Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam
Nguyễn Mạnh Quang
https://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_11.php
|
bản in |
¿ trở ra mục lục
| 21 tháng 12, 2009
PHẦN II
◎◎◎
CHƯƠNG 11
TỘI ÁC CỦA GIÁO DÂN NGƯỜI VIỆT
ĐỐI VỚI TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM
Nếu
cứ nghe theo lời rao giảng ở trong Nhà Thờ hay đọc những tác phẩm của các ông
Linh-mục như Phan Phát Huồn, Trần Công Hoán, Bùi Đức Sinh, Vũ Đình Họat, Nguyễn
Gia Đệ, v.v... cũng như của các ông trí thức văn nô như Nguyễn Học Tập, Lữ Giang
(Tú Gàn), Nguyễn Văn Chức, Nguyễn Kim Khánh (Phan Thiết), Cao Thế Dung, Dương
Ngọc Dũng v.v..., thì chúng ta sẽ lầm tưởng rằng Giáo Hội Công Giáo La Mã “cực kỳ thánh
thiện”, vì những điệp khúc sau đây:
- Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền”. Những gì của hay thuộc về Giáo Hội đều thánh thiện, cao cả và tốt đẹp vì là
hình ảnh của Chúa.
Các cụm từ của Giáo Hội đã chứng minh: "thánh lễ", "thánh tích", "thánh ca", "thánh nhạc", "thánh kinh", "bánh thánh", "rượu thánh", "bàn thánh", "cung thánh", "thánh đường", "đức thánh cha", "đức cha", "đức giám mục", ...
- Giáo hội là "Mẹ", là “Hiền Thê của Thiên Chúa,"
- Tất cả những tín đồ của
Vatican đều là dân Chúa, là các con chiên hiền lành,
- Tất cả các chủ trương và chính sách của Giáo Hội hay của chính quyền do Vatican làm ra đều "không lầm lẫn, vì có Chúa soi sáng."
Để phản ứng lại những trường hợp các nhà viết sử chứng minh rằng Giáo Hội La Mã là một tổ chức tội ác
kinh thiên động địa, đã từng có những hành động tội ác tham tàn, bạo ngược, cực
kỳ dã man, những hành động phản nhân luân, phản đạo lý, chống lại
các quyền tự do dân chủ và quyền tự do tôn giáo của những nhóm dân thuộc các tôn
giáo và nền văn hóa khác,... các tác giả dân Chúa trên đây, đều lươn lẹo cho rằng đó chỉ là những cá nhân
của các vị thánh cha và các ngài mang chức thánh bị “quỷ ám”, chứ Giáo Hội La
Mã, giáo hoàng, giáo sĩ và giáo dân không bao giờ chủ trương và làm như vậy.
Lập luận theo kiểu lươn lẹo của Tiến-sĩ Nguyễn Học Tập trong bài viết
“Giáo Hội
Công Giáo La Mã” đăng trong
Luongtamconggiao.com mà chúng tôi ghi lại trong
Phần IV trong tập
sách Họ Và Chúng Ta (đã được đưa lên sachhiem.net từ ngày 29/12/2008) là một
trong rất nhiều cách né tránh của các ông văn nô và
trí thức Ca-tô này trong thủ đoạn chạy tội cho Giáo Hội La Mã cũng như giới giáo sĩ, tu sĩ và những người tín hữu làm Việt
gian để giúp lợi ích cho Vatican, cho Pháp, cho Nhật và cho Mỹ từ hậu bán thế kỷ 16 cho
đến ngày nay.
Nếu theo dõi và
quan sát những việc làm của Vatican và giáo dân đã và đang làm, THÌ chúng ta
sẽ thấy rằng tất cả những rặng núi của đủ mọi thứ tội ác kinh thiên động địa
của Giáo Hội và của giáo dân vừa là chủ trương, vừa là chính sách, vừa là cái
bản chất (cái máu) độc ác, phi luân, phi nhân bắt nguồn từ thánh kinh truyền cho
đến Tòa Thánh Vatican và truyền qua giáo dân mà ra, chứ thực ra chẳng phải là do
quỷ ám khiến cho họ đã phải làm như vậy.
Bạn đọc sẽ tìm thấy những minh chứng hùng hồn nhất cho nhận định này trong
thánh kinh (cả Cựu và Tân Ước), trong những quyết định, những tuyên
cáo, tuyên ngôn của các ông giáo hoàng, tìm đọc những sắc chỉ hay thánh lệnh
của Tòa Thánh Vatican.
Bạn đọc cũng nên tìm đọc những tài liệu nói về
những hành động cực kỳ dã man của các ông giáo hoàng và các vị chức sắc trong
giáo triều Vatican đối xử với nhau và đối với nhân dân, tìm đọc những
tài liệu lịch sử nói về những việc làm tham tàn, độc ác và cực kỳ man rợ của các
chính quyền do Vatican dựng nên và của dân Chúa đối với những người
dân dưới quyền thuộc các tôn giáo hay nền văn hóa khác, và tìm đọc những tài liệu lịch sử nói về đời sống phóng
đãng loạn luân, loạn dâm, phi luân và bạo ngược của các ông giáo hoàng và các vị
chức sắc cao cấp cũng như của các giáo sĩ các cấp tại các địa phương trong hệ
thống quyền lực của Giáo Hội.
Rõ ràng là Nhà Thờ Vatican
và tín hữu đã sử dụng cụm từ “bị quỷ ám” như là một thủ đoạn dùng “con
quỷ vô hình” để làm “con dê tế thần” gánh vác hết tất cả tội ác cho
Giáo Hội La Mã cũng như cho các giáo hoàng cùng giới tu sĩ và giáo dân trong
Giáo Hội.
Thực ra, từ khi có phong
trào Nhân Bản (humanism) đem những tội ác của Giáo Hội La Mã ra phơi bày truớc
dư luận và ánh sáng công luận từ đầu thế kỷ 14 cho đến ngày nay, bộ máy tuyên
truyền với hàng ngàn binh đoàn văn nô của Nhà Thờ Vatican KHÔNG NHỮNG đã dùng
những thuật ngữ “bị quỷ ám”, “cá nhân lẻ tẻ”, “là con người
thì tất nhiên phải có sai lầm” như là thủ đoạn để tránh né, khỏi phải
đương đầu với những sự thật về những tội ác có chủ tâm của Giáo Hội, MÀ CÒN sử
dụng rất nhiều thuật ngữ khác như “chống Chúa”, “phá Đạo”, “Vô thần chống Chúa’
, “Cộng Sản”, “Cộng Sản vô thần”, “Cộng Sản nằm vùng”, “chỉa rẽ tôn giáo”, v.v…
để đàn áp những tiếng nói muốn nói lên sự thật không đẹp của Giáo Hội. Ngòai ra,
khi phải đương đầu với một vấn đề nói về một trong những khu rừng tội ác của
Giáo Hội hoặc là của các Ngài đại diện Chúa, họ còn sử dụng
thủ đoạn lái
(chuyển hay bắt quặt) sang đề tài khác, vì họ không có đủ can đảm đối diện với
sự thật của vấn đề đang được thảo luận. Sự kiện này cho chúng ta thấy rõ là nói
chuyện với các con chiên người Việt về những điều sai lầm trong thánh kinh
hay về những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua là
nói chuyện với đầu gối. (Những rặng núi tội ác này
đã được chính Giáo Hoàng John Paul II chính thức cáo thú (với Chúa) trong một
cuộc đại lễ vô cùng long trọng tại Quảng Trường Peter (Rome) vào sáng ngày Chủ
Nhật 12/3/2000 trước sự chứng kiến của hàng triệu khán thính giả tại chỗ và hàng
trăm triệu người khác qua các màn ảnh truyền hình ở khắp nơi trên thế giới.)
Cũng vì thế mà chúng ta thể
nói rằng, “Không gian tham tàn độc, không bạo ngược dã man, không ăn gian
nói dối, không quay quắt lắt léo và không lươn lẹo, thì không phải là Nhà Thờ
Vatican và không phải là dân Chúa.” Vì thế mà ta có thể nói, “Đừng
nghe những gì Vatican và giáo dân nói, mà hãy nhìn những gì họ làm.”
۞۞۞
Từ ngàn xưa, trong bất cứ
chế độ chính trị nào ở bất cứ quốc gia nào cũng có những thành phần nằm trong
giai cấp thống trị và những thành phần nằm trong giai cấp bị trị.
A.- Giai cấp bị trị
gồm những thành phần bị cưỡng bách phải tuân hành những luật pháp do giai cấp
thống trị làm ra và phải nai lưng ra đóng thuế cùng với hàng trăm thứ đóng góp
khác trong đó có cả việc phải làm lao nô phục dịch cho tất cả
các dự án do nhà
nước đề ra. Thí dụ như trong thời Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp –
Vatican thống trị nước ta (1885-1945), dân ta bị cưỡng bách
phải đóng không biết bao
nhiêu thứ thuế (thuế thân, thuế muối, thuế chợ, v.v…) và bị cưỡng bách phải đi
làm lao nô phục dịch trong các công trường xây cất các dinh thự của nhà nước và
tư dinh cho các quan lớn, quan nhỏ trong chính quyền Bảo Hộ. Ngòai những đóng góp
trên đây cho nhà nước, dân ta còn phải đóng góp sức lao động làm lao nô phục
dịch cho các công trường xây cất hàng ngàn ngôi nhà thờ với những tháp chuông
cao chót vót lên đến tận lưng trời, hàng trăm chủng viện, tu viện và các cơ sở
kinh doanh khác như các nhà thương và trường học của Giáo Hội La Mã ở Đông
Dương. Xin xem các Chương 27, 28 và 29 (Mục X, Phần III) trong bộ sách Lịch Sử
và Tội Ác của Giáo Hội La Mã. Mấy chương sách này đã được đưa lên sáchhiem.net
từ ngày 14/1/2008.
B.- Giai cấp thống trị
gồm những thành phần có liên hệ thân tình với nhà cầm quyền hay với người có thế
lực trong chính quyền đương thời. Họ là những người hoặc là làm ra pháp luật,
hoặc là được hưởng những đặc quyền đặc lợi của nhà nước hay chế độ đương thời.
Trong các quốc gia theo chế
độ dân chủ tự do như các quốc gia ở Bắc Mỹ, Âu Châu, Nhật Bản và Ấn Độ, những
thành phần nằm trong giai cấp thống trị là những người có liên hệ chặt chẽ với
những người có thế lực trong chính quyền đương thời. Tuy nhiên, những đặc quyền
đặc lợi này của họ bị chế tài bởi hiến pháp, luật pháp, và người dân có quyền
nói lên tiếng nói khi cảm thấy bức xúc về những hành động quá trớn hay lộng hành
của những thành phần nằm trong giai cấp thống trị.
Trong các quốc gia theo chế
độ quân chủ chuyên chế, thành phần nằm trong giai cấp thống trị là hoàng tộc và
giới quan lại của chế độ. Trong chế độ này, thường thì không có hiến pháp, nếu
có thì cũng chỉ là bất thành văn. Luật pháp được làm ra để phục vụ cho quyền lợi
của giai cấp thống trị và cũng là ưu tiến số 1. Vấn đề phục vụ cho phúc lợi nhân
dân chỉ là thứ yếu.

Xin vào link sau đây để xem vô số hình ảnh về vụ tàn sát ở Croatia trong giai đoạn đề cập
https://www.jerusalim.org/ cd/galerija/arhivrs/index_en.html
Các chế độ độc tài có nhiều
đặc tính giống như y hệt các chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến trung ương
tập quyền, dù là có hiến pháp đi nữa thì đó cũng chỉ là
một bức bình phong che đậy cho cái bản chất chuyên
chính và
phong kiến của nó. Trong thực tế, hiến pháp của các chế độ độc tài cũng chỉ là
được biên soạn bởi bọn tay sai của chế độ nhằm để củng cố quyền lực và để phục
vụ hay bảo vệ những đặc quyền đặc lợi của giai cấp thống trị. Chúng ta hãy lấy
hai chế độ Đê Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam trong những
năm 1954-1975 làm thí dụ cho các loại chế độ độc tài này. Trong hai chế độ này,
Nhà Thờ Vatican được Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican trao cho nắm giữ chính
quyền, đặc biệt là quản lý công việc nội chính. Vì vậy mà gia đình Nhà Ngô đã
hành xử không khác gì những người trong hoàng gia của một bạo quân trong một
quốc gia theo chế độ quân chủ trung ương tập quyền.
Ngoài cái gánh nặng của bộ máy cai trị sắt máu giống như bộ máy cai trị của
chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền phong kiến cổ điển, lại còn có
một bộ máy cai trị sắt máu hơn, tham tàn hơn, bạo ngược hơn, dã man hơn và cực
kỳ tinh vi là bộ máy cai trị của Nhà Thờ Vatican đứng ở hậu trường chỉ đạo
chính quyền. (Muốn biết sự thực này như thế nào, độc giả chỉ cần đọc sách sử
nối về các nước Âu Châu trong thời Trung Cổ hay sách sử nói về các thuộc địa của
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở Châu Mỹ La-tinh, ở Phi Châu, ở Phi Luật Tân, đọc
những tài liệu sử nói về tình cảnh người dân xứ Croatia bị sát hại tới hơn 700
ngàn người trên tổng số dân chỉ có vỏn vẹn trên dưới 3 triệu
dân trong những năm
1941-1945 dưới ách thống trị của tên bạo chúa Ca-tô Ante Pavelich,
và đọc những tài liệu nói về tình cảnh
người dân Tutsis bị sát hại tới khoảng 800 ngàn người trong một quốc gia chỉ có
8.196.000 dân trong vòng 3 tháng trong năm 1994 trong thời chế độ đạo phiệt
Ca-tô của tên bạo chúa Giám-mục Augustin Misago.)
Ghê gớm hơn nữa là, trong
hai chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu,
tín hữu Ca-tô được coi như là một siêu giai cấp giống như
những người trong hoàng tộc trong một quốc gia bị áp đặt phải sống dưới ách
thống trị của một chế độ quân chủ chuyên chể trung ương tập quyền. Họ thường rêu
rao là miền Nam là theo chế độ cộng hòa, có hiến pháp và có chủ quyền độc lập,
nhưng đó chỉ là những danh xưng rỗng tuếch được dùng làm bức bình phong che đậy
cái bản chất tham tàn, bạo ngược và cực kỳ man rợ của chế độ mà mấy câu vè
“Nhất Chúa, nhì Cha, thứ ba Ngô Tổng Thống” do chính Nhà Thờ sáng tác ra, và
“Nhất đĩ, nhì cha, … ” của người dân đương thời đã nói lên thực trạng
của chính quyền và xã hội miền Nam Việt Nam trong những năm này.
Tìm hiểu hai chế độ này,
chúng ta thấy, giai cấp thống trị là gia đình nhà Ngô, giai cấp giáo sĩ áo đen
mà người Pháp gọi là “les corbeaux noirs”, dân Chúa và sau cùng là bọn lưu manh
xu thời làm tay sai cho chế độ.
Cũng vì thế trong những năm
này, ở miền Nam Việt Nam, mỗi một trại định cư của người Ca-tô Bắc Kỳ
di cư trở thanh một quốc gia, các ông linh mục quản nhiệm các họ đạo đều trở
thành một thứ lãnh chúa đối với gíao dân dưới quyền, và trở thành một thứ bạo
chúa đối với chính quyền địa phương và người dân thuộc các tôn giáo khác ở
trong vùng xung quanh trại định cư hay xóm đạo này. Họ chỉ sợ có lệnh tổng thống
phát ra từ tổng thống phủ, chỉ tôn trọng có giáo luật và lời dạy của các đáng
bề trên của họ mà thôi. Còn pháp luật hay luật nước hoặc quốc pháp thì bị họ coi
như là mớ giấy lộn. Ở trong chính quyền, hay ở trong quân đội và trong bất kỳ
lãnh vực hoạt động nào ở ngoài xã hội, họ cũng đều có thể làm mưa làm gió, tự
tung tự tác, không khác gì giai cấp tăng lữ và quý tộc ở Âu Châu trong thời tiền
Cách Mạng Pháp 1789.
Dụ số 10 do chính quyền Bảo
Đại ban hành vào ngày 6 tháng 8 năm 1950, hiến pháp, luật pháp, quyết định cùng
những khẩu lệnh do chính quyền Ngô Đình Diệm cũng như do cá nhân ông ta và các
nhân viên trong chính quyền ban hành là những bằng chứng bất khả phủ bác cho sự
thật về phương cách cai trị của chế độ này. Đó là những hành động của chính quyền
(1) ban hành quyết định phong cho ông Ngô Đình Cẩn làm “cố vấn lãnh đạo các
đòan thể chính trị miền Trung và miền Cao Nguyên” mà người dân miền Nam gọi
là “lãnh chúa miền Trung”, (2) ban
đặc quyền cho Giám-mục Ngô Đình Thục khai thác gỗ rừng trong tỉnh Long Khánh,
(3) việc để chô ông chủ tịch Quốc Hội Trương Vĩnh Lế đứng ra tổ chức vận động
quyên tiền gây qũy làm lễ Kim Khánh cho Giám-mục Ngô Đình Thục vào mùa xuân năm
1963, (4) dùng ngân quỹ quốc gia cùng nhân lực và vật lực của đất nước vào
việc tổ chức đại lễ vô cùng long trọng rồi mời việc khâm-sứ đại diện Tòa Thánh
Vatican là Hồng Y Agagianian đến làm chủ tế buổi lễ này vào tháng 2 năm 1959 để
dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm (tức cho Đế Quốc Vatican), (6) dùng tên
họ những tu sĩ và giáo dân Ca-tô đã từng bán nước Việt Nam cho Vatican và cho
Pháp để đặt tên cho các trường học và đường phố ở Sàigòn và nhiều thành phố khác
ở miền Nam Việt Nam, (7) ban hành lệnh (bất kể bằng khẩu lệnh hay bằng văn thư)
cấm treo cờ Phật Giáo ở trong các khu dân và chùa Phật Giáo trong mùa Phật Đản
vào tháng 5 năm 1963, v.v...
Trên đây là những việc làm
bất chính của chính quyền Ngô Đình Diệm để phục vụ riêng cho giai cấp thống trị
trong đó có đạo Ca-tô gọi chung là Nhà Thờ Vatican, gia đình nhà Ngô, băng đảng
Cần Lao và bọn xu thời làm tay sai cho chế độ. Sự thật là như vậy. Nhiệm vụ của
người viết sử là phải nói lên những sự thật này. Sự đời, “trung ngôn nghịch
nhĩ.” Nói lên những sự thật này thì bị mấy ông “dân Chúa” sống đạo “theo
đức tin Ki-tô” và sống “theo lương tâm công giáo” mạt sát rằng, “thằng
chuyên nói láo, thằng
lưu manh chẻ sơi tóc làm tư”.
MỘT SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TÍN ĐỒ ÂU MỸ VÀ TÍN ĐỒ NGƯỜI VIỆT
Có một điều mà chúng ta cần
nên biết là những người bình thường mà có những hành động ngang ngược và độc ác
như trên, thì chúng ta còn có hy vọng vào một lúc nào đó lương tâm họ sống lại,
và khi đó họ sẽ dùng lý trí để phân tách và tìm hiểu mà biết được những việc làm
của họ là tội ác. Khi đó, họ sẽ thức tỉnh và thành tâm sửa đổi. Sự thật này đã
từng xẩy ra rất nhiều đối với các giáo sĩ và dân Chúa người Âu Mỹ như các giáo
sĩ Peter de Rosa, Martin Malachi, Alberto Rivera, Edmond Paris,
Rafael Rodríguez Guillén, Luigi Marielli, Emmett McLoughlin,
Charles Chiniquy, Gary Wills, Avro Manhattan, Charlie Nguyễn, Phạm Hữu Tạo, Trần
Tam Tỉnh, v.v...
Đối với xã hội tín hữu Ki-tô Âu Mỹ, trong quá khứ, tình trạng này đã xẩy ra rất nhiều.
Cho đến ngày nay, tình trạng này vẫn còn tiếp
tục xẩy ra với con số ngày càng nhiều hơn, và trong tương lai,
chắc chắc vẫn còn xẩy ra. Cũng vì thế mà ở Âu Châu cũng như ở
Mỹ Châu, con số tín đồ Ki-tô bỏ đạo và con số tín đồ không đi nhà thờ ngày nay
đã lên đến mức độ làm cho Nhà Thờ Ki-tô phải lo ngại. Chẳng hạn như ở Pháp, ở Anh,
ở Đức con số tín đồ Ki-tô bỏ, không đi Nhà Thờ lên đến 97-99%, và tín đồ Ca-tô
ở các nước khác ở Âu Châu cũng đang trên đà bỏ đạo gấn giống như nước Anh và
nước Pháp. Tại Mỹ, tình trạngt này cũng đang trên đà như vậy và đặc biệt con số người ghi danh
học làm nghề linh mục giảm xuống còn độ 30% so với 50 năm về trước. Vấn đề này
sẽ được trình bày rõ rang và đầy đủ với những tài liệu dẫn chứng ở nới phần KẾT
LUẬN trong Chương 16 (Phần III) ở sau.
Trái lại, tín đồ Ca-tô
người Việt và ở những nước chậm tiến, nghèo đói như ở Rwanda, Uganda, Cameroon,
Congo, chuyện tu sĩ và giáo dân thức tỉnh (hay lương tâm sống lại) là một chuyện
không phải là không có, nhưng vô cùng hãn hữu.
Trong khi tín đồ ở các nước
Âu Mỹ đã thức tỉnh như vậy, thì tín đồ Ca-tô người Việt vẫn còn triền miền trong
cơn mộng du mơ về nước Chúa như người Tây Ban Nha trong thời Trung Cổ. Tệ hơn
nữa, họ còn u mê đến nỗi mất hết cả lương tâm, mất hết cả nhân tính, dám thản
nhiên đem cả người chồng, người cha thân thương ra xử lý như là một tên tội đồ
chỉ vì nạn nhân đã dám nói lên những việc làm tội ác của Nhà Thờ Vatican. Lại
còn có một con chiên dám làm cả chuyện đại nghich bất đạo là không nhìn nhận
người cha ruột thân thương của ông ta chỉ vì than phụ của ông ta đã dám cả gan
không tuân lệnh Nhà Thờ mà quyết tâm đi theo Phong Trào Việt Minh chiến đấu đánh
đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân
tộc. Tình trạng này cho chúng ta thấy rõ, tín đồ Ca-tô người Việt còn tệ hơn cả
loài súc sinh! Xin xem lại Chương 9 ở trên để biết sự thực họ đã hành xử như
vậy.
Nguyên Nhân ?
TẠI SAO tín hữu
người Việt lại có thể hành xử đến độ mất hết nhân tính như vây?
Tìm hiểu sâu rộng về xã hội
Ki-tô người Việt, chúng tôi thấy rằng, sở dĩ họ đã hành xử như vậy là do:
A.- MỘT PHẦN vì hầu hết tín
đồ Ca-tô người Việt đã bị điều kiện hóa quá nặng bởi chính sách ngu dân và giáo
dục nhồi sọ của Nhà Thờ Vatican đến nỗi họ đã gần như hoàn toàn:
1.- Không còn khả năng sử
dụng lý trí để phân biệt sự khác nhau giữa cái đúng và cái sai, giữa sự kiện và
ý kiến, giữa thuận lý và nghịch lý, giữa nguyên nhân và hậu quả, giữa nhân ái và
độc ác, giữa văn hóa và phi văn hóa, giữa nhân luân và phi luân.
2.- Mất hết đức tính công
bằng và vô tư. Đối với họ, bất cứ cái gì thuộc về hay của Giáo Hội La Mã hay
đạo Ca-tô của họ đều thánh thiện, đều hoàn hào, đều tuyệt với, đều tốt đẹp, và
bất kỳ cái gì thuộc về các tôn giáo hay nền văn hóa khác đều là xấu xa và tội ác
hết. Cũng vì thế mà họ mới gọi Giáo Hội La Mã là “Hội Thánh duy nhất, thánh
thiện, công giáo và tông truyền", gọi tất cả các tôn giáo khác là tà đạo, và
gọi tất cả các dân tộc thuôc các nền văn hóa khác là những quân man di, mọi rợ.
Đọc Chuong 5 (các trang 188-217) trong sách Lich Sử Giáo Hội Công Giáo (Saigon:
Chân Lý, 1972) của Linh-muc Bùi Đức Sinh, chúng ta sẽ thấy rõ sự thật này.
3.- Mất hết tình cảm thiêng
liêng và hồn nhiên của con người đối với những người thân thương trong gia đình
cũng như đối với dân tộc và tổ quốc.
4.- Dốt đặc cán mai táu về
quốc sử cũng nhừ về ịch sử thế giới, lịch sử giáo Hội La Mã. Cũng vì thế mà họ
thường hay nói càn, nói bậy, nói ẩu, nói láo mà vẫn không biết là nói láo, lại
cứ tưởng là nói đúng. Dưới đây là một số bằng chứng bất khả
phủ bác cho sự kiện này:
a.- Trường hợp ông nhà giáo kiêm nhà văn và MC Nguyễn Ngọc
Ngạn viết láo, việt bậy trong cuốn Xóm Đao và tuyền bố quàng xiên trong cuốn
Paris By Ngiht 81 “Bắc Hàn không Tấn Công Nam Hàn".
b.-Trường hợp ông Trần Gia Phụng, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm
Huế, Sử Địa, tác giả của nhiều cuốn sử về Lịch Sử Việt Nam, viết trong bài "Viết
Cho Đúng Sự Thật" (đề ngày 24/11/2009, phổ biến trên diễn đàn
www.anhduongonline.com ngày
25/11/2009 để phản bác bài viết "Phê Bình Bài Viết (Lý Do Cuộc Đảo Chánh
Ngày 1/11/1963) của ông Trần Gia Phụng.) trong đó có một đoạn có nguyên văn như
sau:
“Có
một điều cần nhấn mạnh là cá nhân người nào làm thì người đó chịu trách nhiệm,
đừng vì cá nhân đó theo tôn giáo nầy hay tôn giáo khác mà đưa vấn đề thành sự
đối đầu tôn giáo rất nguy hiểm. Ví dụ trường hợp tôi viết về chế độ Ngô Đình
Diệm, thì chế độ Diệm có điểm tốt mà cũng có điểm không tốt. Rủi một điều là
cái điểm không tốt nguy hại nhất cho chế độ Diệm chính là vụ treo cờ Phật giáo
mà ai đã từng ở miền Trung, nhất là ở Huế và Đà Nẵng đều thấy và biết. Chuyện
nầy cũng được các tác giả Ky-Tô giáo viết lại, ví dụ cụ thể nhất là linh mục Cao
Văn Luận. Từ cái điểm không tốt nầy mới nẩy sinh ra đủ thứ chuyện, làm sụp đổ
chế độ Diệm. Cái điểm không tốt nầy thuộc về trách nhiệm cá nhân hai ông Ngô
Đình Thục và Ngô Đình Diệm chứ không liên hệ gì đến Ky-Tô giáo cả. Phải tách
bạch rõ ràng như thế để tránh những hiểu lầm đáng tiếc, những chụp mũ vu vơ.”
Tình trạng không biết gì về vai trò của Giáo Hội La Mã trong
dòng lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại của ông
Trần Gia Phụng cũng được thể hiện ra qua trong tất cả các tác phẩm viết về lĩch
sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại. Trong các tác phẩm này, ông Trần Gia
Phụng cũng không hề đề cập đến vai trò tích cực của Giáo Hội La Mã trong việc
việc vận động các chính quyền Pháp liên kết với Giáo Hội La Mã và xuất quân đánh
chiếm Việt Nam làm thuộc địa để chùng thống trị, cùng nô lệ hóa dân ta và cùng
chi nhau lợi nhuận.Cũng vì thế mà trong tất cả các tác phẩm của ông, ông không
hề đề cập đế cái khối bất động sản khổng lồ mà Giáo Hội La Mã đã dựa vào chính
quyền Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican để cướp đoạt của dân ta mới có được.
Điều đáng buồn là dù rằng ông Trần Gía Phụng tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế, Ban
Sử Địa, đã dạy sử tại các trường trung học ở miền Nam Việt Nam trong nhiều
năm trước ngày 30/4/1975 và đã có nhiều tác phẩm lịch sử nói về thời cận và hiện
đại Việt Nam, mà lại ở vào tình trạng "không biết lịch sử" như thế!. Như
vậy, thì còn nói chi đến những người viết sử tài tử với mục đích duy nhất là để
bào chữa cho chính bản thân họ hay ông cha của họ về những hành động cộng tác
chặt chẽ hay làm tay sai cho các thế lực ngoại thù đã từng đánh chiếm và thống
trị nước ta từ năm 1858!
c.- Không phải chí có ông Trần Gia Phụng mới rơi vào tình
trạng như đã nêu lên ở trên, mà là tất cả các tác giả khác viết sử về Việt Nam
trong thời kỳ này. Đọc các cuốn sử như Việt Nam 1945-1995 (Bethesda, MD: Tiên
Rồng, 2004) của tác giả Lê Xuân Khoa, bộ Việt Sử Khảo Luận (Paris: Nam Á, 2002)
của tác giả Hoàng Cơ Thụy, tẩ các tác phẩm lịch sử của ông Phạm Văn Sơn, cuốn
Việt Nam Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia - Cộng Sản... (San Jose, CA:TXB, 2002) của
Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử gồm các tác giả Dương Diên Nghi, Nguyễn Châu, Lương Văn
Toàn, Lê Hữu Phú, Hòang Đức Phương, v.v... và tất cả các tác phẩm lịch sử nói về
Việt Nam trong thời cận và hiện đại của giới tu sĩ áo đen và tín đồ Ca-tô còn
nặng tinh thần "thà mất nước, chứ không thà mất Chúa", "Thà giữ đạo,
chứ không giữ nước", khư khư sống theo quan niệm "nhất Chúa, nhi cha, thứ
ba Ngô Tổng Thống" và sống theo " lương tâm công giáo" của họ.
Dĩ nhiên là Linh-mục Trần Tam Tỉnh, ông Charlie Nguyễn, Bác-sĩ
Nguyễn Văn Thọ, ông Giuse Phạm Hữu Tạo và Giáo-sư Lý Chánh Trung không ở
trong trường hợp này.
5.- Chỉ biết đặt giáo luật,
thánh kinh, tín lý Ki-tô, tập tục, lời dạy, lệnh truyền của Tòa Thánh Vatican
hay các đấng bề trên của họ, chỉ biết
đặt quyền lợi của Nhà Thờ Vatican lên trên
hết. Họ không hề nghĩ đến tổ quốc, quốc gia và dân tộc. Thảng hoặc
Nếu họ có nói đến tổ
quốc, quốc gia, và dân tộc THÌ đó
cũng chỉ là những câu nói đầu môi chót lười để
phỉnh gạt những người ngòai đạo Ca-tô, chứ trong thực tế, quốc gia, tổ quốc và
dân tộc không có chỗ đứng trong thâm tâm của họ. Cái khẩu hiệu “thà mất nước,
chứ không thà mất Chúa” và câu vè “nhất Chúa, nhì cha, thư ba Ngô Tổng Thống”
của Nhà Thờ Vatican đưa ra để dạy dỗ giáo dân và những hành động kề vai sát cánh
với Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican của họ trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa
thế kỷ 18 cho đến tháng 7 năm 1954 và kề vai sát cánh với Liên Minh Xâm Lược Mỹ
- Vatican từ tháng 7 năm 1954 cho đến ngày 30/4/1975 là những bằng chứng rõ ràng
nhất và hùng hồn nhất cho sự kiện này. Ngòai những bằng chứng nói trên, trong thời
gian mới gần đây họ còn có những thái độ và hành chống lại tổ quốc và dân tộc
qua những vụ:
a.- Thái độ và hành động
xấc xược, ngược ngạo và thiếu giáo dục của Linh-mục Nguyễn Văn Lý
ở nơi pháp đình
vào ngày 30/3/2007 trước sự chứng kiến của các phong viên của các cơ quan truyền
thông trong nước và nước ngòai.
b.- Việc Tổng Giám Mục Ngô
Quang Kiệt xúi giục con chiên nổi loạn đánh phá tòa nhà công quyền tại số 142
Phố Nhà Chung, Hà Nội trong thời gian từ 18/12/2007 cho đến ngày 30/1/2008 với
chiều bài đòi chiếm lại khu đất này cho Vatican.
c.- Việc ông tổng giám mục
này cùng với các Linh-mục Vũ Khởi Phụng, Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Ngọc Nam Phong,
Nguyễn Văn Thật, Nguyễn Hữu Vinh xúi giục một số giáo dân cuồng tín gây bạo loạn,
phá tường tràn vào chiếm đóng Công ty may Chiến Thắng tại số 178 Đường Nguyễn
Lương Bằng (Phương Đống Đa, Hà Nội) từ ngày 18/8/2008 cho đến nay (30/8/2008).
d.- Thái độ và lời lẽ ngang
ngược (coi giáo luật đứng trên luật pháp Việt Nam) trong văn thư số 10/GHVN đề
ngày 25/9/2008 của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Nhơn (chủ tịch Hồi Đồng Giám Mục
Việt Nam) trả lời văn thư số 1437/UBND-NC ngày 23/9/2008 của ông Nguyễn Thế Thảo
(chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội).
f.- Thái độ và lời lẽ ngang
ngược (coi giáo luật đứng trên luật pháp Việt Nam) trong lá thư phúc đáp của
Tỉnh Dòng Cứu Thế Việt Nam đề ngày 19/12/2008 gửi ông Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân
Thành Phố Hà Nội.
e.- Vụ dựng tượng Bà Maria
ở xã An Bằng (Huế) kéo dài từ đầu năm 2008 cho đến ngày nay (Tháng 1/2009).
B.- MỘT PHẦN KHÁC là do cái
bản chất tham lợi, háo danh và thèm khát quyền lực của họ đã gây nên. Vấn đề này
đã được trình bày đầy đủ trong Chương 6 ở trên. Nếu tìm hiểu sâu rộng về nguồn
gốc của những người Công Giáo (hay Ca-tô) Việt Nam, chúng ta sẽ thấy rằng chính
bản thân họ hay ông cha họ là những hạng người hoặc là “theo đạo lấy gạo mà
ăn” hoặc là “theo đạo để tạo danh đời”, hoặc là bị cưỡng bách phải
theo đạo (chẳng hạn như những người “lạy Chúa Ba Ngôi, tối lấy được vợ tôi
thôi đi Nhà Thờ” hay là “theo đạo cho xong nợ để tránh khỏi bị cảnh sát
quấy rầy”. Sự kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi nhận như sau:
“Có những người cho rằng họ
vào đạo để khỏi bị sách nhiễu về chính trị. Quần chúng ở đây, vì đã từng sống
lâu năm dưới chế độ Việt Minh, nên bị tình nghi có liên hệ với “kẻ địch”, bây
giờ vào đạo là gặp được con đường để tỏ lòng trung thành với chế độ, hoặc ít ra
tránh được những quấy nhiễu của cảnh sát…” Điều chắc chắn
là phong trào trở lại
đạo đó đã chấm dứt với năm 1963 ngay khi tổng thống công giáo Diệm bị lật đổ.”
[1]
Riêng về những người “đí
đạo lấy gạo để ăn” và “theo đạo để tạo danh đời” là những người vốn
dĩ đã có sẵn bản chất tham lợi, háo danh và thèm khát quyền lực. Mục đích theo
đạo của họ là để dễ dàng nhờ vả các ông linh mục chạy chọt kiếm cho họ một chỗ
làm ngon lành trong chính quyền hay dựa vào chính quyền để thực hiện những tham
vọng bất chính mà họ hằng ấp ủ. Như đã trình bày trong Chương 6 ở trên, những
người có bản chất tham lợi, háo danh và thèm khát quyền lực đều là những người
mang ác tính phản trắc và có thể làm những chuyện đại nghịch bất đạo như phản
quốc, sát hại cả cha, mẹ, anh, chị em, vợ, con và dâng vợ cho những người có
quyền thế để hy vọng có thể bước vào cửa quyền. Sự thực, trong cộng đồng giáo
dân người Việt, ngọai trừ những người bị cưỡng bách hay bị chèn ép phải theo
đạo, còn tất cả tín đồ Ca-tô khác đều thuộc loại người này cả. Điều này cho
chúng ta thấy, chính sách dùng miếng mồi vật chất và chức vụ trong chính
quyền hay địa vị ở ngoài xã hội để câu nhử hay dụ khị những phường tham lợi, háo
danh và thèm khát quyền lực chạy theo bắt bồi rồi theo đạo là yếu tố hết sức
quan trọng làm cho con sô những phần tử đầy những ác tính cực
kỳ ghê tởm chiếm một tỉ lệ rất
cao trong cộng động tu sĩ và giáo dân Vỉệt Nam.
Một điểm đặc biệt nữa, như
đã nói ở trên, là khi đã trở thành tín đồ Ca-tô, họ vừa bị điều kiện hóa bởi
chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Vatican mà trở thành hạng người hết sức thiển
cận, mất hết lý trí, không còn khả năng tìm hiểu sự vật, mất hết nhân tính, mất
hết lương tâm, mất hết tình cảm thiêng liêng và hồn nhiên đối với những người
thân thương trong gia đình, đối với bạn bè, đối với dân tộc và tổ quốc. Đặc biệt
nhất là họ dốt đặc cán mai táu về quốc sử, về lịch sử thế giới và về lịch sử
Giáo Hội La Mã. Lý do: Nhà Thờ Vatican, cấm không cho họ học tòan bộ những bài
học sử mà chỉ cho họ học lẩy một số bài cho lấy có để trình diễn bề ngoài mà
thôi. Họ cũng không dám mở mắt tìm đọc những sách báo và những tài liệu lịch
sử cũng như những tư tưởng cao đẹp mà Vatican không cho phép. Họ chỉ còn biết
cúi đầu vâng phục vô điều kiện và triệt để tuân hành những lệnh truyền của các
đấng bề trên trong Giáo Hội La Mã. Tình trạng này đã khiến cho trình độ kiến
thức tổng quát của họ không bằng một em bé chưa học xong bậc trung học ở các
nước nằm ngoài vòng kèm tỏa của Nhà Thờ Vatican. Nguời viết được chứng kiến một
em bé người Việt sinh đẻ ở Hoa Kỳ, còn đang học lớp 10, khi nói chuyện với gia
đình về các môn học ở bậc trung học, em này đã đưa ra một nhận xét về thân phụ
của em, một giáo sư dạy Toán của một trường Công Lập ở Sàigòn trước năm 1975,
rằng “kiến thức phổ thông ở bậc trung học của bố không được quân bình."
Đây là sự thực. Kiến thức
phổ thông ở bậc trung học của hầu hết những lớp người tiếp nhận sở học qua
chính sách giáo dục của các chính quyền Bảo Hộ Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican
(1885-1954) và các chính quyền miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 đều ở vào tình
trạng bất quân bình. Cũng vì thế mới có tình trạng ông trí thức gốc Phát Diệm đã
có bằng cử nhân luật và đã hành nghề luật sư nhiều năm trước năm 1975 mà cũng
không biết gì về phương pháp viết khảo luận. Sở dĩ có tình trạng cười ra nước
mắt như vậy là vì cả ở Phân Khoa Văn tức Đại Học Văn Khoa Sàigòn và Phân Khoa
Lụât (Đại Học Sàigòn) đều không hề đòi hỏi sinh viên bậc cử nhân
(undergraduate) viết một bài khảo luận, và các trường trung học ở miền Nam Việt
Nam trong những năm 1954-1975 cũng không hề dạy học sinh phương pháp viết khảo
luận bao giờ. Vì thế cho nên ông trí thức gốc Phát Diệm này mới đưa ra một nhận
xét về cuốn sách Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi một cách rất Ca-tô ngon lành
rằng:
“Cuốn VNMLQHT không phải là một cuốn hồi
Ký. Đúng hơn, nó là một tạp ghi cóp nhặt của nhiều người và nhiều tác giả. 93
cuốn sách và 52 tạp chí được trích dẫn. Bản thân ông Đỗ Mậu chỉ xuất hiện đó đây
như một loại giây leo còm cõi sống bán vào những chất liệu cóp nhặt.”[2]
Cũng nên biết rằng, khi nói
đến tín đồ Ca-tô, đã có người cho rằng họ đã trở thành hạng người vong bản phản
dân tộc, không còn coi đất nước và tổ quốc là gì nước. Đối với họ, Vatican hay
Giáo Hội mới là tổ quốc và quê hương của họ. Nói như thế không phải là thù ghét
họ mà khinh miệt và lên án họ như vậy, mà là
"nói có sách, mách có chứng" về tư duy cũng như
về hành động của họ.
Bằng chứng về tư duy của họ
là trong những năm 1954-1975 ở miền Nam Việt Nam, họ đã triệt để sống theo câu
vè (1) “Nhất Chúa, nhì cha, thứ ba Tổng Thống Ngô Đình Diệm” và khẩu
hiệu (2) “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”.
Trong câu vè (1), chúng ta
thấy chỉ có Chúa, có Cha và cá nhân ông Tổng Thóng là người
do Nhà Chúa đưa lên
cầm quyền, chứ không có chỗ nào là chỗ đứng của đất nước hay tổ quốc và dân tộc.
Và trong khẩu hiệu (2), lại còn rõ rệt hơn nữa, họ đã nói trắng ra là giữa Nhà
Thờ Vatican và nước Việt Nam, họ đã dứt khoát chọn Vatican là tổ quốc của họ và
bỏ rơi đất nước Việt Nam.
Bằng chứng về hành động tội
ác của họ chống lại tổ quốc và dân tộc ta để phục vụ cho quyền lợi của Nhà Thờ
Vatican thì càng nhiều hơn nữa. Vấn đề này sẽ được trình bày đầy đủ ở trong phần
dưới của chương sách này.
Nói chung, tất cả những tội
ác của tín đồ Ca-tô người Việt đều do ảnh hưởng trực tiếp của những tín lý và
lời dạy nặng tính cách phỉnh gạt, lừa bịp và khủng bố trong thánh kinh cũng như
những lời dạy của Nhà Thờ Vatican gây ra. Ngòai ra, còn có một yếu tố hết sức
quan trọng nữa là những tấm guơng xấu của các nhà lãnh đạo
của Giáo Hội và giới tu sĩ áo đen đã ảnh
hường vào cuộc đời của họ mà gây nên. Tội ác của họ quá nhiều và mức độ tội ác
quả thật là cực kỳ trầm trọng. Người viết không biết phải dùng lời nói như thế
nào để nói lên được hết tất cả tội ác và cái bản chất tội ác của họ.
Một số trong khu rừng trọng
tội ác của họ là tội phản quốc, đi theo quân cướp ngoại thù, tấn công vào các làng
của người dân bên lương, giết người, cướp của, đốt nhà, đốt đình, đốt miếu, phá
chùa, tiêu hủy hoa mầu mùa màng, hãm hiếp đàn bà con gái, hành hạ tra tất
cà những nạn nhân của họ
một cách cực kỳ dã man.
Riêng về tội phản quốc, họ
đã gục mặt cúi đầu cam tâm “cõng đàn rắn độc Vatican và Pháp về căn gà nhà”
trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thập niên 1780 cho đến tháng 7/1954 và cấu
kết với đế quốc Mỹ trong những năm 1954-1975 để duy trì và củng cố quyền lực cho
Giáo Hội La Mã ở miền Nam vĩ tuyến 17. Tội ác này đã trực tiếp gây nên cuộc
chiến Mỹ - Việt tàn khốc nhất trong lịch sử nhân loại.
Tội ác của tín đồ Ca-tô
người Việt đối với tổ quốc và dân tộc Việt Nam thật là vô cùng khủng khiếp.
Chúng ta biết rằng, quân xâm lược Nhà Minh chỉ đánh chiếm và thống trị nước ta
có 13 năm (1414-1427) mà cụ Nguyễn Trãi đã phải than trời rằng “Độc ác tháy!
Trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay! nước bể không rửa sạch mùi.” Tín
đồ Ca-tô người Việt đã cấu kết và làm tay sai đắc lực cho Liên Minh Xâm Lược
Pháp – Vatican trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thập niên 1780 cho đến năm
1954 và cho Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican trong thời gian 1954-1975, với một
khoảng thời gian gấp gần 15 lần, với cái bản chất đầy những ác tính hung dữ
mất hết nhân tính của
họ, thì tất nhiên là mức độ tham tàn, bạo ngược và dã man phải nhiều hơn gấp
hàng trăm lần nếu so với mức độ tham tàn, bạo ngược và dã man của quân giặc
Minh trước kia. Với thực trạng như vậy, tất nhiên là tội ác của tín đồ Ca-tô
người Việt đối với dân tộc và đất nước ta phải nói là nhiều hơn gấp cả ngàn lần.
Thiết tưởng các tiểu mục dưới đây nói về tội ác của Nhà Thờ Vatican và của giáo
dân người Việt chỉ là một phần rất nhỏ trong những rặng núi tội ác của họ chống
lại tổ quốc và dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa
thế kỷ 16 cho
đến ngày nay.
I.- CÁC TỘI ÁC CỦA VATICAN VÀ
GIÁO DÂN NGƯƠI VIỆT TRONG THỜI KỲ TỪ GIỮA THẾ
KỶ 16 ĐẾN NĂM 1954
Trong thời gian này, Nhà
thờ Vatican và giáo dân Việt Nam phạm những tội ác như sau:
LOẠI TỘI ÁC THỨ NHẤT:
Đây là tội ác cấu kết với Nhà Thờ Vatican cùng tiếp tay cho đế quốc thực dân xâm
lược Pháp với những hành động:
1.- Cung ứng những tài liệu
tình báo cho Vatican mà bọn giáo sĩ truyền giáo và tín đô Ca-tô người Việt đã
thâu thập được từ giữa thế kỷ 16.
2.- Tổ chức các đạo quân
thập tự ở trong các làng đạo có nhiệm vụ nổi lên làm nội ứng và tiếp viện cho Liên Quân
Xâm Lược Pháp - Vatican trong những chiến dịch tấn chiếm đất nước ta cũng như
trong các cuộc hành quân truy lùng và tiêu diệt các lực lượng nghĩa quân kháng
chiến của nhân dân ta trong những năm 1858-1945. Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương, Lê
Hoan, Trần Lục, Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm,
v.v... và nhiều tên dân Chúa đầu sỏ khác dẫn lính đạo đi tiêu diệt các lực lượng
nghĩa quân kháng chiến ở miền Nam trong những năm từ đầu thập niên 1860 và trọn
đời làm tay sai cho giặc.
3.- Cung ứng nhân sự cho
giặc làm những công việc như thông ngôn, đưa đường, chỉ lối cho giặc trong
những chiến dịch truy lùng bắt người bị tình nghi là có họat động chống giặc.
4.- Cung ứng nhân sự làm
việc cho giặc trong bộ máy đàn áp nhân dân ta, đặc biệt là trong các ngành công
an, cảnh sát, mật vụ.
5.- Đốt nhà, đốt đình, đốt
miếu, đốt chùa, giết người cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái khi họ theo liên quân giặc
trong những chiến địch tấn công chiếm đất, trong những cuộc hành quân truy lùng
và tiêu diệt lực lương nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta trong suốt chiều
dài lịch sử từ năm 1858 đến năm 1954. Ngoài ra, họ còn có những hành động cực kỳ dã man
như những toán lính đạo ở trong các giáo khu Phát Diệm (dưới quyền chỉ huy của
Lế Hữu Từ, Linh-mục Hoàng Quỳnh), Bùi Chu (dưới quyền chỉ huy của Giám-mục Phạm
Ngọc Chi và các linh mục dưới quyền), các toán lính đạo Bến Tre và Mỹ Tho (dưới
quyền chỉ huy của tên Ca-tô Pháp lai Jean Leroy) và ở các làng đạo nằm rải
rác trong các tình trong vùng đồng bằng Sông
Hồng dưới quyền chỉ huy của các linh mục Lương Huy Hân (Ngưỡng Nhân, Giao Thủy,
Nam Định) Mai Đức Tín (Phương Xá, Đông Quan Thái Bình), Vũ Đức Luật (Cao Mại,
Kiến Xương, Thái Bình), Anvarê Cao (Quỳnh Lang, Quỳnh Côi, Thái Bình), Nguyễn
Quang Ân (Thân Thượng, Kiến Xương, Thái Bình), v.v...
LOẠI TỘI ÁC THỨ HAI:
Đó là tội ác cướp đoạt ruộng đất trồng trọt, chưa kể ở Trung Bộ và Bắc Bộ, chỉ
riêng ở Nam Bộ tính đến cuối thập niên 1920, Vatican đã ăn cướp của dân ta tới
khoảng 25% diện tích ruộng đất canh tác, phá hủy không biết bao nhiêu ngôi chùa
và miếu đình để đoạt đất xây nhà thờ, chủng viên, tu viện và các cở sở khác.
Những ngôi nhà thờ từ lớn đến trung trung và nhỏ đều là được xây cất trên những
thửa đất đã cưỡng chiếm của đất nước ta, xây bằng vật liệu, tiền của và sức lao
động của nhân dân ta. Hành động ăn cướp này không phải chỉ xẩy ra ở Nam Bộ mà
xẩy ra trên toàn thể lãnh thổ Viiệt Nam, nghĩa là bất kỳ nơi nào mà quyền lực
của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican vươn tới.
LỌAI TỘI ÁC THỨ BA:
Đây là tội ác cấu kết
với đế quốc thực dân xâm lược Pháp bóc lột dân ta đến tận xương tận tủy bằng các
hình thứ đóng thuế (thuế thân, thuế muối, thuế chợ, bị cưỡng bách phải tiêu thụ
rượu do Nhà Nước Sản xuất, v.v...) và nhiều thứ đóng góp khác như bị cưỡng bách đi
làm lao nô phục dịch trong các công trường xây cất các dinh thự của Nhà Nước,
xây cất các nhà thờ nguy ngay vĩ đại với những tháp chuông cao chót vót đế tận
lưng trời, những chủng viện, tu viện và rất nhiều cơ sở hay xí nghiệp kinh doanh
của Nhà Thờ Vatican. Tình trạng này đã khiến cho dân ta phải sống trong cảnh
đói khổ triền miên suốt từ năm 1885 mà cao độ là dân ta phải rơi
vào thảm họa chết
đói tới hai triệu người trong mấy tháng đầu năm Ất Dậu 1945.
LOẠI TỘI ÁC THỨ TƯ:
Đó là tội ác tra tấn những nạn nhân bị chúng nghi ngờ và
bắt được
một cách cực kỳ dã man, tàn sát các nhà ái quốc cách mạng, các
chiến sĩ nghĩa
quân trong các tổ chức kháng chiến
trong đại cuộc giải phóng đất nước và
dân tộc. Điển hình như:
1.- Ngô Đình Khả đào mả cụ
Phan Đình Phùng, lấy xác đốt thành tro, lấy tro trộn vào thuốc súng bắn xuống
sông Lam Giang để trả thù người đã chết theo truyền thống lâu đời trong đạo
Ki-tô.
2.- Ngô Đình Diệm trói các
tù nhân làm cách mạng cứu nước vào một cái ghế có khoét lõ ở chính giữa, rồi
dùng đèn cầy (nến) đốt ở dưới để tra khảo lấy khẩu cung.
3.- Bọn lính đạo Phát Diệm
dưới quyền chỉ huy của Linh-mục Hoàng Quỳnh bắt được ba người ngọai đạo ở các
làng bên. Chúng cho rằng nạn nhân là Việt Minh và tra tấn họ cực kỳ dã man. Sáng
hôm sau, các nạn nhân bị điệu ra cột cờ ở trước sân chợ và bị đánh đập hết sức
man rợ với chủ tâm để khùng bố tinh thần những người trong chợ. Sau đó, chúng
đâm chết một trong ba nạn nhân này, phanh ngực, móc mật đem hòa với rượu, moi
lấy gan đem nướng, rồi ngồi nhậu hả hê với nhau. Sau đó, hai nạn nhân còn lại bị
bắn chết, và cả ba nạn nhân đều bị chúng chặt lấy đầu đem xâu vào một cái sào,
rổi đem cắm ở bên vệ đường ở đầu làng. Chuyện này và nhiều chuyện hết sức rung
rợn khác sẽ được trình bày đầy đủ nơi Chương 13 ở sau.
(còn tiếp)
CHÚ THÍCH
[1]
Trần Tam Tình, Thập Gia và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xúat Bản Trẻ,
1978), tr. 129-130.
[2]
Nguyễn Văn Chức, Việt Nam Chính Sử (Fall Church, VA: Alpha,
1992), tr. 1.