|
01-Jun-2012 |
Ki Tô Giáo không có cái gì là của mình cả. Ki Tô Giáo chỉ có thể sao
chép và mô phỏng các tôn giáo khác [nôm na là đi ăn cắp]. Điều
này có đáng xấu hổ không? Tại sao Ki Tô Giáo lại phải xấu hổ?..
Chưa bao giờ có được một cái gì thực sự là của chính mình, đó là
điều duy nhất mà Ki Tô Giáo có thể phô trương. Chúng ta, những tín
đồ Ca Tô, hân hoan chấp nhận là triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính
thức của chúng ta ngày nay đều là sao chép và mô phỏng từ ngôn ngữ và
văn hóa của những miền đất mà Ki Tô Giáo nảy nở trong đó. Chúng ta, những
tín đồ Ca Tô, là những chuyên gia về mánh khóe xảo trá...”
Linh Mục Kirati Boonchua
Jose Bergamin: Một niềm tin mà không để chỗ nào cho sự nghi ngờ
thì không phải là một niềm tin; đó là một sự mê tín (A belief which
leaves no place for doubt is not a belief; it is a superstition.)
Benjamin Franklin: “Nhìn sự vật bằng đức tin là nhắm con mắt của
lý trí” (The way to see by faith is to shut the eye of reason.)
Thiền là sản phẩm của Chúa?
Thiền là sản phẩm của Chúa? Chúa nào? Nếu là Chúa của CaTô Giáo thì có thể
là như vậy, vì CaTô giáo có truyền thống đi “lấy mà không hỏi” sản phẩm của
người khác về làm của mình, và về Thiền thì rõ ràng là CaTô Giáo Việt Nam
đã “lấy” của Phật Giáo, vì CaTô Giáo không làm gì có Thiền như chúng ta
thường hiểu về Thiền. Cái mà Ca-tô Giáo Việt Nam gọi là “Thiền Ki Tô Giáo”,
dịch từ “Christian meditation”, chẳng qua chỉ là khoác cho sự những hành động
mê tín của Ca-tô Giáo danh từ “Thiền” cho có vẻ tiến bộ. Chi tiết về “Christian
meditation” trong một phần sau sẽ chứng minh điều này.
Nhưng thực ra, chuyện
này đâu có gì là lạ. Bản Tin mật số
10 (Bulletin No 10, p. 27) trước đây của Vatican, huấn thị cho các giám
mục địa phương ở Á Châu phải đi “lấy mà không hỏi”, nôm na là đi “ăn cắp”,
những điều hay trong Phật Giáo với thủ đoạn sau đây:
“Trong những xứ Phật Giáo, để khoác bộ áo văn hóa bản địa, giáo hội
có thể và phải lấy những điều hay trong truyền thống Phật giáo và biến
đổi chúng, cho chúng một ý nghĩa của Ki Tô Giáo để có thể áp dụng
chúng vào đời sống của những tín đồ của Ki-Tô.”
(In the Buddhist countries, in order to make its own cultural garnment, the
Church can and must take on the good elements of the Buddhist tradition and
transform them giving them a Christian meaning so as to adapt them to the
life of the followers of Christ.)
Linh Mục Kirati Boonchua, giáo sư triết tại đại học Chulalongkorn, Thái
Lan, đã nhận định:
Ki Tô Giáo không có cái gì là của mình cả. Ki Tô Giáo chỉ có thể
sao chép và mô phỏng các tôn giáo khác [nôm na là đi ăn cắp].
Điều này có đáng xấu hổ không? Tại sao Ki Tô Giáo lại phải xấu hổ?..
Chưa bao giờ có được một cái gì thực sự là của chính mình, đó là
điều duy nhất mà Ki Tô Giáo có thể phô trương. Chúng ta, những tín đồ
Ca Tô, hân hoan chấp nhận là triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức
của chúng ta ngày nay đều là sao chép và mô phỏng từ ngôn ngữ và văn hóa
của những miền đất mà Ki Tô Giáo nảy nở trong đó. Chúng ta, những tín
đồ Ca Tô, là những chuyên gia về mánh khóe xảo trá...”
The Proud of Christianity: Borrowing and Imitation
[Christianity possesses nothing of its own. Christianity can only borrow and
imitate others. Is it shameful? Why Christianity have to shame?..
Never having any authentic thing of its own is the only thing Catholics can
show off.. We, Catholics, delightfully accept that our present philosophy,
art and official language are borrowed and imitated from the language and
culture of the lands where Christianity has grown. We, Catholics, are experts
in manipulation..]
(Source: The Catholic Plot Against Buddhism, Printed by Siva Phorn Limited
Partnership, Bangkok, Thailand, 1986
from:
Lecture of Father Kirati Boonchua,
Professor of philosophy at the Faculty of Arts, Chulalongkorn University)
in “Life Review” a Catholic program in Bangkok, broadcasting on 8 December
1985)
Bởi vậy trước đây Cụ Phan Bội Châu đã gọi Ca-tô giáo
là “đạo chích” (Xin
đọc: Thiên Hồ, Đế Hồ). Nhưng biến đổi những điều hay của Phật Giáo
để dùng cho Ca-tô Giáo thì nó không còn hay nữa, mà trở thành dở. Dở vì Ca-tô
giáo dùng nó để nhốt tín đồ vào trong vòng sai lầm, mê tín, mà những điều
hay trong Phật Giáo thì đúng và bất khả tương hợp với những điều mê tín trong
Ca-tô giáo. Tại sao, vì những điều hay trong Phật Giáo là sản phẩm của trí
tuệ, của lý trí, đồng nghĩa với hiểu biết đúng, còn những điều dở trong Ca-tô
Giáo là sản phẩm của “đức tin”, đồng nghĩa với mê tín. [Joseph L. Daleiden, The
Final Superstition, p. 238: Reason versus Faith: A Path to Knowledge,
a Path to Superstition]
Nhưng vấn đề chính ở đây là khi người Ca-tô giáo nói
bất cứ điều gì về Thiên Chúa mà không cho chúng ta biết rõ ràng Thiên Chúa
là cái gì, đực hay cái,
già hay trẻ, người hay ngợm, ở đâu, bao giờ, từ đâu đến, đi về đâu v…v.. thì
tất cả chỉ là những đoán mò hoang tưởng. Nếu không thể nói rõ và đó chỉ là
một cái gì đó mà người Ca-tô tin thì bản chất Thiên Chúa của họ cũng không
khác gì lông rùa, sừng thỏ, chú Cuội trên cung Hằng, thần cây đa, thần bình
vôi v…v… Có khác chăng chỉ là mức độ về những quyền năng và thuộc tính mà
con người tưởng tượng ra cho vị thần mà họ tin mà thôi.
Con Cóc là em ruột của Mẹ Chúa Trời!
Triệt để tuân theo “đức vâng lời”, thi hành sách lược “mượn mà không hỏi”
của Vatican đề ra, người Ca-tô cũng còn lấy quan niệm về ông Trời của Việt
Nam để gán cho Chúa Trời của họ. Nhưng óc tưởng tượng và thủ đoạn “lấy mà
không hỏi” của họ quá nghèo nàn và kém hiểu biết về văn hóa Việt Nam. Tôi
có thể tưởng tượng hay hơn thế và đúng với sự hiểu biết về văn hóa Việt Nam.
Tôi có thể tưởng tượng là bất cứ Chúa Trời của Ca-tô Giáo có quyền năng như
thế nào thì Con Cóc của Việt Nam còn có nhiều quyền năng hơn thế, vì Con Cóc,
“nghiến răng chuyển động bốn phương trời”, đối với người Việt Nam thì
có chức vị là “Cậu Chúa Trời”, nghĩa là em ruột của Mẹ Chúa Trời, nếu
người Ca-tô nhất quyết khẳng định Ông Trời của Việt Nam chính là Chúa Trời.
Tôi không có ý định phỉ báng Ca-tô Giáo, đây chỉ là lý luận để bác bỏ một
thủ đoạn “lấy mà không hỏi” của Ca-tô Giáo Việt Nam và khuyên họ đừng nên
dùng thủ đoạn chẳng hay ho gì này trong những lãnh vực khác, và nếu có tiếp
tục dùng thủ đoạn này thì dùng cho thông minh hơn một chút.
Giáo Hoàng Công Nhận Big Bang, Nhưng Linh Mục Cứ Giảng Sáng Thế.
Như vậy khi nói về “Thiền là sản phẩm của Chúa”, Chúa đây nên hiểu là “Gót”
trong Cựu Ước, thì thực ra là nói về một cái gì không hiện hữu, hay ít ra
cũng là một cái gì vô hình, không ai biết, không ai hiểu, vậy thì làm gì có
cái gọi là Thiền của Chúa. Người Ca-tô là những chuyên gia về đoán mò, nói
mò, nghĩa là nói về những gì mà họ không biết rõ, và thường nói trong cơn
mê sảng. Thí dụ, tôi đọc được đoạn mê sảng sau đây của LM
Tạ Ân Phúc:
“Từ thuở tạo dựng, "Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn
ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh
vật" (x St 2,7), sự sống con người có được là do ân ban của Thiên
Chúa. Hơi thở con người là một điều hiển nhiên không thể chối cãi, thế
nên đôi khi người ta không còn chú ý đến nữa và quan tâm đến nhiều điều
được cho là đáng lo toan hơn trong cuộc sống. Nhưng điều chỉnh hơi thở
và rèn luyện đúng cách sẽ làm cho người ta khỏe mạnh hơn và tâm hồn thư
thả, thoải mái hơn qua việc tập thể dục, tập yoga, thiền”.
Lạ thật, Giáo hoàng Ca-tô đã tỉnh, công nhận
trước thế giới thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết tiến hóa về nguồn
gốc con người, chấp
nhận con người không phải là do Gót tạo ra tức thời mà chính là kết quả
của một quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài, không làm gì có thiên đường
ở trên trời, hỏa ngục dưới lòng đất. Do đó trên thực tế, toàn bộ nền thần
học Thiên Chúa Giáo mà giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa đưa ra, khai thác lòng
mê tín của một số người, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không
thực, đã sụp đổ. Chuyện “sáng thế” đã trở thành “tối thế”, làm cho một
phần thế giới tối tăm vì những chuyện hoang đường, nhưng ngày nay, bất kể
liêm sỉ, người ta vẫn tiếp tục đưa ra để nhốt tín đồ vào ngục tù tăm tối của
sự hiểu biết.
Điều rõ ràng là Linh mục Mít Tạ Ân Phúc nhà ta vẫn còn mê sảng, mang những
chuyện hoang đường trong sách Sáng Thế Ký ra, coi như là những “chân lý mạc
khải” mà con người phải tin. Cái chuyện Thiên Chúa “lấy bụi từ đất nặn
ra con người” là một chuyện có tính cách mạ lỵ đầu óc con người ngày
nay, bản chất đó chỉ là một trong những chuyện trẻ con như bao nhiêu chuyện
thuộc loại hư cấu khác để kể cho đám trẻ con nghe cho vui và để đầu độc đầu
óc bọn trẻ ở trong các lớp học sáng chủ nhật ở nhà thờ. Đối với những người
đã có đôi chút hiểu biết và có thể từ khi bắt đầu đi học lớp mẫu giáo thì
những chuyện như vậy cần phải dẹp bỏ.
Nữ Giáo sư thần học Ca-tô Uta Ranke-Heinemann đã viết cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con (Putting Away Childish
Things, HarperCollins, 1995). Tác giả trích dẫn câu 1 Corinthians 13:11 ở
ngay đầu cuốn sách: “Khi tôi còn là một đứa trẻ, Tôi nói như một đứa trẻ,
tôi hiểu như một đứa trẻ, tôi nghĩ như một đứa trẻ; Nhưng khi tôi trở thành
một người trưởng thành, tôi dẹp bỏ những chuyện của trẻ con” [When I
was a child, I spoke as a child, I understood as a child, I thought as a child;
But when I became an adult, I put away childish things.]
Những chuyện trẻ
con nào? Đó là những tín lý căn bản của Ca-Tô Giáo: “Tư cách thần thánh
của Chúa Ki Tô”; “Sinh ra từ một nữ trinh”; “ngôi mộ trống”; “Ngày Thứ Sáu
tốt đẹp”; “Phục sinh”; “Thăng Thiên”; “Bị hành quyết để chuộc tội”; “Hỏa ngục” [The
divinity of Christ, The Virgin mother, Good Friday, Easter, Resurrection,
Ascension, Redemption by execution, Hell]. Chuyện Thiên Chúa “lấy bụi
từ đất nặn ra con người” rồi hà hơi vào cho nó có hơi thở là chuyện
mà ngày nay chỉ có linh mục Mít và con chiên Mít tin mà thôi, vì thân xác
họ sống trong thời đại này, nhưng đầu óc thuộc thời bán khai ở Do Thái.
[Jorge
Luis Borges: Ki Tô Giáo thuộc về lịch sử của sự mê tín Do Thái (Christianity
belongs to the history of Jewish superstition)]
Tại Sao GH Chủ Trương Lấy Của Người Đem Làm Của Mình?
Tại sao Giáo hội Ca-tô hoàn vũ lại chủ trương đi lấy
những cái hay của đạo khác rồi xào xáo biến đổi làm của mình? Điều này rất
dễ hiểu, vì trong Ca-tô Giáo chẳng có gì là hay ho cả, toàn là những chuyện
lừa bịp, gian dối, mê
tín mà Giáo hội nhét vào đầu các tín đồ vốn không có mấy đầu óc, như
- chuyện
Thiên Chúa “lấy bụi từ đất nặn ra con người”, lấy cái xương sườn
của người Nam Adam hóa phép biến thành người nữ Eve,
- chuyện cô bé Mary bị
một con ma thánh (Holy ghost) phủ nên sinh ra đấng cứu thế,
- chuyện Giê-su
chết đi, xuống ngục tổ tông, sống lại, và bay tuốt lên trời, dù với vận tốc
của ánh sáng, tới nay cũng chưa ra khỏi giải Ngân Hà, một Thiên Hà rộng khoảng
100000 (một trăm ngàn) năm ánh sáng, trong số cả triệu, cả tỷ Thiên Hà khác
rải rác trong một vũ trụ rộng khoảng 13.7 tỷ năm ánh sáng.
Những điều hoang
đường mê tín như trên trong Ki Tô Giáo có tính cách mạ lỵ đầu óc con người
nay đã không còn mấy giá trị trong thế giới Tây phương, nơi đây sự phát triển
của khoa học và sự tiến bộ tư duy của con người không cho phép con người có
đầu óc còn tin vào nhưng điều hoang đường của nền thần học Ki Tô Giáo. Còn
những người có loại đầu óc đặc biệt của Ca-tô, hay có gene của bụi đất, muốn
tin thì cứ việc tin, chẳng có ai ngăn cản, chẳng có ai phản đối, trừ khi
muốn mê hoặc đầu óc đọc giả trên các diễn đàn công cộng bằng những
điều hoang đường phản khoa học, phi lý trí thì sẽ phải gánh chịu sự phản
biện.
Ca-tô Giáo trước sự phát triển mạnh mẽ của Phật Giáo.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của Phật Giáo trong thế giới Tây phương, sự
thua kém về đạo đức, về giáo lý mê tín qui thần, về lịch sử hiếu chiến, tàn
bạo, đẫm máu của Ca-tô Giáo trước những giáo lý nhân bản, lịch sử truyền đạo
trong hòa bình của Phật Giáo, Giáo hội Ca-tô cần vớt vát lại phần nào uy tín
đã không còn, chỉnh trang lại bộ mặt của mình, nên đi lấy những cái hay của
các tôn giáo khác biến đổi chúng đi làm của mình, nhét Thiên Chúa vào trong
đó, hi vọng có thể duy trì những niềm tin Ca-tô trong đám tín đồ thấp kém.
Và các giám mục địa phương, đầu óc cũng không hơn gì các con chiên mấy, nên
tuân theo chính sách của đạo chích, nhưng vì căn bản kiến thức không có mấy
ngoài những điều mê tín trong nền thần học Ki Tô Giáo, nên sự diễn giải những
thứ lấy của người ta làm của mình có rất nhiều sơ hở, không thể thuyết phục
được giới hiểu biết trí thức. Điển hình là ngày nay mà LM Tạ Ân Phúc vẫn viết
ra những điều mê sảng như trên. Lấy Thiền của Phật Giáo, diễn giải méo mó
thành “Thiền” (sic) của Thiên Chúa là một trong những thủ đoạn không lấy gì
làm khôn ngoan. Vì truy cứu ra, trong Ca-tô Giáo không làm gì có cái gọi là
“Thiền” theo nghĩa chúng ta thường hiểu và biết về Thiền, và cái mà người
Ca-tô gọi là “Thiền Ki-tô Giáo” thì thực ra không phải
là Thiền mà là cầu nguyện, nghĩa là xin-cho, hoặc suy niệm về Lời của Gót mà họ tin là Gót nói,
vì Thánh Kinh viết vậy. Tin tất cả vào một cuốn sách thì thà đừng đọc sách,
cổ nhân đã dạy (Tận tín thư bất như vô thư).
Về sự hoảng sợ của Ki Tô Giáo trước sự phát triển của
Phật Giáo, tôi không
có nói bịa.
Khi còn là Hồng Y, Ratzinger, nay là Giáo hoàng Benedict XVI,
đã khẳng định (assert) “Tới năm 2000 Phật Giáo sẽ thay thế chủ nghĩa Marx
như là thế lực đối nghịch lớn nhất của Giáo hội” (Buddhism would replace
Marxism as the church's biggest foe by 2000.)
Ratzinger cũng còn nói: “Thích
Nhất Hạnh là người chống Chúa” (Thich Nhat Hanh is the antichrist. The
accusation can be found here http://samsarashmamsara.blogspot.com/2005/04/chronique-dune-mort-annonce-suite-et.html).
Hồng Y Ratzinger hoảng sợ nên nói vậy, hi vọng tín đồ chuyển sự chống Cộng
sản sang chống Phật Giáo. Nhưng ông ta lầm to, chỉ dựng lên một người rơm,
vì bản chất Phật Giáo là không đối nghịch với bất cứ tôn giáo nào khác, Phật
Giáo chỉ đối nghịch với vô minh. Nếu Giáo hoàng cho rằng Phật Giáo đối nghịch
với Giáo hội thì điều này có nghĩa là ông ta thừa nhận
là Giáo hội Ca-tô vô minh.
Sự phát triển của Phật Giáo đã làm ông ta
lo sợ. Nhưng tại sao ông ta lại phải lo sợ khi mà ông ta vẫn cho rằng Ca-tô
Giáo là tôn giáo do Chúa của ông ta thiết lập, là tôn giáo thánh thiện, là
một “hội thánh”, là con đường duy nhất để con người đi đến Chúa của ông ta,
là tôn giáo mà các bậc chăn chiên có quyền kiểm soát đường lên thiên đường
và xuống hỏa ngục, và vẫn là tôn giáo có nhiều tín đồ nhất trên thế giới.
Ngoài ra ông còn quảng cáo Thiên Chúa của ông ta là tình yêu, và dạy các tín
đồ phải tuân theo “đức vâng lời” nói khác đi là không cần dùng đến lý trí,
nếu có. Vậy thì tại sao ông ta lại phải lo sợ trước một tôn giáo nghèo về
tiền bạc, nhưng giầu về đạo đức và tâm linh, như Phật Giáo. Lý do rất đơn
giản, vì Phật giáo là ánh sáng của trí tuệ soi sáng sự thật, mà Ca-tô Giáo
thì rất sợ sự thật, nghĩa là sợ ánh sáng, vì ánh sáng có tác dụng phơi bầy
cho chúng ta thấy sự thật. Samuel Butler đã từng nhận định: “Người Ki-tô
Giáo không sợ tội lỗi mà chỉ sợ có sự thật”.
Phật Giáo phát triển ở Tây phương ra sao?
Hiện nay có rất nhiều tài liệu
về sự phát triển này. Nay tạm kể 2 tài liệu điển hình. Ngay từ năm 1969, John
H. Garabedian & Orde Coombs đã xuất bản cuốn Những Tôn Giáo Đông Phương
Trong Thời Đại Điện Tử (Eastern Religions In The Electric Age), hình
bìa ngoài là hàng chữ lớn viết lên tường: Chúa Ki-Tô Đã Chết - Phật Đang
Sống (Christ Is Dead - Buddha Lives), nội dung nói về cuộc nổi giậy
đạo đức ở Mỹ (moral revolt in America), phân tích tại sao hàng triệu giới
trẻ đang vứt bỏ những truyền thống của họ và tìm kiếm những giải đáp mới
trong những tư tưởng và tôn giáo Đông phương (Why millions of young people
are rejecting their own traditions and seeking new answers in the ideas
and religions of the East)
Năm 1994, Stephen Batchelor xuất bản cuốn Sự Thức Tỉnh Của Tây Phương (The
Awakening of the West), nội dung viết về lịch sử tiếp xúc của Phật Giáo với
Tây phương. Tác giả nhận định:
Ngày nay Phật Giáo được coi như là một tôn giáo
phát triển nhanh nhất và là một trong những phong trào tâm linh có ảnh
hưởng nhiều nhất ở Tây phương."
(Buddhism is said to be the fastest growing religion and one of the most influential
spiritual movements in the West.)
“Phật Giáo phát triển nhanh và có nhiều ảnh hưởng”, và, “Hàng
triệu giới trẻ đang vứt bỏ những truyền thống tôn giáo của họ và tìm kiếm
những giải đáp mới trong những tư tưởng và tôn giáo Đông phương”, đây
chính là lý do mà Giáo hoàng Benedict XVI cũng như Hội Đồng Giám Mục Âu
Châu đã phải than phiền là: Thật là khác lạ trong thế giới Tây Phương,
một thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới ở thời điểm
mà không còn bằng chứng để con người còn cần đến Thiên Chúa nữa,
và còn ít cần hơn đến Chúa Ki-tô. Những Giáo Hội
gọi là 'truyền thống' xem ra như đang chết dần.”
(It is different in the Western world, a world which
is tired of its own culture, a world which is at the point where there’s
no longer evidence for a need of God, even less of Christ," he told a meeting of clergy in the Italian
Alps. "The so-called traditional churches look like they are dying," he
said, according to a text published by Vatican daily L’osservatore Romano.)
Đi lấy những cái hay của các đạo khác có cứu vãn được tình trạng này không?
Khó có hi vọng vì những cái hay của tôn giáo của trí tuệ đã được biến đổi
để dùng cho tôn giáo của “đức tin” và “sợ Gót” (God fearing) thì đâu có còn
hay nữa. Nhưng rất có thể nó có tác dụng đối với giáo dân Ca-tô Việt Nam,
một tập đoàn nổi tiếng là rất ngoan đạo, bề trên dạy sao thì nghe vậy, có
biết gì đâu, cho nên ngày nay mà có nơi ngày đi lễ ba buổi, và cầu nguyện
đủ mọi thứ, “cầu ngày không đủ, tranh thủ cầu đêm, cầu
thêm ngày “chúa nhật””,
cầu cả tên tướng cướp David, sau lên làm vua thì hoang dâm vô độ [Xin đọc
Charlie Nguyễn]..
“Thiền Ki-tô Giáo” là cái chi chi?
Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu xem “Thiền Ki-tô Giáo” là cái chi chi. Trước
hết, chúng ta cần phải hiểu qua thế nào là Thiền trong Phật Giáo. Có lẽ không
ai có thể biết hết được về Thiền trong Phật Giáo. Quý đọc giả muốn biết chi
tiết về Thiền, nhưng không thể nào đầy đủ, có thể tìm đọc trên Internet.
Nói rất ngắn gọn, Thiền chủ yếu là một hoạt động kinh nghiệm, chỉ những người
Thiền mới biết Thiền là như thế nào. Lợi ích của Thiền thì rất nhiều nhưng
đại khái là để dứt bỏ những tạp niệm, vọng niệm, giữ tâm thanh tịnh, thoải
mái, điều này có ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe của thân thể, thân thể khỏe
mạnh thì sẽ ít bệnh tật, trí tuệ phát triển. Ngày nay khoa học đã có thể chứng
minh là trong một số trường hợp Thiền có tác dụng chữa bệnh. Trong khi đó
thì “Thiền Ki-tô giáo”, có nghĩa là cầu nguyện, và cầu nguyện là đắm mình
vào những tạp niệm những vọng tưởng, là xin cho, mà 99.99% các trường hợp
thì có xin mà không có cho, như tôi sẽ chứng minh trong phần sau đây.
Trong http://www.daminhvn.net/tai-lieu/490-thien-kito-giao%29%E2%80%9D Đỗ
Trân Duy có viết bài “Thiền Ki Tô Giáo”, mục đích là để vinh danh
Chúa, vơ Thiền vào làm sản phẩm sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng không được
thông minh cho lắm. Trước hết ông ta cũng mê sảng như LM Tạ Ân Phúc và viết:
Khi Thiên Chúa sinh ra con người, Thiên Chúa thở hơi vào xác phàm
của con người. Xác phàm trở thành mạng sống vì hơi thở của Thiên Chúa
là Thần Khí ban sự sống. Vậy trong thiền, ta chỉ nên ngồi im lặng mà hít
thở. Ta hòa tan hữu thể với Thần Khí ban sự sống.
Tôi không nhắc lại những điều tôi phê bình LM Tạ Ân Phúc ở trên về cái chuyện
hoang đường có tính cách mạ ly đầu óc con người: “Thiên Chúa sinh ra con
người và hà hơi vào cục đất sét”. Mấy người Ca-tô Mít đều giống nhau,
càng viết càng để lộ cái kiến thức kém cỏi của mình, chỉ biết nhắc lại những
điều mà thế giới Tây phương đã loại bỏ từ lâu và chính Giáo hội hoàn vũ cũng
đã loại bỏ qua những lời thú nhận của các Giáo hoàng gần đây như John Paul
II và Benedict XVI. Chỉ một điều này cũng đủ chứng tỏ là những người nói về
“Thiền Ki Tô Giáo” hay “Thiền là sản phẩm của Chúa” là nói
chuyện bá láp, vì như trên đã nói: chuyện “sáng thế” đã trở thành “tối thế”.
Chúng ta hãy đọc thêm một đoạn của Đỗ Trân Duy:
Hiện thời, thiền được phổ biến rộng rãi nhờ công của các linh mục dòng
Bênêđíc. Hai tổ thiền nổi tiếng là Thomas Merton (1915-1968) và John Main
(1926-1982). Cha Merton, nhà thần học lớn của Công Giáo, có công đào sâu
ý niệm về thiền. Cha Main có công dậy về luyện thiền. Trước khi đi tu, John
Main đã học thiền với một đạo sư Ấn Độ. Sau khi thụ phong linh mục, Main
lập ra 2 đại thiền viện một ở Luân Đôn và một ở Gia Nã Đại. Hiện tại vị
kế nghiệp cha Main là cha Laurence Freeman (1951-?). Gần đây Kitô hữu Việt
hải ngoại cũng biết tới thiền qua sự giới thiệu của cha Chu Công (1918-2004),
Tu Viện Trưởng dòng Tra-pít. Cha Chu Công thụ huấn thiền với thiền sư Nhật
Bản Joshu Sasaki Roshi.
Qua đoạn văn trên chúng ta thấy trong Ki Tô Giáo không có Thiền. Linh mục
Thomas Merton “đào sâu ý niệm về thiền” nhưng đây là Thiền mà ông
ta biết được qua những cuộc tiếp xúc với Đức Dalai Lạt Ma, Suzuki và Thích
Nhất Hạnh. Đọc về Thomas Merton, chúng ta thấy ông ta không phải là nhà thần
học lớn của Ca-tô Giáo, bởi vì ông ta viết rất nhiều nhưng ý tưởng không nhất
quán, pha trộn nhiều tư tưởng của các tôn giáo khác. Trong những tác phẩm
của ông chúng ta thấy ông chịu ảnh hưởng tư tưởng của Phật Giáo, Hồi Giáo
và Ấn Độ Giáo, nhưng đức tin của ông ta là đức tin Ca-tô Giáo của thời
Trung Cổ, mà chúng ta đã biết “đức tin” là con đường đi tới mê tín (Joseph
L. Daleiden, The Final Superstion: Faith: the path to superstition).
Theo
định nghĩa của H. L. Mencken thì Faith hay Đức Tin là "một kiểu tin
phi-lôgic vào sự xảy ra của những gì không chắc có thực" (an illogical
belief in the occurrence of the improbable). Theo định nghĩa trong tự điển
thì Faith hay Đức Tin là "sự tin chắc vào một cái gì đó mà không
chứng minh được cái đó có thực" (Firm belief in something for which
there is no proof.)
Vài điều sau đây về Thomas Merton chứng tỏ định nghĩa
về đức tin ở trên là đúng:
- Ông ta rất sùng tín đức mẹ và tin rằng bà ta là
“mẹ của Gót” [Merton was a great venerator of Mary.. believed she is the mother
of God]
- Ông ta cầu nguyện nhiều thánh (He prayed to several saints), và tin
Thánh Kinh chính là lời mạc khải của Gót (revelations of God).
- Trong 70 tác
phẩm của ông, ông không hề phân tích Thánh Kinh, có chăng chỉ kể những cái
trúng bỏ qua những cái trật (counting only the hits, ignoring the misses)
và cũng không nhắc đến lịch sử của Ca-tô Giáo.
- Ông lập lại chủ thuyết “Cầu
nguyện trầm tư” (contemplative prayer) cổ xưa của Ki Tô Giáo và cho
rằng đó là con đường đi tới Gót.
Nói tóm lại, Merton sống trong sự tin tưởng
vào nền thần học Ki Tô Giáo, không hề biết đến những tài liệu đã có trước
thời của ông, những tài liệu nghiên cứu kỹ về nền thần học Ki Tô Giáo. Ông
rất chịu khó đi lang bang vào các tôn giáo khác nhưng tôi không nghĩ là
ông đã hiểu về Phật Giáo mà ý định của ông là tìm cách
hòa hợp (reconcile) các tôn giáo mà không hiểu rằng cốt tủy của mỗi tôn giáo một khác, khác
về giáo lý về mục đích. Cho nên, cũng như một số người Ki Tô khác đã làm,
sự hòa hợp chỉ ở trên vài nét tương tự trên mặt văn tự. Vì thế giới Tây
phương không thể cất bỏ trong đầu óc quan niệm về Gót của Ki Tô Giáo, nên
chủ thuyết “Cầu nguyện trầm tư” gần đây lại trở nên hấp dẫn trong thế giới
Tây phương đối với những người vẫn mê mẩn về một Gót ở trên thiên đường.
Theo www.understandthetimes.org thì:
Thomas Merton được coi là một trong những tổ lập thuyết “cầu nguyện trầm
tư”. Những tác phẩm và ý kiến của ông ta ngày nay tác động mạnh trên nhiều
người, những người chủ trương Ki–tô giáo hãy theo những kỹ thuật cầu
nguyện mượn của tôn giáo Đông phương.
“Cầu nguyện trầm tư” là cầu nguyện trong sự tĩnh lặng tư tưởng. Điều
này khiến cho ta ở trong một trạng thái tốt hơn để nhận thức được sự
hiện diện của Gót, và làm cho ta nghe được tiếng nói của Gót sửa
sai, chỉ đạo cho ta.
[Merton is considered to be one of the founding fathers of contemplative
prayer. His writings and ideas have impacted many today who are advocating
that Christianity embrace prayer techniques borrowed from Eastern religion.
Contemplative prayer is prayer in which you still your thoughts… This puts
you in a better state to be aware of God’s presence, and it makes you better
able to hear God’s voice correcting, guiding and directing you.]
Có nhiều nhà truyền đạo trên TV tự nhận là có thể nói
chuyện với Gót hoặc
được Gót “mạc khải” cho điều này điều nọ, và từ đó hốt được nhiều tiền của
đám tín đồ ở dưới. Lại có cả đường giây điện thoại để tiếp xúc với Gót. Có
một nhận định rất hay của Thomas Szasz về các vụ này:
Thomas Szasz: “Nếu anh nói chuyện với Gót, anh đang cầu nguyện”;
nếu Gót nói với anh, anh bị bệnh tâm thần phân liệt” (If you talk to
God, you are praying; if God talks to you, you have schizophrenia.) [Hoặc
đó là một trò bịp]
Chúng ta hãy đọc tiếp Đỗ Trân Duy đưa ra quan niệm Thiền của Merton như sau:
Merton đưa ra khái niệm về thiền như sau. Vì Thiên Chúa là ánh sáng quá
chói chang khiến trí óc và mắt con người chỉ thấy tối tăm. Vì vậy để gặp Người
ta phải đi vào bóng tối. Vì Thiên Chúa không thể hiểu qua âm thanh, nên để
gặp Người ta phải đi vào cõi im lặng. Vì Thiên Chúa không thể mường tượng
trong trí óc, nên muốn gặp Người chúng ta phải đi vào cõi trống không. Tuy
nhiên ta vẫn thức tỉnh để trực giác “biết” rằng ta đang hòa vào Thiên Chúa
trong hiện tại vĩnh hằng. Đó là bí quyết thiền.
Thực ra đây chẳng phải là bí quyết Thiền gì. Đây chẳng qua là Merton dựa
theo cái gọi là “Thần học phủ định” (Apophatic Theology or Negative
Theology) của Ca-tô Giáo đã có từ xưa, mà Meister Eckhart cũng đã lập
lại gần đây, và diễn đạt theo ý của mình. Trong nền thần học này những phủ
định về Gót như sau dựa trên Thánh Kinh và trên một số những lời “Thánh phán”:
Những mô tả phủ định về Gót:
● Không ai đã nhìn thấy hay có thể nhìn thấy Gót (John 1:18)
● Gót sống trong ánh sáng mà không ai có thể tiếp cận được (1 Tim. 6:16)
● Hành động của Gót không thể tìm kiếm được và không thể hiểu được (Job 11:7-8; Romans 11:33-36)
● Sự hiểu biết chân thực và viễn tượng về Gót là như thế này – thấy rằng
ông ta vô hình, vì cái mà chúng ta tìm kiếm nằm ngoài mọi sự hiểu biết,
hoàn toàn tách biệt bởi bóng tối của sự “bất khả tri” (The Life of
Moses, Gregory
of Nyssa).
● Gót thì vô tận và không thể hiểu được và tất cả những gì ta hiểu về
Gót là sự vô tận của ông ta và sự bất khả tri về ông ta (On the Orthodox
Faith, John
of Damascus)
[http://orthodoxwiki.org/Apophatic_theology:
Apophatic descriptions of God:
● From Scripture
- No one has seen or can see God (John 1:18).
- He lives in unapproachable light (1
Tim. 6:16).
- His ways are unsearchable and unfathomable (Job 11:7-8; Romans 11:33-36).
● By saints
- The true knowledge and vision of God consists in this—in seeing that
He is invisible, because what we seek lies beyond all knowledge, being
wholly separated by the darkness of incomprehensibility (The Life
of Moses, Gregory
of Nyssa).
- God is infinite and incomprehensible and all that is comprehensible
about Him is His infinity and incomprehensibility (On the Orthodox
Faith, John
of Damascus).
Chúng ta thấy rõ là tư tưởng của Thomas Merton không có gì lạ, vẫn chỉ là
nền thần học Ki Tô Giáo đưa ra để giải thích những cái không giải thích được.
Chúng ta thường nghe một câu thông thường của Ki Tô Giáo “Gót có những
kế hoạch mà đầu óc con người không thể hiểu được” để biện minh cho những
tai họa đến với con người, cho thiên tai và những tội ác xẩy ra trên thế gian.
Chúng ta còn nhớ Giáo hoàng John Paul II đã an ủi các con chiên đau đớn vì
bệnh tật ờ Nam Mỹ đó là kế hoạch kỳ diệu của Gót (Wondrous plan of
God). Nhưng Thiền “đi vào bóng tối”, “đi vào cõi im lặng”, “đi vào cõi
trống không” của Merton có đến được với Gót hay không một khi con người không
biết Gót là cái gì.
Có lẽ Mẹ Teresa đã rất thành thực khi cho chúng ta
biết:
“Đối với tôi, sự im lặng và trống không thật là quá lớn đến độ tôi nhìn
mà không thấy, lắng nghe mà không nghe thấy gì.” [As for me, the silence
and the emptiness is so great that I look and do not see, listen and do not
hear.]
Mẹ Teresa được Ca-tô Giáo coi như là Thánh Ca-tô. Nhưng Thánh
Ca-tô mà nhìn cũng chẳng thấy Chúa, lắng tai nghe mà cũng chẳng nghe được tiếng Chúa, vậy
những linh mục như Thomas Merton và các con chiên làm sao mà thấy được hay
nghe được Chúa. Nếu có người nào nói rằng họ nghe được Chúa nói thì người
đó chắc chắn là những tên bịp như những tên truyền bá Phúc Âm trên TV (TV
evangelists).
Tiến sĩ Madalyn O’Hair, chủ tịch hội những người không tin Gót
ở Mỹ, cũng đưa ra một nhận định:
“Thật ra, đây là những gì mà người Ki-tô Giáo làm: chẳng thờ phụng cái
gì cả. Một vật không ai nhìn thấy, không ai biết, không ai nghe thấy,
không đáp ứng được gì (những lời cầu nguyện) mà các người
gọi là Gót và cầu khẩn hàng ngày mà không hề có một đáp ứng nào. Chẳng
có cái gì cả - nhưng các người thờ phụng cái đó. Chẳng có gì nghe được các
người – nhưng các người vẫn nói lên những tiếng nói để liên lạc với cái
đó. Chẳng có gì đáp ứng – nhưng các người vẫn nghe thấy một thông điệp nào
đó trong hư không. Chẳng có gì đã từng xảy ra – nhưng các người
vẫn lý luận rằng có một cái gì đó xảy ra ở đâu đó, có thể ở trong trái tim
của con người. Đây là một canh bạc kỳ cục mà các người chơi.”
[In fact, this is what the Christian does: worships nothing. An unseen, unknown,
unhearing, unresponding entity which you call god is supplicated by you daily
with no response. Nothing is there – but you worship it. Nothing hears you
– but you address communication to it. Nothing responds – but you hear some
message in the void. Nothing ever happens – but you rationalize that “something”
occur somewhere, perhaps in one’s heart. It is an incredible game that you
play.]
Trong Ki-tô Giáo, thần học nói chung là môn học về Gót (God) của Ki Tô Giáo. Nhưng
một môn học mà học về một cái gì vô hình, vô tận, không thể hiểu được, không
thể biết được thì đó chỉ là môn học “đoán mò”. Bởi vậy Richard
Dawkins đã đặt cho chúng ta một câu hỏi:
Cái gì làm cho bất cứ ai nghĩ rằng
Thần Học thật sự là một chủ đề? [What makes anyone think that "theology" is
a subject at all?] Xin đọc http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN100.php,
một khảo luận về thần học Ki Tô Giáo.
Vấn đề là những người Ki-tô chỉ viết bá láp về Gót. Thí dụ, làm sao Thomas
Merton, cũng như bất cứ ai, biết được rằng Gót, nếu có Gót, là ánh sáng
quá chói chang, hay là bất cứ cái gì khác. Đó chỉ là những hoang tưởng
hay ảo tưởng của mỗi người, tùy theo óc tưởng tượng của mỗi cá nhân. Cho nên
khi Đỗ Trân Duy viết:
“Tuy nhiên ta vẫn thức tỉnh để trực giác “biết”
rằng ta đang hòa vào Thiên Chúa trong hiện tại vĩnh hằng” thì đó chỉ
là những lời mê sảng, sáo ngữ trống rỗng, nhắc lại từ những bài học mẫu giáo
trong Ki Tô Giáo.
Theo http://en.wikipedia.org/wiki/Christian_meditation thì:
Thomas Merton định rõ đặc điểm mục đích của “Christian meditation” như
sau: “Mục đích chân thật của “Christian meditation” trên thực tế cũng là mục
đích của sự cầu nguyện trong nghi thức tế lễ và sự tiếp nhận các bí tích:
một sự hiệp nhất sâu xa bởi ân sủng và nhân đức của ngôi Lời nhập thế, đấng
trung gian duy nhất giữa Gót và con người, Giê-su Ki-tô. Trong khi Tin
lành quan niệm sự giải thoát chỉ bằng “đức tin và ơn Chúa”, những tín đồ
Ki Tô miền Đông và miền Tây quan niệm vai trò của trầm tư trên con đường
đi tới sự giải thoát và chuộc tội. Tông đồ Paul nói trong thư viết
cho người La Mã là sự cứu rỗi chỉ có thể đến từ lòng nhân từ của Gót.
Con đường giải thoát trong “Christian meditation” không phải là xin-cho,
và mục đích của meditation là để cho Gót vui lòng. Lời của Gót chỉ
đạo sự trầm tư là để bày tỏ hai khía cạnh của sự yêu thương làm cho Gót
vui lòng: phục tùng và tôn thờ. Sự khởi đầu trong sự giải thoát Ki-tô
là thuộc về Gót, con người không trầm tư hoặc yêu Gót để chiếm được ân huệ
của Gót.
[Thomas
Merton characterized the goal of Christian meditation as follows: "The
true end of Christian meditation is practically the same as the end of liturgical
prayer and the reception of the sacraments: a deeper union by grace and charity
with the Incarnate Word, who is the only Mediator between God and man, Jesus
Christ."[20] While Protestants view salvation in
terms of faith and grace alone (i.e. sola
fide and sola
gratia) both Western and Eastern
Christians see a role for meditation on the path to salvation and redemption.[21] Apostle
Paul stated in Epistle
to the Romans 9:16 that
salvation only comes from "God that hath mercy".[22] The
path to salvation in Christian meditation is not one of give and take, and
the aim of meditation is to bring joy to the heart of God. The Word of God
directs meditations to show the two aspects of love that please God: obedience
and adoration. The initiative in Christian salvation is with God, and one
does not meditate or love God to gain his favor.]
Chúng ta nhận thấy những niềm tin ở trên như “tiếp nhận các bí tích”;
“ngôi Lời nhập thế”; “Giê-su là đấng trung gian duy nhất giữa Gót và con người”;
“chuộc tội”; “lòng nhân từ của Gót”; “phục tùng và tôn thờ”; “ân huệ của Gót” đều
là những điều mê tín cổ xưa của nền thần học Ki Tô Giáo đã lỗi thời mà ngày
nay đã không còn mấy giá trị trong thế giới Tây phương. Những niềm tin này
chỉ còn sót lại trong tập thể những tín đồ như thế nào, chúng ta đã biết.
Chúng ta hãy đọc thêm một câu của Đỗ Trân Duy về “Thiền Ki-tô Giáo”:
John Main “đã học thiền với một đạo sư Ấn Độ” và Chu Công “thụ huấn
thiền với thiền sư Nhật Bản Joshu Sasaki Roshi”.
Như vậy, Thiền Ki-tô giáo là Thiền Ấn Độ, Thiền Nhật chứ không phải Thiền
của Thiên Chúa, và hiển nhiên là Thiền Ấn Độ, Thiền Nhật, hoàn toàn khác với
“Christian meditation”. Đây là điều ông Đỗ Trân Duy nghĩ không ra trong khi
ông ta muốn quảng cáo cho Thiền Ki-tô Giáo. Vì thế tôi mới nói là mấy người
nhập nhằng những thứ của người khác làm của Ki Tô Giáo không có mấy thông
minh.
Về “Christian Meditation”:
Nhưng vấn đề là, nếu Ki-tô Giáo đã có “Thiền” (sic) của Thiên Chúa rồi, và
Thiên Chúa được dạy là bậc toàn năng toàn trí, tuy rằng không ai thấy, không
ai biết, không ai hiểu Thiên Chúa là cái chi chi, thì tại sao mấy cha còn
phải đi học, tìm hiểu Thiền của các nơi khác. Gần đây chúng ta thấy có nhiều
tu sĩ Ki Tô Giáo và tín đồ Ki-tô đến học Thiền với các bậc tu hành Phật Giáo,
thí dụ như với “Thiền sư antiChrist Thích Nhất Hạnh”. Nhưng không hề thấy
một ông Sư nào đi học “Thiền Ki-tô Giáo” với một ông Linh mục, Giám Mục hay
Tổng Giám Mục. Điều này chứng tỏ “Thiền Ki-tô Giáo” chẳng phải là Thiền mà
cũng chẳng có ích lợi gì thiết thực, đó chẳng qua chỉ là điều mê mẩn của các
tín đồ, trong khi Thiền Phật Giáo giúp cho họ giải quyết được nhiều vấn đề
trong cuộc sống hàng ngày. Vì bản chất cái gọi là “Christian meditation” thì
không phải là Thiền mà chỉ là một dạng cầu nguyện, có
nghĩa là xin-cho.
Đỗ Trân Duy cũng khẳng định: Nhưng nếu ta không ý thức đó [Thiền
Ki-tô] là dạng cầu nguyện, nó chẳng mang lại một tiến bộ tâm linh nào
cho ta cả.
Cầu nguyện là xin-cho, mà xin không được đáp ứng thì thất vọng, vậy làm sao
mà tiến bộ tâm linh cho được. Bây giờ chúng ta tìm hiểu xem “Christian meditation”
là cái chi chi. Meditation không phải là Thiền.
Tiến sĩ Sunthorn Plamintr giảng:
Tu tập thiền định theo tiếng Pali là từ “bhavana”, có nghĩa là
“phát triển, “tu dưỡng”, hay “trau dồi”. Bởi sự tu tập này liên quan trực
tiếp đến tâm, nên từ “bhavana” đặc biệt ám chỉ quá trình mở mang tâm linh
hay sự phát triển của tâm. Trên phương diện này từ tương đương trong Anh
ngữ “meditation” không được chính xác và không nói hết ý nghĩa như từ
“bhavana”.
Trong Ki-tô Giáo “meditation” có nghĩa là cầu nguyện, hoặc “chiêm niệm”, nghĩa
là suy ngẫm về cái gì đó, thí dụ về Gót, về một câu trong Thánh Kinh v…v..
, nhưng “chiêm niệm” cũng chỉ có mục đích xin-cho hoặc mong muốn một điều
gì đó. Theo định nghĩa thì cầu nguyện có nghĩa là lẩm bẩm những lời
cầu xin với Gót hoặc một thần nào đó (Pray: to
utter or address a petition to God or another deity; to make a fervent request;
plead). Chúng
ta hãy tìm hiểu thêm về “Christian meditation”. Để cho khỏi nhập nhằng với
Thiền, tôi dịch “Christian meditation” là “Chiêm niệm Ki-tô Giáo”.
http://www.meditation-christian.com/:
-“Chiêm niệm Ki-tô Giáo” đặt căn bản trên Lời của Gót: Cuốn Baibơn (Phiên
âm Bible theo tiếng Mỹ)
Christian meditation is based on God’s Word: The Bible.
- Cuốn Baibơn nói những người hoan hỉ trong luật của Chúa, và trong luật
của ông ta suy ngẫm ngày và đêm thì sẽ được hạnh phúc.
The Bible says that those who delight in the law of the Lord, and in His law
meditate day and night, they are blessed. (Psalm 1:1-2).
- Suy ngẫm trên Lời của Gót, lấy nó vào trong, nhai đi nhai lại.
Hãy coi đó như là một phần dinh dưỡng hàng ngày, cũng như là những bữa ăn thường
lệ.
Meditate on the Word of God by taking it in and chewing on it over and over.
Consider it part of your daily nutrition, just as you do your regular meals.
- “Chiêm niệm Ki-tô Giáo” là quá trình suy nghĩ tích cực về Thánh
Kinh. Cũng là cầu nguyện trên đó và cầu xin Gót cho chúng ta sự hiểu biết qua
Thánh Linh; Thánh Linh hứa hẹn dẫn dắt chúng ta đến mọi chân lý.
Christian meditation involves the process of actively thinking on scriptures.
It also involves praying over it and asking God to give us understanding by
His Spirit; who promised to lead us in all truth.
Theo http://en.wikipedia.org/wiki/Christian_meditation:
- “Chiêm niệm Ki-tô Giáo” là một dạng cầu nguyện, một quá trình tập trung
vào những tư tưởng đặc biệt (như là một đoạn trong Baibơn) và suy tư về
ý nghĩa trong khung cảnh tình yêu của Gót. (sic)[Xin đọc http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN119.php,
bài “Thiên Chúa Là Tình Yêu?”]
- Giáo lý trong cả hai giáo hội miền Đông và miền Tây đều nhấn mạnh là
dùng “Chiêm niệm Ki-tô Giáo” như là một yếu tố để biết về đấng Ki-tô.
- “Chiêm niệm Ki-tô Giáo” thì khác với phong cách Thiền của các tôn giáo
Đông phương (như Phật Giáo) hay trong khung cảnh của Thời Đại Mới. Trong
khi các kiểu Thiền khác có mục đích thoát khỏi những vọng tưởng trong đầu
óc, thì “Chiêm niệm Ki-tô Giáo” có mục đích chất đầy đầu óc với những tư
tưởng về các đoạn trong Baibơn hay về lòng mộ đạo trong Ki Tô Giáo.
Sách Giáo Lý của Giáo hội Ca-tô cổ vũ “Chiêm niệm Ki-tô Giáo” như là
một dạng cầu nguyện: Chiêm niệm trước hết là sự tìm kiếm. Trí óc tìm kiếm
để hiểu về tại sao và như thế nào ta phải sống đời sống Ki-tô Giáo để gắn
bó với nó và đáp ứng điều mà Chúa đòi hỏi. Nhấn mạnh vào sự hiệp thông với
Gót, sách Giáo lý nói rõ: “Chiêm niệm Ki-tô Giáo” chú ý vào tư tưởng,
sự tưởng tượng, tình cảm, và sự ham muốn. Việc động viên những khả năng
này cần thiết để tin chắc hơn về đức tin, chuyển đổi tâm, và củng cố ý chí
theo đấng Ki-tô.
(Christian meditation is a form of prayer, is the process of deliberately
focusing on specific thoughts (such as a bible passage) and reflecting on
their meaning in the context of the love of God.[2]
Teachings in both the Eastern and Western Christian
churches have emphasized the use of Christian meditation as an element in
increasing one's knowledge
of Christ.[9][10][11][12]
Christian meditation is different from the style of meditations performed
in Eastern religions (such as Buddhism)
or in the context of the New
Age.[3][4][28][29][30] While
other types of meditation may suggest approaches to disengage the mind, Christian
meditation aims to fill the mind with thoughts related to Biblical passages
or Christian devotions.[31]
The Catechism
of the Catholic Church encourages meditation as a form of prayer: "Meditation
is above all a quest. The mind seeks to understand the why and how of the
Christian life, in order to adhere and respond to what the Lord is asking" (Catechism
section # 2705). Emphasizing union with God, it states: "Meditation
engages thought, imagination, emotion, and desire. This mobilization of faculties
is necessary in order to deepen our convictions of faith, prompt the conversion
of our heart, and strengthen our will to follow Christ.)
Chúng ta thấy rõ, cái gọi là “Christian Meditation” không
thể dịch là “Thiền Ki-tô Giáo”. Đó chỉ là một dạng cầu nguyện, nghĩa là một
dạng xin-cho hay mong ước viễn vông, bắt nguồn từ một đức tin mù quáng thuộc
loại mê tín. Những tài liệu của Ki Tô Giáo ở trên đã nói rõ về sự khác biệt
giữa Thiền và “Christian meditation”: Trong khi các kiểu Thiền khác
có mục đích thoát khỏi những vọng tưởng trong đầu óc, thì “Christian meditation”
có mục đích chất đầy đầu óc với những tư tưởng về các đoạn trong Baibơn hay
về lòng mộ đạo trong Ki Tô Giáo, và chất đầy đầu óc với những
tư tưởng, tưởng tượng, tình cảm và ham muốn.
Tình cờ tôi đọc được vài lời giải thích về cầu nguyện của một ông Mít bỏ đạo
trí tuệ để đi theo đạo của đức tin: Nguyễn Huệ Nhật. Ông mục sư tân tòng này
giảng về mục đích của cầu nguyện:
1. Cầu nguyện là việc làm của Đức Tin có mục đích được gặp Thiên Chúa.
2. Được chiêm ngưỡng vinh quang, lòng thương xót, hồng ân của Thiên Chúa
3. Được trình dâng lên Chúa những nỗi niềm, tình cảm, tâm linh, hoàn
cảnh và nội tâm của mình.
4. Ăn năn tội, cầu nguyện những nhu cầu của mình và của người khác.
[TCN]
5. Được cởi mở tấm lòng, mời Chúa ngự vào lòng để Ngài biến hóa con người
tầm thường của mình trở nên đền thờ của Ngài, mặc lại bản tính của Ngài
vốn đã bị thiếu hụt do tội lỗi trong mỗi người.
[Lời bàn của TCN: Có phải đây toàn là những lời mê sảng của một kẻ
ngu đạo. Huệ Nhật hay đã có ai gặp được Thiên Chúa chưa? Gặp có nghĩa là mặt
đối mặt. Gặp ông ta, hay bà ta, hay cô ta, hay cậu ta, ở đâu? Mặt mũi ra sao?
Chỉ có thể gặp Gót trong những cơn khủng khoảng hay bấn loạn tinh thần. Nhưng
gặp để làm gì, có ích gì. Hãy kiên nhẫn chờ khi chết rồi và nếu có thể lên
được thiên đường (mù), giả thử có cái gọi là thiên đường, để gặp ông ta, giả
thử Thiên Chúa là một ông, thì cũng không gặp được. Tại sao? Vì lên đến nơi
thì Thánh Peter đang gác cửa thiên đường sẽ đuổi đi vì Huệ Nhật không phải
là người Do Thái. Huệ Nhật hãy đọc sách Khải Huyền để biết là Thiên Chúa sai
Peter từ chối không cho gặp ông ta bất cứ người nào không ở trong số 144000
thuộc 12 bộ lạc Do Thái có dấu ấn của Gót trên trán, nhất là người đó lại
là dân Mít đặc. Có người nhận định là: Ki Tô giáo đã lừa bịp con người
để tin rằng họ sẽ được tưởng thưởng vì sự ngu dốt của mình, gọi đó là “đức
tin” (Christianity has tricked people into believing that they will be
rewarded for their ignorance by calling it `faith`.)
[http://sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5271]
Chiêm ngưỡng là ngẩng nhìn lên một cái gì đó có thực với sự ngưỡng mộ. Người
ta thường nói chiêm ngưỡng dung nhan, hay chiêm ngưỡng một cái gì đặc biệt
chứ không ai nói chiêm ngưỡng vinh quang, hay chiêm ngưỡng lòng thương xót,
hồng ân mà không ai biết cái hồng ân này như thế nào. Thiên Chúa đã không
có thì làm gì có vinh quang, lòng thương xót, và hồng ân. Ai cần đến sự vinh
quang, lòng thương xót và cái gọi là hồng ân của một cái gì vô hình, không
ai biết, không ai hiểu. Có ai thử mô tả rõ sự vinh quang, lòng thương xót
và hồng ân của Thiên Chúa, giả thử có Thiên Chúa, là như thế nào.
Trình dâng lên Chúa nhưng làm sao biết Chúa, nếu có Chúa, có nghe hay không
mà trình. Nếu Chúa, giả thử có Chúa, mà nghe được thì cả thế giới đã là tín
đồ của Chúa rồi. Hi vọng được Chúa nghe nhưng thực tế cho thấy:
Arthur Koestler: Có vẻ như Gót đã nhắc ống nghe ra khỏi điện thoại (God
seems to have left the receiver off the hook.) [Có nghĩa là Gót không bao
giờ nghe và đáp ứng những lời cầu nguyện]
Voltairine de Cleyre: Chúng ta đã chán ngấy với những hứa hẹn, Gót
thì điếc đặc, và giáo hội của ông ta là kẻ thù tệ hại nhất của chúng ta (We
are tired of promises, God is deaf, and his church is our worst enemy)
Nhưng vấn đề chính ở đây là Huệ Nhật nói về Thiên Chúa và mơ tưởng được
đến với Thiên Chúa, và hi vọng Thiên Chúa sẽ ban cho hồng ân v…v… trong khi
Huệ Nhật không hề biết Thiên Chúa của mình là cái gì. Huệ Nhật theo Ki Tô
Giáo để kiếm ăn mộ cách dễ dãi, vì trên thế gian này vẫn còn nhiều người dễ
bị lừa bịp, chẳng phải là vì ơn kêu gọi của Thiên Chúa vì Chúa chẳng có gọi
ai bao giờ. Lẽ dĩ nhiên Thiên Chúa của Huệ Nhật là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo.
Nhưng Thiên Chúa của Ki Tô Giáo thì chúng ta đã biết là như thế nào như viết
trong cuốn Baibơn. Chúng ta hãy nghe Tổng Thống Mỹ Thomas Jefferson nhận định
về Thiên Chúa của Huệ Nhật:
Thomas Jefferson: Thiên Chúa của Ki Tô Giáo là một con quỷ có
ba đầu: độc ác, ưa trả thù và đồng bóng.. Chúng ta chỉ cần nhìn vào bản
chất những người nói rằng họ phục vụ ông ta. Họ luôn luôn thuộc hai loại
người: ngu xuẩn và đạo đức giả (The Christian god is a three
head monster: cruel, vengeful and capricious.. One only needs to look at
the caliber of people who say they serve him. They are always of two classes:
fools and hypocrites)
Hay là đọc Richard Dawkins nhận định về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo trong
cuốn “The God Delusion”, ấn bản 2008, trang 51, nên nhớ Ba Ngôi Thiên
Chúa là một, nên những nhận định này cũng chung cho ngôi hai, Giê-su, và ngôi
ba, con Ma Thánh (Holy Ghost):
Không cần phải bàn cãi gì nữa, Thiên Chúa trong Cựu Ước là nhân vật
xấu xa đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và
hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính
đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay
trả thù; một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái
nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết
hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc
hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của
cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự đau
đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ
hiếp đáp ác ôn thất thường.
[The God of the Old Testament is arguably the most unpleasant character
in all fiction: jealous and proud of it; a petty, unjust, unforgiving control-freak;
a vindictive, bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic, racist,
infanticidal, genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic,
capriciously malevolent bully.]
Tôi đã đọc cuốn Baibơn của Ki Tô Giáo, đọc khá kỹ, và tôi tôi đã dùng ngay
cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo, trích dẫn ở trong đó, và chỉ ở trong đó, những
câu chữ để chứng minh là những nhận định của Tổng Thống Thomas Jefferson và
Richard Dawkins là hoàn toàn chính xác. Xin đọc http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/3NGOI/TCN64_Cha.php
Vậy Huệ Nhật hay bất cứ ai muốn: đến với một Thiên Chúa như vậy, cầu
nguyện xin-cho lòng thương xót và tình yêu của một Thiên Chúa như vậy, được
hồng ân của một Thiên Chúa như vậy, đem thân mình làm đền thờ của một Thiên
Chúa như vậy v…v… thì xin cứ tùy tiện, tôi không ngăn cản mà còn chúc
cho họ được toại nguyện
Vài Lời Kết:
Tôi thật rất lấy làm lạ, không hiểu tại sao trong thời đại này mà vẫn còn
nhiều người mê sảng, tin vào những điều không thể tin được của Ki Tô Giáo.
Mà họ không phải là những dân mù chữ hay ít học. Nhiều người có bằng cấp cao,
có thể coi như là ở trong hàng ngũ trí thức, thành công trong xã hội, nhưng
tại sao sự hiểu biết của họ về chính tôn giáo của họ lại nghèo nàn đến một
mức độ tệ hại như vậy.
Có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Không ai hiểu tín đồ của mình hơn
các bậc chăn chiên. Chúng ta hãy nghe một Mục sư và một Linh mục giải thích
về cái nghịch lý này. Mục sư Ernie Bringas nhận định trong cuốn “Theo
Đúng Như Trong Sách (Kinh Thánh): Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại
Gây Nên Bởi Quyền Năng Thánh Kinh” [Going By The Book: Past
and Present Tragedies of Biblical Authority], trang 78:
Điều hiển nhiên đối với nhiều học giả là cuốn Baibơn (Bible) không phải
là không có những sai lầm và chắc chắn là không hoàn hảo. Một số đoạn trong
cuốn Baibơn thì kém cỏi về văn phong, sự chính xác lịch sử, và cảm ứng tâm
linh so với những đoạn khác, và có những đoạn có tính cách lạc dẫn và
phản tác dụng đối với thông điệp về tình yêu. Còn gây sốc và gây tranh
cãi hơn nữa là những khám phá mới đề nghị rằng cuốn Baibơn chứa khoa thần
thoại. Những gì mà đã luôn luôn chấp nhận như là những thực tế lịch sử mà
mà không bàn cãi –thiên thần, sinh ra từ một nữ trinh, tư cách thần thánh
và sống lại của Giê-su – nay đã đặt thành những nghi vấn.
Không lạ gì, các tín đồ Ki Tô Giáo từ chối không cho phép ai được đặt
nghi vấn trên những gì mà họ coi là những chân lý thần linh. Nếu cuốn Baibơn
là Lời của Gót và giáo hội được sáng lập bởi chính con của Gót, Giê-su,
thì không thể có sự sai lầm nào của giáo hội khi diễn giải cuốn Baibơn.
Đặt vấn đề hay thách thức những nền tảng này là phá ngầm giá trị và uy quyền
của cuốn Baibơn, của Giáo hội, và của Giê-su. Do đó, không giống như những
bộ môn đã trưởng thành, đã vứt bỏ những suy tư sai lầm trong cuộc tranh
đấu để tìm ra chân lý, hầu như ở khắp nơi Ki Tô Giáo đều bác bỏ những
khám phá của sự tìm hiểu khoa học nào mà mâu thuẫn với những quan điểm truyền
thống về cuốn Baibơn. Sự xâm nhập những quan điểm mới vào phạm vi riêng
biệt của cuốn Baibơn và giáo hội được coi như là báng bổ thần thánh và do
đó không thể chấp nhận được.
Đó là khởi đầu của loại đầu óc lỗi thời – một loại đầu óc cố thủ
chống sự thật đặt trên giả định là cuốn Baibơn chứa những kiến thức
chung cùng; một loại đầu óc tuyên bố rằng những gì mà họ coi là thiêng liêng
thì không thể thay đổi được; một loại đầu óc coi uy quyền của mình là chân
lý thay vì coi chân lý là uy quyền của mình. Từ chối không coi những
thông tin mới như là đồng minh để chống những quan niệm sai lầm của tôn
giáo đã giữ những tín đồ Ki-tô trong khung cảnh tâm linh của thế kỷ 17.
[It became obvious to many scholars that the Bible was not flawless and certainly
not perfect. Some portions of Scripture were inferior to others in style,
historical accuracy, and spiritual insight, and some were misleading and counterproductive
to its central message of love. Even more controversial and shocking were
the findings that suggested the Bible contained mythology. What had always
been taken for granted as historical realities – angels, the Virgin birth,
deity and resurrection of Jesus – were now being brought into question.
Expectedly, Christians refused to allow a question mark on what they considered
to be divine truth. If the Bible is the word of God and the Church was created
by God’s own son, Jesus, there could be no error in how the Church interpreted
the Scriptures. To question or challenge these foundations would undermine
the validity and authority of the Bible, the Church, and Jesus. Thus, unlike
other maturing disciplines that discarded faulty thingking in their struggle
to obtain truth, Christianity almost universally rejected the findings of
scientific investigation that conflicted with traditional views about Scripture.
The intrusion of new perspectives into the exclusive sphere of Bible and Church
was viewed as sacrilegious and therefore unacceptable.
It was the beginning of the astrolabe mind – a mind entrenched against truth
on the assumption that the Bible possessed ultimate knowledge; a mind which
declared that what it considered sacred was specifically unalterable; a mind
made authority its truth rather than truth its authority.
The refusal to view new information as an ally against faulty religious assumptions
arrested most of Christianity within the mental framework of the seventeenth
century.]
Và Linh mục James Kavanaugh, trong cuốn "Một Linh Mục Hiện Đại Nhìn
Vào Cái Giáo Hội Đã Lỗi Thời Của Mình" (A Modern Priest Looks At
His Outdated Church) đã viết trong chương 3, “The man who is a Catholic),
về con chiên của ông ta như sau:
Người Ca-tô giáo nhìn thế giới qua một hệ thống ngăn cấm họ là chính
họ. Hắn có thể đi ngoài đường phố và coi mọi khuôn mặt, mọi trường hợp như
là rơi vào đúng loại của nó. Hắn chưa từng bao giờ thực sự biết đến sự
thích thú của tìm tòi, sự kỳ lạ của khám phá, sự lý thú của sự tự do trong
những quyết định cá nhân. Thế giới là một kẻ lạ đối với hắn vì hắn xét
đoán những công dân của thế giới trước khi biết họ hay hiểu họ. Hắn được
dạy phải đọc những gì, suy tư làm sao, và coi ai là bạn.
Tôi quan sát người Ca-tô giáo đến xem lễ và thương hại cho cách đào tạo
đã vặn vẹo đầu óc của hắn và làm méo mó ý thức về tôn giáo của hắn. Hắn
tới vì hắn được các bậc lãnh đạo tôn giáo bảo tới, những người cũng ngoan
ngoãn và vô danh như hắn. Hắn đọc những lời kinh cầu nguyện gói ghém trong
những câu giả tạo và làm những cử chỉ (quỳ gối làm dấu thánh giá. TCN) hoàn
toàn xa lạ với lối sống hiện đại của hắn. Hắn sống trong thời đại của máy
bay phản lực và bom nguyên tử, và cầu nguyện trong thế giới
ma thuật của thời Trung Cổ. Hắn cảm thấy buồn chán trong sự hiện
diện của Thiên Chúa của hắn (trong nhà thờ. TCN). Tuy nhiên hắn vẫn
tới, vì hắn đã được dạy từ khi còn nhỏ là "Hỏa ngục là nơi đầy những
kẻ không đi xem lễ". Hắn quá sợ hãi để thú nhận rằng hắn thật là
buồn chán.
Trong hoạt động thường ngày, mắt của hắn hòa điệu với sự hữu hiệu và tiến
bộ. Hắn tìm những cách có hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn, đường lối mới để
đến với đại chúng, dịch vụ mới để hấp dẫn đồng bào. Hắn có những quan điểm
về hòa bình của thế giới, về cải tiến ngân sách, những suy tư về ngăn ngừa
phạm pháp, về sự lành mạnh tâm thần, và về vấn đề giao thông trong những vùng
có thị trấn lớn. Nhưng về tôn giáo hắn là một người máy chỉ biết đọc lại
những câu trả lời mà người ta đã dạy hắn. Hắn chấp nhận mọi quyết định
của giới linh mục mà không phản đối, có vẻ phân vân khi nghe đến một sự xào
xáo, hâm lại những chân lý mà hắn đã học trong những trường đạo, và ủng
hộ cái giáo hội đã tước đoạt đi đầu óc của hắn.
Người Ca-tô, nam hay nữ, đã mất đi sự tiếp cận với đời sống. Hắn sợ phải
đọc những sách mà người khác đọc, sợ coi những phim truyện phản ánh đời sống
hiện đại...
Giáo hội, giống như là những bậc cha mẹ sợ hãi và giận dữ, vơ vào phần
mình mọi công trạng trong việc giúp đỡ mà giáo hội có thể cống hiến cho con
người. Kết quả là những người Ca-tô bị đối xử như những đứa trẻ và chúng
tiếp tục cư xử như những đứa trẻ...
Người Ca-tô chống thuyết tiến hóa và hắn đã sai lầm. Hắn
tiếp tục ủng hộ chế độ quân chủ lâu sau khi chế độ dân chủ đã khiến cho con
người được tự do. Hắn đẩy mạnh thành kiến chủng tộc cho đến khi những người "ngoại
giáo" chứng tỏ là hắn đã lầm. Hắn chống lấy người ngoại giáo và tiếp
tục chống cho đến ngày nay tuy rằng hắn đang được hưởng những sự tự do mà chế
độ đa tôn giáo đã thắng. Hắn đòi hỏi phải được tự do ý thức nhưng hắn lại
muốn những người Tin Lành phải nuôi con cái trong đức tin của hắn..
Hắn không có quyền hành động theo lương tâm của chính mình, hay có quyền
chọn lựa những nguyên lý sống có thể giúp hắn. Hắn là một tín đồ Ca-tô, một
đứa trẻ đòi người khác chọn lựa thay cho hắn..
Do đó, người Ca-tô không thể biết ý nghĩa thực của sự đối thoại, chỉ
biết đưa ra những luận cứ để chống đỡ cái lập trường mà hắn đã thừa hưởng từ
khi còn nhỏ...
Người Ca-tô là một dịch vụ trả lời có tổ chức mà nhiệm vụ đầu tiên
của hắn là bảo vệ giáo hội của hắn...
(The Catholic man sees the world through a system which forbids him to be
himself. He can walk the city streets and watch every face and every situation
fall neatly into its proper category. He has never really known the joy of
search, the wonder of discovery, the exciting freedom of personal decision.
The world is a stranger to him since he judges its citizens before he really
knows and understands. He has been taught what to read, how to think, and
whom to call his friend.
I watch the Catholic come to Mass and pity the formation that warped his mind
and distorted his religious sense. He comes because he has been told to come
by religious leaders who are as docile and listless as he. He read the prayers
wrapped in stilted phrases and make the gestures totally foreign to his modern
way of life. He lives in a world of jet and atomic bombs, and prays in a world
of medieval magic. He is bored in the presence of his God. And yet he comes,
because he has learned from his youth that hell is the home of those who miss
Mass. He is too frightened to admid he is bored.
In his business his eye is tuned to efficiency and progress. He looks for
shorcuts, for new way to reach the public, for another service that will attract
his fellow man. He has views on world peace, opinions on fiscal reform, thoughts
on crime prevention, mental health, and transportation in megalopolis. But
in religion he is a robot who can only recite the answers he has learned.
He will accept the priestly decisions without protest, appear thoughful when
he hears a rehash of the truths he learned in school, and support the Church
which has robbed him of his mind...
The man or woman who is a Catholic has lost his touch with life. He is afraid
to read the books that others read, to see the movies that reflect our modern
life...
The Church, like a frightened and angry parent, takes too much credit for
the help that it can offer man. Consequently Catholics are treated as children
and they continue to behave as such...
The Catholic man opposed evolution and he was wrong. He supported monarchy
long after democracy had made the people free. He promoted racial prejudice
until "pagans" showed him he was wrong. He fought mixed marriages
and fights them still, although he enjoys the freedoms that pluralism has
won. He asks for freedom of conscience and expects protestants to raise their
children in his faith...
He has not the right to follow his own conscience, or the power to select
the principles that give him help. He is a Catholic, a child, who demands
that another make for him his choice...
Thus, the Catholic man cannot truly know the meaning of dialogue, but only
give arguments to defend the position he has inherited from his youth...
The Catholic man is an organized answering service whose first obligation
is to protect his Church.)
Nếu chúng ta đọc những bài viết của ngay cả một số trí thức Việt Nam Ki-tô
Giáo nói chung, như bác sĩ, giáo sư, luật sư, tiến sĩ, văn sĩ v…v… chúng ta
thấy rõ là những điều Mục sư Ernie Bringas và linh mục James Kavanaugh viết
về con người Ki-tô nói chung, Ca-tô nói riêng, không sai một mảy may. Trình
độ hiểu biết của họ về chính tôn giáo của họ vẫn thuộc thế kỷ 17, và trong
bài không hề có lý luận, chứng minh mà phần lớn là đưa ra những niềm tin cũ
kỹ bất kể đến những tiến bộ về hiểu biết ở ngoài đời về khoa học, triết lý
và về ngay cả tôn giáo của họ.
Vì đã quen dựa vào cặp nạng Thiên Chúa cho nên, sợ mất đi chỗ dựa, họ luôn
luôn xuyên tạc lịch sử để bảo vệ giáo hội của họ, họ luôn luôn đưa ra những
điều lạc lõng đã quá lỗi thời trong cuốn Baibơn (Bible), làm như chúng là
những chân lý, là những khuôn vàng thước ngọc mà mọi người đều phải tin theo.
Và để đánh lạc hướng dư luận họ thường xoay qua chuyện ngoài đề: chống Cộng,
đưa ra vài hành động tiêu cực trong Phật Giáo, hoặc dùng những danh từ hạ
cấp để hạ thấp, bôi nhọ cá nhân, tưởng rằng như vậy thì bộ mặt tôn giáo của
họ sẽ sáng sủa hơn và đọc giả sẽ không còn để ý đến thực chất của tôn giáo
họ.
Để bào chữa cho những chuyện xấu xa tràn ngập trong giáo hội, họ thường
đưa ra những luận điệu rất yếu ớt, ngớ ngẩn, thí dụ như là, Giáo hoàng cũng
là ngưởi, Linh mục cũng là người v..v.. nhưng quên rằng đối với họ thì Giáo
hoàng là “đức thánh cha”, đại diện của Chúa trên trần, có quyền giáng lên
đầu họ cái vạ tuyệt thông hoang đường, không cho họ hiệp thông với Chúa v…v…,
và các Linh mục đều là “Cha” hay “Chúa thứ hai”, còn hơn cả Chúa thứ nhất,
vì trong cái gọi là “bí tích” xưng tội thì là “Cha tha tội cho con” chứ không
phải là “Chúa tha tội cho con”. Chẳng vậy mà đối với Giáo hoàng Benedict XVI,
trong khi cả thế giới lên án là kẻ vô đạo đức, người ta còn đề nghị bắt ông
ta bỏ tù vì tội bao che các linh mục loạn dâm, đưa ông ra tòa vì tội duy trì
bí tích rửa tội cho con nít, người ta cũng chê trách ông ta nói bậy về bao
cao su làm tăng bệnh AIDS đến độ Richard Dawkins chính thức lên tiếng bảo
là ông ta hoặc dốt, hoặc ngu xuẩn, thế mà vào mấy trang nhà Ca-tô Việt Nam
chúng ta thấy các trí thức Ca-tô cứ một điều “đức thánh cha” dạy thế này,
dạy thế nọ, ban tông huấn này, ban tông huấn nọ. Điều này cho thấy chẳng phải
là họ mê muội mà còn dưới cả sự mê muội nữa. Thật là tội nghiệp cho họ. Biết
bao giờ họ mới cất bỏ được cái vòng kim cô do cha truyền con nối đã xiết chặt
trên đầu họ.
Với những sự thực về con người Ki Tô Giáo nói chung như nhận định của Mục
sư Ernie Bringas và Linh mục James Kavanaugh, chúng ta không nên lấy làm lạ
khi thấy trên một số diễn đàn hải ngoại, mỗi khi người Ki Tô đọc điều gì không
đúng với niềm tin mù quáng và bị nhồi sọ của họ thì họ tỏ vẻ rất bực tức,
nổi giận, và thay vì dùng lý luận để phản biện thì họ thường khoác những nhãn
hiệu cho những người viết ra sự thật về tôn giáo của họ, và đôi khi còn dùng
những lời lẽ tục tĩu hạ cấp để miệt thị những người muốn khai sáng đầu óc
của họ. Họ tưởng như vậy là có thể vinh danh tôn giáo của họ nhưng họ không
hề nghĩ rằng những thủ đoạn phi trí thức như vậy chỉ làm cho đọc giả thấy
rõ hơn ảnh hưởng của tôn giáo họ trên đầu óc con người. Họ không biết đến
câu sau đây của William Drummond: “Người nào không chịu lý luận là người
mù quáng, người nào không thể lý luận là người ngu xuẩn, người nào không dám
lý luận là một nô lệ.” (He that will not reason is a bigot; he that cannot
reason is a fool; he that dares not reason is a slave.)
Tại sao họ phải nổi giận nếu niềm tin của họ vững chắc, không gì lay chuyển
nổi. Chẳng qua là vì trong thâm tâm họ rất thiếu tự tin, sợ sự thật, và vì
họ đã bị cấy vào đầu để tin vào những điều không đáng tin, cho nên trước những
bằng chứng bất khả phủ bác về tôn giáo của họ, về những giáo lý sai lầm, về
đạo đức thấp kém của giới chăn chiên, thì họ cảm thấy cần có những phản ứng
gay gắt để tự mình tìm sự an tâm cho chính mình, và tiếp tục sống trong bóng
tối của cái ngục tù tâm linh của cái giáo hội đã tước đi đầu óc của họ, cái
ngục tù có tác dụng nuôi dưỡng một niềm hi vọng về một đời sống vĩnh hằng
sau khi chết trong đầu óc họ..
Vấn đề tự do tôn giáo hay tự do tín ngưỡng là vấn đề rất nhạy cảm. Trên
nguyên tắc tôi tuyệt đối tôn trọng quyền của bất cứ ai tin vào một tôn giáo
nào đó, hay không tin. Ngay cả một người mê tín họ cũng có một quyền nào đó
không thể chuyển nhượng. Họ có quyền nuôi dưỡng và theo đuổi những sự đần
độn ngu dại của họ chừng nào mà họ thích, chỉ miễn là họ không toan tính giáng
lên đầu người khác những sự đần độn ngu dại (imbecilities) của họ bằng những
phương tiện bất chính. Họ có quyền dạy những điều đó cho con cái theo ý họ.
Nhưng họ không thể được hưởng quyền miễn nhiễm trước những sự phân tích của
những người không có cùng những quan điểm như họ. Họ không có quyền đòi hỏi
là mọi người phải tôn trọng phải coi những điều mê tín của họ như là thánh
thiêng. Họ không có quyền rao giảng những điều họ tin ra đại chúng mà không
có sự thách thức của những người không có cùng những quan điểm như họ.
Người ta thường hiểu lầm ý nghĩa của sự tự do tôn giáo, coi tự do tôn giáo
như là một lãnh vực được hưởng quyền miễn nhiễm, không những từ sự kiểm soát
của chính quyền mà cũng còn từ những quan niệm của đại chúng. Nếu như vậy
thì, cái mà chúng ta có không phải là tự do tôn giáo mà là một hình thức
độc đoán, bất khoan nhượng của tôn giáo, không cho phép ai nói gì đến phạm
vi riêng của họ. Như vậy thì, bất cứ một kẻ ngu đần đến đâu, một khi
đã vào trong một “hội thánh” rồi và vì cái “hội thánh” đó mà có những hành
động phản quốc, phi dân tộc, thì cũng không ai có quyền nói gì đến hắn hay
“hội thánh” của hắn sao?
Nếu viện vào vấn đề tự do tín ngưỡng mà không ai
được quyền nói gì về tôn giáo của họ thì ngày nay trong tay của Giáo hội
Ca-tô vẫn còn thanh gươm để giết người và bó củi để thiêu sống người. Tôn
giáo là một phần của xã hội, có liên hệ đến mọi lãnh vực hoạt động trong
xã hội, phải nằm trong luật pháp quốc gia, không thể đứng ngoài hay đứng
trên xã hội. Vì vậy, sự kiểm soát của chính quyền cũng như những quan niệm
phê bình của đại chúng là điều cần thiết để giữ sự hài hòa trong xã hội.
Tại sao trong thế giới Tây phương mà tôn giáo chính là Ki Tô Giáo chúng
ta lại thấy tràn ngập những tác phẩm nghiên cứu, phê bình, chỉ trích Ki Tô
Giáo, từ cuốn Baibơn đến những lý luận thần học của Ki Tô Giáo, từ lịch sử
bạo tàn của Ki Tô Giáo cho đến các thủ đoạn lừa dối quần chúng để vơ vét tài
sản, từ những giáo hoàng vô đạo đức đến những linh mục, mục sư loạn dâm v…v…
và v…v… Cũng nhờ những sự kiện trên mà Tây phương thoát ra khỏi sự thống trị
tư tưởng và thế quyền của Ki Tô Giáo, và cũng vì vậy mà người dân Tây phương
đã tỉnh ngộ, đưa đến sự suy thoái không phương cứu vãn của Ki Tô Giáo ở Tây
phương.
Trong khi đó thì các tín đồ Ki-tô, nhất là Ca-tô giáo, từ các linh mục trở
xuống, vẫn cho mình là ở trong một “hội thánh” nên phải có đặc quyền đặc lợi
và đứng trên xã hội. Họ không biết rằng, hội thánh là Ca-tô giáo tự phong,
đặt vào Kinh Tin Kính và bắt các tín đồ phải tin, chứ trên thực tế chẳng có
gì là thánh cả.. Nhưng cái gì gọi là “hội thánh”?
Giám mục John Shelby Spong đã đặt vấn đề với từ “hội thánh” trong Kinh Tin Kính của Ca Tô Giáo
Rô Ma như sau:
Kinh Tin Kính kết bằng một đoạn hiến dâng cho Thánh Linh, cái mà người
ta nói rằng đã tạo nên giáo hội trong ngày hạ trần của ông ta (được
quy định vào ngày chủ nhật thứ bảy sau ngày chủ nhật Phục Sinh. TCN),
và được cho là vẫn tiếp tục chứa đầy giáo hội với “sự hiện diện của Thiên
chúa”. Thứ nhất, chúng ta cần ghi nhận rằng, tất cả những biểu tượng về
ngày hạ trần của Thánh Linh đều bắt nguồn từ cùng một quan niệm về ba tầng
trời (theo thánh kinh: thiên đường ở trên các tầng mây, mặt đất phẳng
dẹt, đứng yên và là trung tâm của vũ trụ, và hỏa ngục ở dưới mặt đất. TCN) trong
đó người ta nói rằng Giê-su đã bay lên trời (thiên đường). Giả
định đằng sau câu chuyện gửi Thánh Linh hạ trần là cho rằng trái đất là
trung tâm của vũ trụ và Thiên chúa sống ở trên trời có thể đổ xuống những
ân sủng. Thứ nhì, Kinh Kinh Tín khẳng định là thánh linh này sẽ được phân
phát trong các “hội thánh”, liên tục tiếp sinh khí cho “giáo hội Ca Tô thánh
thiện.” Nhưng trong lịch sử giáo hội, giáo hội cũng có những giai đoạn khủng
khiếp ghi dấu bởi những cái gọi là “thánh chiến”, “chiến tranh thiêng liêng
của các thập tự quân”, những tòa hình án xử dị giáo, chính sách vô nhân
đạo chống Do-Thái, và sự công khai giết những người khác giống, kỳ thị phái
nữ và chống những người có khuynh hướng đồng giống luyến ái. Trong
những giai đoạn này, bạo lực quá mức đã được những người tự gọi mình là
tín đồ Ki-Tô dùng bừa bãi vô tội vạ trên cả những dân của Thiên chúa cũng
như những tạo vật của Thiên chúa. Những sự khủng khiếp như vậy đã giáng
xuống đầu nhân loại nhân danh một Thiên chúa của tình yêu thương. Trong
những giai đoạn này thì hội thánh ở đâu? Chúng ta tính sao với những sự
kiện lịch sử này mỗi khi chúng ta đọc câu trên trong Kinh Tin Kính?
[John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, pp. 16-17:
This creed concludes with a paragraph dedicated to the Holy Spirit, who was
said to have created the church at Pentecost and who, it is suggested, continues
to fill the church with “God presence”. First, we need to note that all of
these Pentecost symbols come out of the same three-tired skies into which
Jesus was said to have ascended. The assumption lying behind the story of
the sending of the Holy Spirit is that the earth is the center of the universe
and that onto it the heavenly gifts of the God who lives above the sky can
be poured. Second, the creed asserts that this spirit will issue in the communion
of saints, which will continually renew the “holy Catholic church.”.. But
the church has also had in its history some rather dreadful moments marked
by such things as “holy wars”, “sacred crusades”, inquisitions, inhumane anti-Semitism,
and an overt, killing racism, sexism, and homophobia. In these episodes incredible
violence has been unleashed upon both God’s people and God’s creation by those
who counted themselves as believers. These horrors have even been inflicted
in the name of the God of love. Where was the communion of saints during those
episodes? What do we do with this known history when we recite these words
in this creed?]
Vài lời cuối với những tín đồ Ki-tô Giáo Việt Nam, đặc biệt là các tín đồ Ca-tô Giáo.
Trong 2000 năm, Ki Tô Giáo chiếm địa vị độc tôn ở Âu Châu, dùng
mọi sách lược để truyền bá thuyết Sáng Tạo, từ các cuộc Thánh Chiến, những
Tòa án xử dị giáo, những cuộc săn lùng phù thủy mang về để cho các linh mục
tra tấn rồi mang đi trao cho chính quyền dân sự thiêu sống trước những thánh
giá của giới giáo sĩ đưa lên trước nạn nhân đề cứu vớt linh hồn họ, rồi làm
tiền phong hay theo gót thực dân để đến mê hoặc người dân ở các nước kém phát
triển v…v…
Nhưng kết quả tiến bộ trí thức của nhân loại qua các thời đại như
cuộc Cách Mạng Khoa Học (The Scientific Revolution) vào đầu thế kỷ
17, Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason) vào thế kỷ 18, Thời Đại
Khai Sáng (The Age of Enlightenment) vào thế kỷ 19, và Thời Đại Phân
Tích (The Age of Analysis) vào thế kỷ 20 đã kéo con người Tây phương
ra khỏi Thời Đại Của Đức Tin (The Age of Faith), một thời đại mà
sự thống trị của Ca-tô Giáo La-mã đã đưa Âu Châu vào 1000 tăm tối được biết
dưới tên Thời Đại Trung Cổ (The Middle Ages) hay Thời Đại Hắc
Ám (The Dark Ages), hay Thời Đại Của Sự Man Rợ Và Đen Tối Trí Thức (The
age of barbarism and intellectual darkness).
Do đó trên thực tế, thuyết Sáng
Tạo đã nằm trong quan tài từ cả thế kỷ nay rồi, và thuyết Tiến Hóa đã chính
thức đậy nắp quan tài lại. Mỗi một bằng chứng về thuyết Tiến Hóa, và ngày
nay chúng ta không thiếu trong nhiều bộ môn khoa học, mỗi một sinh vật hóa
thạch được kiếm ra là một cái đinh đóng chặt nắp quan tài lại, và dù những
nhà bảo thủ Ki tô Giáo có muốn cậy nắp quan tài ra qua những chiêu bài “Thiết
Kế Thông Minh” hay chỉ trích một vài sự sai lầm trong sự diễn đạt những kết
quả khám phá khoa học để chứng minh thuyết Tiến Hóa, thí dụ như về sinh vật
hóa thạch Ida, cũng đều thất bại.
Một vài diễn đạt hay quy kết sai lầm về
thuyết Tiến Hóa mà giới khoa học công nhận, theo đúng tinh thần của khoa học,
không có nghĩa là nắp quan tài đậy thuyết Sáng Thế sẽ được mở ra. Những tín
đồ Ki-tô Việt Nam dù có vùng vẫy và ngụy biện cách nào, dùng bất cứ thủ đoạn
nào, xuyên tạc hạ thấp tôn giáo khác, kể cả vơ những cái hay của người khác
vào làm của mình, cũng không thể tháo ra được một cái đinh đã đóng chặt trên
nắp quan tài của thuyết Sáng Tạo.
Quý vị nên biết, những công nhận của Giáo Hoàng John
Paul II và Benedict XVI,
những đại diện của Chúa trên trần, trước thế giới, thuyết Big Bang về nguồn
gốc vũ trụ, thuyết tiến hóa về nguồn gốc con người, chấp nhận con người
không phải là do Gót tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình
tiến hóa dần dần và lâu dài, không làm gì có thiên đường ở trên trời,
hỏa ngục dưới lòng đất.., đã đóng thêm vài cái đinh trên nắp quan tài của
thuyết Sáng Tạo của Ki Tô Giáo. Tây phương và Tòa Thánh đã tỉnh cơn mê, vậy
bao giờ các linh mục và các con chiên mới tỉnh đây? Lẽ dĩ nhiên, không ai
có quyền ngăn cản quí vị tiếp tục tin vào những điều mà chủ chăn
của quí vị trên thực tế đã bác bỏ nhưng vẫn muốn duy trì “đức tin” và “đức
vâng lời” của Ca-tô Giáo trong đầu óc quí vị.
Trần Chung Ngọc
Viết xong ngày 30 tháng 5, 2012
Các bài tôn giáo cùng tác giả
▪
“Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần -
Trần Chung Ngọc dịch
▪
Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới -
Trần Chung Ngọc
▪
Huyền Thoại Cứu Rỗi -
Trần Chung Ngọc
▪
Lịch Sử các Giáo Hoàng -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 -
Trần Chung Ngọc
▪
TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 6 ▪
>>>