Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_11a.php

| bản in | ¿ trở ra mục lục | 21 tháng 12, 2009

PHẦN II

◎◎◎

CHƯƠNG 11

TỘI ÁC CỦA GIÁO DÂN NGƯỜI VIỆT
ĐỐI VỚI TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

(tiếp theo)

II.- TỘI ÁC CỦA VATICAN VÀ GIÁO DÂN NGƯỜI VIỆT TRONG THỜI KỲ 1954-1975

 

Đây là những rặng núi tội ác chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam trong một giai đoạn mới của lịch sử. Những rặng núi tội ác này cũng được phân loại ra làm nhiều loại như sau:

LOẠI TỘI ÁC THỨ NHẤT: Đây là tội ác cấu kết với đế quốc xâm lược Mỹ gây nên cuộc chiến Mỹ - Việt và làm cho nhân dân ta trong toàn quốc phải lao vào cuộc chiến đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican để giải phóng miền Nam đem lại thống nhất cho đất nước. Trong cuộc chiến này, liên minh giặc và bọn đầu nậu dân Chúa bán nước cho giặc đã tàn phá đất nước bắng những thứ vũ khí hiện đại nhất với một số bom đạn khồng lồ nhiều  hơn 3 lần tổng số bom được cả hai phe lâm chiến sử dụng trong thời Đê Nhị Thế Chiến. Theo bài viết “Đôi điều nhận xét về những phát biểu của Bà Dương Nguyệt Ánh” của tác giả Nguyễn Hai đăng trên giaodiemonline.com ngày 03/12/2007 và sachhiem ngày 26/2/2009, thì con số lượng bom đạn và số lượng chất độc hóa học cũng như sinh mạng người Việt và lính Mỹ bị giết hại trong cuộc chiến này được ghi nhận như sau:

Mỹ đã thả xuống Việt Nam 6,727,084 tấn bom. Lượng bom nhiều gấp 2.5 lần lượng bom đã sử dụng trên toàn thế giới trong Thế Chiến Thứ Hai.

Mỹ đã rải xuống Việt Nam 18 triệu gallons chất độc hóa học, trong đó có khoảng 12 triệu gallons là chất độc màu da cam (Agent Orange).

2,122,244 người chết, trong đó chỉ có 58,169 lính Mỹ.

3, 650, 956 người bị thương.

440,000 lính của miền Bắc và 220,537 lính của miền Nam đã chết.

587,000 thường dân đã chết.” [3] .

Cũng nói về số lượng bom đạn và số lượng chất độc hóa học do quân đội Mỹ sử dụng để tàn phá ruộng vuờn và tàn sát nhân dân ta, nhà viết sử Stanley I. Kutler viết:

Từ năm 1965 cho đến năm 1973, Hoa Kỳ đã dùng tới hơn 14 triệu tấn thuốc nổ thuộc loại hiện đại nhồi trong bom và đạn đại pháo để đánh phá cái diện tích bé nhỏ này. Riêng về khối lượng bom do không quân Hoa Kỳ sử dụng cũng đã lên tới hơn 7 triệu tấn, hơn gấp 3 lần tổng số bom được sử dụng trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Phần lớn những bom trong các trận không kích và đạn đai bác do pháo binh bắn phá (gần 12 triệu tấn) thực sự là những hóa chất có công dụng làm rụng lá cây đã sử dụng ở miền Nam Việt Nam. Mục đích của nó là hủy diệt hạ tầng cơ sở của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và cũng là để Mặt Trận mất đi sự ủng hộ của quần chúng miền Nam bằng cách đẩy họ chạy về các vùng do chính quyền miền Nam kiểm soát. Trong một buổi điều trần tại Quốc Hội vào tháng 1 năm 1966, ông Tổng Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara đưa ra chứng cớ về sự thành công của các cuộc tấn kích bằng trọng pháo và không kích kể cả những phi vụ B.52 nhằm mục đích cưỡng bách người dân trong vùng “phải di chuyển về những nơi an toàn, khỏi phải bị tấn kích như vậy bất kể là thái độ của họ đối với chính quyền Miền Nam.” Ông McNamara nói tiếp,” làm như vậy không những phá vỡ được những hoạt động của quân du kích Việt Cộng, mà còn làm cho nền tảng kính tế của đối phương suy sụp. Tuy nhiên, tác dụng của việc sử dụng những thứ vũ khí như trên đã hủy diệt gần 1/3 ruộng đất canh tác và gần 50% xóm làng của người dân Việt. Vào năm 1972, theo bản báo cáo của tiểu ban Thượng Viện Hoa Kỳ thì bom và đạn trọng pháo của Mỹ đã làm cho cà 10 triệu người phải bỏ làng xóm đị tỵ nạn và hầu hết đã gây tổn thất cho người dân. ” [4]

Riêng về chất độc Da Cam, một thứ vũ khí hóa học cực kỳ độc hại được quân đội Mỹ sử dụng với sự hồ hởi nhiệt liệt tán thành của Tổng Thống Ca-tô Ngô Đình Diệm, tác giả sách Chất Độc Màu Da Cam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005) ghi nhận như sau:

Ngày 30/11/1961, Tổng Thống John F. Kennedy phê chuẩn cho quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch khai quang đồng cỏ Việt Nam. Quyết định này được Ngô Đình Diệm, lúc đó là Tổng Thống Nam Việt Nam ủng hộ nhiệt liệt. Diệm cho rằng ông ta “biết cộng sản ở đâu” và tin rằng chiến dịch này sẽ thành công mĩ mãn.”[5]

Vì thế mà chiến dịch khai quang này được quân đội Mỹ cho tiến hành trên đất nước Việt Nam và hậu qủa ghê gớm của chiến dịch này được sách sử ghi nhận như sau:

“Quân đội Mỹ rải 77 triệu lít chất độc da cam xuống miền Nam và Trung Việt Nam, gây ảnh hưởng và tác hại đến môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong 35,585 thôn ấp.[6]

LOẠI TỘI ÁC THỨ HAI: Đây là tội ác mà chính quyền và Nhà Thờ Vatican cũng như bọn dân Chúa coi miền Nam như là tài sản riêng của Vatican và của họ. Vì thế họ mới tự cho là họ có toàn quyền tung tác muốn làm gì thì làm, theo đúng tinh thần của Sắc Chỉ Romanus Pontifex được ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455) mà chúng tôi đã trình bày rõ ràng và đầy đủ nơi Chương 1 ở trên. Dưới đây là những sự kiện nói lên những tội ác mà họ đã làm:

1.- Cưỡng ép nhân dân miền Nam Việt Nam phải dùng từ kép “Công Giáo” thay vì sử dụng các từ kép “Ki-tô giáo”, “Da-tô giáo”, Cơ Đốc giáo” để nói về đạo Thiên Chúa La Mã. Sự kiện này được người của Nhà Thờ là Linh-mục Vũ Đình Hoạt ghi lại trong cuốn Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan như sau:

"Nếu nói hoặc viết chỉ nguyên Công giáo mà thôi, thì đó phải hiểu và bắt buộc phải hiểu chứ không thể hiểu khác đi được: đó chính là Giáo Hội La Mã hoặc Vatican mà Đức Giáo Hoàng là vị lãnh đạo tinh thần tối cao của toàn thể Thế Giới Công Giáo. Riêng tại Việt Nam kể từ năm 1533 cho đến năm 1954 khi mà các danh từ Thần Học và Kinh Thánh chưa được Hàn Lâm Viện Hóa, nói cách khác chưa được Đại Chủng Viện thuần túy Việt Nam dịch thuật các sách giáo khoa và Phụng Vụ cũng như Kinh Thánh các danh từ cổ như Thiên Chúa Giáo hoặc Gia Tô Giáo trong các sách vở lịch sử hay "Nhà Đạo" vẫn được hiểu cách chung là Đạo Công Giáo, vì lẽ khi đó chưa có đạo Tin Lành trên đất nước Việt Nam, và các nhà truyền giáo cũng chỉ nguyên thuộc Hội Truyền Giáo Thừa Sai Ba Lê (MEP) mà thôi. Kể từ năm 1954 về sau này khi mà đã có Đại Chủng Viện Việt Nam chuyên môn dịch các sách Kinh Đạo Thần (Kinh Thánh, Đạo Đức và Thần Học), lúc ấy mới có sự phân biệt rõ "Công Giáo" (Catholic), bắt nguồn từ Kinh Tin Kính "Tôi tin có Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền". (Sách lễ giáo dân sở di trú và tị nạn USCC. Hoa Thịnh Đốn, trang 1370). Vậy kể từ năm 1954 về sau này, các sách vở Việt Nam, nếu muốn trực chỉ nguyên Giáo Hội La Mã hoặc Vatican, thì bắt buộc phải dùng danh từ Công Giáo (Catholic), chứ không thể nào dùng danh từ Thiên ChúaGiáo hoặc Gia- tô hoặc Ki Tô được. " [7]

2.- Tổ chức buổi đại lễ vô cùng long trọng vào tháng 2/1959 và mời Hồng Y Agagianian, sứ thần của Vatican tại Sàigòn, đến làm chủ tế để dâng nước Việt Nam cho Vatican được ngụy trang là dâng cho Đước Mẹ Vô Nhiễm.[8]

3.- Vinh danh các giáo sĩ và tín Da-tô người Việt đã phạm tội chống lại tổ quốc Việt Nam trong hai thế kỷ 18 và 19: Ngay khi ông Diệm vừa mới được Hoa Kỳ và Vatican đưa về cầm quyền ở Việt Nam, bọn Việt gian Da-tô tay sai của Giáo Hội ở Sàigòn hồ hởi vinh danh những tên tội đồ chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam từ thế kỷ 17. Hành động bất chính này được thực hiện bằng cách dùng danh tính của những tên tội đồ khốn nạn này đặt tên cho các trường học, đường phố ở Sàigòn và nhiều thành phố lớn khác ở miền Nam Việt Nam. Ai đã từng sống ở Sàigòn trong những năm 1954-1975 đều thấy có một số trường học và đường phố Sàigòn mang tên những tên tội đồ khốn kiếp này.

Về trường học, chúng ta thấy có các trường học như Trường Pétrus Ký, Trường Nguyễn Tường Tộ, Trường Trần Lục, Trường Hồ Ngọc Cẩn, Trường Nguyễn Bá Tòng, Trường Nguyễn Duy Khang (ở Thị Nghè), Trường Lê Bảo Tịnh, Trường Thánh Thomas (Nhà Thờ Ba Chuông), v.v...

Về đường phố, thì có Đường Tổng Đốc Lộc (Da-tô Trần Bá Lộc), Đường Tổng Đốc Phương (Da-tô Đỗ Hữu Phương), Đường Alexandre de Rhode, Đường Pétrus Ký, Đại Lộ Ngô Đình Khôi, Đường Nguyễn Bá Tòng, Đường Huỳnh Tịnh Của, Đường Phát Diệm, Đường Bùi Chu, v.v... Đặc biệt ở Vĩnh Long, lại có Đại Lộ Ngô Đình Thục.

4.- Cảnh sát hóa chính quyền và thiết lập bộ máy đàn áp nhân dận bằng những tổ chức công an, mật vụ như thiên la địa võng mà nhân sự gồm toàn những tín đồ Ca-tô cuồng tín nắm giữ chức vụ chỉ huy.[9]

5.- Tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân miền Nam bằng bạo lực để đạt được chỉ tiêu mà ông Ngô Đình Nhu đã tuyên bố:

“Tôi có cả một chương trình, đã bàn tính kỹ với Đức Giám Mục sẽ làn hồi tiến tới chỗ mà Hội Truyền Giáo hoạt động một thế kỷ mới đạt tới, còn chúng ta chỉ cầm quyền mười năm thôi là cả miền Nam này sẽ theo Công Giáo hết.” [10]

6.- Tàn sát tới hơn 300 ngàn dân Lương trong các chiến dịch “làm sáng danh Chúa” nằm trong Kế Hoạch Ki-tô Hóa nhân dân miền Nam để theo đúng chỉ tiêu như đã nói ở trên.[11]

7.- Phóng tay cướp đoạt tài nguyên, ăn chặn tiền ngoại viện, lũng đoạn chính quyền, nắm độc quyền kiểm soát tất cả mọi pham vi sinh hoạt xã hội và bóc lột nhân dân bằng trăm phương ngàn kế. Tất cả những thủ đoạn ăn cướp này đều được các chứng nhân của thời cuộc và sách sử ghi lại rõ rằng. Dưới đây là một trong muôn ngàn vụ được sách Việt Nam Máu lửa Quê Hương Tôi ghi lại với nguyên văn như sau:

Chuyện thứ sáu là trường hợp bờ biển Hòn Chồng Nha Trang. Hàng trăm năm người Pháp đô hộ vẫn giữ cho bờ biển Hòn Chồng cái vẻ thiên nhiên mỹ miều của vùng đất thùy dương cát trắng. Nhưng đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975), khi Giám-mục Nguyễn Văn Thuận quản nhiệm giáo phận Nha Trang, vì vốn có thế lực trong Dinh Độc Lập như đã nói trước kia, nên ông xây cất tại bờ biển Hòn Chồng hai dẫy lầu kiến trúc đồ sộ để làm Giáo Hòang Chủng Viện (?). Từ đó, du khách bốn phương và nam thanh nữ tú Nha Trang bị giới hạn không còn lui tới vui đùa đông đào nơi bãi bể Hòn Chồng nữa.” [12]

Trên đây là một  số tội ác nhỏ nhoi trong khu rừng tội ác dựa vào chính quyền để cướp đoat tài nguyên quốc gia, khống chế và kiểm soát tất cả mọi sinh họat trong nhân dân, nắm độc quyền trong mọi lãnh vực làm ăn trong xã hội, chiếm công vi tư, thâm lạm công quỹ, ăn chặn tiền ngoại viện, mua quan bán chức, độc quyền buôn bán lậu nha phiến, bóc lột nhân dân bằng trăm phương ngàn kế để vơ vét cho đầy túi tham của Nhà Thờ và cho cá nhân của họ. Tất cả những hành động bất chính, đại gian đại ác này đều được các nhà viết sử và các chứng nhân đương thời ghi vào trong các tác phẩm của họ. Xin xem các chương 69, 70, 71, 90, 92 và 93 (Mục XXI, Phần VI) trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã. Các chương sách này có thể đọc online.com  trên sachhiem.net.

8.- Bảo quản khối bất động sản khổng lồ mà Vatican đã cướp đoạt của nhân dân ta từ năm 1862-1954 trên toàn thể lãnh thổ và ở miền Nam trong những năm 1954-1975.[13]

LOẠI TỘI ÁC THỨ BA: Đây là trọng tội vừa chống lại nhân dân Việt Nam, vừa chống lại nhân dân thế giới. Lý do: Nhà thờ Vatican và chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm sử dùng các tổ chức mật vụ một số phi cơ vận tải của binh chủng Không Quân  để phối hợp với cảnh sát vào việc nhập cảng thuộc phiện lậu từ Ai Lao về Sàigòn để (1) biến chế thành thuốc phiện “chín” rồi phân phối cho dân nghiền ở Sàigòn - Chợ Lớn, và (2) biến chính quyền miền Nam thành một bộ phận đặc trách cung cấp thuốc phiện sống cho tổ chức tội ác quốc tế tại Marseille (Pháp) để biến chế  thuốc phiện sống này thành bạch phiến rồi chuyển vận sang Mỹ Châu phân phối cho khách hàng tiêu thụ tại Hoa Kỳ. Tất cả những tội ác này đều được sách sử ghi lại rõ ràng. Những tài liệu nói về vấn đề này đều có bán ở ngoài thị trường và đều có ở trong các thư viện tại bất kỳ thành phố nào trong bất kỳ quốc gia nào không bị Nhà Thờ Vatican khống chế. Xin xem Chương 91 (Mục XXI, Phần VI) trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.

1.- Về tội ác nhập cảng thuốc phiện lậu từ Ai Lao về Sàigòn, rồi biến chế và phân phối cho các tiệm hút ở Chợ Lớn và Sàigòn, sách The Politics of Heroin in Southeast Asia (New York: Harper Colophon Books, 1972) nói rõ chính quyền Ngô Đình Diệm chủ động việc tổ chức kinh tài bất chính này và mở rộng các tiệm hút ở Sàigòn - Chợ Lớn tử mấy trăm tiệm hút trong những năm 1950-1955 lên đến 2500 tiệm hút trong những năm 1958-1963. Dưới đây là mấy đoạn văn nói về tội ác này:

“Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu:…Nhưng Ngô Đình Nhu quyết định tái lập việc buôn bán nha phiến đ lấy tiền. Dù là hầu hết các tiệm hút ở Sàigòn đã đóng cửa cả ba năm rồi, hàng ngàn dân nghiện người Tầu và người Việt vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những lãnh tụ của các tổ chức có thế lực của người Tầu ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối thuốc phiện nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, hàng trăm tiệm hút thuốc phiện này đã hoạt động trở lại, và năm năm sau, một phóng viên của tờ Time – Life lượng định ở Chợ Lớn có tới 2.500 tiệm hút thuốc phiện họat động công khai.

Để có thể cung ứng thuốc phiện đầy đủ cho khách hàng tiêu thụ, Ngô Đình Nhu thiết lập hai hệ thống đường bay khứ hồi từ vùng sản xuất thuốc phiện sống ở Lào về miền Nam Việt Nam. Hệ thống đường bay chính là thuê mướn mấy phi cơ nhỏ của hãng Hàng Không Lào, giao cho tên bất lương nổi tiếng nhất Đông Dương Bonaventure “Rock” Francisci, người Corse, điều khiển. Dù là tối thiểu có đến 4 chiếc phi cơ nhỏ chuyển vận thuốc phiện lậu từ Ai Lao về miền Nam Việt Nam, nhưng chỉ có một mình cá nhân Francisci trực tiếp nói chuyện và thương lượng với Ngô Đình Nhu. Theo Trung Tá Lucien Conein, một cựu viên chức cao cấp CIA ở Sàigòn, mối liên giữa Ngô Đình Nhu và Francisci về dịch vụ bất chính này khởi đầu vào năm 1958. Sau khi Nhu bảo đảm an toàn cho việc đem thuốc phiện về Sàigòn, hàng ngày, Francisci dùng đoàn máy bay Beechtcrafts hai động cơ chuyển vận món hàng này về miền Nam Việt Nam..

Ngoài ra, Ngô Đình Nhu còn phái nhân viên tình báo đến Lào với nhiệm vụ là chuyển vận thuốc phiến sống về miền Nam Việt Nam bằng phi cơ của Không Lực Việt Nam.

Trong khi Ngô Đình Nhu nói chuyện và thương lượng trực tiếp và cá nhân Francisci, Bác-sĩ Trần Kim Tuyến trực tiếp điều hành những toán điệp viên họat động ở Lào. Dù rằng, hầu hết các tài liệu mô tả Nhu như là một nhân vật quỷ quyệt nham hiểm của chế độ Diệm, nhiều người trong nội bộ lại cho rằng ông tu xuất Trần Kim Tuyến mới thực sự là nhân vật chủ chốt của kế hoạch làm ăn bất chính này. Đứng đầu tổ chức mật vụ có danh xưng tàng hình là Sở Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị, Bác-sĩ Tuyến chỉ huy một hệ thống tình báo rộng lớn bao gồm cả Lực Lượng Đặc Biệt (do CIA tài trợ), Sở An Ninh Quân Đội, và quan trọng nhất là Đảng Cần Lao. Qua Đảng Cần Lao, Bác-sĩ Tuyến tuyền mộ điệp viên và cán bộ chính trị ở trong tất cả các cơ quan trong chính phủ và trong quân đội Chính quyền Sàigòn kiểm soát chặt chẽ việc thăng thuởng, và chỉ những người cộng tác với Bác-sĩ Tuyến mới được thăng chức mau chóng. Nhờ có những khoản tiền kếch sù do việc buôn bán ma túy, ăn hôi lộ và các thứ tham nhũng khác, Sở Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị của Bác-sĩ Tuyến có thể mướn hàng ngàn phu đạp xích lô, gái nhẩy tại các quán khiêu vũ và những người bán hàng rong ở ngoài đường phố để làm chỉ điểm viên cho sở. Nhờ vậy mà ở mỗi một góc đường phố ở Sàigòn-Cholon đều có chỉ điểm viên của sở mật vụ của Bác-sĩ Tuyến. Thay vì cho người theo dõi một đối tượng, Bác-sĩ Tuyên chỉ cần ra khẩu lệnh cho các chỉ điểm viên tại các góc phố truyền tin tức của đối tượng cho nhau biết. Nhờ vậy mà sở biết được đầy đủ những chi tiết về di chuyển, nơi họp mặt và nội dung các cuộc họp của đối tượng. Một số các nhà quan sát cho rằng Bác-sĩ Tuyến có hàng trăm ngàn nhân viên mật vụ làm việc toàn phần và bán thời gian. Qua hệ thống mật vụ tuyệt vời như vậy, Bác-sĩ Tuyến có đầy đù hồ sơ với rất nhiều chi tiết của tất cả mọi nhân vật quan trọng của miền Nam Việt Nam, đặc biệt là có cả hồ sơ của ông Diệm, ông Nhu, bà Nhu và những hồ sơ này được gửi ra nước ngoài như là hình thức “bảo hiểm nhân thọ” của mỗi cá nhân.

Vì có trách nhiệm điều hành phần lớn hệ thống tình báo hải ngoại của chế độ Diệm, cho nên Bác-sĩ Tuyến có thể ngụy trang hay che giấu những dịch vụ mua thuốc phiện ở Lào bằng những công việc bình thường trong hệ thống tình báo của ông.”[14]

2.- Về tội biến chính quyền miền Nam thành một bộ phận cung cấp thuốc phiện sống cho tổ chức tội ác tại Marseille để biến chế thành bạch phiến, sách Những Cái Chết của Các Ông Vua Thời Chiến Tranh Lạnh: Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F. Kennedy ghi nhận như sau:

Francisci Đá làm việc hoàn toàn cho băng Marseille, lúc bấy giờ do Antoine Guerini và anh trai của y là Barthélemy điều hành. Không có gì quá đáng khi nói rằng đặc quyền buôn bán bạch phiến ở Mỹ cũng như Tây Âu hoàn toàn bị anh em Guerini chi phối. Và năm 1958, khi Diệm, Nhu tái lập lưu thông thuốc phiện về Sàigòn, Francisci khó có thể hoan hỉ hơn để làm sống lại nghề cũ của ông là vận chuyển thuốc phiện từ gốc sản xuất ở Lào đi thẳng về Nam Việt Nam bằng một phi đội máy bay riêng của hắn. Nhưng thậm chí có thể kiểm được nhiều tiền hơn từ việc bán thuốc phiện trực tiếp cho hàng trăm ổ hút và hàng ngàn con nghiện ở Sàigòn. Việc sản xuất thuốc phiện ở các nơi khác trên thế giới – đặc biệt là Thổ Nhĩ Kỳ và Mexico – ngày càng thất thường, và không chắc chắn vì liên tục bị pháp luật ngăn trở. Tình hình này chỉ làm lợi thêm cho Guerini bởi vì nó gia tăng thị phần ma túy của y. Chuyện này xẩy ra như thế nào?

Nhu và Francisci Đá thực hiện một hợp đồng phân phối cơ bản. Francisci sẽ vận chuyển thuốc phiện đến Sàigòn cho các ổ hút của Nhu, nhưng hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sàigòn. Tại đây, thuốc phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille. Tại Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến có chất lượng cao để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ như Santos Traffiante, Carlos Marcello, và Sam Giancana. Tất cả đều làm giầu trong chuyện này, và ai cũng thấy được rằng đó là chuyện làm ăn rất an toàn, bởi vì Nhu có thể được coi như là một thứ Bộ Trưởng Tư Pháp của Nam Việt Nam, ông ta không phải ưu tư hay trả lời trước bất cứ một cơ quan thi hành pháp luật nào. Ông ta là luật pháp, và ông ta sử dụng sức mạnh này để đảm bảo cho Francisci - và khách hàng của ông ở Marseille – một nguồn cung cấp thuốc phiện ổn định để sản xuất bạch phiến.

Một vụ làm ăn ngon lành!

Với vị trí quyền lực trong chính phủ Nam Việt Nam, Nhu có thể bảo đảm rằng các máy bay chở đầy thuốc phiện của Francisci (đội lốt vận tải “ngoại giao”) có thể bay từ Lào đáp xuống Sàigòn và chuyển hàng xong hết mà không gặp nhiều kiểm tra phiền toái. Thậm chí Nhu còn tăng năng suất đều đặn trong hai năm 1961 và 1962 bằng cách huy động Đội Vận Tải Số 1 của riêng ông (chuyên hoạt động tình báo trên không [thỉnh thoảng bay phối hợp với CIA] vào việc đó. Giữa năm 1958 và 1963, Sàigòn thực sự trở thành kho hàng chứa thuốc phiện thô mà phần lớn sẽ chuyển tới Marseille để cuối cùng thỏa mãn nhu cầu của con nghiền bạch phiến ở Mỹ.

Tuy nhiên, Nhu còn có những khuyến khích khác cho hợp đồng béo bở này. Trong lúc các máy bay vận tải thuê riêng của Francisci – Thường gọi là Hàng Không Thương Mại Lào – hàng ngày chở thuốc phiên (thô) tới Sàigòn mà không bị luật pháp gây rắc rối, thì những tay cung cấp nhỏ hơn không được an toàn như vậy. Lực lượng cảnh sát của Nhu sẽ lập tức hỏi thăm họ vì đã dám lấn sân của Francisci.

Anh em Guerini không thể nào phấn chấn hơn trước hợp đồng của Francisci, và cũng không thể nào hài lòng hơn về Nhu vì ông đã giúp thực hiện được hợp đồng đó. Hợp đồng này giúp cho anh em Guerini trở thành những ông trùm ma túy toàn cầu vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Đồng thời, nó tạo ra một liên minh tội phạm vững như bàn thạch giữa Nhu và tập đoàn Marseille. Nhu, Diệm, và toàn bộ dòng họ Ngô Đình ai cũng nổi lên giầu có khác thường nhờ vào liên minh này (trong khi vẫn kiếm được nguồn tài chính bất minh cần thiết cho cảnh sát, mật vụ và tình báo). Quan trọng hơn thế, anh em tội phạm Guerini thậm chí còn tích lũy được nhiều của cải hơn, và những khách hàng chủ yếu của họ - Mafia Mỹ - cũng vậy.

Cho nên, về căn bản, tập đoàn Marseille, Mafia Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã biến thành những đối tác làm ăn của nhau trong màng lưới ma túy toàn cầu. Có nghĩa là tiền tỉ, tiền tấn chẩy vào túi người nào có dính dáng, dĩ nhiên là thế. Và nguồn suối mạnh nhất không ngừng phát sinh ra tiền bạc và sức mạnh này chính là Ngô Đình Nhu.” [15]

Cũng trong cuốn sách này, nơi hai trang 303-304, các tác giả viết:

Thứ nhì, ông ta (Michael Victor Mertz) cũng có động cơ vững chắc để muốn Kennedy phải chết. Kennedy và Bộ Tư Pháp do em trai Robert (Kennedy) của ông ta chỉ đạo đang tiến hành một cuộc chiến toàn diện chống Mafia, nhất là các ông trùm tội phạm có tổ chức như Carlos Marcello, Sam Giancana, và Santos Trafficante, tất cả những kẻ điều hành hệ thống phân phối bạch phiến trên đất Mỹ, và tất cả những kẻ nhận hàng từ các lò bạch phiến Marcseille của Antoine Guerini. Và chúng ta biết rằng Mertz đã trực tiếp làm việc cho tập đoàn bạch phiến đó. Cuộc tấn công của Kennedy nhằm vào các trùm Mafia Mỹ đã đe dọa sự ổn định của thị trường ma túy, mà điều này lại đe dọa thị trường bạch phiến Marseille của Guerini. Hầu như tất cả bạch phiến bán cho con nghiền Mỹ đều xuất phát từ Marseille sau khi nó được chế biến từ thuốc phiện sống do Ngô Đình Nhu cung cấp. [16]

Và nơi hai trang 306-307, chúng ta thấy:

“Chúng ta có tập đoàn bạch phiến quốc tế, đặt tổng hành dinh ở Marseille, Pháp, và do anh em Guerini người Pháp điều hành. Nguồn cung cấp phần lớn nguyên liệu thuốc phiện cho họ là thông qua Nhu và kẻ trung gian là Rock Francisci, cũng là một người Pháp.

Bây giờ ta gặp một người Pháp nữa, giống Rock Francisci, đã sống gần như suốt đời ở Đông Nam Á. Người này là Matthew Franchini. Bề ngoài ông ta được mô tả như một thương gia trên nguyên tắc và là chủ khách sạn đáng kính (ông ta sở hữu chủ Khách Sạn Continental nổi tiếng ở Sàigòn). Tuy nhiên, sự thực thì Franchini là bộ não đằng sau các chuyến hàng thuốc phiện của Rock Francisci từ Sàigòn sang các lò bạch phiến ở Marseille. Tại sao điu này quan trọng thế?

Vì Franchini là một khâu vô giá trong đường dây chỉ huy của thế giới ngầm Marseille, nếu không muốn nói là đường dây chỉ huy tập đoàn bạch phiến toàn cầu. Franchini cung cấp cho Marseille sản phẩm morphine vốn được Rock Francisci chở thoải mái về Sàigòn (những chuyến bay do Nhu bảo kê)….” [17]

Tóm lại, trong những năm 1955-1963, Nhà Thờ Vatican và bạo quyền Ngô Đình Diệm đã biến miền Nam thành một trung tâm cung cấp thuốc phiện sống cho tổ chức Mafia quốc tế tại Marseille. Trung tâm này chuyên nghề biến chế thuốc phiện sống này thành bạch phiến rồi chuyển vận sản phẩm này sang Bắc Mỹ để phấn phối cho khách hàng tiêu thụ ở Hoa Kỳ. Đây là một hệ thống tội ác quốc tế tay ba:

1- Nguồn cùng cấp thuốc phiện sống là miền Nam Việt Nam do anh em Ngô Đình Diệm điều hành. Cơ quan phụ trách chuyển thuốc phiện sống từ Lào về là Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Lào, và tổ chức mật vụ do Trần Kim Tuyên chỉ huy. Người phụ trách chuyển vận thuốc phiện sống từ Continental ở Sàigòn đi Marseille là Rọck Fracncisci, một Pháp kiều đã ở Việt Nam lâu năm. Trụ sở là khách sạn Continental.

2.- Trung tâm biến chế thuốc phiện sống thành bạch phiến đặt cơ sở tại Marseille (Pháp) do anh em Antoine Guerini nguời Pháp điều khiển.

3.- Trung tâm phân phối bạch phiến tại Bắc Mỹ dưới quyền điều khiển của các tay trùm Carlos Marcello, Sam Giancana và Santos Traficante.

Phần trình bày trong tiểu mục trên đây cho chúng ta thấy rõ chính quyền Ngô Đình Diệm do Hoa Kỳ và Vatican dựng nên là một băng đảng ăn cướp, đúng như sử gia Alfred W. McCoy, tác giả cuốn The Politics of Heroin in South Asia đã gọi cái chính quyền này là “Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu (Diem's Dynasty and the Nhu's Bandits ). Thực ra, đây cũng là cái bản chất ăn cướp của Nhà Thờ Vatican và nhóm thiểu số dân Chúa Việt Nam. Cũng vì cái bản chất ăn cướp này mà ngay khi vừa mới được Hoa Kỳ và Vatican đưa về Việt Nam cầm quyền, thì chính quyền Ngô Đình Diệm và Nhà Thờ Vatican đã phóng tay cướp đoạt tài sản quốc gia, bóc lột nhân dân và vơ vét không biết bao nhiều của chìm của nổi của dân ta để tích lũy cho đầy túi tham và gửi ra các ngân hàng ngoại quốc. Vì thế mà, chỉ mới cầm quyền được có hai (2) năm thôi mà chính quyền Ngô Đình Diệm đã chuyển ra ngân hàng ngoại quốc tớ 18 tỉ Mỹ kim. Số tiền khổng lồ này được Sử gia William J. Lederer viết trong sách Our Worst Enemy như sau:

"Ngoài sự tăng lên rõ rệt về số vàng dự trữ của Sàigòn, theo các mật báo viên người Thụy Sĩ và người Trung Hoa của tôi, từ năm 1956, một số người Việt Nam (quyên thế) đã chuyển 18 tỉ Mỹ kim vào các nhà ngân hàng ngoại quốc. Sau đó không bao lâu, qua một người hùn vốn kín miệng, tôi được biết bà Ngô Đình Nhu đã mua một ngân hàng lớn hàng thứ nhì tại kinh thành Paris, trả bằng tiền mặt.” (Nguyên văn: In addition to the visible increase in Saigon’s gold reserve, approximately $18 billion, according to my Swiss and Chinese informants, has been sent to foreign banks by private Vietnamese individuals since 1956. Not so long ago, Madame Nhu, through a silent partner, purchased outright the second largest private bank in Paris. For cash.”[18]

LOẠI TỘI ÁC THỨ BA: Chủ trương thi hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ. Vấn đề này đã được trình bày trong Chương 7 và Chương 8 ở trên. Trong chủ trường thi hành chính sách ngu dân này, Nhà Thờ Vatican không những cắt xén rất nhiều tiết mục trong các môn Sinh Vật Hoc (Biology), Sử (History), Công Dân (Civics), không những kiểm soát chặt chẽ gắt gao các môn học này, mà còn hạn chế, không cho mở thêm nhiều các trường công lập với dã tâm tạo nên tình trạng thất học chiếm một tỉ lệ càng cao thì càng tốt đối với Giáo Hội La Mã. Cũng nên biết rằng, người dân càng ngu dốt, thì Giáo Hội càng dễ dàng dùng tín lý Ca-tô và lời dạy nặng tính phình gạt, lừa bịp để dụ khị và lùa người dân vào cái tròng Ca-tô (Cathloic loop). Hơn nữa, khi mà trường công lập càng ít thì Giáo Hội càng có nhiều cơ hội thiết lập các trường tư thục vừa để kinh tài, vừa để đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần Công Giáo. Ý đồ bất chánh này là chủ trương cố hữu lâu đời của Nhà Thờ Vatican và chủ trương này đều được sách sử ghi lại rõ ràng:

Giáo Hoàng Pius IX (1846-1878) lên án các trường công lập” Nguyên văn: “Public Schools condemned by Pope IX.” [19]

Sách Tôn Giáo và Dân Tôc cũng viết:

Giáo Hội cần có một nền giáo dục công giáo độc lập như một môi trường thiết yếu, không những để truyền bá giáo lý mà còn để đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo.” [20]

Cũng nằm trong chính sách ngu dân này, Vatican và chính quyền đạo phiệt Ngô Đình Diệm đưa những người của Nhà Thờ vào nắm giữ những chức vụ quan trong các đại học Văn Khoa Sàigòn, Đại Học Huế và Đại Học Đà Lạt. Chẳng hạn như Linh-mục Cao Văn Luận chỉ có bằng cử nhân về môn triết học Tây Phương được đưa lên làm Viện Trưởng Đại Học Huế, một linh mục khác được đưa lên làm Viện Trưởng Đại Học Đà Lạt. Nhiều tín đồ Ca-tô khác thiếu hẳn tiêu chuẩn về kiến thức như ông Lê Hữu Mục, Phạm Việt Tuyền, thì được đưa vào làm giáo sư giảng dạy môn văn tại Đại Học Văn Khoa Sàigòn và Đại Học Huế. Sự dốt nát về môn văn và môn sử của ông giáo sư Lê Hữu Mục được thể hiện ra qua lời tuyên bố của ông ta rằng, “Trước khi viết Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã đọc Thánh Kinh”. Sự kiện này được tác giả Đỗ Quang Vinh ghi lại trong cuốn Bút Thuật của Nguyễn Du trong Đoạn Trường Tân Thanh với nguyên văn như sau:

Hoặc như học giả Lê Hữu Mục, mới đây nhất, lại cho rằng trước khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã đọc Thánh Kinh và trong tư tưởng của Nguyễn Du không hẳn chỉ tìm thấy vết tích của Phật, Lão, Nho mà còn cả Thiên Chúa Giáo nữa.”[21]

Ông Lê Hữu Mục không những dốt nát về văn học Việt Nam (như trường hợp trên đây) mà còn dốt nát cả về môn sử. Không biết cái thân phận dốt nát về sử học, ông ta còn xé rào nhào sang lãnh vực sử học với dã tâm bóp méo lịch sử bằng cách viết lươn lẹo để chạy tội cho Linh-mục Trần Lục về tội làm Việt gian bán nước cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican. Vì ngu dốt và vì gian ý này, cho nên trong bài viết “Cụ Sáu đối diện với Văn Thân” đăng trong cuốn Trần Lục (Mantréal, Quebec: TXB, 1996), ông ta mới viết một đọan văn như sau:

Linh-mục Trần Công Hoán, tác giả tiểu sử cụ Trần Lục, linh mục Nam tước Phát-diệm, tái bản tại Hoa Kì, 1991, còn cho biết thêm: “Toàn quyền Pháp ở Hà Nội nhờ cụ Sáu dẹp hộ (vụ Ba Đình) song ngài kiếu hẳn” (Sđd., tr. 83). Đại Úy Joffre, sau này là thống chế, đến Phát Diệm xin thêm ít cu-li và mấy chiếc thuyền. Cụ Sáu nói: “Người sẵn và thuyền sẵn, muốn lấy, tôi yêu cầu phải trả công cho họ”. (Nt, tr. 8). Như vậy đúng như lịch sử Việt Nam đã ghi, không có chuyện Cụ Sáu cộng tác với người Pháp để dẹp vụ Ba Đình, cũng không có lính Công Giáo trong quân đội Pháp đi dẹp nghĩa quân Ba Đình. Những điều ấy chỉ có trong cuốn Ba Đình truyện kí, Hà Nội, 1945, do nhà văn Phan Trần Chúc tưởng tượng ra.” [22]

Văn tức là người. Viết đoạn văn trên đây, ông Giáo-sư Lê Hữu Mục đã phơi bày cho mọi người thấy rằng ông ta không có khả năng sử dụng lý trí để lý luận vì rằng ông ta sử dụng luận điệu của một Linh-mục Việt gian sử nô bán nước cho Vatican để bào chữa cho một tên Linh-mục Việt gian khác cũng mang tội bán nước cho cả Vatican và Pháp. Hơn nữa, những lời bào chữa của ông ta lại càng để để lộ ra việc Linh Mục Trần Lục bán nước cho giặc Pháp, chỉ khác ở chỗ Linh-mục Trần Lục vòi giặc Pháp trả thêm tiền mà thôi. Ngoài ra, cũng vì viết đọan văn này, ông giáo-sư Lê Hữu Mục đã để cho thiên hạ thấy rằng ông ta quá dốt về lịch sử thế giới và lịch sử Giáo Hội La Mã. Vì dốt sử như vậy, cho nên ông ta mới không biết rằng tất cả các linh mục đều là những hạng người gian dối, đúng như:

Hòang Đế Napoléon I (1769-1821) đã khẳng định:

"Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối và sai lầm." (Priests have verywhen and everywhere introduced fraud and falsehood.)[23]

Nhà ái quốc Ý Đại Lợi Giuseppe Garibaldi (1807-1882) tuyên bố:

"Linh mục là hiện thân của sự gian trá". (The priest is the personification of falsehood.) [24]

Học giả dân Chúa Charlie Nguyễn (tức Bùi Văn Chấn, cựu Thiếu Tá Thẩm Phán Công Tố Tòa Án Mặt Trận Vùng 4) viết:

Hầu hết các tu sĩ là những kẻ đại gian đại ác ngụy trang dưới lớp áo đen, áo đỏ, áo trắng đóng vai đạo đức giả phỉnh gạt tín đồ. Bề ngoài, họ làm ra vẻ thuận thảo với nhau, thật sự bên trong nội bộ, họ ganh tị tranh đua nhau và sẵn sàng hạ thủ nhau để tranh quyền đoạt thế. Họ dùng đủ mọi thủ đoạn để bòn rút tiền bạc xương máu của giáo dân, để xây nhà thờ nguy nga đồ sộ chỉ cốt để họ được vênh vang với đời. Mái nhà thờ của họ càng rộng lớn bao nhiều, càng che khuất ánh sáng mặt trời chân lý bấy nhiêu. Các bức tường của nhà thờ càng cao bao nhiêu càng ngăn cách giữa con người với nhau bấy nhiêu. Giáo sĩ là những con ký sinh trùng vừa ăn bám, vừa phá hoại xã hội. Họ tội lỗi cùng mình lại nắm quyền tha tội cho đám tín đồ vô tội hoặc ít tội hơn họ. Họ thực sự là một bọn ăn cướp nguy hiểm hơn bọn cướp thường vì những kẻ cướp thường đều bị luật pháp trừng trị. Trái lại, bọn cướp đội lốt giáo sĩ lại được giáo dân tôn kính, đi lại tự do vênh váo và được xã hội tâng bốc là “những vị lãnh đạo tinh thần”. Tất cả các tệ nạn này đều phát xuất từ sự thiếu hiểu biết của đại đa số giáo dân. Do vậy, việc giáo dục khai sáng tâm linh là vô cùng cần thiết để cứu nước và bảo vệ nền văn hóa nhân bản rất cao đẹp của dân tộc ta mà tuyệt đối đa số giáo dân không hề biết tới.” [25]

Thực ra, các linh mục và các tín đồ Ca-tô khác được đưa vào dạy tại các Đại Học Văn Khoa Sàigòn, Đại Học Đà Lạ và Đại học Huế đều dốt nát về văn chương và văn hóa Việt Nam, dốt nát về lịch sử thế giới cũng như dốt nát về lịch sử Giáo Hội La Mã và về lịch sử Việt Nam giống như ông giáo sư Lế Hữu Mục cả. Độc giả có thể kiểm chứng tình trạng này của họ bằng cách đọc các bài viết hay các ấn phẩm của họ có liên hệ đến văn hóa, văn chương, lịch sử thế giới, lịch sử Giáo Hội La Mã và lịch sử Việt Nam, thì sẽ thấy rõ. Mấy đề tài dưới đây có thể sử dụng làm những câu hỏi trắc nghiệm để biết rõ thực trạng về trình đồ kiến thức tổng quát của họ:

1.- Đặt ra vấn đề với họ TẠI SAO trong hơn mười năm chót của cuộc đời, Giáo Hoàng John Paul II đi đến bất kỳ quốc gia nạn nhân nào của Giáo Hội cũng xin lõi lia lịa, tính ra tất cả  có tời trên dưới 100 lần, và đã phải cho tổ chức một cuộc đại lễ vô cùng long trọng vào ngày 12/3/2000 tại Quảng Trường Peter (Rome) để chính ngài và các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican đứng ra cáo thú tội ác với Chúa trước triệu hàng khán thính giả tại chỗ và hàng trăm triệu những khán thính giả khác theo dõi qua các màn ảnh truyền hình ở khắp nơi trên thế giới.

2.- TẠI SAO lại có phong trào đòi cải cách tôn giáo ở Âu Châu bắt đầu thừ thế kỳ 14?

3.- NGUYÊN NHÂN NÀO đưa đến phong trào Tin Lành bùng lên ở lục địa Âu Châu vào thế kỷ 16, rồi biến thành những cuốc chiến tranh tôn giữa một bên là là tín đồ của các hệ phái Tin Lành và một bên là Nhà Thờ Vatican và tín đồ Ki-tô La Mã? (Dù rằng cả hai phe thù địch trong những cuộc chiến này đều cùng thờ Chúa Bố Jehovah và Chúa Con Jesus.)

4.- TẠI SAO nhân dân các nước Anh, Pháp, Ý, Đức, Tây Ban Nha, Mễ Tây Cơ, Cuba, Nicaragua vối đều là tín đồ Ca-tô của Giáo Hội La Ma lại thù ghét Giáo Hội La Mã và phải dùng đến những biện pháp mạnh để loại Giáo Hội ra khỏi chính quyền và trừng trị thẳng tay những phần tử ngoan cố vẫn còn đặt giáo luật lên trên luật pháp quốc gia?

 

CHÚ THÍCH


[3] Nguồn: Nguyen Hai. “Đôi điều nhận xét về những phát biểu của Bà Dương Nguyệt Ánh” sachhiem.net. Ngày 26/2/2009
[4] Stanley I. Kutler (Ed.), Encyclopedia of the Vietnam War (New York: Simon & Schuster McMillan, 1996), pp. 591-592. Nguyên văn: “Between 1965 and 1973, the United States used more than 14 million tons of air – and artillery high explosives on the area. The bombing done accounted about 7 million tons or more than three times the tonnage used during World War II. Most of the bombs and artillery shells, and virtually all the defoliant (nearly 12 million tons), fell on the southern half of the country. The purpose to destroy the National Liberation Front revolutionaries’ infrastructure and to deprive them of popular support in the South by driving the population into areas controlled by the South Vietnamese government. In congressional testimony in January 1966, Secretary Defense Robert McNamara introduced evidence on the success of air and artillery attacks, including “the most devasting and frightening” B.52 raids in forcing the villagers “to move to where they will be safe from such attacks regardless of their attitude to the GVN.” This, Mc Namara contininued, not only disrupted Viet Cong guerrillas’ activities but also threatened” a major deterioration of their economic base. The effect, however, was to destroy nearly one third of the cropland and more than half of the hamlets. By 1972, according to a U.S. Senate subcommittee report, U.S. air and artillery attacks were responsible for great bulk of the ten million refugees and most of the civilian casualties.”
[5] Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr. 35.
[6] Nguyễn Văn Tuấn, Sđd., tr 171.
[7] Vũ Đình Hoạt, Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan - Tập II ( Falls Church, VA: Alpha, 1991), tr. 1013-1014.
[8] Trần Tam Tình, Thập Giá và Lưỡi Gươm (Paris: Sudestasie, 1978), tr. 126-127.
[9] Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled (New York: Frederick A. Praeger, 1967), p 956, Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Westminster, CA: Văn Nghệ, 1994), tr 645, và Nguyễn Đắc Xuân. " viết "Bất ngờ, Sinh Viên Huế 1963." http://www.giaodiem.com Ngày 18/10/2002.
[10] Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân – Tập I (Los Alamitos, CA: Nhà Xuất Bản Việt Nam, 1989), tr. 428.
[11] Nguyễn Mạnh Quang, Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên 204), tr. 127-131.
[12] Đỗ Mậu, Việt Nam Máu lửa Quê Hương (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993), tr. 786.
[13] Joseph Buttinger, Ibid., p. 932-933.
[14] Alfred W McCoy, The Politics of Heroin in Southeast Asia (New York: Harper Colophon Books, 1973) pp. 159-161.

Nguyên Văn: “Diem’s Dynasty and the Nhu’s Bandits.- …But Nhu was determined to go ahead, and to revive the opium traffic to provide the necessary funding... Although most of Saigon’s opium dens had been shut for three years, the city’ s thousands of Chinese and Vietnamese addicts were only too willing to resume or expand their habits. Nhu used his contacts with powerful Cholon Chinese syndicate leaders to reopen the dens and set up a distribution network for smuggled opium. Within a matter of months hundreds of opium dens had been open reopened, and five years later one Time-Life correspondent estimated that there were twenty-five hundred dens operating openly in Saigon‘ s sister city Cholon.

To keep these outlets supplied, Nhu established two pipelines from Laos poppy fields to South Vietnam. The major pipeline was a small charter airline, Air Laos Commercial, managed by Indochina’s most flamboyant Corsican gangster, Bonaventure “Rock” Francisci. Although there were at least four small Corsican airlines smuggling between Laos and South Vietnam, only Francisci’s dealt directly with Nhu. According to Lt. Colonel Lucien Conein, a former high ranking CIA officer in Saigon, their relationship began in 1958 when Francisci made a deal Ngo Dinh Nhu to smuggle Laotian opium into South Vietnam. After Nhu guaranteed his opium shipment safe conduct, Fracisci’s fleet of twin engine Beechcrafts began making clandestine airdrop inside South Vietnam on a daily basis.

Nhu supplemented these shipments by dispatching intelligence agents to Laos with orders to send back raw opium on the Vietnam air force transports that shuttled back and forth carrying agents and supplies.

While Nhu seems to have dealt with the Corsican personally, the intelligence missions to Laos were manged by the head of his secret police apparatus, Dr. Tran Kim Tuyen. Although most account have portrayed Nhu as the Diem regime’s Machiavelli, many insiders feel that it was the diminutive ex-seminary student. Dr, Tuyen, who had the real lust and capacity for intrigue. As the head of the secret police, euphemistically titled Office of Social and Political Study, Dr. Tuyen commanded a vast intelligene network that included the CIA financed special forces, the Military Security Service, and most importantly, the clandesdtine Can Lao party. Through Can Lao party, Tuyen recruited spies and political cadres in every branch of the military and civil bureaucracy. Promotions were strictly controlled by the central government, and those who cooperated with Dr. Tuyen were rewarded with rapid advancement. With profits from the opium trade and other officially sanctioned corruption, the Office and Political Study was able to hire thousands of cyclo-drivers, dance hall girls (”taxi dancers”) and street vendors as partime spies for an intelligence network that soon covers every block of Saigon-Cholon. Instead of maintaining surveillance on a suspect by having him followed, Tuyen simply passed the word to his “door to door” intelligence net work and got back precise, detailed reports on the subject’s movements, meetings, and conversations. Some observers think that Tuyen may have had as many as a hundred thousand full and part time agents operating in South Vietnam. Through this remarkable system Tuyen kept detailed dossiers on every important figure in the country, including paricularly complete files on Diem, Madame Nhu, and Nhu himself which he sent out of the country as a form of personal “life insurance.”

Since Tuyen was responsible for much of the Diem regime’ foreign intelligence network, he was able to disguise his narcotics dealing in Laos under the cover ordinary intelligence work.”

[15] Bradley S. O’ Leary & Edward Lee, Cái chết của những ông vua thời chiến tranh lạnh: Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F Kennedy – Phạm Viên Phương & Mai Sơn dịch (Nhà Xuất Bản Tự Do, 2000), tr. 51-52.
[16] Bradley S. O’ Leary & Edward Lee, Sđd., tr. 303-304.
[17] Bradley S. O’ Leary & Edward Lee, Sđd., tr. 306-307.
[18] William J. Lederer, Our Worst Enemy (New York: W. W. Norton & Company Inc., 1968), tr 165.
[19] Loraine Boettner, Roman Catholicism (Phillipsburg, New Jersey: Presbyterian and Reformed Publishing Company, 1962), p, 9.
[20] Lý Chánh Trung, Tôn Giáo Và Dân Tộc (Sàigòn: Lửa Thiêng, 1973), tr. 66.
[21] Đỗ Quang Vinh, Bút Thuật Của Nguyễn Du Trong Đoạn Trường Tân Thanh (Canada: TXB, 2003), tr. 7.
[22] Nhiều tác giả, Trần Lục (Montréal, Canada: LM Nguyễn Gia Đệ, 1996), tr. 388.
[23] Trần Chung Ngọc, Đức Tin Công Giáo (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr. 292.
[24]Trần Chung Ngọc, Sđd., tr. 300.
[25] Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr. 63-64.

 

Trang Nguyễn Mạnh Quang