo
theo góc độ khoa học và đã có công giới
thiệu những từ ngữ Phật học như Dharma
cho những người không chuyên môn. Tiếc
thay trong kỳ hỗn mang của tình hình
chánh trị tại cộng hoà Sô Viết (cũ),
không còn để lại vết tích gì đáng kể
ngoài các tác phẩm như The Buddhist
Logic của Stcherbatsky và History of Buddhism của Obermiller
Trường phái
cuối cùng mà các học giả Việt nam biết
nhiều là trường phái Pháp-Bỉ gồm các học
giả như de la Valleé-Possin, Sylvian
Levi, Paul Demiéville và nhất là Etienne
Lamotte. Trường phái Pháp- Bỉ phân tích
các nguồn về ngôn ngữ, triết lý, xã
hội…để tái cấu trúc giáo pháp và hiện
nay được các học giả các trường đại học
Âu Châu chấp nhận như là nguồn có giá
trị. (10)
Khi
Hồng Hạc bay về…
Các công
trình nghiên cứu có tánh cách kinh viện
chú trọng đến kinh điển Pali thường
thiếu mức hấp dẫn đại chúng và nhất là
trong giới thanh niên càng phai nhạt khi
con Hồng Hạc bay về một quốc gia non
trẻ. Con Hồng Hạc đó là D.T. Suzuki.
Suzuki là
người phiên dịch cho Soyen Shaku trong
Hội Nghị Phật giáo Quốc Tế ở Chicago.
Thuộc dòng Võ Sĩ Đạo nhưng từ khi triều
Minh Trị bãi bỏ độc quyền của giai cấp
này, Suzuki sống một thời thơ ấu hàn
vi. Cha mất khi mới lên 6, nhờ mẹ tảo
tần nuôi con và nhờ anh trai tìm được
một một chân dạy trẻ, ông cũng được học
xong tiểu và Trung học. Sau đó ông xin
được một công việc dạy học ‘đủ môn’, từ
toán đến đọc viết và Anh Ngữ. Suzuki tự
học tiếng Anh bằng sách vỡ và sau này
sang Mỹ, mới khám phá ra là mình đã dùng
‘ngữ pháp’ Nhật để ‘viết tiếng Anh’!
Sau khi mẹ
mất, ông về kinh đô Tokyo và theo học
đại học the Imperial University, tuy
không theo một quy trình nhất định nào
để lấy bằng. Trong thời gian này ông
ngẫm nghĩ về nghiệp dĩ và thân phận của
mình: tại sao cha lại mất quá sớm? tại
sao cuộc đời của mình toàn những nghịch
cảnh. Gia đình thuộc giai cấp võ sĩ đạo
và thực hành Thiền Lâm Tế, nên không ai
lấy làm lạ khi thấy ông thực hành pháp
thiền này. Ông tập thiền dưới sự hướng
dẫn của thiền sư Setsumon, nhưng vị thầy
quan trọng nhất là Kosen, cha đẻ của
Thiền Nhật Bản hiện đại, người trước đây
đã đến Tích Lan học. Suzuki không thọ
giới mà cả đời chỉ sống như một cư sĩ.
Qua sự giới thiệu của Kosen, Suzuki qua
Mỹ làm việc với Carus, tác giả The
Gospel of Buddha. Tập san Monist do
Carus làm chủ bút là nơi tập hợp nhiều
triết gia lỗi lạc như John Dewey,
Bertrand Russell và MaxMuller. Chính
trong thời gian làm việc với Carus,
Suzuki dịch tác phẩm The Awakening
of Faith in the Mahayana (Tín Tâm
Minh của Mã Minh), Kinh Tứ Thập Nhị
Chương và soạn tác phẩm đầu tiên Outline of Mahayana Buddhism.
Suzuki trở
về Nhật và lập gia đình với một người
phụ nữ Mỹ, bà Beatrice Erskine Land tại
Nhật năm 1911. Sau đó ông dời về đế đô
Kyoto, dạy môn triết lý tôn giáo ở đại
học Otani. Tên ông trở nên quen thuộc
với các nhà nghiên cứu Phật giáo trên
thế giới khi nhà xuất bản Rider tại Anh
xuất bản bộ Essays in Zen Buddhism
(Bộ thứ nhất) (Do Trúc Thiên và sau này
Tuệ Sĩ dịch ra Việt Ngữ), và sau sau đó
bộ Hai và bộ Ba. Năm 1936 ông lại làm
chuyến Tây du ký lần thứ hai. Với kiến
thức phong phú và nhân cách quyến rũ,
Suzuki đã thu hút được nhiều học giả
khác trên thế giới. Alan Watts nhận xét
‘ông (Suzuki) là người thanh lịch và
nhiều kiến thức nhất mà trước giờ tôi
chưa hề gặp”.
Vào thập
niên 50 Suzuki đã trở thành một thần
tượng làm hứng khởi cả một thế hệ trí
thức và văn nghệ sĩ trẻ đầy tài năng và
mở đầu cho phong trào gọi là Zen Boom.
Các văn nghệ sĩ trong Beat Generation
như Allen Ginsberg, Jack Kerouac và Gary
Snyder đều xem Suzuki là thần tượng.
Jack Kerouac trong buổi chiều ăn mừng
xuất bản tác phẩm Dharma Bums,
đã gọi điện thoại xin gặp và được Suzuki
đãi một chén trà xanh. Kerouac hỏi: “Ý
chỉ của Đạt Ma đông độ là gì?” Suzuki
không trả lời, Trước khi từ giã, Kerouac
nói: “Tôi muốn ở lại với ngài mãi mãi’.
Những cuộc gặp gỡ ‘định mệnh’ là giữa
Suzuki và một số học giả Phật giáo sau
này, trong đó có Phillip Kapleau.
Chứng kiến những thảm cảnh trong
chiến tranh, và những cuộc giết người
tập thể, chàng thanh niên Kapleau diện
kiến Suzuki tại thiền viện Kamakura.
Hình ảnh thanh tịnh giải thoát của
Suzuki đã làm người sĩ quan trẻ này trở
lại Nhật 5 năm để vào tu tại một thiền
viện. (11)
Năm 1953
Suzuki trở lại Mỹ và phát khởi một thời
kỳ thường gọi là Zen Boom, trăm đóa hoa
Thiền nở rộ. Ông dạy các lớp Triết lý
Thiền vào buổi chiều tại đại học
Columbia và sinh viên phần lớn là họa
sĩ, các nhà sáng tác nhạc, thi sĩ, các
bác sĩ tâm thần, giáo sư triết lý.
Kapleau nhận xét: “ sự hiện diện của
Suzuli gây nên chất men của đời sống tân
linh-trí thức ở New York vào đầu các năm
50. Mặc dù chỉ là một học giả-cư sĩ đã
80 tuổi, không phải là tiếng nói sư tử
hống của một thiền sư, nhưng Suzuki đã
thực hiện được những thành tựu đáng kể.
Một thân một mình, ông đã giới thiệu
giai đoạn đầu tiên về trí thức và thực
tập Thiền ở Mỹ. (12) Tập san The New
Yorker viết về Suzuki vào năm 1957: “Ông
là một học giả nổi tiếng và ăn nói lưu
loát về Phật giáo Thiền tông, chi nhánh
có hàng triệu cư sĩ Nhật tu tập và đã
thu hút được nhiều nghệ sĩ, trí thức và
tâm lý gia ở Tây phương…trong đó có nhà
xã hội học Arnold Toynbee, Aldous
Huxley, Martin Heidegger, C.G. Jung và
Karen Horney. (13)
Một trong
những ‘đồ đệ’ tâm linh của Suzuki sau
này dính líu tới lịch sử chiến tranh
Việt Nam là Richard Gard, lúc đó đang
nghiên cứu luận án về Phật giáo. Gard là
người lo thủ tục để đưa Suzuki qua Mỹ
dạy học tại Claremont Graduate School.
Khi ‘vụ Phật Giáo’ bùng nổ tại Miền Nam,
và khi Thầy Quảng Đức tự thiêu ở ngã tư
Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt ngày 11
tháng Năm năm 1963, Bộ ngoại giao Mỹ và
chính Kennedy ngỡ ngàng hỏi: “Họ là ai?
Tại sao chúng ta không biết gì về họ
cả?”. Bộ Ngoại Giao Mỹ thành lập một đơn
vị gọi Văn Phòng Phật giáo Sự Vụ (Office
of Buddhist Affairs) do Richard Gard phụ
trách. Khi tân đại sứ mới vừa được bổ
nhiệm, Cabot Lodge, muốn biết về Phật
giáo, người trình bày cho Lodge không ai
khác hơn là Gard. Theo chương trình Gard
chỉ được trình bày cho tân đại sứ 10
phút. Nhưng khi nhân viên tuỳ tùng nhắc
nhở, Lodge vẫy tay ra dấu cho người tùy
tùng đi chổ khác và nói ‘chuyện này quan
trọng. Tôi cần nghe để hiểu thêm’. Lodge
tâm sự là ông cũng biết ít nhiều về Phật
giáo nhờ một người anh em họ đang tu tập
như một Phật tử, người đó là William
Sturgis Bigelow, một chuyên viên trước
đây đã cố vấn chánh phủ Mỹ về Phật giáo
Nhật! Gard đề nghị Lodge nên gặp các nhà
lãnh đạo Phật giáo Việt Nam. (14) Tất cả
đều nhờ sự sắp xếp của Phật tử Richard
Gard.
Một trong
những học trò tâm đắc khác của Suzuki là
Robert Aitken. Khi chiến tranh vừa xảy
ra Aitken đang làm việc như là một kỹ sư
xây dựng tại Guam, bị chánh quyền Nhật
bắt vào trại tập trung. Trong trại tình
cờ Aitken được đọc tác phẩm Zen and
English Literature của R.H. Blyth.
Năm 1944 Blyth đột nhiên hội ngộ Blyth
trong trại tập trung ở Kobe. Blyth gốc
Anh trước đó được gởi đi Ấn Độ nhưng ông
không chịu được chế độ thực dân nên xin
đổi sang Đại Hàn. Ông dạy Anh Ngữ cho
một trường do một người Nhật quản lý và
năm 1940, dù lập gia đình với một phụ nữ
Nhật, ông vẫn bị đưa vào tại tập trung
dành cho những kiều dân của các nước thù
nghịch. Khi được phóng thích, Aitken trở
về Hawai và theo học ngành văn chương và
sau đó nghiên cứu tại đại học Berkeley,
California. Thoạt tiên ông theo học
thiền thoại đầu với Senkazai, nhưng sau
đó với sự giúp đỡ của Suzuki, vào năm
1950 ông xin được học bỗng học một năm ở
Nhật. Aitken đã học được Thiền Tào Động
‘chỉ ngồi Thiền’ thay vì lo giải đáp mấy
công án. Vào năm 1953 Suzuki còn ảnh
hưởng được một vài nhân vật khác, đặc
biệt là Linh mục Thomas Merton, một nhà
huyền học Thiên Chuá dòng Trappist.
Merton sau này cùng với một số linh mục
trappists khác như anh em Berrigans tham
gia phong trào chống chiến tranh. Daniel
Berrigans cùng Nhất Hạnh mạn đàm về bạo
động trong chiến tranh trong tác phẩm
The Raft is Not the Shore xuất
bản năm 1975 trước khi chiến tranh Việt
Nam chấm dứt. (15)
Trong giai
đọan nở rộ, ảnh hưởng rõ ràng nhất của
Thiền là phân tâm học. Trong hội nghị về
Zen Buddhism and Psychoanalysis (Thiền
và Phân Tâm Học) vào năm 1957, Suzuki là
một diễn giả chính. Từ năm 1934 Carl
Jung đã nhìn thấy Zen và Phân Tâm Học có
cùng một mối quan tâm, đó là chữa trị
tâm linh (Spiritual healing) và chuyển
hóa tâm thanh tịnh. Cũng như tâm lý học,
Thiền Phật giáo đề cập đến Tâm (Mind) và
Thức (Consciousness). Trong sự giao lưu
này Suzuki đã cố gắng dùng những thuật
ngữ của tâm lý Tây phương để giải thích
Thiền. Trong khi Thiền là khoa về ‘tâm
linh’, các phân tích tâm lý học có những
giới hạn riêng. Các nhà phân tâm học như
Erich Fromm nhận xét là sau 2 ngày đầu
của hội nghị, không khí đã thay đổi rõ
rệt. Mọi người trở nên chăm chú và tĩnh
lặng hơn. Ảnh hưởng hỗ tương giữa Thiền
Phật giáo và Phân tâm học ngày nay đã đi
một bước dài, phản ánh qua sự hợp tác
giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma và các nhà thần
kinh học trong các chương trình nghiên
cứu ảnh hưởng hỗ tương giữa não bộ và
tâm thức. Suzuli ngưng giảng dạy tại đại
học Columbia và nghỉ hưu năm 1957.
Không phải
người nào cũng thỏa mãn với hình thái
Thiền mà Suzuki giảng dạy cho trí thức
Tây phương. Hồ Thích chỉ trích là hình
thái Thiền mà Suzuki quảng bá không phải
là loại Thiền mà người Nhật và Trung
Quốc hiểu, và không dính líu tới gốc rễ
lịch sử. Hồ Thích là một sử gia nên muốn
biết Thiền xuất hiện thế nào và biến
chuyển ra sao, Suzuki xem Thiền vượt
không và thời gian và vì là một phương
pháp trị liệu ‘tâm linh’ phổ biến. Thiền
cần phải được ‘bắt giữ’ từ bên trong
không phải là một sự kiện ‘lịch sử’ bên
ngoài và nhất là phải hành Thiền nếu
muốn hiểu Thiền. Thiền dù xuất phát từ
Phật giáo, nhưng không phải chỉ dành cho
Phật tử, mà có thể liên hệ đến bất cứ
truyền thống tâm linh nào. (16) Conze có
nhận xét là Thiền được phát sinh và thực
hành để đạt tới mức ‘vô niệm’ như Lục Tổ
Huệ Năng phát biểu trong bài kệ “Bổn lai
vô nhất vật’ và công án Vô là công án
lớn nhất trong Thiền. Hoàn cảnh văn hóa
Tây phương sau thời kỳ khai sáng là văn
hóa hoàng hôn của những thần linh, như
tựa một tác phẩm của Nieztsche, và văn
hóa Ky Tô- Do Thái đã lạc mất truyền
thống huyền nhiệm tâm linh và đang đứng
trên bờ vực thẳm của chủ nghĩa hư vô.
Thiền đáp ứng với tâm trạng của giới trí
thức (và thanh niên trong phong trào
Beats) và không ai ngạc nhiên khi thấy
Thiền phát triển nhanh chóng ở Mỹ. Lối
biện luận nghịch lý, sắc tức thị không,
không tức thị sắc, vô không phải là hữu
mà cũng không phải là vô rất lôi cuốn
với trí thức Tây phương lúc nào cũng duy
lý. Wez Nisker nói đùa là Thiền đã lật
ngược câu tuyên bố của Descartes: thay
vì ‘tôi suy nghĩ nên tôi hiện hữu’,
Thiền tuyên bố ‘tôi suy nghĩ nên tôi
không hiện hữu!’. Tưởng là đùa nhưng có
thể là thực, ai biết được. Bồ Đề Đạt Ma
ngồi im lặng ngó vách đá 9 năm, một
trong những tổ Thiền tông Việt nam là
‘Vô Ngôn Thông’. Một chỉ trích khác là
thiền Lâm Tế chú ý đến công án thoại đầu
nên dễ dẫn tới trình trạng có những
người chưa ngồi Thiền mà vẫn nói Thiền
và muốn người khác gọi mình là Thiền Sư!
Những tác phẩm liên hệ đến thiền Tào
Động thường được trình bày một cách kém
cõi và bằng một thứ Anh Ngữ ‘ba rọi’ nên
không được người Tây phương tiếp nhận.
Tào Động chủ trương ngồi Thiền đã ‘just
sitting’. Thực hành xong rồi muốn nói gì
thì nói! Tôi chợt để ý tới một thuật ngữ
quảng cáo của Nike ‘Just Do It’. Người
quảng cáo tiếp thị này có lẽ thực hành
Thiền Tào Động!? Quý độc giả và tôi còn
ở trong thế giới ta bà, nên còn người
viết và người đọc Thiền! Nói láo mà chơi
nói láo chơi. Khi nào chưa chịu để bàn
toạ trên gối, theo dõi hơi thở và cảm
thọ, tất cả đều đáng ‘vất xuống sông’!
Just Do It! Bàn luận công án thoại đầu
lam chi cho mất thì giờ.
Phát triển
đột phát của Thiền còn có thể giải thích
bằng lý do liên hệ đến lịch sử và địa lý
chánh trị. Một phần nước Mỹ kề cận Châu
Á, nhất là chế độ đặc biệt của lãnh thổ
Hawaii và cuộc chạy đua tìm vàng ở bang
California vào thế kỷ 19. Những Phật tử
da trắng cũng đã sớm thành lập các Thiền
đường ở San Francisco ngay từ năm 1928
và ở Los Angeles vào năm 1929 và First
Zen Institute ở New York vào năm 1931.
Mục tiêu chính yếu của Suzuki là truyền
bá Zen cho trí thức Tây Phương dĩ nhiên
là ông cần một hình thái Zen thích hợp
với tâm cảnh người Tây phương. Những tên
như Lâm Tế hay Tào Động không quan trọng
gì mấy, chỉ trừ khi muốn đem đạo Phật
trồng trong chậu như một thứ cây cảnh.
Như tựa một
quyển sách của thầy Huyền Diệu, khi hồng hạc bay về… đất Mỹ,
vùng đất mới trù phú và cởi mở hơn đã
khởi đầu cho thời kỳ chuyển luân lần
thứ tư. Sau Nguyên Thủy, Đại Thừa
và Kim cương thừa, Phật giáo Mỹ với tinh
thần khoa học của thời hiện đại và văn
hóa Ky Tô-Do Thái khi giao lưu với Phật
giáo sẽ sản sinh một thứ ‘tân thừa’ nào?
Lời tiên đoán cuả Toynbee sẽ được đáp
ứng đến mức nào?
Beat Zen: từ hippies phản chiến
Beat
Generation là từ ngữ dùng cho một nhóm
văn nghệ sĩ nổi tiếng vào thập niên 50.
Các nghệ sĩ có ảnh hưởng chính là thi sĩ
Ellen Ginsberg, Jack Kerouac, Gary
Snyder. Mặc dù Jack Kerouac nhận xét hóm
hỉnh là ‘ ba người không thể làm ra một
thế hệ’ nhưng trong vòng một hai thập
niên nhóm đã gây ảnh hường rộng lớn,
không những trên bình diện nghệ thuật,
cung cách sống, lề lối tư duy mà còn lan
rộng đến lĩnh vực chính trị, nhất là
quan hệ đến phong trào chống chiến tranh
Việt nam và liên hệ đến mục tiêu của
chương này, phổ biến ảnh hưởng của Phật
giáo, nhất là Thiền Tông ở Mỹ. Bài thơ
Howl của Ginsberg, hai tác phẩm
On the Road và Dharma Bums của
Kerouac và những bài thơ dịch Hàn San
(Cold Mountain) của Garry Snyder đã là
những dấu mốc của thế hệ Beat. Nhân vật
khai dựng phong trào Beat là hai sinh
viên ở đại học miền Đông nước Mỹ,
Columbia University, nhưng về sau hưởng
ứng phong trào “Go West’, Beat ‘dời đô’
về California với sự tham dự của một
nhóm sinh viên văn nghệ sĩ ở đây trong
đó có Garry Snyder. Kerouac giới thiệu
cụm từ the Beat Generation vào năm 1948
có nghĩa là một thế hệ ‘mệt mõi’, ‘thua
cuộc’ (beaten down’ hay bị đánh mất), và
cuối cùng đồng ý với từ ngữ Beat. Từ ngữ
sau này đồng nghĩa với người lữ hành
không nhà (homeless bohemien), rồi thành
thế hệ thanh niên nổi loạn hippies,
nhưng khác với hành ảnh của James Dean,
hippies nổi loại có nhiều lý do và khi
chiến tranh Việt Nam leo thang đến cực
điểm, hipies trở thành sinh viên phản
chiến Vietniks. Về phương diện tôn giáo
họ là những Dharma Bums, giúp
cho Thiền bùng nổ hay bùng nở tại Mỹ.
Nói như một tác giả trên Wikipedia, tác
giả Dharma Bums giúp Phật giáo trở nên
quen thuộc tại Mỹ. (17)
Năm 1982
Ginsberg tóm tắt những ‘ảnh hưởng quan
trọng’ của Beat Generation như sau:
·
Giải phóng khỏi những trói buộc truyền
thống: giải phóng tâm linh, tình dục hay
là những trào giải phóng phụ nữ, giới
tính, da mầu như phong trào dân quyền
của Martin Luther King hay ngay cả phong
trào da đen như Black Panther…
·
Giải phóng kiểm soát tư tưởng (qua hình
thức kiểm duyệt)
·
Giải hoặc những huyền thoại về các loại
cần sa ma tuý và các loại LSD…
·
Phong trào âm nhạc da mầu (Jazz) và
thanh niên (Rock and Roll) như nhóm
Beatles và Bob Dylan sau này.
·
Tạo một ý thức về môi sinh (Gaia- Fresh
Planet)
·
Chống đối ảnh hưởng của guồng máy khổng
lồ quân sự-kỹ nghệ
·
Thành hình một ý thức mới về tôn giáo
tương ứng với văn minh hiện đại
·
Khuynh hướng ‘vô tổ chức’ bột phát thay
vì khuồn khổ cứng nhắc trong văn chương
và triết lý (ảnh hưởng của Thiền) Tôn
trọng văn hóa bản địa.(18)
Chương này
chỉ chú trọng mối liên hệ giữa Beat
Movement và sự bùng nở của Thiền tại Mỹ
và những hoạt động chống chiến tranh của
thanh niên Hippies Mỹ, từ Dharma Bums
tới sinh viên biểu tình chống chiến
tranh, do guồng máy quân sự- kỹ nghệ ở
Mỹ điều khiển.
Sau thế
chiến thứ Hai, Mỹ đã trở thành cường
quốc số một, đóng vài trò lãnh đạo các
nước đồng minh Âu Châu cũ. Nhưng chiến
tranh lạnh làm căng thẳng mối liên hệ
giữa hai khối Tư bản và Cộng sản. Về
kinh tế Mỹ chưa có thời nào phồn thịnh
đến thế. Mức sống của một người dân bình
thường còn hơn những ông hoàng bà chúa
của thế kỷ trước. Chủ nghĩa tư bản biến
hình thành chủ nghĩa tiêu thụ. Phần lớn
thanh niên trong thập niên 60 từ chối bị
giam hãm trong.một hệ thống làm việc,
sản xuất, tiêu thụ, làm việc sản xuất,
tiêu thụ’ (19) Chủ nghĩa kinh tế Keynes
áp dụng hữu hiệu sau thế chiến dần dần
bị thay thế bỡi chủ thuyết neo-cons; ý
niệm công ích và công dân thay thế cho
tư lợi và người tiêu thụ. Các nước Âu
châu ảnh hưởng bởi truyền thống công
bằng nên trên thực tế là một thứ chủ
nghĩa xã hội trá hình, xem chánh phủ có
nhiệm vụ phục vụ công ích cho dân chúng.
Kinh tế, văn hóa và chính trị giữa Mỹ và
đồng minh Âu Châu càng ngày càng xa cho
đến gần đây cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ
Rumsfelt gọi các nước không chịu tham
gia chiến tranh Iraq là ‘Âu châu cũ”.
Thực ra các nước ‘Âu châu cũ’ đã từ chối
tham gia vào chiến tranh Việt Nam do tổ
hợp Quân Sự và Kỹ Nghệ Mỹ giật dây.
Không có một người lính nào của Pháp,
Anh hay Gia Nã Đại chịu đến Việt nam để
bảo vệ tiền đồn thế giới tự do!
Chiến tranh
lạnh cũng có cái giá của nó: tuân phục
chánh sách của chánh phủ về chánh trị và
khuôn mẫu xã hội và văn hóa. Dân chúng
Mỹ đã hưởng tiện nghi trước giờ chưa
từng có, nhà nước chỉ đòi hỏi ‘hy sinh’
nho nhỏ: tuân phục ‘ý’ của chánh phủ.
Nếu không, chánh phủ có thể dùng một
chánh sách truy lùng phù thủy như
McCarthyist, hay một câu mà Bush nhắc
đền trước khi khởi đầu chiến tranh Iraq:
ai không theo ta là chống ta. Năm 1953
Tổng thống Eisenhower ra sắc lệnh 10450,
ra lịnh chánh phủ phải cách chức những
người nào ‘nhẹ nhàng’ khi đối phó với
cộng sản, cũng như những người nào ghiền
cần sa và ma túy, có khuynh hướng tình
dục bất thường, những người bị bệnh tâm
thần, ngay cả những hội viên hội khỏa
thân (20)
Một điều
quan trọng nữa là thế hệ thanh niên
thuộc thời kỳ hay gọi là tiền- và thế hệ
Boomers, sinh ra vừa trước và sau thế
chiến hai, đã không còn tin tưởng vào
tôn giáo định chế và nhất là không còn
tin vào Chúa của Ky Tô và Do Thái giáo.
Như Wes Nisker thú nhận, thế hệ của ông
là thế hệ ‘rối loạn’, một thế hệ ‘không
nhà’ về phương diện tâm linh (spiritual
homelessness). (21) Đối với họ Chúa chỉ
là một nhân vật bịa đặt như ông già
Nô-en và xem thế hệ cha mẹ tin tưởng vào
huyền thoại tôn giáo là chuyện buồn cười
và lố bịch.
Thế hệ này
cũng sống trong một thời đại có quá
nhiều ‘cách mạng’ về khoa học, xã hội,
tình dục, giới tính, dân quyền… Thuyết
tương đối và sau này là phong trào ‘hậu
hiện đại’ đã khiến cho những ý niệm như
‘có thực’, ‘đúng’ hay ‘tốt’ chỉ là những
điều ước đoán và thanh niên chấp nhận
thái độ sống ‘gì cũng được’ (Whatever!).
Đối với họ thế giới và cuộc đời dường
như bị kiểm soát bởi luật bất định!
Những cái gọi là nguyên tắc đạo đức chỉ
là cấu trúc xã hội, không có gì là tuyệt
đối. Những khám phá về vũ trụ đã hạ bệ
vai trò của con người xuống…vượn và
những điều vừa được khám phá về khoa di
truyền cho thấy con người chia xẻ hầu
hết những genomes của các loài vi khuẩn.
Những khám phá về kỹ thuật trong nửa thế
kỷ sau của thế kỷ 20 như bom nguyên tử,
thuốc ngừa thai, transistor, lasers vân
vân khiến con người càng… xa nhà để đi
lạc vào những ngôi làng thế giới (global
village). Các thanh niên Mỹ và nói chung
thanh niên Tây Phương trở thành tỵ
nạn tâm linh. Phần lớn quay đầu tìm
về đạo học huyền nhiệm Đông phương, nhất
là Ấn giáo và Phật giáo Thiền tông. Wes
Nisker đi tìm con đường tâm linh từ lúc
12 tuổi khi không còn tin vào sự hiện
hữu của ông già Nô-en và…Chúa. Và bắt
đầu con đường tâm linh bằng một câu hỏi
giản dị: Tôi là ai? Đối với người Phật
tử câu hỏi này khá quen thuộc: ‘Tâm của
con đâu, đưa ra để ta an tâm cho!”
Trong khi
phong trào hậu hiện đại Tây phương bắt
đầu bằng những phản ứng như triết
lý-phản triết lý, văn chương-phản văn
chương, các thanh niên Mỹ cũng bắt đầu
nổi loạn để thoát khỏi cái mà Nisker gọi
là sự ‘cô đơn sâu thẵm’. Khi biết là
Chúa không hiện diện, họ muốn đi tìm một
điểm tựa tâm linh mà họ không thể gọi
tên. Văn hóa của thế hệ thanh niên Mỹ có
thể gọi là văn hóa-phản văn hóa. Các nhà
tư tưởng thời Khai Sáng đã cướp quyền
của Chúa (nếu chúa hiện hữu!) và dựa vào
quyền lực của lý trí và chuyển giao lý
trí cho khoa học. Các thế hệ tiếp đó
phải đối diện với hố thẵm hư vô. Đâu là
ý nghĩa của đời sống? Một quốc gia non
trẻ như Mỹ với nhiều nhà suy nghĩ tự do
nhờ lối suy tư ‘dân chủ’ ‘tự do’ và ý
niệm ‘cá nhân’ của Alexis de Tocqueville
trong Democracy in America. Quá
nhiều chọn lựa nên dễ lạc đường! Các nhà
kinh tế thì quảng bá cho chũ nghĩa thực
dụng: làm việc cần mẫn theo đạo đức Tin
lành, sung túc là ân sủng của Chuá, càng
tiêu thụ nhiều càng tốt, cái gì ở Mỹ
cũng lớn hơn và tốt hơn, để phục vụ nhu
cầu tiêu thụ, càng cần tăng mức sản
xuất: từ tư bản (cổ điển) sang tiêu thụ
(tân cổ điển). Tâm trạng mà các nhà tâm
lý gọi là ‘tự kỷ’ (Narcissism) khiến
‘nhiều người trong chúng tôi đi tìm Trí
Tuệ trong truyền thống Á Châu, thoát cái
ngã tự kỹ đến một cái ngã liên hệ trong
hệ thống duyên khởi chằng chịt’ (22) Và
người ta chứng kiến cảnh tượng các thanh
niên Mỹ thuộc thế hệ Boomers đổ xô trong
cuộc hành trình về phương Đông. Jack
Kerouac thấy một viễn kiến về thế hệ
tương lai của thanh niên Mỹ trong Dharma Bums : “Tôi có một viễn kiến
về một cuộc cách mạng trong tương lai.
Hàng ngàn, và có thể hàng triệu thanh
niên, với ba lô trên vai, đi lang thang
khắp nơi, lên núi cầu nguyện, làm các
trẻ em cười, làm người già vui thích,
làm thiếu nữ hạnh phúc, làm các phụ nữ
già còn hạnh phúc hơn. Tất cả hành giả
này là những thiền sư mộ đạo điên cuồng”
(Zen lunatics) (23)
Tác giả bài
nầy đã ghi lại hiện tượng Đông Du Ký này
trong bài điểm sách Bắt Trẻ Đồng Xanh
(bản dịch của Phùng Khánh): Một số thanh
niên, trí thức, khao khát đi tìm ánh
sáng Phương Đông. Tác phẩm On the
Road của Jack Kerouac phản ảnh
phong trào thanh niên lên đường thời đó:
một ba lô rugsack trên vai, một
ít tiền, đưa ngón tay cái chỉ lên trời
xin quá giang đi khắp nước Mỹ,
đi qua biên cương nước Mỹ, tới Ấn Độ,
Tây Tạng, Sri Lanka, Nepal, Nhật và Đại
Hàn để “tầm đạo và học đạo.”
Thế hệ Beat
có lối sống hoàn toàn ngược lại với
những kỳ vọng của một xã hội Mỹ sau thế
chiến: phóng túng ngoài mọi khuôn khổ
‘đạo đức’, tóc dài váy ngắn là một hình
thức phản kháng, tìm những cảm giác
‘siêu thực’ psychedelic qua cần
sa và nhất là LSD, rày đây mai đó On
the road. Thay vì chấp nhận chủ
nghĩa cá nhân narcissim và tư lợi, họ
chia xẻ tài sản với nhau kể cả tình dục.
Nisker gọi đùa đó là một thứ Socialist
Zen! Trong Dharma Bums,
Kerouac, Snyder và một số hippes khác
vừa làm tình tập thể vừa bàn chuyện văn
chương triết lý và ngồi thiền! Họ là
những American Bohemians (Hobo)
mặc áo hoa màu sặc sỡ, chơi nhạc Rock
and Roll và twist loạn cuồng. Họ đã đặt
nền móng cho ‘cách mạng’ về văn hóa và
sự phục hưng tâm linh ở Mỹ trong nửa sau
của thế kỷ 20 (24) Họ là thế hệ đã
mất-lost generation- thế hệ bị thất
bại-Beat Generation, những nhà tâm linh
bị gạt ra ngoài lề, hay tự động đứng
ngoài lề, của một xã hội chỉ chú trọng
vật chất lạnh lùng. Họ là những nhà đạo
học huyền nhiệm, ngây thơ đi tìm một
viễn kiến tâm linh riêng. Họ là thế hệ
Phật tử Mỹ đã đưa vào từ ngữ Phật giáo
vào ngôn từ Mỹ như Karma, dharma,
nirvana và mantra. Mỗi người theo triết
lý Á Châu huyền nhiệm riêng.
Trong số 4
nhà sáng lập Beat Generation, Allen
Ginsberg bị cuốn hút bởi truyền thống
Hindu sặc sỡ nhiều mầu sắc. Đến thập
niên 70 vẫn còn những thanh niên thiếu
nữ theo Ranakrisna nhảy múa, đánh trống
chập chõa ngoài đường phố. Nhờ ba cuốn
Thiền Luận và nhân cách của Suzuki, phần
lớn các nghệ sĩ khác bị cuốn hút bỡi
Thiền, nhất là Thiền Lâm Tế của Nhật.
Nhưng trong
thập niên 60 và 70 các Hippies trở thành
Flower Child, tham dự phong trào phản
chiến, mặc áo hoa mầu sặc sỡ, đem hoa
cài đầu và cài vào họng súng của các vệ
binh quốc gia Mỹ. Trong các cuộc biểu
tình chống chiến tranh Ginsberg đã tụng
thần chú Om trước hàng ngàn sinh viên
tham dự. Đây không phải là một ứng lại
chiến tranh Việt nam, vì trong bài thơ
mở đầu cho phong trào Beat vào năm 1955.
trong bài thơ Howl tại phòng
triễn lãm Six Gallery ở San Francisco
Ginsberg, đã cực lực tố cáo thần chiến
tranh qua tên Moloch:
Moloch,
đầu óc chỉ là máy móc
Moloch,
máu chảy trong người là tiền
Moloch,
10 ngón tay là 10 đạo binh
Moloch,
ngực chứa đầy chất nổ.
Bài thơ này
được đọc trước sinh viên trong buổi ra
mắt Beat vào năm 1954 ở San Frnscisco.
Mười năm sau, Mỹ tăng gia chiến tranh ở
Việt nam và Ginsberg trở thành phát ngôn
viên của phong trào phản chiến. Những
nhà đạo học thi sĩ như William Blake,
Thoreau và Whitman, thần tượng của nhóm
Beat, trước đó đã là những người chống
lại tổ hợp Quân sự-Kỹ nghệ. Có rất nhiều
thanh niên Mỹ quay về hướng Phật giáo
không phải vì triết lý trừu tượng về nát
bàn, mà là chính vì chiến tranh Việt
Nam. Vào giữa thập niên 60 đến đầu thập
niên 70, Việt Nam là trọng tâm của nhiều
thanh niên, dù chiến đấu cho chánh phủ
hay chống chiến tranh. Mỗi đêm trên
truyền hình, công chúng thấy cảnh dội
bom của không lực Mỹ xuống ruộng làng
của một quốc gia phần lớn là nông dân ở
bên kia của trái đất, với những cảnh
tượng kinh hoàng và mỗi đêm họ nghe
truyền hình, nghe thấy con số tổn thất
của lính Mỹ càng nhiều thêm, mà chánh
phủ không đưa ra biện chính rõ ràng.
Thành phần ‘ôn hòa’ thì đâm ra bất bình
với chánh phủ, và khi thấy cảnh tượng
leo thang chiến tranh, sẽ gia nhập hàng
ngũ của thành phần Hippies và cực đoan,
hay ít nhất là phong trào chống chiến
tranh. Theo lời kể của Wes Nisker, có
nhiều bạn của anh thú nhận là họ tham
gia phong trào chống chiến tranh chỉ vì
trước đó chứng kiến hình ảnh tự thiêu
của bồ tát Quảng Đức (25)
Những người
có ác cảm với Hippies cho là họ sống
truỵ lạc, vô ‘luân lý’ hoặc là những
thành phần chính trị ‘cực đoan’ phản
chiến, tuy nhiên hiểu động cơ đàng sau
lối sống nổi loạn này, ngưòi trong cuộc
như Nisker có thể khẳng định là hippies,
những Hobo không nhà đã tạo ra một môi
trường cho sự phục hưng tâm linh của
Mỹ. Phong trào Hippies là
một hiện tượng tâm linh, không
phải chỉ là một phong trào văn hoá,
chính trị hay xã hội. Cũng như những nhà
cải cách xã hội trước đây, họ có thể họ
là những người ngây thơ không tưởng
nhưng không thể nào phủ nhận những nổ
lực của họ đi tìm một viễn kiến mới cho
khủng hoảng tâm linh lúc bấy giờ.
Nhưng tại
sao Phật giáo, nhất là Zen, lại nổi bật
giữa ngôi rừng triết lý Đông phương? Một
lý do hiển nhiên là nhờ vai trò của
Suzuki, khiến những cánh sen Zen nở rộ.
Thứ hai, không như Ấn giáo có trăm ngàn
thần linh, Phật giáo, nhất là Zen, không
có một thần linh nào. Chỉ có tứ vô lượng
tâm mà Tây phương dịch là Big Sky Mind.
Trong hội chợ âm nhạc ở Monterey,
California vào năm 1967, một tượng Phật
cao 3 thước được dựng ở cổng ra vào. Mổi
người tham dự được tặng một hoa orchid
và chủ đề của hội là “Hoà bình, Tình Yêu
và Hoa”. Theo Nisker, cảnh sát không bắt
giữ ai vì được các thiếu nữ mỹ miều tặng
hoa và hôn. Khi hội chợ bế mạc, hầu hết
cảnh sát được cài hoa trên mũ. (26)
Trên bình
diện triết lý/tôn giáo, thế hệ Beat
Generation đã được tư tưởng khai sáng
nhắc nhở, những huyền thoại/thần linh
chỉ là những câu chuyện ‘văn chương’.
Các nhà đạo học Mỹ trước đó như Whitman
và Thoreau đã thấy ‘một hạt bụi’ trong
thiên thu, nên đã thích ứng với túi khôn
của Ánh Châu trong hoàn cảnh xã hội Mỹ.
Những người sáng lập Thiền Beat đều tốt
nghiệp đại học hay hậu đại học, thấy
được ngõ cụt của Triết lý Tây phương và
Thiền đã mở ra những khoảng trống thênh
thang. Triết lý Thiền đơn giản, nghịch
lý, khôi hài và bí nhiệm. Không có gì đề
chứng tỏ, để đạt được. Vô chứng diệc
vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Ngay cả
những nhà nghiên cứu Phật giáo như Alan
Watts cũng phê bình là Beat Zen chỉ là
một ‘mốt’ thời trang nhất thời,
trong khi đó có những người qua Nhật học
chỉ muốn tìm một đạo sư để có những giấy
chứng nhận treo tường, những người mà
Watts gọi là Square Zen. Watts còn nhắc
tới Zen, hàm ý là loại Zen trung
thực. Vấn đề là ai có đủ tư cách để
gọi người khác hay mình là Thiền sư
‘trung thực’?
Một yếu tố
khác quyến rũ thanh niên thời đó và Phật
giáo không có giáo điều. Các
nhà tư tưởng Tây phương thường có quan
điểm rắn chắc cố định như tư bản, xã
hội, Marxist, thần học Ky tô, Tin Lành
hay chủ nghĩa quốc gia. Thủ lãnh hippie
Abbie Hoffman được hỏi kiến về chủ
nghĩa, trả lời là tất cả những isms đều
là những giáo điều cứng nhắc. Trong khi
Phật giáo, nhất là Thiền, chủ trương bất
nhị, không phải hai mà cũng không là
một, mẫu thuẫn, nghịch lý, điên rồ.
Triệu Châu khi nói con chó có Phật tính
khi nói không. Núi có khi không là núi,
sông có khi không là sông. Những người
vào cửa Thiền theo lối ngang vào tắt,
không biết Thiền dựa kinh điển nào.
Thoạt nhin giống như thái độ ‘vô chánh
phủ’ (anarchist) thích hợp với tâm cảnh
nổi loạn của giới trẻ.
Bốn mươi
năm sau khi nhìn lại hứng khởi và ảnh
hưởng của Beat Generation, ngưòi phát
pháo cho phong trào văn hóa- phản văn
hóa, khi quán chiếu thâm sâu về lý tưởng
từ bi Bồ tát đối với mọi chúng sinh,
Ginberg nhận ra rằng, lý tưởng này tương
phản với mọi tư tưởng chánh trị của phe
tả cũng như phe hữu. Một thế giới càng
ngày càng giống luật rừng xanh, ngưòi
nào mạnh nhất là những người sống sót
như trong giả định của Darwin, ai mạnh
hay bền sức sẽ sống sót trong quá trình
chọn lựa tự nhiên. Ginsberg nhận xét về
xã hội giàu có như Mỹ, đại diện cho xã
hội tiêu thụ khác, tài sản càng ngày
càng dồn trong tay thiểu số, thiếu cái
mà các thiền sư Beat gọi là ‘công lý
kinh tế’. Ginsberg tự hỏi, làm thế nào
có thể bảo toàn một thế giới văn minh
khi mọi người khác ngoài các nước phát
triển, đang sống vất va vất vưỡng, nếu
không muốn nói là chết đói?! Con đường
mà các thiền sư Beat chọn lựa trong thập
niên 60 và 70 là con đường ‘giải phóng’.
Ginsberg xác nhận là ‘Phật giáo với
lượng trí tuệ vô biên có thể đóng góp
cho những những vấn đề lưỡng nan về kinh
tế và chính trị’. Ông kết luận dứt
khoát: Phật giáo là VÀNG RÒNG
(pure gold) (27)
Chân dung
hippies phức tạp, có thể là một người
sống phóng túng, muốn phá tung khuôn khổ
chật hẹp về tôn giáo, đạo đức hay xã
hội, trụy lạc với cần sa và psychedelic,
phản chiến hay một người đi tìm lời giải
đáp cho khủng hoảng tâm linh. Thế nhưng
vào các thập niên này, biểu tượng dễ
thấy nhất về tôn giáo của một người
hippie là Đức Phật. (27)
Kiểm điểm
lại những người tham dự Beat chính yếu
ta mới hiểu tại sao. Jack Kerouac là tác
giả của Dharma Bums và Scriptures of the Golden Eternity,
với lý luận như thể là của Long Thọ.
Nhiều người cho Kerouac là Nagarjuna Mỹ!
Snyder theo học Zen 10 năm ở Nhật, về
nước tiếp tục cặm cụi làm thơ và dịch
thơ. Tập thơ Hàn San được giải Pulitzer.
Phillip Kapleau với 2 tác phẩm về Thiền,
Three Pillars of Zen và Zen
Dawn in the West, đã trở thành 2
tác phẩm cổ điển về Thiền. Sharon
Salzberg và Joseph Goldstein hiện dạy
Thiền Vipassana cho phật tử Mỹ; Daniel
Goleman viết Destructive Emotions
và hiện đang hợp tác với Đức Đạt Lai Lạt
Ma trong công trình nghiên cứu sự liên
hệ giữa não bộ và ý thức. Robert Thurman
dịch kinh Duy Ma Cật và tác giả
Inner Revolution, giáo sư về Phật
giáo Tây Tạng tại đại học tại Amherst
College và trong nhiều năm là
thông ngôn riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Robert Aitken, tọa chủ thiền viện
Diamond Shanga ở Hawaii, tác giả Taking the Path of Zen và
The
Mind Clover. Wes Nisker tác giả The Big Bang, the Buddha…
được dùng
làm nguồn chính nghiên cứu trong chương
này. Jack Korfield, Joanna Macy…. chỉ kể
một ít tên liên hệ đến nghiên cứu của
tác giả. Ở Anh Shangharaksita thành lập
Western Buddhist Order và hiện là một
phòng trào hoằng pháp quy mô nhất ở Tây
phương. Stephen Batchelor tác giả Buddhism Without Beliefs phản ảnh
quan điểm mới của Phật tử Tây phương,
hiện vẫn còn được tranh luận.
Quán Như
nguồn:
https://www.chuyenluan.net/
____________________________
[SH - Tác giả có những quyển sách xuất bản như sau:
https://sachhiem.net/EMAILS/SH/Sachhiem17_sachmoi.php]
_____________________________
Những bài cùng tác giả Quán Như đã đăng trong sachhiem.net:
- Nói Về Những Phong Trào Tranh Đấu Của Phật Giáo Tại Miền Nam
- HOÀNG NGUYÊN NHUẬN, Mối Tình Đoàn Hữu Hơn Ba Mươi Năm
- Tây Phương Đã Tiếp Nhận Đạo Phật Như Thế Nào?
- Nhân Đọc Tuyên Ngôn của Một Người Vô Thần
Trang Tôn Giáo