| 30 tháng 4, 2008 |
Tại Sao Những Bậc Chăn Chiên Như
Linh Mục MAI ĐỨC VINH Lại Không Thể Lương Thiện Đi Một Chút ?
Mới đây tôi nhận được từ trang nhà
sachhiem.net
chuyển cho một điện thư từ một đọc giả nhắn lời như sau:
Subject: bài giảng LM Mai Đức Vinh.
Nhờ SH chuyển giùm bài nầy đến GS Trần Chung Ngọc, cảm tạ.
https://www.nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html
Tôi không hiểu ý người này muốn gửi bài giảng “Đạo Nào Cũng Giống Nhau” của LM Mai Đức
Vinh cho tôi để làm gì. Có thể vị này muốn tôi đọc xong thì đi “rửa tội trở lại đạo” [sic], cũng có thể vị này thấy bài giảng của một "đấng Chăn chiên" không có chút liêm sỉ, muốn xuyên tạc và hạ thấp Phật Giáo và Đức Phật đến không chịu được, nên muốn chia xẻ với tôi. Dù sao tôi cũng xin gửi lời cảm ơn quí đọc giả trên rất nhiều.
Đọc xong rồi thì tôi lại không thể không phê
bình, phê bình một cách bất đắc dĩ, vì thực ra bài của LM Mai Đức Vinh không có
gì nhiều để mà phê bình, vì tất cả chỉ là một bài truyền đạo rẻ tiền, rất rẻ
tiền, và rất quen thuộc nằm trong sách lược truyền đạo ngày nay của Ki Tô Giáo
nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-ma nói riêng: xuyên tạc hạ thấp tôn giáo khác, mê hoặc
con người về một Thiên Chúa không tưởng, và nhận vơ những truyền thống văn hóa
dân gian vào làm của mình. Chúng ta đã thấy hiện tượng này xảy ra ở khắp nơi,
đặc biệt ở trong những xã hội Phật Giáo, như ở Thái Lan, và Ấn Giáo, như ở Ấn
Độ.
Bài giảng của LM Mai
Đức Vinh thực ra chẳng giảng cái gì hết. Mục đích truyền đạo theo sách lược
trên là ở phần đầu và phần cuối. Còn những đoạn đưa ra song song những sự khác
nhau giữa Phật Giáo và Ca-Tô Giáo Rô-ma thì chỉ là những điều thông thường ai
cũng biết và có tính cách trang trí, ra cái điều ta đây biết nhiều nhưng lại
biết chưa đến nơi đến chốn. Về phần Ca-Tô Giáo Rô-ma trong bài, những gì mà LM
Mai Đức Vinh viết là về đức tin trong Ca-Tô Giáo Rô-ma, không phải thuộc loại
nghiên cứu trong lãnh vực học thuật, một lãnh vực tiêu chuẩn của giới trí thức
ngày nay.
Một đức tin đã được cấy vào đầu từ nhỏ, hay đã chọn để mà tin, thì
không cần thiết phải dựa trên những bằng chứng lịch sử, bằng chứng khoa học.
Không có một công thức nào, một lý luận trí thức nào, hay một bằng chứng khoa
học nào có thể mang ra để bác bỏ một đức tin, trừ khi chính tự tín đồ, qua sự
hiểu biết chân thật, nhận thức được rằng đức tin của mình chỉ là một hi vọng
hoang tưởng. Điều này đã xẩy ra trong các xã hội văn minh tân tiến, và vì vậy
trong những xã hội này chúng ta thấy tràn ngập những tác phẩm nghiên cứu về
lịch sử, giáo lý các đạo giáo. Việt Nam chúng ta cũng có nhiều người “trở lại
dân tộc”, điển hình là Charlie Nguyễn và Giuse Phạm Hữu Tạo. Bài phê bình ngắn
này không ngoài mục đích đưa ra vài nhận xét về bài giảng của LM Mai Đức Vinh
để chứng minh vài nhận xét tổng quát ở trên.
Trong lãnh vực học
thuật mà những công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh trong mọi bộ môn, kể cả tôn
giáo, chỉ có mục đích càng ngày càng kiện toàn và làm cho toàn bộ kiến thức của
nhân loại phong phú hơn, tôi cũng hi vọng bài phê bình này có thể đóng góp một
phần rất nhỏ nhoi trong quá trình tiến hóa tư duy tự nhiên của người dân Việt
Nam ta.
۩
Bài giảng của LM Mai
Đức Vinh dài tới gần 12 trang, phần lớn thuộc loại “liệt kê” song song những
điều khác nhau trong hai tôn giáo: Phật Giáo và Ca-Tô Giáo, khác nhau giữa Đức
Phật và Chúa Giê-su, khác nhau về niềm tin trong Ca-Tô Giáo và trong Phật Giáo,
khác nhau về lối sống đạo trong Ca-Tô Giáo và trong Phật Giáo, nhưng không hề
bình luận, giải thích, cho nên đối với tôi không có gì lạ, vì đó là những điều
mà thường ai cũng biết, nếu người đó đã để tâm tìm hiểu về Ki Tô Giáo và Phật
Giáo. Tuy nhiên, tôi thấy có vài đoạn ông viết về chính Ca-Tô Giáo của ông đã
chứng tỏ rằng ông không hề cập nhật hóa những kiến thức mới về chính đạo của ông
ta, và trong đó có đôi điều về Đức Phật ông ta không bao giờ nên viết, dù là
trích dẫn của người khác.
Thật vậy, tuy rằng đầu
đề bài giảng là “Đạo nào cũng giống nhau", nhưng LM Mai Đức Vinh đã cố
gắng bác bỏ sự giống nhau này, gọi là để so sánh hai tôn giáo chính ở Việt Nam
là Phật Giáo và Ca-Tô Giáo Rô-ma, nhưng thực ra chẳng so sánh cái gì, mà chỉ đưa
ra những quan điểm rất kiêu căng trịch thượng như: Giê-su là Thiên Chúa, còn Đức
Phật chỉ là người trần, ý tưởng của Đức Phật là dẫn con người đến gần Giê-su
[sic], Chúa Giê-su cao hơn Đức Phật [sic],v..v.. tất cả đều dựa trên cuốn Kinh
của Ki tô giáo [The Christian Bible] và những khẳng định vô trách nhiệm
(affirmation gratuite) của một vài nhà thần học. Sau đây tôi sẽ đi vào phần phê
bình những điểm trên. Còn phần LM Mai Đức Vinh đưa ra song song những điểm khác
nhau giữa Phật Giáo và Ca-Tô Giáo tôi sẽ không phê bình tuy rằng trong đó cũng
có những điều bất cập về cả hai tôn giáo.
Mở đầu, LM Mai Đức Vinh
viết:
LM Mai Đức Vinh:
“Đạo nào cũng giống nhau" là một câu nói rất quen nghe nơi người Á Châu,
cách riêng giữa người Việt Nam và cách riêng nữa nơi những người ngoài Công
giáo. Người ta nói với nhau khi câu chuyện chạm đến vấn đề tôn giáo, mà đặc
biệt: khi một người được mời vào đạo Công giáo; hay khi người ta có con
cháu, bạn hữu đi học giáo lý để gia nhập Giáo Hội. Nói như thế bởi vì trên 90%
những người trưởng thành học đạo với tôi trong 15 năm qua đều đã nghe bà cô, bà
bác hay anh chị em bạn rỉ tai: "Ðạo nào cũng giống nhau, đạo nào cũng dạy làm
lành lánh dữ. Vậy thì cha mẹ theo đạo nào, con cháu theo đạo đó, tội gì phải
vào đạo Công giáo. Ðã đi làm vất vả còn phải đi học giáo lý. Ðạo nào cũng
giống nhau. Chỉ cần mình sống ngay lành là đẹp lòng Trời rồi."
Trần Chung Ngọc: Tôi tin rằng LM Mai Đức Vinh không mấy thành
thực, nếu không muốn nói là thiếu lương thiện, khi viết câu trên vì câu “Đạo
nào cũng giống nhau, đạo nào cũng dạy làm lành lánh dữ." thường là do người
Ca-Tô Giáo Rô-ma nói để chống đỡ trước sự phổ biến những sự kiện lịch sử không
đẹp của Ca-Tô Giáo Rô-ma chứ không phải của người ngoại đạo, nhất là của những
người theo đạo Phật vì chẳng có Phật tử nào lại đi làm cái chuyện thu nhặt tín
đồ một cách vô trí như vậy. Mặt khác, Ca-Tô Giáo Rô-ma thường “dụ” người
vào đạo chứ không “mời”. “Theo đạo có gạo mà ăn” là một câu nói quen
thuộc trong dân gian Việt Nam. Hơn nữa, chính sách truyền bá đạo bằng bạo lực, dối trá, và sách
lược tiêu diệt các nền văn hóa khác là những sự kiện lịch sử mà chính giáo hội
Ca-tô cũng không thể phủ nhận. Chúng ta đã biết, để xoa dịu dư luận thế giới,
Giáo Hoàng John Paul II trước đây đã thực hiện nhiều chuyến công du tới các nước
trong Thế Giới Thứ Ba để xin lỗi những nước này về những chính sách truyền đạo
của giáo hội Ca-tô bằng bạo lực và cưỡng ép dân bản xứ theo đạo, bằng sự phá hủy
các nền văn hóa địa phương, phá hủy đền đài, chùa miếu, tượng thờ của các tôn
giáo khác v...v... đồng thời kêu gọi giáo dân phải sám hối về những tội
ác và bất hạnh mà giáo hội Ca-tô đã gây ra cho nhân loại.
۩
Mục đích của LM Mai Đức Vinh khi viết bài trên là để
“tìm hiểu câu "Ðạo nào
cũng giống nhau, cũng dạy làm lành lánh dữ" vào việc so sánh Công giáo với Phật
giáo trên ba điểm chính”:
1) Người sáng lập
đạo.
2) Niềm tin.
3) Sống đạo.
nhưng thực ra lại không
phải là “so sánh” mà chỉ là liệt kê những sự khác nhau về ba đề mục trên, kèm
theo những đoạn với mục đích truyền đạo rất rõ ràng.. LM Vinh viết:
LM Mai Đức Vinh:
Chúng ta có thể khẳng định ngay rằng: đối chiếu
Ðức Kitô và Ðức Phật, câu nói "Ðạo nào cũng giống nhau" không đúng. Xét về "Niềm
tin," câu vừa nói cũng không đúng. Vì căn bản của quan điểm về Thiên Chúa
(Thượng Ðế quan), về con người (nhân sinh quan) và về vạn vật (vũ trụ quan) giữa
Công giáo và Phật giáo thật khác nhau. Xét về "Sống đạo," câu nói trên kia không
hoàn toàn đúng, bởi vì trong cách sống đạo giữa Công giáo và Phật giáo có nhiều
điểm giống nhau về sự kiện nhưng lại rất khác nhau về ý nghĩa.
Lẽ dĩ nhiên ai cũng biết, làm sao mà đúng được, vì Phật
Giáo là đạo của “Trí Tuệ”, nghĩa là tín đồ phải tận dụng khả năng tư duy của con
người để đi đến trình độ nhìn Vạn Pháp như chúng chính là như vậy (Như Thực Tri
Kiến), còn Ca-Tô Giáo là đạo của “Đức Tin” [Faith], mà định nghĩa của Đức Tin
trong Tự Điển là: “Sự tin chắc vào một cái
gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực” (Firm belief in something for which there
is no proof), theo định nghĩa của triết gia H. L. Mencken thì Đức Tin là:
“Một kiểu tin phi-lô-gíc vào sự xảy ra của những gì
không chắc có thực” (An illogical belief in the
occurrence of the improbable), và theo định nghĩa của Sử gia Lloyd M. Graham
trong cuốn Deceptions and Myths of the Bible thì
“Đức Tin là niềm tin vào cái không biết. Nhưng vì cái
không biết cũng là cái rất có thể không có thật. Đức tin vào cái không biết là
sự điên rồ. Đó chỉ là niềm tin vào những sự phỏng đoán ngu ngốc của những kẻ tin
khác” (Faith is belief
in the unknown. But since the unknown is likely the unreal also. Faith in the
unknown is foolishness, only belief in other believers’ ignorant asumptions –
page 413)
Đó là sự khác nhau căn
bản giữa hai tôn giáo: Phật Giáo và Ca-Tô Giáo. Nhưng mục đích của LM Mai Đức
Vinh không phải là để diễn giảng sự khác nhau căn bản này mà là ở chỗ khác như
chúng ta sẽ thấy trong vài đoạn mà tôi bất đắc dĩ phải phê bình. Nhưng trước
khi phê bình LM Mai Đức Vinh, tôi xin đặt trước một câu hỏi về đạo Ca-Tô
của LM Mai Đức Vinh, bất kể là LM viết gì để ca tụng người sáng lập đạo Ca-tô,
Giê-su, về niềm tin Ca-Tô, và về lối sống đạo của tín đồ Ca-tô ở trong các đoạn
sau trong “bài giảng” Câu hỏi của tôi như sau:
Trần Chung Ngọc: Tại sao Giáo hội Ca-tô Rô-ma
hữu thần lại có một lịch sử ô nhục đẫm máu nhất trên thế gian, mang trên bờ
vai trên dưới 200 triệu sinh mạng vô tội gồm già trẻ lớn bé, qua những tội ác vô
tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại như những cuộc Thập Ác
Chinh, những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo, những cuộc săn lùng và thiêu sống phù thủy,
sử dụng những hình cụ tra tấn man rợ nhất trong lịch sử loài người, với chính
sách bách hại người Do Thái, kỳ thị phái nữ, làm tiên phong hay theo gót thực
dân để truyền đạo v.. v.. đến nỗi chính giáo hoàng John Paul II đã phải xưng thú
trước thế giới 7 núi tội ác của Ca-Tô Giáo Rô-ma đối với nhân loại, trong khi
các tôn giáo Đông Phương như Thích, Nho, Lão vô thần, ra đời trước Ca-Tô
Giáo cả 5, 6 trăm năm nhưng không hề làm đổ một giọt máu trong lịch sử truyền
đạo của mình??
| Những bài viết khác về Ông Trời Việt Nam và Thượng Đế của Thiên Chúa Giáo: ... Chúng ta cũng không hề thấy người Anh hoặc người Pháp gọi Thiên Chúa là Mr. God! Monsieur Dieu!.... Hơn thế nữa, người Việt Nam còn tỏ thái độ xem thường ông Trời qua cách gọi Trời là “Con Tạo” hoặc “Trẻ Tạo Hóa”, thậm chí còn gọi con cóc là cậu ông trời! - “Con cóc là cậu ông trời
Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho” (Ca dao)
- “Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán” (Nhị Độ Mai)
- “Đố kỵ sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong” (Nguyễn Công Trứ)
...>>>
-
Có Jehovah trong Ca Dao Việt (Thiên Lôi)) ... Không biết ai là người khởi xướng cái vụ “cách mạng tháng tám” này; nhưng có lẽ khởi đầu bởi một quái phẩm của ông cựu giáo sư Ca-tô gốc Phát Diệm Lê Hữu Mục với tập ‘Truyện Kiều và Tuổi Trẻ’ xuất hiện khoảng 1998 với luận điệu ép cụ Nguyễn Du phải “rữa tội theo đạo Ca-tô” cho bằng được; tiếp theo có bố chăn chiên tên Trương đức Kỷ aka Cao phương Kỷ, có bằng tiến sĩ, không biết lọai gì, (nếu mà tiến sĩ thần học thì ăn đong) thuộc Dòng Đồng Công ở Carthage, bang Missouri, gốc Bùi Chu đã viết một cuốn sách có tựa là “Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo” bàn về chữ trời trong đời sống dân gian Việt lẫn chữ trời trong truyện Kiều của văn hào Nguyễn Du...." >>>
... Có lần thầy Tử-Lộ hỏi Đức Khổng-Tử về Thượng-Đế, quỷ, thần, Ngài khuyên rằng chưa biết đạo thờ người, sao biết được đạo thờ quỷ thần “Vị năng sự nhân, yêu năng sự quỷ “. Tuy nhiên đối với thánh thần, ma quỷ thì nên kính trọng, nhưng tránh xa, “Kính quỷ thần nhi viễn chi, khả vị trí hỷ". Xin ghi chú thêm rằng có hai phái trong giới văn học cổ Trung-Quốc: Một phái cho rằng Khổng-Tử tin có quỷ thần. Một phái khác thì cho rằng Khổng-Tử không tin quỷ thần. Vấn đề này nếu bàn xa thì dài lắm.
...>>>
|
Tôi không tin rằng LM
Mai Đức Vinh lại không biết đến lịch sử của Giáo hội Ca-tô như trên, nhưng có lẽ
ông ấy không thể trả lời, vì từ xưa tới nay không có con chiên nào đưa ra câu
hỏi đó. Nhưng tôi tin chắc là LM phải đồng ý với tôi ở điểm này: “Tôn giáo
là để phục vụ con người, không phải để phục vụ bất cứ một đấng siêu nhiên toàn
năng toàn trí nào ở ngoài thế gian mà chưa có ai thấy, chẳng có ai biết, không
có ai hiểu v..v…và nhất là không có bất cứ một bằng chứng nào chứng tỏ là đấng
siêu nhiên đó đã can thiệp vào những chuyện của con người. Và nếu thực sự có
một đấng siêu nhiên như vậy thì đấng đó cũng không cần chúng ta phục vụ. Cho
nên, một tôn giáo mà phạm những tội ác như trên thì tôn giáo đó không có một giá
trị thiết thực đối với nhân loại, bất kể là tôn giáo đó do ai thành lập, do ai
đứng đầu với bất cứ danh nghĩa nào. Sở dĩ một tôn giáo như vậy còn tồn tại
là trên thế gian này còn rất nhiều người “ngu si vô trí” [xin hiểu đây là một
thuật ngữ của Phật Giáo chỉ những người không có trí tuệ để biết rõ sự thật về
một vấn đề nào đó chứ không phải để chỉ những người đầu óc ngu muội, trì trệ.
Từ “ngu si vô trí” trong Phật Giáo có thể coi như là tương đương với quan niệm
của Mục sư Ernie Bringas về một “đầu óc có một khuyết tật”, nghĩa là trong đầu
có một điểm mù tôn giáo (a religious blind spot), sống trong thế kỷ 21 mà có
những niềm tin của thế kỷ 17], và giáo hội đã lợi dụng khai thác tối đa cái
“điểm mù tôn giáo” này của quần chúng. Nhưng một khi mà đầu óc của quần chúng
mở mang ra để có thể “như thực tri kiến” thì tự nhiên tôn giáo đó phải suy
thoái, vì một khi đã hiểu rõ sự thật thì không ai còn muốn tiếp tục sống trong
những sự mê tín hoang đường của thời bán khai. Điều này đã xẩy ra ở khắp Âu
Châu và đang lan dần sang Mỹ Châu”.
Sau đây là một đoạn
trong “bài giảng” của LM Mai Đức Vinh cho chúng ta thấy rõ ý đồ của ông ta:
LM Mai Đức Vinh:
Về Ðấng Sáng Lập Ðạo: Ðiều phải nói ngay: So sánh Chúa Giêsu với Ðức Phật
không có nghĩa là đặt Chúa Giêsu và Ðức Phật ngang hàng nhau. Nhưng chúng ta có
thể theo ý kiến của Cha Romano Guardini trong cuốn Le Seigneur, ngài viết: "Il
n'y a qu'un personnage qui pourrait donner l'idée de le rapprocher de Jésus,
c'est Bouddha" (Chỉ có một nhân vật có thể gợi lên ý tưởng xích gần người lại
với Chúa Giêsu, đó là Phật Thích Ca). Rồi cũng chính Cha Romano Guardini trong
cuốn "L"Essence du Christianisme" quyết đáp: "Le Christ n'est pas au niveau du
Bouddha, mais ne peut être que infiniment au-dessus" (Ðức Kitô không thể đồng
hàng với Ðức Phật nhưng chỉ có thể vô cùng trổi vượt).
Trần Chung Ngọc:
Tôi có cảm tưởng là
chủ tâm của LM Mai Đức Vinh là nói lên điều này, còn các phần khác trong bài
giảng chỉ là trang trí cho vui, trừ phần cuối bài. Đây là mánh mưu rất quen
thuộc trong sách lược truyền đạo mới của Ca-Tô Giáo, tương tự như luận điệu
“Đức Phật chỉ là ngôn sứ của Thiên Chúa” hay như luận điệu của Giáo hoàng
John Paul II viết trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”: “Nếu Chúa
Ki Tô chỉ là một người khôn ngoan như Socrates, nếu Ngài là một tiên tri như
Mahômét, nếu Ngài được “khai ngộ” như Phật Thích Ca, thì chắc chắn Ngài không
còn là chính Ngài” Tại sao vậy? Giáo hoàng giải thích: Vì “Ngài là Đấng
Trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại”. Nghe giải thích đó mà không phải
là giải thích có ai thấy vui không? Nhưng theo tôi thì Ngài có là Đấng Trung
gian giữa Thiên Chúa và nhân loại hay không, hay chính là Thiên Chúa đi chăng
nữa, thì cũng chẳng có ai phủ nhận được nhận định sau đây của Bertrand Russell, một thiên tài toán học và triết lý, đã được giải thưởng
Nobel năm 1950 về những lý tưởng nhân đạo và tự do suy tư (humanitarian ideals
and freedom of thought):
“Xét về trí
tuệ hay đức hạnh tôi không thể nào cho rằng Đức Ki-Tô cũng cao cả như vài
người khác được biết trong lịch sử - Tôi nghĩ rằng, về trí tuệ hay đức hạnh,
tôi phải đặt Đức Phật và Socrates lên trên Đức KiTô.”
(I cannot
myself feel that either in the matter of wisdom or in the matter of virtue
Christ stands as high as some other people known to history – I think I should
put Buddha and Socrates above him in those respects.):
Vấn đề ở đây là LM Mai
Đức Vinh trích dẫn ý kiến của LM Romano Guardini nhưng không hề giải thích là LM
Guardini đã căn cứ vào cái gì, vào ý tưởng nào của Đức Phật, để mà viết như trên
và những lời viết như vậy có bao nhiêu giá trị trong lãnh vực học thuật?. Thật
ra đó chỉ là những lời viết tầm bậy của những kẻ ngu si vô trí cuồng tín, nghĩa
là tổng hợp của ngu si, dốt nát, hợm hĩnh [theo định nghĩa của Giáo sư Nguyễn
Mạnh Quang] chuyên viết bậy một cách vô căn cứ. Chỉ một người thường cũng hiểu
rằng Đức Phật, sinh trước Giê-su hơn 500 năm, giảng về một đạo giác ngộ, nghĩa
là con người phải tự tu tập để tiến tới giải thoát, còn Giê-su giảng về một đạo
cứu rỗi, nghĩa là con người chỉ cần tin vào Giê-su, không cần biết không cần
hiểu, thì sẽ được Giê-su cứu rỗi, hai giáo lý hoàn toàn trái ngược nhau. Thật
vậy,
Tiến Sĩ
George Dennis O’Brien, Giáo sư Triết, Viện Trưởng Viện Đại Học Rochester, trong
cuốn “Thần Ki-Tô Và Đường Xe Lửa ở New Haven. Và Tại Sao Cả Hai Đều Chẳng
Mấy Thành Công”. Trong cuốn sách này, giáo sư O’brien đã phân tích cho
chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa một tôn giáo thuộc loại “cứu rỗi” và một tôn
giáo “giác ngộ” như Phật Giáo, trg. 101-108:
“Một tôn
giáo “giác ngộ” tăng tiến trí tuệ tâm linh hoặc đạo đức của chúng ta bằng một
giáo pháp nào đó. Một tôn giáo “cứu rỗi” cải đổi đời sống của chúng ta
bằng cách dẫn chúng ta sống đời sống của chúng ta trong một người khác.
[Chúa ở cùng ta]
[O’Brien,
George Dennis, God and The New Haven Railway. And Why Neither One Is Doing
Very Well, pp. 101-108: A religion of enlightenment improves our spiritual
wisdom or our moral behavior by some teaching. A salvational religion converts
our life by leading us to live our lives in another.]
Đúng như LM Mai Đức Vinh
đã viết trong bài: “Chúng ta phải bước đi
trong Ðức Kitô, hãy ăn rễ trong Ngài (Cl 2,6), sống kết hợp với ngài (1Ts 5,10),
để chúng ta ở trong Ngài và ngài ở trong chúng ta (Galát 14,20), để "chính Chúa
Kitô sống trong chúng ta" (Mihi vivere Christus est) (Pl 1,21)...”
nhưng không hề giải thích là chúng ta ở
trong Ngài và ngài ở trong chúng ta để làm cái quái gì?
Tôi không bàn đến niềm
tin của những “bà lão Công Giáo nhà quê” [từ của LM Thiện Cẩm] mà luận bàn vấn
đề trong nền học thuật về Ki Tô Giáo ngày nay. Theo những nghiên cứu trong nền
học thuật này thì chúng ta ở trong Ngài và
ngài ở trong chúng ta chẳng để làm cái quái gì, vì đó chẳng qua chỉ
là sự tin nhảm tin nhí vào những huyền thoại cổ xưa mà ngày nay đã không còn chỗ
đứng trong sự tiến bộ trí thức của nhân loại, điều mà một số nhà lãnh đạo trong
Ki Tô Giáo đã phải thú nhận. Để kiểm chứng, xin độc giả hãy đọc bài “Huyền
Thoại Cứu Rỗi” (The Salvation Myth) của Linh Mục James Kavanaugh trên trang
nhà sachhiem.net:
https://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php,
và bài “Giê-su Như Là Đấng “Cứu Thế”: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ”
(Jesus as Rescuer: An Image That Has To Go) của Giám mục John Shelby Spong:
https://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php.
Tại sao những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo như Linh mục James Kavanaugh và Giám
mục John Shelby Spong lại có thể viết lên những chủ đề như vậy. Và đây không
phải chỉ có hai người trên mà còn hàng trăm các tác giả khác ở trong Ki Tô Giáo
cũng có những kết quả nghiên cứu tương tự. Việt Nam cũng có Charlie Nguyễn và
Phạm Hữu Tạo. Như trên tôi đã nói, một khi mà đầu óc của quần chúng mở mang ra
để có thể “như thực tri kiến” thì không ai còn muốn tiếp tục sống trong những sự
mê tín hoang đường của thời bán khai. Và một khi đã tự giải hoặc rồi thì với sự
lương thiện trí thức, họ phải có bổn phận giải hoặc cho quần chúng.
Như vậy, ý
tưởng nào của Đức Phật mà Romano Guardini cho rằng xích gần người lại với Chúa Giê-su và xích lại để
làm gì? Mặt khác, trong bài LM Mai Đức Vinh đã viết rất đúng là: “người Phật giáo sống từ bi, tụng
niệm... chỉ qui về mình hay về người khác mà thôi. Bởi lẽ họ không tin có
Thượng Ðế.” Và “Phật Giáo không tin nhận có một
Thiên Chúa, một Thượng Ðế hay một ông Trời tối cao, tự hữu, sáng tạo mọi loài.
Do đó không có "Thượng Ðế quan" trong Phật giáo.” Nếu Phật Giáo đã “không tin có Thượng đế” và đã
“không có Thượng đế quan” thì ý tưởng nào của Đức
Phật xích gần người lại với Chúa Giê-su, con của Thượng đế? Có phải
là Romano Guardini chỉ viết bậy không, nhưng LM Mai Đức Vinh lại không thấy sự
mâu thuẫn giữa những câu viết trên của chính ông về Phật Giáo và câu của LM
Romano Guardini, mục đích của ông chỉ là trích dẫn nhảm nhí ý tưởng bậy bạ của
LM Romano Guardini để đề cao Chúa của mình, mà không biết rằng mình đã tự mâu
thuẫn với chính mình, và do đó đã tự dứt khoát bác bỏ mọi luận điệu của LM
Romano Guardini. Nhưng giới độc giả ngày nay thì không ngu như các tín đồ của
LM Mai Đức Vinh mà LM viết gì họ cũng phải tin theo, cho nên họ thấy ngay sự mâu
thuẫn trên và ý đồ truyền đạo bất kể thủ đoạn của LM Mai Đức Vinh.
Khi so sánh Đức Phật với Giê-su, với tư cách là những
người sáng lập đạo, LM Mai Đức Vinh đã trích dẫn một loạt những câu trong Tân
ước, cho đó là những chân lý mạc khải không thể sai lầm, để nói về Giê-su qua ba
luận điểm: Giê-su là Thiên Chúa làm người; Chọn đạo là chọn chính Chúa Giê-su;
và Đức Ki Tô là người giải thoát và là cứu cánh giải thoát. Nhưng những luận
điểm trên đã trở thành vô giá trị trong lãnh vực học thuật vì đó chỉ là những
điều người Ca-Tô tin, tin chỉ vì đó là những điều viết trong cuốn Bible, mà
những điều viết trong cuốn Bible mà người Ca-Tô tin thì không có gì bảo đảm đó
là những điều thật, có tính phổ quát, đúng khắp mọi nơi. Nhiều học giả ở trong
cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô đã đồng thuận ở điểm: “Trong cuốn Bible
có rất nhiều điều sai lầm về thần học cũng như khoa học”. Những người truyền
đạo Ca-Tô hay Tin Lành thường cho rằng những người ngoại đạo không biết gì về
cuốn Kinh của Ki Tô Giáo cho nên họ muốn trích dẫn vụn vặt thế nào, diễn giải
thế nào để mê hoặc giáo dân và lừa bịp quần chúng cũng được. Đây là một sự đánh
giá sai lầm lớn, vì những người ngoại đạo lại đọc kỹ cuốn Kinh đó hơn ai hết
trong khi những người trong đạo, kể cả các Linh Mục, thường không đọc hoặc chỉ
đọc những đoạn được dạy để giảng đạo. Những người này không hề biết rằng cuốn
Kinh của Ki Tô Giáo, Cựu Ước cũng như Tân Ước, đã được nhiều học giả phân tích
rất kỹ, từng câu, từng chữ, đối chiếu với cổ sử, và từ đó đã khám phá ra những
điều mà các tín đồ được dạy để mà tin, và ngay cả chính “Chúa Giê-su” cũng tin
một cách sai lầm, thí dụ như Ngũ Kinh là do Moses viết nhưng thực ra thì không
phải là Moses viết, và Thi Thiên tất cả là do David viết nhưng sự thực cũng
không phải v…v… Trở lại câu viết của LM Romano Guardini mà LM Mai Đức Vinh
trích dẫn để đề cao Chúa Giê-su của ông ta, có vài câu hỏi cần được đặt ra:.
Giêsu có phải là một con người đáng để cho
chúng ta xích lại không? Giê-su có những giá trị gì về trí tuệ cũng như đạo đức
để cho chúng ta muốn xích lại gần ông ta và xích lại để làm gì? Chúng ta xi1xh
lại để học hỏi và tu tập những giáo lý siêu việt của Giê-su hay là xích lại chỉ
vì chúng ta ham hố một sự cứu rỗi không tưởng trong thời đại văn minh tiến bộ
khoa học ngày nay. Và có thật là Giê-su cao hơn Đức Phật không, cao hơn như thế
nào? Cao hơn là vì theo Giáo hội dạy
rằng, Giê-su đã bay lên trên trời và hiện ngồi yên “trên tay phải “ [on the
right hand] của Chúa Cha ở trên Thiên đường, trong khi trái đất vừa di chuyển
xung quanh mặt trời với vận tốc 66650 miles/h [107278.87 km/giờ], và vừa quay
xung quanh trục Nam Bắc với vận tốc 1037.5646 miles/h [1669.8 km/giờ]??. Đối
với trái đất như là hệ thống qui chiếu, không biết Thiên đường có điên đảo, đảo
điên trong vũ trụ hay không?
Đến đây chúng ta lại
cần phải tìm hiểu về nhân vật Giê-su trong Tân ước. Những giá trị về Trí Tuệ và
Đạo Đức của Giê-su đã được tôi phân tích trong cuốn “Người Việt Nam Theo Đạo
Giê-su Là Vì Cái Gì ?”, viết chung với Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, Phần I,
Mục V: https://sachhiem.net/TONGIAO/tgT/TCN_NMQ3.php.
Ở đây tôi chỉ đưa ra
vài điểm chính, dựa trên những kết quả nghiên cứu của các học giả trong chính Ki
Tô Giáo:
Ở trên tôi đã trích dẫn
một nhận định của Bertrand Russell về “Chúa Ki-Tô”. Thật ra thì,
nhận định như trên,
Bertrand Russell quả đã đánh giá quá cao Giê-su khi so sánh với Socrates và
Đức Phật, vì nghiên cứu kỹ về hai thuộc tính của Giê-su: trí tuệ và đạo đức,
chúng ta thấy Giê-su không có gì có thể so sánh với Socrates và Đức Phật.
Tại sao? Vì trí tuệ của Giê-su không thể gọi là trí tuệ, và đạo đức của Giê-su
cũng không thể gọi là đạo đức như tôi đã chứng minh khá đầy đủ với nhiều chi
tiết trong https://sachhiem.net/TONGIAO/tgT/TCN_NMQ3.php.
۩
LM Mai Đức
Vinh viết rằng “tìm hiểu để so sánh
Công giáo với Phật giáo”
nhưng tôi không thấy ông
ta so sánh về bất cứ điểm nào trong hai tôn giáo. Khi viết về những người sáng
lập ra Ki Tô Giáo thì ông ta chỉ đưa ra những nhận định như sau, với mục đích gì
chắc ai cũng hiểu:
- Chúa Giê-su:
Ngài là Thiên Chúa làm Người.
- Đức Phật Thích
Ca: Ðức
Phật chỉ là người trần, tu thân thành Ðại Giác (illuminé).
- Chính
Ðức Kitô là người giải thoát và là cứu cánh sự giải thoát.
- Ðức Phật
không phải là
người giải thoát và
không phải là
cứu cánh sự giải thoát.
Cái
mánh mưu của LM Mai Đức Vinh đã rõ ràng, đó là luận điệu hạ cấp quen thuộc của
những kẻ ngu si vô trí, tưởng làm như vậy là có thể vinh danh Chúa của họ.
Nhưng càng làm như vậy họ càng để lộ cái sự yếu kém và thiếu tự tin của họ, vì
họ không bao giờ có đủ can đảm để đi vào sự thảo luận những vấn đề chính họ nêu
ra. Thật vậy, LM Mai Đức Vinh đã tránh né không luận bàn so sánh về giáo lý của
Giê-su và giáo lý của Đức Phật, so sánh đạo đức của Giê-su và đạo đức của Đức
Phật, những điều không thể không có trong sự so sánh. Hơn nữa, LM Mai Đức Vinh
còn tự tỏ ra trình độ hiểu biết rất thấp kém của mình. Ông ta cũng không biết
gì về sự khác biệt giữa quan niệm giải thoát trong Ki Tô Giáo và trong Phật
Giáo, cho nên ông ta không dám xác minh là giải thoát khỏi cái gì, cho nên đã
viết bậy bạ như trên. Tại sao tôi lại bảo là ông ta viết bậy bạ để vinh danh
Chúa của ông ấy? Bởi vì ông
ta không biết rằng, trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”, Giáo hoàng
John Paul II đã
đưa ra một nhận định như sau:
Tuy nhiên, cần phải nói ngay rằng giáo
lý giải thoát của Phật Giáo và Ki-Tô giáo đối ngược nhau.
(Nevertheless, it needs to be said right away that the doctrines of salvation in
Buddhism and Christianity are opposed. p.85). Vậy thì hai câu trên về “là” và
“không phải là”
của LM Mai Đức Vinh hoàn toàn vô nghĩa nhưng không phải là không có hậu ý.
Nhưng ông ta không thể thành công vì tà không bao giờ có thể thắng được chánh,
nếu chúng ta đi sâu vào việc phân tích những vấn đề mà LM Mai Đức Vinh cố tình
tránh né.
Thứ nhất,
vấn đề không đơn giản chỉ là sự khác nhau giữa một nhân vật mà người ta
tin là Thiên Chúa [Giê-su] và một nhân vật có thật [Đức Phật]. Do đó, Thiên
Chúa hay là người trần, tư cách và đạo đức cá nhân phải là những tấm gương để
cho chúng ta soi vào. Nếu LM không đi vào sự so sánh quan trọng này thì tôi
đành phải làm thay ông để bổ túc cho bài giảng của ông.
Phật Giáo
có thiên kinh vạn quyển, nhưng trong đó chúng ta không thể kiếm ra một hành động
nào hay một lời nói ác độc nào của Đức Phật. Mọi ngôn từ, hành động của Đức
Phật đều thể hiện lòng từ bi vô lượng. Trái lại, đọc cuốn Kinh của Ki Tô Giáo,
chúng ta thấy về phương diện giáo lý cũng như đạo đức, Giê-su không hề có một
giáo lý nào độc đáo, và về vấn đề đạo đức thì chỉ những người không bao giờ đọc
đến Tân ước mới cho rằng Giê-su là người có đạo đức. Chứng minh?
Trước hết, về giáo lý thì Giê-su đã giảng dạy những gì? Tất
cả cái gọi là giáo pháp của Giê-su, đã được một số học giả nghiên cứu, nhận định
rõ ràng. Sau đây là hai thí dụ điển hình:
a) “Tất cả những điều Giê-su nói, giáo
lý, bài giảng đều đưa tới một đơn từ: “Ta””
[mà Pháp thì có thành ngữ: “Cái “Ta”
thật là đáng ghét” [Le Moi est haissable]. TCN]
(William Hirsch: All his sayings, his teachings,
his sermons culminated in a single word: “I”)
b) Tất cả
những điều rao giảng của Giê-su có thể nhận ra rõ ràng. Chúng nằm trong
hai câu có ý nghĩa y hệt nhau: “Hãy thống hối, và tin vào Phúc Âm” hoặc,
ở một nơi khác “Hãy thống hối, vì Nước Thiên Đàng sắp tới”
(Hermann
Samuel Reimarus: What belongs to the preaching of Jesus is clearly
recognized. It is contained in two phrases of identical meaning, “Repent, and
believe the Gospel,” or, as it is put elsewhere, “Repent, for the Kingdom of
Heaven is at hand”.)
Và nhận
định sau đây của Joseph L. Daleiden, một học giả Ca-Tô, trong cuốn The Final
Superstition, trg. 174, về cái gọi là giáo pháp của Giê-su có thể giúp chúng
ta nhìn rõ vấn đề một cách tổng quát hơn:
Có rất ít,
nếu có, điều sáng tác độc đáo trong giáo pháp mà người ta cho là của Giêsu.
Giống như chính huyền thoại về Giêsu, những quan điểm mà Giêsu diễn đạt chỉ
là một mớ hổ lốn những ngụ ngôn và luân lý mà chúng ta có thể thấy trong những
đạo cổ xưa của Ai Cập, Babylon, Ba Tư, Hi Lạp, Phật, Khổng, Ấn Độ… Một điều
rõ ràng: Ki Tô Giáo, một tôn giáo sinh sau đẻ muộn trong lịch sử các tôn giáo,
chỉ cóp nhặt (đạo văn) những quan điểm, ý kiến của Do Thái Giáo và các
tôn giáo gọi là dân gian. Trong cuốn “Nguồn Gốc Luân Lý Trong các Phúc Âm”,
Joseph McCabe
(Một Linh Mục Ca Tô. TCN) đã trích dẫn những quan điểm luân lý
trong Phúc Âm mà người ta cho là của Giêsu song song với những quan điểm luân lý
tương đương và y hệt của các tác giả Do Thái và dân gian.
[Daleiden,
Joseph L., The Final Superstition, p. 174: There is very little, if
anything, that is original in the teaching attributed to Jesus. Like the myth
of Jesus itself, the sentiments he expresses are a hodgepodge of aphorisms and
moral convictions that can be found in the ancient Egyptian, Babylonian,
Persian, Greek, Buddhist, Confucian, and Hindu religions… But one thing is
certain: Christianity, a late-comer in the history of religion, merely
plagiarized sentiments from Judaism and the so called pagan religions. In his
book Sources of Morality in the Gospels, Joseph McCabe quoted the moral
views attributed to Jesus in the gospels and in parallel columns gave exact
moral equivalents from Jewish and pagan writers.]
Thật vậy, đọc Tân Ước và với một chút kiến thức về triết học
và tôn giáo, chúng ta có thể thấy rõ là nhận định của Daleiden không phải là
sai. Và chúng ta nên nhớ, Joseph L. Daleiden chỉ nói về những điều mà người ta
cho là có ý nghĩa phần nào về đạo đức và luân lý, chứ không kể đến những điều vô
đạo đức và phi luân lý của Giê-su trong Tân ước, như tôi sẽ chứng minh qua vài
câu chuyện trong Tân Ước như sau.
۩
Chúng ta hãy bỏ qua những chuyện như Giê-su hỗn hào với cha mẹ,
gọi Phê-rô là Satan, và nguyền rủa những người không tin Giê-su là đồ rắn rết
v..v.. và dọa sẽ đầy đọa họ xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng của ông ta
thiêu đốt. Trong Tân Ước còn có vài chuyện chứng tỏ hơn gì hết cái gọi là đạo
đức của Giê-su.
1. Chuyện
Giê-su đuổi quỷ,
Matthew 8: 28 – 34:
Có hai người bị quỷ ám gặp Chúa Giê-su và quỷ trong hai
người đó van nài Chúa Giê-su đuổi chúng ra và cho nhập vào một bày heo. Chúa
phán “đi ra”, chúng liền nhập vào bầy heo và cả bầy heo (độ 2000 con, theo
Mark 5: 13) rông tuốt xuống biển chết chìm hết. Trẻ con chăn
heo chạy về làng kể chuyện lại cho dân làng nghe, cả làng kéo ra khỏi làng gặp
Chúa Giê-su và… xin Ngài (có nghĩa là đuổi) hãy đi ra khỏi vùng đất của
họ.
Chúng ta hãy tự hỏi, 2000 con heo có tội tình gì mà Chúa
Giê-su “lòng lành vô cùng” của các tín đồ Ki Tô Giáo lại phù phép làm cho 2 con
quỷ nhập vào cả đàn, rồi bắt chúng nhào xuống sông chết chìm hết? Như vậy có
phải là Giê-su là người không có lòng nhân, vô cớ tự nhiên đang tâm giết cả một
đàn heo vô tội một cách tàn nhẫn. Bởi vậy dân làng mới coi Giê-su như là một
tên phù thủy, một kẻ đáng chê trách, đã vô cớ hủy đi một nguồn lợi của dân làng,
làm cho họ tự nhiên mất đi cả một đàn heo tới 2000 con, cho nên họ kéo ra ngoài
làng, chặn đuổi Giê-su đi nơi khác, không dám để cho Giê-su vào làng.
۩
2. Chuyện
Giê-su nguyền rủa cây sung. Matthiew 21, 18-21:
Sáng sớm,
khi trở vào thành, Ngài cảm thấy đói. Trông thấy cây vả bên đường. Người
lại gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi. Nên Người nói: “Từ
nay, không bao giờ mày có trái nữa!” Cây vả chết khô ngay lập tức. Thấy
vậy, các môn đệ ngạc nhiên nói: “Sao cây vả lại chết ngay lập tức như thế?” Đức
Giêsu trả lời: “Thầy bảo thật anh em. nếu anh em tin và không chút nghi nan,
thì chẳng những anh em làm được điều thầy làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có
thể bảo núi này: Dời chỗ đi, nhào xuống biển! thì sự việc sẽ xảy ra như thế.”
Chúng ta thấy ngay rằng, thật ra, chỉ những người đã bị nhồi sọ
một chiều từ khi còn nhỏ, hoặc có đầu mà không có óc, mới có thể cho câu chuyện
cây sung ở trên là “một lối giảng dạy bằng dụ ngôn”. Câu chuyện về cây sung
chẳng phải là một “dụ ngôn” mà đã nói rõ một điều: Giê-su hứa hẹn với các tông
đồ là: ai có lòng tin vào Thiên Chúa thì có thể làm được như Giêsu, nghĩa là có
thể nguyền rủa cho một cái cây chết héo queo ngay lập tức, ngoài ra còn có khả
năng bảo núi chuyển là núi tự động bò xuống biển? Hay nói cách khác, ai tin vào
Giê-su thì có thể làm được bất cứ cái gì mà mình muốn. Bởi vì câu cuối trong
câu chuyện này, Matthiew 21: 22, Giê-su phán rằng: “Trong khi
cầu nguyện, các ngươi lấy đức tin xin bất kỳ việc gì, thảy đều được cả.”
Chỉ có điều, trong 2000 năm nay, người tin Giêsu thì rất nhiều,
trong đó có các giáo hoàng tự xưng là đại diện của Giê-su trên trần (Vicars of
Christ), các linh mục tự nhận là “Chúa Ki-tô thứ hai” (alter Christus), và tất
nhiên có cả triệu giáo dân khác, nhưng nhân loại chưa thấy ai làm được những
chuyện này. Có luận điệu ngụy biện rằng: không làm được vì chưa đủ đức tin.
Nhưng nói như vậy thì trong số cả tỷ tín đồ Ca-tô không có ai đủ đức tin hay
sao, kể cả các “đại diện Chúa trên trần” và các “Chúa Ki tô thứ hai”.
Về chuyện
Chúa nguyền rủa cây sung ở trên, các chuyên gia phân tích Tân Ước kết luận rằng:
hành động của Giê-su trong câu chuyện về cây sung (hay cây vả) chứng tỏ
Giê-su đã vấp phải 4 sai lầm về kiến thức cũng như về đạo đức cùng một lúc:
- Không biết là trong mùa đó cây sung không thể có trái, nghĩa là
thiếu kiến thức về mùa màng, cây cỏ.
- Hủy diệt vô lý vĩnh viễn một cây ra trái ăn được.
- Dễ nổi nóng, nổi quạu khi bị phật ý.
- Lừa
dối các môn đồ bằng những lời hứa hẹn hoang đường: chỉ cần có lòng tin là có thể
thay đổi
tình trạng vật chất thiên nhiên bằng lời nguyền rủa hay ra lệnh.
Như chúng
ta đã thấy, nhiều bằng chứng ngay trong Tân Ước chứng tỏ Giê-su có đầy dẫy những
sai lầm và có một kiến thức rất giới hạn, tính tình dễ nổi nóng một cách bất
thường v..v.. Nhưng LM Mai Đức Vinh thì lại tin rằng “Ngài là đường đi, là sự
sống và là chân lý (Galát 14,6) là sự sống vĩnh cửu (1Galát 5,20).” như ông
ta đã viết trong bài. Vậy chúng ta có thể chấp nhận những lời tự tôn của Giê-su
như “Ta là con đường, là sự thật, là sự sống” hay “Ta là ánh sáng của
thế gian” v..v.. được hay không? Con đường đi tới đâu? Đi tới mê tín dị
đoan? Sự thật đó là sự thật nào? Hứa hẹn vô trách nhiệm đối với những người
tin ông ta? Ánh sáng gì của thế gian? Ánh sáng soi sáng trí tuệ và đạo đức con
người? Hay ánh sáng của gươm giáo, bom đạn trong lịch sử Ki-Tô Giáo?
Tân Ước có
đầy những chuyện chứng tỏ nhân cách và đạo đức thấp kém của Giê-su như trên,
nhưng trên khắp thế giới, các tín đồ vẫn được dạy là “Chúa toàn hảo”, “Tình Yêu
của Chúa” bao trùm thế gian v..v.. nên phải “Kính Chúa” và hãy hãnh diện là “đầy
tớ hầu hạ Chúa”, “thờ phụng Chúa”. Nhưng Giám Mục John Shelby Spong thì lại
nghĩ khác, vì sự lương thiện trí thức không cho phép ông ta tin nhảm nhí. Do
đó, về chuyện đuổi qủy và nguyền rủa cây sung ở trên, ông đã viết:
Chúng ta
có thấy hấp dẫn đối với một Chúa phải giết cả một bày heo để đuổi một con quỷ ra
khỏi thân người hay không? Chúng ta có nên khâm phục và kính trọng người
mà chúng ta gọi là Chúa đã nguyền rủa một cây sung khi nó không ra trái lúc trái
mùa không?…
Cuốn Kinh
đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến
cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng.
(John Shelby
Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism, pp. 21,24: Are we drawn
to a Lord who would destroy a herd of pigs in order to exorcise a demon? Are we
impressed when the one we call Lord curses a fig tree because it did not bear
fruit out of season?…
A literal
Bible presents me with far more problems than assets. It offers me a God I
cannot respect, much less worship.)
Ngoài ra, Giám mục
John Shelby Spong, sau khi nghiên cứu Tân ước, đã đưa ra thêm một nhận định khác
về Giê-su như sau:
Có
những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển
cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.
(There are
passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded,
vindictive, and even hypocritical).
Và Jim
Walker cũng viết trên Internet trong bài Chúng Ta Có Nên Kính Ngưỡng Giê-su
Không? (Should We Admire Jesus?):
Giê-su
trong Thánh Kinh có xứng đáng với vinh dự mà người ta đã ban cho ông ta hay
không? Bất hạnh thay, những người giảng đạo, mục sư, và giáo sĩ đã giảng cho
chúng ta những câu chuyện với thành kiến một phía, nhấn mạnh và thổi phồng những
điều mà họ thấy là tích cực và dẹp bỏ hoặc bỏ qua những điều tiêu cực. Nền
học thuật về Thánh Kinh trong trăm năm nay không được những người thường biết
đến. Trong khi đó thì, chúng ta thấy những mục sư và nhà truyền đạo trên TV
chính trị đã khẳng định những điều vô nghĩa trong Thánh Kinh mà không bị ai đặt
vấn đề trách nhiệm của họ. Tuy trên 90% gia đình ở Mỹ có một cuốn Thánh
Kinh, thường là không đọc đến, hoặc nhiều nhất là làm nhẹ bớt hoặc lược bỏ khi
muốn nói về Thánh Kinh.
Nhiều
tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết đến là nhiều đoạn trong các Phúc Âm trong Tân
Ước, Giê-su được mô tả như là một con người đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung,
và đạo đức giả.
[Does the
Biblical Jesus merit the honor bestowed upon him? Unfortunately, preachers,
ministers, and clergymen have given us biased, one-sided stories, emphasizing
and inflating what they see as positive while subverting or ignoring the
negative. Biblical scholarship of the last hundred years has not reached the
common man. Instead, we see political ministers and televangelists making absurd
biblical claims without anyone calling them accountable. Although over 90
percent of households in America own a Bible, it usually goes unread, or at best
sanitized or bowdlerized to what people want it to say.
Unbeknownst
to many Christians, many times the Gospels of the New Testament portray Jesus as
vengeful, demeaning, intolerant, and hypocritical.]
Vậy thì sự
khác nhau giữa Thiên Chúa của LM Mai Đức Vinh và Đức Phật “chỉ là người trần”,
theo LM Mai Đức Vinh, là như thế nào, LM Mai Đức Vinh có thể soi sáng cho chúng
tôi, những đệ tử của một “người trần” về vấn đề này. Để giúp ông có thêm tài
liệu, tôi xin cống hiến ông một câu chuyện rất hay khác trong Tân Ước, rất quen
thuộc với mọi người nhưng hình như không có ông Linh mục nào chịu giảng cho tín
đồ trong nhà thờ.
۩
3. Câu chuyện sau đây trong Tân Ước để tặng LM Mai Đức Vinh và các tín đồ Ca-Tô
Việt Nam, hi vọng quý vị sẽ đọc kỹ chuyện này,
Matthew 15: 21-28:
“Thế rồi Giê-Su đi tới vùng Tyre và Sidon. Và có một người đàn bà người Canaan
đến từ vùng đó và kêu với Giê-Su “Hãy thương tôi, Chúa ơi, Con của David. Con
gái tôi đang bị quỷ ám nặng.” Nhưng Người không thèm trả lời bà ta một tiếng.
Và các đệ tử của Giê-Su tới và yêu cầu Giê-Su: “Hãy đưổi bà ta đi, vì bà ta cứ
kêu cứu cùng chúng ta.” Nhưng Giê-Su trả lời: “Ta được phái xuống đây chỉ để
cứu dân Do Thái mà thôi.” Rồi người đàn bà kia tới và thờ phượng Giê-Su và
nói: “Chúa ơi, hãy giúp tôi.” Nhưng Người trả lời: “Lấy bánh của con dân Do
Thái mà ném cho mấy con chó nhỏ [nghĩa là những người phi-Do Thái] ăn thì thật
là chẳng tốt tí nào.” Và người đàn bà kia nói: “Đúng vậy, Chúa ơi, nhưng dù
là những con chó nhỏ thì chúng cũng được ăn những mảnh bánh vụn rơi vãi từ trên
bàn của chủ chúng xuống chứ.” Rồi Giê-Su trả lời: “Ô, Bà Già! Lòng tin của bà
thật là lớn lao! Thôi tôi cũng chiều theo ý bà.” Và con gái bà ta hết bị quỷ ám
ngay từ gìờ phút đó.”
(When Jesus went out from there and departed to the region of Tyre and Sidon.
And behold, a woman of Canaan came from that region and cried out to Him,
saying, “Have mercy on me, O Lord, Son of David! My daughter is severely
demon-possessed.” But He answered not a word. And His disciples came and urged
Him, saying, “Send her away, for she cries out after us.”. But He answered and
said, “I was not sent except to the lost sheep of the House of Israel.”
Then she came and worshipped Him saying, “Lord, Help me!” But He answered and
said, “ It is not good to take the children’s bread and throw it to the little
dogs.” And she said, “True, Lord, yet even the little dogs eat the crumbs which
fall from their masters’ table.” Then Jesus answered and said to her, “O woman,
great is your faith! Let it be to you as you desire.” And her daughter was
healed from that very hour.)
Tôi xin để cho các độc giả tùy ý nhận định về tư cách, đạo đức và lòng
vị tha của Giê-Su trong câu chuyện trên. Tôi không hiểu LM Mai Đức Vinh và các
đồng bào theo đạo của tôi nghĩ thế nào khi đọc đoạn trên trong Thánh Kinh, rất
có thể lòng tin của họ mãnh liệt và tự coi mình thấp hèn như bà già trong
chuyện, cho nên vẫn tin rằng nếu mình hết lòng tin thì Giê-su sẽ đoái thương và
cứu rỗi phần hồn sau khi chết, dù Giê-Su cũng đã chết như mình sẽ chết, đã
hứa sẽ trở lại trong khi một số tông đồ của ông còn sống, nhưng vẫn biệt tăm cho
đến ngày nay, gần 2000 năm sau.
Đọc Tân
Ước tôi nhận thấy tin theo Chúa kể cũng khá mất nhân vị: khi thì bị mắng là
Satan (Phê rô), khi thì bị mắng là chó, nếu không phải là người Do Thái, khi thì
bị mắng là đồ điên và mù, khi thì bị rủa là đồ rắn độc, bị đày đọa hỏa ngục
v..v.. nếu chẳng may không chịu tin ông ta là con của Thượng đế. Hình ảnh của
một Chúa nhân từ, được Tin Lành quảng cáo là “Giê-su thương yêu bạn” [Jesus
loves you] đầy trên đường phố ở Mỹ, quả thật không phù hợp với những ngôn từ
Chúa nói trong Thánh Kinh.
Về chuyện Giê-su gọi người phi-Do Thái là chó ở trên,
Tiến Sĩ Madalyn O’Hair bình luận như sau:
Trừ khi anh là người Do
Thái, chẳng ai muốn anh trong tôn giáo này [Ki Tô Giáo]. Đối với người
nào thực sự “thực tâm cảm thấy Giê-Su là đấng cứu thế của họ” tôi xin giới thiệu
một nhà phân-tâm học.
(Unless you are a Jew, you are not wanted in this
religion. For someone who really “truly feels in his heart that Jesus is his
Savior” I would recommend a psychiatrist.)
Và, Frederick Heese Eaton bình luận
như sau trong cuốn Scandalous Saints, trang 214:
Giê-Su thường nhắc nhở đệ
tử là phải thương yêu nhau, và thương yêu ngay cả kẻ thù (John 13:35;
Matthew 5:44) Nhưng khi một người đàn bà không phải là người Do Thái
tới nhờ Giê-Su chữa lành bệnh cho con gái, thì Giê-Su lại bảo bà ta rằng,
“Không thể lấy bánh của con dân Do Thái vứt cho chó ăn.” (Matthew
15:26) Nói một cách khác, ông nói, “Người phi Do Thái là đồ chó.
Tại sao ta lại phải làm bất cứ gì cho ngươi?” Anh cảm thấy thế nào khi
Jesus gọi anh là chó? Gọi người phi Do-Thái là đồ chó không phải là sự biểu
thị của lòng thương yêu. Giê-Su thật là hỗn hào, kiêu căng và tự phụ khi
gọi người đàn bà kia là chó. Vậy trong vấn đề thực hành, Thánh Giê-Su chẳng có
chút gì là Thánh cả. Những sự kiện [trong Tân ước] cho thấy Giê-Su thực sự ghét những người phi Do-Thái.
[Frederick Heese Eaton,
Scandalous Saints, p. 214: Jesus repeatedly admonished his disciples to love
one another, and even to love their enemies. (John 13:35; Matthew 5:44) Yet
when a non-Jewish woman begged him to heal her daughter, Jesus told her, “It is
not fit to take the children (of Israel’s) bread and to cast it to dogs.”
(Matthew 15:26) In other words he said, “You non-Jews are dogs. Why should I
do anything for you?” How would you like to have Jesus call you a dog? Calling
people dog who were not Jews is hardly an expression of love. Jesus was
insolent, arrogant and conceited in calling this woman a dog. So in actual
practice, Jesus the Saint was not so saintly after all. The facts show that
Jesus actually hated those who were not Jews.]
Người Việt Nam không phải là người Do
Thái, ai cũng biết vậy, nhưng vẫn cần phải nhắc lại ở đây.
Tuy nhiên chẳng có ai cấm người Việt nam tin rằng mình sẽ được Giê-su cứu chuộc
như cứu chuộc người Do Thái, dù mình không phải là người Do Thái, và chính người
Do Thái cũng không ham hố sự cứu chuộc giả tưởng đó. Nhưng dựa trên chính những
điều viết trong Tân Ước mà tôi vừa trích dẫn ở trên thì tôi bắt buộc phải nghĩ
rằng, ước mơ của những tín đồ Việt Nam theo Ki Tô Giáo để được Giê-su cứu rỗi
đích thực là một ảo vọng. Nhưng ở cái thế giới tự do này, mọi người, dù
không phải là người Do Thái, đều có quyền “xích lại gần” Giê-su nếu muốn, nhưng
đây tuyệt đối không phải là “ý tưởng” của Đức Phật như cái tên Romano Guardini
đã viết bậy.
۩
Ý đồ vơ quan niệm về
“Ông Trời” của Việt Nam vào làm Thiên Chúa của Ki Tô Giáo để lừa bịp người dân
Việt Nam thật là rõ rệt trong đoạn cuối trong “bài giảng” của LM Mai Đức Vinh.
Chúng ta đã thấy thủ đoạn này trong vài bài của người Ca-Tô trước đây: LM Trần
Cao Tường, LM Cao Phương Kỷ, Giáo dân Nguyễn Huy Lai v..v.. Sau đây là đoạn LM
Mai Đức Vinh viết bậy về Đạo Phật và quan niệm “Ông Trời” của Việt Nam:
...
Ðạo Phật là con đường dẫn họ đến
với ông Trời. Do đó chúng ta không thể đồng ý với ông Phạm Trọng Chánh về nhận
định: "Ðối với người Việt Nam, ông Trời không có nghĩa là
Ðấng Sáng Tạo, khai sáng ra vũ trụ, vạn vật và con người".
Trái lại, chúng ta coi là xác đáng lời viết sau đây của ông Ðoàn Quang
trong bài "Trời người Việt Nam qua ca dao." Ông viết: "Trời đã ghi dấu vạn năng của Ngài trên không trung cao
vút và trong vực thẳm khôn dò, trong cỏ cây hoa lá, cũng như trong sóng nước đại
dương. Ðồng ruộng mênh mông và biển khơi bát ngát trải rộng trước tầm mắt chúng
ta. Dấu chân của Trời là ở đó. Ngài còn được ghi khắc trong tận thâm tâm của
lòng người. Người Do Thái gọi Ngài là Yahweh, người Ấn Ðộ gọi Ngài là Bhram,
Người Trung Hoa gọi Ngài là Thượng Ðế, còn người Việt Nam gọi Ngài là Trời, là
Ông Trời. Trời của người Việt Nam vượt trên mọi thần minh. Dù ông theo đạo Khổng
hay đạo Lão, dù bà theo đạo Phật hay Cao Ðài, dù anh chị chỉ thờ cúng Tổ Tiên...
thì ông bà hay anh chị vẫn nhận rằng trên Ðức Khổng, Ðức Lão, Ðức Phật vẫn còn
có một Ðấng Tối Cao mà người mình quen gọi là Ông Trời. Trời quyền năng, Trời
tác tạo vạn vật, Trời can thiệp vào cuộc sống dân gian, Trời ban phúc, Trời
giáng họa...". Chúng ta có thể đan cử một vài trong hàng
trăm câu ca dao xưng tụng ông Trời…
Tôi chẳng buồn phê bình đoạn trên làm chi, vì nó phản ánh một sự ngụy biện bất
lương trí thức rõ rệt. Tác giả đã viết càn viết bậy vì không hiểu gì về nền văn
hóa của Việt Nam, cũng không hiểu gì về cấu trúc của vũ trụ, cũng chẳng thể phân
biệt nổi giữa Yahweh của người Do Thái và Thượng đế của người Trung Hoa, khoan
nói đến quan niệm về ông Trời của Việt Nam.
Chúng ta đã thấy cùng một luận điệu
rất ấu trĩ này trong vài bài của LM Trần Cao Tường, LM Cao Phương Kỷ, và tín đồ
Ca-Tô Nguyễn Phúc Lai v..v… Có một bài viết về “Quan Niệm Về Ông Trời Của Việt
Nam” tuyệt hảo, viết bởi một người Việt Ca-tô đạo gốc tỉnh ngộ: Charlie
Nguyễn. Tôi xin mời độc giả, và khuyên những người muốn đánh đồng quan niệm
về ông Trời của Việt Nam với Thiên Chúa của người Do Thái, hãy đọc bài
“Quan Niệm Về Ông Trời Của Việt Nam”:
https://home.comcast.net/~charlieng/ong_troi_cua_vn.html trong
trang nhà của Charlie Nguyễn:
https://home.comcast.net/~charlieng/.
LM Mai Đức Vinh trích dẫn câu “Lạy Trời Mưa Xuống” và vài câu tương tự khác
trong dân gian Việt Nam để cho rằng như vậy là người Việt đang cầu Thần Yahweh
Do Thái của ông ấy, nhưng lại không biết rằng ngày nay người ta có thể tiên đoán
được khi nào trời mưa và mưa bao nhiêu, nhiều hay ít, lâu hay mau v..v…, và
người ta cũng có thể làm ra mưa nhân tạo. Tôi thực tình không hiểu, ở ngoài đời
thiếu gì nghề nghiệp lương thiện mà lại đi chọn cái nghề chăn chiên để cho đầu
óc bị mù mịt, không còn biết gì hơn là cố sức mê hoặc các con chiên những điều
không tưởng. Thật là quá tội nghiệp đi... Biết bao giờ họ mới mở mắt ra để thấy
rằng họ đang sống trong Thế Kỷ 21 chứ không phải trong Thế Kỷ 12 ở
Âu Châu.
Trần Chung Ngọc
Các bài đối thoại cùng tác giả
▪
“ Sản Phẩm Trí Tuệ” của Nguyễn Anh Tuấn -
Trần Chung Ngọc
▪
“Sản Phẩm Trí Tuệ” Mới Của Nguyễn Anh Tuấn Về “Giáo H -
Trần Chung Ngọc
▪
“Tự Do Tín Ngưỡng” của Minh Võ -
Trần Chung Ngọc
▪
Ai Dám Tấn Công Đạo Chúa ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chiến Tranh ... Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ -
Trần Chung Ngọc
▪
Chu Tất Tiến: Here We Go Again -
Trần Chung Ngọc
▪
Chung Quanh Một Cuộc Tranh Luận Hào Hứng -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - “Cha Chung” là ai? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Các Vấn Nạn Cần Giải Quyết -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Căn Bản Đức Tin -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Kết Luận -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Lợi Ích ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Comments On John Paul II's Crossing the Threshold of Hope -
Trần Chung Ngọc
▪
Eh! Lữ Giang, alias Tú Gàn, Here we go again! -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Nguyễn Văn Lục -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Tú Gàn -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ Về Tiến Sĩ Nguyễn Học Tập -
Trần Chung Ngọc
▪
Một Trí Thức Không Biết Ngượng -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Bài “Niềm Tin ...” Của Trần Thị Hồng Sương -1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Mấy Câu Trả Lời của Ông Mục Sư NQM -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 ▪
>>>