TIN KHÔNG NỔI !
Một phê bình Thiên Chúa Giáo Từ Góc Độ Phật Giáo
Trí Tánh Đỗ Hữu Tài dịch từ
Beyond Belief - A Buddhist Critique of Fundamentalist Christianity
của A.L. de Silva
https://sachhiem.net/SACHNGOAI/BEYOND/BYDBLF07.php
|
¿ Mục lục|
bản in | ngày 04 tháng 11, 2009
CHƯƠNG 7 (*)
Phật Giáo - Sự Thay Thế Hợp Lý
Nếu các con không có một vị
sư phụ vừa ý thì hãy lấy Pháp xác thực rồi theo đó mà tu tập. Bởi vì Pháp thì
xác thực, và ngay khi con tu tập đúng đắn, con sẽ được lợi lộc và hạnh phúc lâu
dài. (Đức Phật)
Thiên Chúa giáo dựa trên một
vài điều được cho là sự kiện lịch sử (giáng sinh, miễn nhiễm, phục sinh, v.v…)
mà chứng liệu duy nhất chỉ là một tài liệu được cho là đáng tin cậy có tên là
Kinh Thánh. Nếu những sự kiện nầy bị chứng minh là chưa bao giờ xảy ra, và nếu
tài liệu ghi chép các sự kiện đó tỏ ra không đáng tin, thì giáo lý Thiên Chúa
giáo sẽ sụp đổ. Trong cuốn sách này, chúng ta đã từng thấy trong trường hợp tốt
nhất thì các khẳng định đó vẫn rất đáng ngờ, và trong trường hợp tệ nhất thì các
khẳng định đó rất sai lầm.
Khi chúng ta xem xét giáo lý
của Đức Phật, chúng ta nhận ra một tình trạng hoàn toàn khác hẳn. Nếu ngay cả
chúng ta có chứng minh được Đức Phật chẳng bao giờ hiện diện hay có các sai lầm
trong kinh Phật chăng nữa, thì điều này cũng không thể làm tác hại đến Phật
giáo.
Tại sao vậy? Vì Phật giáo chủ
yếu không phải là về Đức Phật lịch sử hay là về những biến cố xảy ra trong quá
khứ; mà là về đau khổ của con người, nguyên nhân của khổ đau, và làm thế nào để
vượt thắng khổ đau hầu con người có thể được tự do, hạnh phúc và sáng chói. Nếu
chúng ta muốn kiểm chứng hay thông hiểu Phật giáo, chúng ta không nhặt nhạnh
trong kinh điển rồi cãi nhau về ý nghĩa của từ nầy hay đoạn kia, mà chúng ta cần
bén nhạy với chứng nghiệm của chúng ta.
Hãy khảo sát bốn nguyên lý làm
nền tảng giáo lý của đạo Phật.
(i) Sau khi chết chúng ta
tái sinh
Tín đồ Thiên Chúa giáo tin rằng
sau khi chết con người chỉ có thể có một trong hai số phận – Thiên đàng hay
Địa ngục. Họ tin rằng các số phận này là vĩnh hằng và ta chịu số phận nào là do
Chúa Trời phán xét và định đoạt.
Phật giáo dạy rằng khi
chết đi ta có nhiều số phận (cõi trời, địa ngục, cõi người, súc sanh, v.v…) Giáo
lý đó dạy rằng những số phận nầy không vĩnh hằng và rằng sau khi chấm dứt
cuộc sống ở mỗi cõi, thì sẽ chết đi và đi qua cõi khác. Giáo lý đó còn dạy rằng
số phận mỗi người tuỳ theo nghiệp của người đó (có nghĩa là tổng cọng tất cả
hành động tốt xấu của người đó đã làm trong đời mình). Điều này có nghĩa là mọi
người tốt, bất kể họ theo tôn giáo nào, sẽ có một số phận tốt đẹp. Điều đó cũng
có nghĩa là ngay cả những ai đã làm điều xấu cũng có cơ hội để trở thành tốt
trong kiếp sau.
Tín đồ Thiên Chúa giáo
chế giễu ý tưởng tái sinh và bảo chẳng có bằng cớ nào là điều đó xảy ra. Nhưng ý
tưởng tái sinh thì không khác mấy với tin tưởng thế giới bên kia của Thiên Chúa
giáo - nếu người ta sau khi chết có thể trở thành thiên thần trên thiên đàng,
thì tại sao họ lại không thể trở thành con người trên trái đất? Và để làm chứng
cớ, chắc chắn không có chứng cớ cho lý thuyết kiếp sau của Thiên Chúa giáo cả,
trong lúc ta có vài chứng cứ rằng con người có thể tái sinh (xin xem sách “Hai
mươi Trường hợp Gợi ý về Tái sinh” - Twenty Cases Suggestive of Reincarnation,
University Press of Virginia, Charlotteville U.S.A., 1975).
(ii) Cuộc
sống là đau khổ
Nguyên lý tiếp
theo mà Phật giáo căn cứ trên đó là ý niệm cho rằng cuộc sống là đau khổ. Mặc dù
tín đồ Thiên Chúa giáo cáo buộc Phật tử là yếm thế khi nói như thế, nhưng tình
trạng không vừa ý vốn là bản chất hằng có của cuộc sống thì đã thực sự được xác
nhận bởi Kinh Thánh: “Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian” (Jn,
16:33); “Nhưng loài người sinh ra để bị khốn khó, Như lằn lữa bay chớp
lên không” (Job, 5:7); “Mọi thứ đều đầy dẫy buồn chán” (Ecc, 1:8); “mặt
đất khóc than và khô héo, thế giới tàn lụi và héo úa, thiên đàng cũng cùng héo
úa theo mặt đất” (Is, 24:4). Nhưng trong lúc cả hai tôn giáo đều đồng ý về
điểm này thì lại không đồng ý tại sao đau khổ hiện diện.
Thiên Chúa giáo
hoàn toàn dựa trên một huyền thoại để giải thích nguồn gốc của sự xấu xa và đau
khổ, họ khẳng định nguồn gốc này là do Adam và Eva đã ăn trái táo cấm của Cây
Hiểu biết. Phật giáo xem đau khổ là một hiện tượng tâm lý, xuất phát từ một
nguồn gốc tâm lý – tham luyến, khao khát và dục vọng. Và kinh nghiệm cũng đã
mách bảo cho chúng ta như thế. Khi chúng ta muốn điều gì mà không thực hiện
được, chúng ta thất vọng, và thiếu thốn càng mạnh thì thất vọng càng lớn. Ngay
cả khi chúng ta đạt được điều chúng ta muốn thì chẳng mấy chốc, chúng ta lại
chán và bắt đầu muốn thứ khác. Ngay cả đau khổ thân xác cũng do ham muốn, vì ý
muốn ham sống mãnh liệt quá nên đã làm cho chúng ta tái sinh, và khi tái sinh
chúng ta trở thành đối tượng của bệnh tật, tai nạn, tuổi già v.v..
Phật giáo dạy
ngay cả hạnh phúc nơi cõi trời cũng không trường cửu và không hoàn hảo, một sự
thật mà chính Kinh Thánh cũng đã khẳng định. Kinh Thánh bảo chúng ta rằng Quỷ
Satan nguyên là một thiên thần (tên là Lucifer) trên thiên đàng nhưng hắn đã nổi
loạn chống lại Chúa Trời (có nghĩa là hắn đã từng bất mãn) và bị ném ra khỏi
thiên đàng (có nghĩa là sự hiện hữu trên thiên đàng không nhất thiết phải là
vĩnh cửu). Nếu đã từng ở thiên đàng mà người ta vẫn có thể rơi ra khỏi đó, thì
điều này chứng tỏ rằng thiên đàng không hoàn hảo và không vĩnh hằng như tín đồ
Thiên Chúa giáo khẳng định (xem Is, 14:12-15, II Pet, 2:4, Jude, 6, Rev, 12:9).
(iii) Có
thể vượt qua được đau khổ
Nguyên lý
thứ ba mà Phật giáo dựa lên đó là ý niệm ta có thể giải thoát khỏi đau khổ. Khi
dừng được tham luyến và ham muốn, đời người sẽ trở nên mãn nguyện và hạnh phúc
hơn, và lúc chết sẽ không tái sinh nữa. Trạng thái được giải thoát hoàn toàn
khỏi đau khổ này được gọi là Niết bàn và theo Đức Phật mô tả thì đó là “cực lạc”
(Dharnmapada, 203). Tín đồ Thiên Chúa giáo thường nghĩ lầm rằng Niết bàn là hư
không và cáo buộc Phật Giáo có tính hư vô. Sự hiểu lầm này nảy sinh do họ thiếu
khả năng nhận thức một kiếp sau tinh tế hơn thiên đàng ngờ nghệch của họ - một
nơi “trên đó” (Ps, 14:2, 53:2) có cửa nẻo (Gen, 28:17, Rev, 4:1, 2
Kg, 7:2, Mal, 3:10), nơi Chúa Trời ngự trên ngai vàng (Rev, 4:2) bao
quanh là tín đồ Thiên Chúa giáo trong xiêm y đẹp đẻ với vòng hoa trên đầu và
chơi kèn (Rev, 4:4). Đức Phật dứt khoát nói rằng Niết bàn không phải là hư
không.
Khi người ta
thanh thản đầu óc thì thần linh cũng không lần ra dấu vết họ, dù thần linh
có nghĩ: “Đây là ý thức gắn bó với đấng giác ngộ (vị Phật)” Và tại sao? Vì
không thể lần theo dấu vết của đấng giác ngộ được. Mặc dù Ta đã nói như thế,
nhưng vẫn có một số nhà ẩn dật và các bậc thầy tôn giáo xuyên tạc ta, trái với
sự thật, nói rằng: “ Nhà sư Gotama (Đức Phật) là người theo thuyết hư vô, ông ta
dạy cắt bỏ, huỷ diệt, làm biến mất thực thể hiện tại.” Nhưng đó lại chính là
điều không phải Ta nói. Không nói bây giờ, không nói trong quá khứ, Ta chỉ
giảng về đau khổ và sự vượt qua đau khổ (Majjhima Nikaya, kinh số 22).
Nhưng Ngài cũng
nói rằng Niết bàn không phải là “cuộc sống vĩnh hằng” thô thiển như được mô tả
kiểu Thiên Đàng trong Thiên Chúa giáo. Đấy là một trạng thái cực kỳ tinh
khiết và hạnh phúc mà không một ngôn ngữ bình thường nào có thể mô tả thỏa đáng.
Tín đồ Thiên
Chúa giáo đôi lúc quả quyết rằng Phật giáo tự mâu thuẫn với chính mình vì khi
ham muốn đạt được Niết bàn, người Phật tử đã củng cố chính điều làm ngăn chặn họ
đạt được Niết bàn. Quan điểm này đã được nêu ra vào thời Đức Phật, và được
trưởng môn đệ cùa ngài là Ananda trả lời.
Một
nhà sư hỏi ngài Ananda: “Mục đích sống một cuộc sống linh thiêng theo sư phụ
Gotama là gì?” – “Đấy là từ bỏ dục vọng” – “Có một phương pháp, một cách tu tập
nào để theo đó hầu từ bỏ được dục vọng không ?” – “Có một phương pháp là bằng
các phương tiện của sức mạnh khao khát tâm linh, nghị lực, tư duy và suy xét
với sự tập trung và nỗ lực” – “Nếu như thế, bạch ngài Ananda, có phải là một
công việc không có kết thúc. Bởi vì thoát một dục vọng bằng một dục vọng khác là
không thể được” - “Thế thì ta hỏi ngươi một câu hỏi mà ngươi có thể trả lời
theo ý thích của ngươi. Trước khi đến đây, có phải ngươi đã có ham muốn, nghị
lực, suy nghĩ và cân nhắc để đến hoa viên này không? Và khi đến được rồi, có
phải ham muốn đó, nghị lực đó, tư duy đó và cân nhắc đó đã chấm dứt không?” -
“Vâng, đã chấm dứt” – Vậy thì, đối với ai đã diệt được các vẩn đục, một khi đạt
được giác ngộ, lòng khao khát đó, nghị lực đó, tư duy đó và suy xét đó để mong
được giác ngộ, bấy giờ sẽ chấm dứt” (Samyutta Nikaya,
Sánh số 7, kinh số 15).
(iv) Có một
phương pháp để vượt qua đau khổ
Điều sau cùng
của bốn nguyên lý đã tạo ra nền móng cho Phật giáo là chỉ cho chúng ta làm thế
nào để loại trừ sự thèm muốn và nhờ đó giải thoát khỏi mọi đau khổ cả trong đời
này lẫn trong tương lai. Ba nguyên lý đầu là làm thế nào Phật tử quán sát cuộc
sống trong thế giới và tình trạng gay go của con người, còn nguyên lý sau cùng
là điều mà Phật tử quyết định sẽ ứng xử với cuộc sống và tình trạng đó. Phật tử
đối phó lại với đau khổ bằng cách sống theo Bát Chánh Đạo. Hệ thống tu tập thực
tế và có giá trị phổ quát này bao gồm sự triển khai Chánh kiến, Chánh tư duy,
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mệnh, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.
Chúng ta sẽ xem xét vắn tắt từng bước này.
Chánh kiến
Nếu chúng ta
cố chấp cứ tin rằng những xấu xa và đau khổ là do tội mà Adam và Eva đã làm, hay
gây ra do ma quỷ, chúng ta sẽ không bao giờ vượt qua chúng được. Nhưng khi chúng
ta hiểu biết rằng chính chúng ta đã tự gây ra đau khổ cho chính mình vì ngu si
và lòng ham muốn của chúng ta, thì chúng ta đã đạt được bước thứ nhất trong việc
vượt qua đau khổ. Biết được nguồn gốc thực sự của một vấn đề là bước đầu để vượt
qua được nó - Và tin không mà thôi thì chưa đủ – chúng ta phải phấn đấu
để hiểu nữa. Hiểu biết đòi hỏi sự thông minh, sự quán sát thận trọng, cân
nhắc sự kiện, đầu óc khai mở, và trong khi cố gắng phát triển nội quan, những
phẩm chất kể trên sẽ được mạnh thêm.
Chánh
tư duy, Chánh ngữ và Chánh mệnh
Ba bước kế tiếp
về Bát Chánh Đạo thể hiện giáo lý đạo đức của Phật Giáo. Tín đồ Thiên Chúa giáo
thường cố gắng gây ấn tượng rằng chỉ giáo lý của họ mới là đạo đức, mang đến
tính hiền lành, tình thương và sự tha thứ. Tuy nhiên, 500 năm trước Giê-su, Đức
Phật đã dạy một nền đạo đức lấy tình thương làm trọng tâm. Nền đạo đức nầy cũng
tốt như, và trong vài phương diện còn hoàn chỉnh hơn, đạo đức của Thiên Chúa
giáo.
Để tu tập Chánh
Tư duy, trí tuệ chúng ta phải tràn đầy tư duy của tình thương và lòng trắc ẩn.
Phát huy một
tâm đầy tình thương, hãy động lòng thương và kềm chế bằng đức hạnh, đánh thức
nghị lực của các ngươi, hãy kiên quyết trong tinh tiến
(Theragatha, 979).
Với một
tâm đầy tình thương, ta cảm thấy lòng thương yêu toàn thể thế giới ở trên,
ở dưới và ở hai bên, không hạn chế nơi nào, tràn đầy một lòng tốt vô biên,
trọn vẹn và phát huy tốt; bất kỳ hành vi nào bị kềm chế mà ta đã thực hiện
đều chẳng còn vấn vương trong đầu óc ta (Jataka
37,38).
Cũng
như nước làm mát dịu cả điều tốt lẫn điều xấu và rửa sạch mọi dơ bẩn và bụi
bặm, các ngươi phải phát huy tâm yêu thương đối với bạn bè cũng như thù địch,
và khi đã đạt được sự hoàn thiện trong tình thưong các ngươi sẽ được giác ngộ
(Jataka Nidanakatha, 168-169).
Trong khi tu
tập Chánh ngữ, chúng ta chỉ nên dùng lời nói của mình theo cách nào để tăng tiến
sự lương thiện, lòng tốt và sự hoà thuận. Đức Phật giảng về Chánh ngữ như thế
này.
Nếu lời nói
có năm đặc tính thì đấy là nói đúng, không nói xấu, không bị những người khôn
ngoan bắt lổi hay kết tội, nói đúng lúc, nói chân thật, nhẹ nhàng, đúng quan
điểm và lấy tình thương làm động cơ thúc đẩy (Anguttara Nikaya, Book of Fives, kinh số 198).
Với một sự hoàn
mỹ và toàn diện rất đặc thù của Đức Phật, ngài mô tả một người đang phấn đấu để
phát huy Chánh ngữ như thế này.
Từ bỏ nói
dối, ta trở nên kẻ nói thật thà, đáng tin cậy, làm cho người khác tin tưởng, có
thể nương tựa được, và không còn là kẻ lừa dối nữa.
Từ bỏ lời vu
khống, ta không còn nghe chỗ này rồi lập lại chỗ kia, nghe chỗ kia rồi lập lại
chỗ này, nhằm chia rẽ người khác. Như thế, ta là kẻ hoà giải những ai chia rẽ và
kết hợp những ai đã đoàn kết, hoan hỉ vui thích trong an bình và nâng cao sự an
lạc, an lạc là động cơ của lời nói của ta.
Từ bỏ lời
cộc cằn, ta nói những gì không ai trách cứ, dễ nghe, dễ đi vào lòng người, tao
nhã, được mọi người ưa thích.
Từ bỏ những
câu chuyện vô bổ, ta nói đúng lúc, nói về sự kiện, đúng vấn đề, nói về Pháp và
giáo quy, những lời nói quý giá đáng trân trọng, hợp thời, có lý, rõ ràng và nối
kết được với mục đích. (Dight Nikaya, kinh số 1).
Chánh mệnh đòi
hỏi chúng ta tránh sát sanh, trộm cắp, tà dâm và tu tập tính hoà nhã, khoan
dung, tự chủ và có ích đối với người khác.
Chánh nghiệp
Để tu tập Chánh
nghiệp, ta sẽ làm những việc bổ ích hợp luân lý và sản xuất những gì không có
hại cho xã hội và môi trường. Một người chủ sẽ trả công sòng phẳng cho nhân
công, tôn trọng họ trong đối xử và đảm bảo điều kiện làm việc an toàn cho họ.
Ngược lại, người nhân công sẽ làm việc trung thực và cần cù (xem Dight
Nikaya, kinh số 31). Ta cũng phải sử dụng lợi tức của mình một cách có trách
nhiệm – vừa đủ cho nhu cầu của mình , dành một phần cho quỹ tiết kiệm và một
phần cho việc bố thí.
Chánh tinh
tấn
Đức tin của tín
đồ Thiên Chúa giáo về Chúa Trời và về loài người làm cho nỗ lực tự thân của con
người trở thành tầm thường. Bản tính của nhân loại là sa đoạ và con người là
những kẻ có tội xấu xa.
Làm sao loài
người được công bình trước mặt Chúa Trời. Kẻ nào bị người nữ sinh ra, sao cho là
trong sạch được? (Job, 25:4).
Lòng người
ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa (Jer,
17:9).
Phương chi
loài người giống như con sâu, Và con cái loài người giống như một con giòi bọ
(Job, 25:6)
Do đó, theo tín
lý Thiên Chúa giáo, loài người không thể có một bản chất tốt được, nên không thể
tự cứu rỗi qua nỗ lực bản thân họ mà chỉ qua sự chiếu cố của Chúa Trời mà thôi.
Phật giáo, ngược lại, hiểu rằng con người chủ yếu có tánh thiện và trong những
điều kiện tốt đẹp, con người hầu như sẽ làm việc thiện hơn là điều xấu (xem
Milindapanha, 84). Trong Thiên Chúa giáo, con người không những chịu trách nhiệm
về điều xấu mà họ đã phạm trong cuộc sống mà còn chịu trách nhiệm, và có thể bị
trừng phạt, do tội lổi của Adam và Eva.
Trong Phật
giáo, con người chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của họ, và vì con người tính bổn
thiện, nên điều này có nghĩa rằng nỗ lực, sự cố gắng và cần cù là rất quan
trọng. Đức Phật dạy rằng:
Hãy
từ bỏ điều sai. Vì điều đó có thể thực hiện được. Còn nếu không thực hiện được,
ta cũng sẽ không thúc dục các con làm đâu. Nhưng vì điều đó có thể thực hiện
được, nên ta dạy các con: “Hãy từ bỏ điều sai trái”. Nếu từ bỏ điều sai trái mà
mang lại mất mát và buồn phiền, ta sẽ không thúc dục các con làm điều đó. Nhưng
bởi vì nó mang lại lợi ích và hạnh phúc, nên ta thúc dục các con: “Hãy từ bỏ
điều sai trái”.
Hãy trau dồi
việc thiện. Vì điều đó có thể thực hiện được. Còn nếu không thực hiện được, ta
đã không thúc dục các con làm thế. Nhưng vì điều đó có thể thực hiện được, nên
ta dạy các con: “Hãy trau dồi việc thiện.” Nếu trau dồi việc thiện mà mang lại
mất mát và buồn phiền, ta sẽ không thúc dục các con làm điều đó. Nhưng bởi vì nó
mang lại lợi ích và hạnh phúc, nên ta thúc dục các con: “Hãy trau dồi việc
thiện. ”(Anguttara Nikaya, Book of Twos, kinh số 9).
Chánh niệm
và Chánh định
Hai bước chót
của Bát Chánh Đạo cùng quy chiếu về sự quán tưởng, một cách tu tập có ý thức và
nhẹ nhàng về trước hết là những hiểu biết về tâm, rồi điều phục tâm, và sau cùng
là chuyển hóa tâm. Mặc dù từ “quán tưởng” xuất hiện khoảng hai mươi lần trong
Kinh Thánh , nhưng nó chỉ đơn giản liên quan đến sự suy gẫm các đoạn kinh (e.g.
Josh, 1:8). Kinh Thánh có vẻ hầu như hoàn toàn không có gì về những kỹ thuật
quán tưởng tinh vi được tìm thấy trong kinh Phật
Vì thế, khi
tín đồ Thiên Chúa giáo bị lây nhiểm các dục vọng xấu xa hay rắc rối vì những suy
nghĩ ngang ngạnh tiêu cực, gần như tất cả họ có thể làm là cầu nguyện mạnh hơn.
Sự thiếu quán tưởng đó cũng là lý do tại sao tín đồ Thiên Chúa giáo thường múa
may kích động và thiếu phẩm cách thâm trầm là đặc tính nơi người Phật tử.
Chúa Trời bảo “Hãy yên lặng
và biết ta là Chúa Trời” (Ps, 46:10) nhưng tín đồ Thiên Chúa giáo hình như
không thể ngồi yên lặng, nói chi đến chuyện giữ cho tâm trí yên tĩnh, vì thế có
lúc Chúa Trời cũng nói “Hãy trầm ngâm với con tim các ngươi trên giường và
hãy yên lặng” (Ps, 4:4) thì đấy chính là điều Phật tử đã làm từ lâu khi họ
quán tưởng. Nhưng những buổi lễ và cầu kinh của Thiên Chúa giáo thường giống một
buổi hoà nhạc rock trong một bệnh viện thần kinh, với vị mục sư hét to và vung
tay mạnh mẽ trong lúc những tín đồ trong giáo đoàn lắc lư tới lui, nói líu lo,
khóc ròng và vổ tay.
Ưu điểm lớn nhất của Phật giáo
không chỉ là những lời khuyên chúng ta phải trầm tĩnh, an bình, giải thoát các
dục vọng phóng túng và tự nhận thức, mà còn chỉ cho chúng ta làm thế nào
để phát huy những trạng thái đó.
Có những quán tưởng để cảm
nhận tình trạng thanh tịnh, để giảm bớt các vẩn đục của tâm, để cổ vũ những
trạng thái tinh thần tích cực, và để thay đổi các thái độ ứng xữ.
Và dĩ nhiên khi tâm thanh tịnh
và thoát khỏi định kiến, những sở tri và những vọng tưởng, thì hình như ta thấy
được bản chất đích thực của sự việc. Cho nên thực chẳng đáng ngạc nhiên khi
những kỹ thuật quán tưởng mà Đức Phật đã dạy từ lâu thì bây giờ lại được các nhà
tâm lý học, phân tâm học và tư vấn tâm lý sử dụng.
Người dịch: T.T.
(*) [Trích từ Chương 7 của tác
phẩm “Tin Không Nổi - Một Phê bình Thiên Chúa giáo Bảo thủ từ góc độ Phật
giáo” (Beyond Belief – A Buddhist Critique of Fundamentalist Christianity)
của A.L. de Silva.]
nguồn https://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=4134