Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam Nguyễn Mạnh Quang https://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_08a.php PHẦN II
CHƯƠNG 8 TÍN ĐỒ CA TÔ BẢN ĐỊA ĐƯỢC RÈN LUYỆN NHƯ THẾ NÀO? Hậu quả và cũng là mục đích của Vatican: Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ đã làm cho tín đồ Ca-tô và nhân dân dưới quyền hoàn toàn không biết gì về quốc sử, không biết gì về lịch sử thế giối, không biết gì về lịch sử Giáo Hội La Mã, và cũng không biết phải hành xử thế nào cho đúng với bổn phận và trách nhiệm của một người dân trong một quốc gia của thời đại dân chủ tự do trong thế giới tiến bộ văn minh như ngày nay. Chính vì ở trong tình trạng dốt nát như vậy, họ mới không biết gì về những rặng núi tội ác của Giáo Hội chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua. Đây là lý do TẠI SAO họ lại dễ dàng và nhắm mắt tin vào những lời nói láo của Nhà Thờ Vatican rằng Giáo Hội La Mã là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền.” Chúng ta biết rằng những đứa con rơi của các ông giáo sĩ Ca-tô (đã nói rõ trong Chương 7 ở trên) đều không biết cha mẹ chúng nó là ai và tất nhiên cũng không biết gia phả bản thân và gia đình của chúng. Ta goi chúng là những đứa con hoang. Tương tự như vậy, ta cũng có thể gọi những người dân không biết lịch sử (gia phả) của đất nước của chính họ lả những đứa con hoang trong cộng đồng dân tộc, và những người không biết rõ lịch sử (gia phả) thế giới (tức là không biết rõ những bước thăng trầm và những bước tiến hóa của loài người) là những đứa con hoang trong cộng đồng nhân loại. Từ những sự kiện trên đây, Giáo Hội La Mã nhận thấy rằng: 1.- Chỉ có những đứa con hoang trong xã hội (mồ côi cả cha và mẹ), chỉ những đứa con hoang trong cộng đồng dân tộc (không học hay chỉ biết lơ mơ về quốc sử), và chỉ có những đứa con hoang trong cộng đồng nhân loại (không biết gì về lịch sử thế giới) mới hết lòng tin tưởng và tuyệt đối trung thành với Nhà Thờ Vatican. 2.- Những tình cảm hồn nhiên, thơ mộng, cao đẹp và thiêng liêng của trời phú cho con người (tình yêu thương thiết tha giữa lứa đôi trai gái cũng như tình thương yêu giữa cha mẹ với con cái cũng như giữa con cái và cha mẹ) là trở ngại vô cùng lớn lao cho việc đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần Công Giáo. Cũng nên biết “đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo” có nghĩa là làm cho thanh thiếu niên chỉ có một thứ tình yêu duy nhất đối với Giáo Hội La Mã hay Nhà Thờ Vatican, tức là họ sẽ không có một thứ tình yêu nào khác có thể sánh ngang với lòng trung thành của họ đối với Giáo Hội. Dĩ nhiên, khi mà họ chỉ có một thứ tình yêu duy nhất dành cho Giáo Hội La Mã, thì họ phải coi những bài học trong Thánh Kinh cũng như đời sống của các nhà lãnh đạo và giới tu sĩ của Giáo Hội như là khuôn vàng thước ngọc để noi theo và hành xử. Có như vậy, thì họ mới được gọi là giáo dân “ngoan đạo”, hoặc “sống đạo theo đức tin Ki-tô” hay “sống theo lương tâm công giáo”. Cũng vì thế, mà chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy những con chiên “ngoan đạo” đều có đầy đủ những ác tính của các ông Chúa Bố Jehovah, Chúa Con Jesus (như đã nói rõ trong thánh kinh), của các giáo hoàng và của giới tu sĩ (như đã trình bày trong Chương 7 ở trên). Đó là những ác tính ganh ghét, đố kị, tị hiềm và kèn cựa, không muốn cho ai được bằng mình. Những ác tính này đã ghi rõ ràng trong Cựu Ứớc. Tất cả những ác tính trên đây của Giáo Hội cũng như của giáo dân sẽ được thể ra bằng hành động khi mà họ có quyền lực ở trong tay. Vấn đề này sẽ được trình bày đầy đủ trong Chương 13 ở sau.
◎ Sử dụng phương pháp sư phạm độc thoại: (Ở đây xin nói riêng về môn Sử Địa và Công Dân, các môn học khác có những phương pháp thích hợp để khai tâm học sinh.) Bất kỳ quốc gia nào thi hành chính sách giáo dục tự do khai phóng và đại chúng cũng đều áp dụng phương pháp sư phạm đối thọai và thảo luận. Theo phương pháp này, học sinh đã có sẵn sách giáo khoa (do nhà trường phân phối hay có bán sẵn ở thị trường) đem về nhà để đọc trước. Những đề tài học hỏi đều nằm trong sách giáo khoa. Vào ngày khai giảng hay ngày đầu tiên của khóa học, thường thường, giáo viên phân phối cho mỗi học sinh hay sinh viên chương trình của khóa học theo đó các em biết trước đề tài nào sẽ được thảo luận vào ngày tháng nào để chuẩn bị đọc trước, và nếu cần các em sẽ vào thư viện tìm tài liệu để đọc thêm. Đến giờ học, giáo viên hay giáo sư đem đề tài đó ra thảo luận với học sinh và có nhiệm vụ phải giải đáp những thắc mắc do học sinh nêu lên, rồi giảng rộng thêm những gì có liên hệ đến đề tài mà sách giáo khoa không đủ chỗ để nêu lên. Phương pháp dạy học này cũng đã được các nhà Nho áp dụng trong việc dạy học tại các nước theo văn minh Khổng Mạnh trong thời chữ Hán còn được sử dụng trong văn thư hành chánh. Trái lại, các nước bị áp đặt phải sống dưới ách thống trị của Nhà Thờ Vatican (như miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975), không được phép sử dụng phương pháp thảo luận và đối thoại như trên, mà chỉ áp dụng phương pháp sư phạm độc thoại. Phương pháp sư phạm độc thoại thường được các ông truyền giáo sử dụng trong việc rao giảng tín lý Ki-tô như chúng ta thường thấy vào những giờ lễ trong các nhà thờ khi các ông linh mục hành lễ và đọc những bản văn được biên soạn sẵn mà họ nói là “lời Chúa”. Phương pháp này đòi hỏi hoc sinh phải chấp nhận những luận cứ hay tất cả những gì ghi sẵn trong bài học và học thuộc lòng để thực hành, không được thắc mắc, không được tìm hiểu sự vật. Theo phương pháp này, thày giáo đến lớp, ngồi vào bàn, mở sách hay tài liệu ra đọc, bắt học sinh phải ngồi im lặng lắng tai nghe. Giáo-sư Lý Chánh Trung kể lại kinh nghiệm cúa ông khi còn học ở bậc trung học như sau: "Bây giờ, vào trường Taberd là thế giới của đạo giáo. Đạo giáo bao trùm đời sống và việc học. Kinh kệ khởi đầu và kết thúc mỗi hoạt động. Mỗi buổi sáng, nửa giờ đầu luôn luôn dành cho giáo lý. Phương pháp là học và trả thuộc lòng. Ông thày chỉ một chú học trò và gõ thước cái cốp, chú này đứng dậy trả câu thứ nhất: "Hỏi: Đức Chúa Trời là gì? - Thưa: Đức Chúa Trời là đấng tạo nên trời đất muôn vật..." (bằng tiếng Pháp). Thước lại gõ cái cốp và chú học sinh thứ hai đứng dậy... cho đến khi hết bài. Tôi là thằng làm biếng tổ, sáng nào cũng co rúm người, cố làm cho mình nhỏ lại như hột cát để thoát khỏi cái nhìn của Sư huynh. Nhưng cái cực hình kinh khủng nhất là đầu lớp học buổi trưa, học sinh phải lần nguyên một chuỗi tràng hạt. Trời nóng như thiêu, giọng kinh trầm trầm kéo dài như không bao giờ dứt, đứng yên một chỗ không cục cựa, tôi cảm thấy tứ chi ngứa ngáy như có trăm ngàn con kiến đang bò lên. Nhưng riết rồi cũng quen và một khi đã thuộc kinh tôi cũng ê-a hằng giờ với mấy đứa kia, không còn bực bội nữa: Tiên học lễ, hậu học."[6] Nếu không có sách giáo khoa bán cho học sinh, thì ông thày đọc cho họ chép bài cho đến khi hết giờ. Chủ đích của phương pháp này là tạo cho học sinh có thói quen thụ động không sử dụng lý trí vào việc phân tách để tìm hiểu sự vật. Phương pháp dạy học kiểu này được áp dụng triệt để trong lãnh vực khoa hoc xã hội trong đó có môn Sử Địa và Công Dân. Hậu quả: Chúng ta biết rằng, nếu lâu ngày không vận dụng trí óc vào việc suy nghĩ, phân tách và lý luận, thì các tế bảo lý trí trong não bộ sẽ bị èo ọt, còm cõi hư hại. Những người ở vào tình trạng này sẽ trở nên lười suy nghĩ, nếu cố gắng suy nghĩ, thì họ sẽ bị nhức đầu và chỉ còn biết nghe theo và tuân hành những lệnh truyền của những người chỉ huy họ giống như một con chó được nhà bác học Pavlov sử dụng làm con vật thí nghiệm. Những người ở vào tình trạng này được gọi là những người “bị điều kiện hóa”. Những tín đồ Ca-tô cũng bị điều kiện hóa giống y như con chó Pavlov bằng phương pháp này được gọi là “đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo”. Cũng nên biết rằng “bị điều kiện hóa” có nghĩa là bị biến thành hạng người cực kỳ ngu xuẩn. Tình trạng này đã khiến cho tín đồ Ca-tô và những lớp người theo học các trường học qua phương pháp dạy học này trở thành thụ động lười suy nghĩ. Gặp khi có việc gì cần phải giải quyết, thì có họ khuynh hướng trông nhờ vào người khác để giải quyết giùm. Đây là nguồn gốc của tinh thần vọng ngọai và là cha đẻ của đặc tính vong bản. Cũng vì thế mà những lớp người này : a.- Không thể suy đoán ra tính cách bịp bợm và lừa dối trong những tín lý Ki-tô. b.- Không biết gì về tính cách chuyên đoán, áp bức và bóc lột trong các giáo luật Ki-tô. c.- Không nhìn thấy mối nguy hại của chủ trương "thần quyền chỉ đạo thế quyền" và "chính sách bất khoan dung" hết sức dã man của Giáo Hội đối với các tôn giáo và nền văn hóa khác. d.- Không nhìn thấy những mâu thuẫn giữa những lời viết trong Kinh Thánh, những mâu thuẫn giữa một bên là những lời rao truyền khoác lác bịp bợm của Giáo Hội và một bên là cung cách hành xử hàng ngày của họ đối với những thành phần thuộc các tôn giáo hay nền văn hóa khác. Điển hình cho những mâu thuẫn này là (1) sách Leviticus (26:14-18) nói rõ Chúa Cha Jehovah là "một thứ hung thần ác quỷ nặng lòng ganh ghét, đố kỵ, ti hiêm, vô cùng độc ác và cực kỳ vô cùng tàn ngược" mâu thuẫn với lời rao truyền của Giáo Hội bảo rằng "Thiên Chúa Tòan Trí, Toàn Năng, Toàn Thiện và lòng lành vô cùng", và (2) chuyện ông Jesus có khả năng biến hóa 5 cái bánh mì và hai con cá thành một khối lượng bánh mì và số cá dư thừa cho hơn 5 ngàn người ăn không hết (Mathiew: 14:15-21) mâu thuẫn với chuyện ông ta không đủ khả năng biến hóa làm cho cây vả sinh trái cho ông ta ăn vào lúc đói lòng, rồi ông tức giận nổi cơn độc ác làm cho cây vả này khô héo tàn tạ (Mathiew: 21: 18-20). e.- Không nhìn thấy tính cách "xảo trá và bịp bợm" trong "những ngôn ngữ mập mờ và ỡm ờ" qua cửa miệng của giới tu sĩ Ca-tô khi rao giảng thuyết tín lý Ki-tô và những hành động "gạ gẫm nữ tín đồ" phá nát hạnh phúc gia đình giáo dân. Khi những hành động này được phơi bày ra trước ánh sáng công luận thì các ông bà dân Chúa lại bào chữa rằng đó là "những chuyện riêng rẻ", hay "linh mục cũng là người, nên đôi khi sa ngã là thường". Đây là trường hợp của các linh-mục Cao Đăng M. ở Porland (Oregon), Nguyễn Hữu Dụ và Đào Quang Ch. ở Houston (Texas), Trịnh Thế H. Chicago (Illinoís), Trần Công Ngh. ở California và tất cả các linh mục khác được Linh-mục Joseph Nguyễn Thanh Sơn nêu đích danh nơi trang 27 trong tờ Tận Thế Số Ra Măt, 15 /6/2002 và hàng ngàn vụ ô nhục khác ở Bắc Mỹ đã được phơi bày ra trước ánh sáng công luận từ tháng 2/2002 cho đến ngày nay (tháng 4/2009). Trong khi các ông bà dân Chúa và những người tiếp nhận sở học qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Nhà Thờ Vatican vẫn tin tưởng tuyệt đối vào những gì viết trong Thánh Kinh, thì những người biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật đã nhìn thấy rõ những sự phi lý và mâu thuẫn trong những bản văn nói về ông Thiên Chúa (chúa Bố Jehovah và Chúa Con Jesus) ở trong thánh kinh và họ đặt ra những nghi vấn về ông Thiên Chúa này. Đoạn văn dưới đây được gửi từ một diễn đàn thư tín cho chúng thấy một thí dụ của người có suy lý: “Khi tranh cãi về vấn đề tôn giáo, tụi Thiên Chúa Giáo thường lấy thuyết linh hồn, "Ai sáng tạo vũ trụ..." để làm sai lệch suy nghĩ đứng đắn của loài người. Điều đó có cần thiết không? Điều đó chỉ là "lý luận" không đem lợi ích gì thiết thực cho con người.. Nếu thực có Thiên Chúa thì: 1.- Thiên Chúa là Gay, hoặc la Lesbian (lại cái): một mình mà sinh đẻ ra loài người? 2.- Không có quyền lực: Ma quỷ quấy phá mà không biết làm sao để diệt. Còn thua con khỉ ở bên Tầu: Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không đi đến đâu đánh dẹp ma quỷ đến đó. 3.- Ngớ ngẩn: Đã sinh ra con là biết con mình tính tình như thế nào, lại đem ra thử (để con rắn dụ dỗ an trái cây hiểu biết…) Nếu biết mà vẫn làm thì Thiên Chúa là đồ đần. 4.- Không công bằng: Sinh ra đã có người bị bịnh, tật bẩm sinh, ngu muội. Lại sinh ra người thì thông minh, giầu có.... 5.- Tàn nhẫn: Đem con cái (mà Thiên Chúa sáng tạo ra mà thử làm trò chơi: gạt gẫm ăn trái cây hiểu biết. Không có bậc cha mẹ nào lại đi gạt gẫm con cái như vậy bao giờ. 6.- Bủn xỉn, bần tiện: Người Nga, người Mỹ dùng nô lệ, vân còn cho họ ăn uống, quần áo mặc, thuốc men đẻ trị bệnh, nhà để ở. Nhưng Thiên Chúa sinh ra loài người "Để phụng sự Chúa” mà bắt loài người (con của Chúa) tự lo tất cả mọi cái, tư miếng cơm manh áo, đến nhà ở, thuốc men....Như vậy Thiên Chúa không phải là kẻ bủn xỉn, bần tiện là gi? Còn tệ hơn cả những chủ đồn điền Nga Mỹ thời xưa nữa. 7.- Độc ác, vô nhân đạo: Tao ra Volcano, Lava, Sunami...,bịnh hoạn, nghèo đói để trả thù vì… không nghe lời Chúa, (ăn trái cây hiểu biết). Nếu con của chúng ta an vụng 1 quả cam, hay quả táo, ta có nên hành hạ chúng như vậy không? 8.- Nếu nhầm lẫn mà lòai người phải gánh chịu bây giờ là do Chúa sinh ra, thì Chúa là kẻ bất tài, một progammer cho quá nhiều Virus vào để chơi con mình (loài người). Vậy thừa nhận có Thiên Chúa hay không để làm gì? Để tôn thờ, phụng sự một kẻ tạo ra nô lệ nhưng không cho ăn uống, không cho quần áo, nhà cửa, mà còn gieo rắc bệnh hoạn, thiên ai, ô nhiễm.... Vậy có nên tôn thời một kẻ đã đày đọa chúng ta hay không? Câu trả lời xin để hậu thế. Thế hệ này đã bị lừa dối, tự lừa dối nhau qua nhiều thế hệ rồi. Thế hệ trẻ sáng suốt sẽ tự đánh giá lấy. Nếu có Thượng Đế, chắc chắn không phải là Thượng Đê Gay/ Lesbien của Thiên Chúa Giáo.” [7] ◎ Không dạy cho học sinh phân biệt sự khác nhau giữa ý kiến (opinions) và sự kiện (facts), giữa nguyên nhân và hậu quả, giữa gốc và ngọn, giữa thuận lý và nghịch lý, giữa phải và trái, giữa đúng và sai, v.v.... Hậu quả: khi viết hay biên sọan một tác phẩm nào đó, họ đều lúng túng và lẫn lộn, không thể phân biệt được sự khác nhau giữa những hành động yêu nước và hành động phản quốc, giữa những nhà ái quốc và những tên Việt gian phản quốc, giữa nguyên nhân và hậu quả, v.v... Điển hình là ngay cả mấy ông trí thức Ca-tô đã từng là giáo sư giảng dạy tại Trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn như các ông Lê Hữu Mục, Nguyễn Văn Trung, Phạm Việt Tuyền, v.v... cũng không biết sử dụng lý trí để phân biệt được sự khác nhau giữa một bên là thuật ngữ của các nhà chính khách lão luyện như Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Tổng Thống Dwight David Eisenhower, Tổng Thống Lyndon Baines Johnson khi nói chuyện hay đối đáp với những người mà họ cần phải mua chuộc (lấy lòng) và một bên là những sự kiện lịch sử. Họ không biết rằng lịch sử là lịch sử, ở vào bất kỳ thời đại nào, hoàn cảnh nào hay thời thế như thế nào, thì những sự kiện lịch sử cũng vẫn không thay đổi. Còn thuật ngữ của các chính trị gia già đời luôn luôn thay đổi theo nhu cầu của tình thế hay hoàn cảnh chính trị của thời cuộc, miễn là sao đem lại lợi ích cho chính sách hay con đường họ đang theo đuổi. Đối với họ, cùng một cá nhân hay một thế lực, ngày hôm nay có thể là thù địch, những vào một lúc nào đó lại trở thành đồng minh hay người bạn đồng hành. Cũng vì thế mà Tổng Thống De Gaulle của nước Pháp mới tuyên bố “vì quyền lợi quốc gia, chúng ta không có đồng minh vĩnh viễn và cũng không có kẻ thù vĩnh viên.” và Tổng Thống Hoa Kỳ Eisenhower cũng tuyên bố: “Kẻ thù của kẻ thù là bạn của chúng ta, và bạn của kẻ thù là kẻ thù của chúng ta.” Ta có thể gọi những lời tuyên bố như trên là một thủ đọan chính trị của các đại chính trị gia. Vì lẽ này mà từ giữa thập niên 1950 cho đến đầu thập niên 1970, Hoa Kỳ coi miền Nam Việt Nam là tiền đồn chống lại làn sóng Cộng Sản đang dâng tràn từ phương Bắc và triệt để thi hành chính sách Chống Cộng. Vì theo đuổi chính sách này mà họ bỏ ra hàng trăm tỉ Mỹ Kim để nuôi dưỡng chính quyền và quân đội miền Nam làm công cụ phục vụ cho nhu cầu chiến lược chống Cộng này của họ. Nhưng đến đầu thập niên 1970, sau khi đã kết thân được với Trung Cộng (trở thành bạn của Hoa Kỳ), Hoa Kỳ không còn cần sử dụng miền Nam để làm tiền đồn cho nhu cầu chống Cộng nữa. Cũng vì vậy mà Hoa Kỳ mới quyết định bỏ rơi miền Nam, và không cần phải bỏ tiền ra nuôi nợ chính quyền và quân đội miền Nam nữa. Do đó mới có biến cố ngày 30/4/1975. Xin thêm một thí dụ khác là trường hợp ông Ngô Đình Diệm. Khi cần sử dụng ông Diệm làm con cờ cho họ sử dụng, thì họ o bế ông Diệm, bốc thơm và tôn ông ta như là:“Một người hùng Đông Nam Á”, là “Constantine Châu Á”, là “Klovít (Clovit mới trong lịch sử của Giáo Hội (La Mã).”(Trần Tam Tỉnh, Sđ d., tr. 122.) Nhưng khi nói chuyện riêng với nhau về “ông người Việt Quốc Gia” này đến cầu cạnh xin xỏ họ để được đưa lên cầm quyền, thì Tổng Thống Eisenhower nói với hội đồng chính phủ Mỹ rằng:“Trong đám mù, thằng chột làm vua.” (Lê Hữu Dản, Sự Thật - Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, Caliornia, 1997), tr. 23-24.) Sau này, trong chuyến viếng thăm Sàigòn vào năm 1961, Phó Tổng Thống Lyndon Johnson đã cường điệu so sánh ông Ngô Đình Diệm với ông Churchill của nước Anh. Sau đó, lên phi cơ trở về Hoa Kỳ, ký giả Stanley Karnow hỏi ông rằng: “Phải chăng ông thực sự so sánh Diệm với ông Churchill như vậy sao?” Phó Tổng Thống Lyndon Johnson đã trả lời liền rằng “Cái cục cứt! Diệm là thằng bé duy nhất chúng ta có ở đây!” Nguyên văn: “Carried away by oratorical hyperbole during a visit to Saigon in 1961, Lyndon Johnson, then vice-president, had compared Diem to Churchill. “Did you really mean it?” I asked him aboard his airplane later. “Shit,” he drwaled, “Diem’s the only boy we got there.”(Stanley Karnow, Vietnam A History (New York The Viking. 1983), P. 210. Đối với lịch sử và dân tộc Việt Nam, ai cũng biết rằng, ông Ngô Đình Diệm xuất thân từ một gia đình có tới ba đời nối tiếp nhau làm Việt gian bán nước cho Vatican, cho Pháp, cho Nhật và cho Mỹ. Chính bản thân ông Ngô Đình Diệm cũng là một tên Việt gian bán nước cho Vatican, cho Pháp, mưu đồ bán nước cho Nhật và sau cùng là bán nước cho Mỹ. Ngoài tội ác bán nước cho các đế quốc trên đây, ông Diệm còn can tội (1) tổ chức cuộc đại lễ vào tháng 2 năm 1959 tại Sàigòn và mời viên khâm sứ của Tòa Thánh Vatican tại Sàigòn là Hồng Y Agagianian đến làm chủ tế để dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm (tức là dâng nước Việt Nam cho đế quốc Vatican), (2) thi hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân miền Nam bằng bạo lực tán sát tới hơn 300 ngàn người, (3) ngày 30/11/1962, hồ hởi, toa rập và công khai tán đồng việc quân đội Mỹ sử dụng chất độc Da Cam (một thứ vũ khi hóa học) rải xuống đồng ruộng và rừng cây trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam gây “nguy hại cho môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong 35,585 thôn ấp.”[8] Vì những việc làm tội ác dã man này mà các nhà viết sử đã khẳng định ông ta là “một trong số 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại.”[9] Tất cả những gì nêu lên trên đây về ông Diệm đều là sự thật. Sự thật là như vậy. Vì thế mà từ đầu niên 1963 về trước, chính quyền Kháng Chiến Việt Nam (1945-1954) và chính quyền miền Bắc (1954-1975) luôn luôn gọi ông Diệm là tên phản động đại Việt gian. Vào khỏang cuối năm 1954, khi ông Diệm được Mỹ và Vatican đưa về Việt Nam lập chính phủ, ông ta trở thành một tay sai đắc lực của Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican, chính quyền miền Bắc không ngớt sử dụng ngôn từ hay lời lẽ nặng nề để lên án ông ta. Những lời lẽ lên án này còn nặng nề gấp bội phần so với những lời lẽ lên án ông Bảo Đại trước đó. Tôi còn nhớ hồi cuối năm 1954, nhà Thơ Tú Mỡ có sáng tác một bài thờ trào phúng nói về chuyện ông Diệm được đưa về Việt Nam cầm quyền, trong đó có câu “Giặc Pháp thay bù nhìn như thay tã”. Ấy thế mà vào đầu năm 1963, vì nhu cầu chiến lược ly gián giữa Mỹ và anh em Nhà Ngô, chính quyền miền Bắc quay ra o bế ông Ngô Đình Diệm: Chủ Tịch Hồ Chí Minh không ngần ngại gọi ông Diệm là “một nhà ái quốc”, và thậm chí chính cụ còn gửi một cành đào đến Dinh Gia Long để tặng riêng ông Ngô Đình Diệm nữa. Thế nhưng, lịch sử là lịch sử, ở vào bất kỳ thời đại nào, hoàn cảnh nào hay thời thế như thế nào thì những sự kiện lịch sử cũng vẫn không thay đổi. Còn những lời lẽ của các nhà chính khách thường thường là có tính cách xã giao và luôn luôn thay đổi, thay đổi với từng lọai người đối thoại và thay đổi với hoàn cảnh lịch sử hay hoàn cảnh chính trị khi họ tuyên bố hay nói chuyện. Sự thay đổi này cũng giống như Hoa Kỳ hay bất kỳ các cường quốc nào thay đồi chính sách của họ. Nhưng vì không biết sử dụng lý trí để phân biệt được sự khác nhau giữa một bên là những sự kiện lịch sử và một bên là lời nói nặng tính cách phỉnh nịnh của các nhà chính khách để lấy lòng người đối thoại, cho nên các ông trí thức Ca-tô tự nhận là những người Việt "Quốc Gia chân chính" thường hay đem lời nói của Chủ Tịch Hồ Chí Minh phỉnh nịnh khen ông Ngô Đình Diệm (vào đầu năm 1963) là nhà ái quốc (để dụ khị con mồi ngả theo đường lối chính trị của miền Bắc) hay lời các Tổng Thống Eisenhower và Johnson phỉnh nịnh bốc thơm ông Diệm (để khích lệ con mồi hăng say là tay sai cho họ) để chứng minh rằng ông Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc chân chính đã chết vì dân. Đúng là vừa ngu xuẩn (không biết chủ đích của những lời nói phỉnh nịnh nặng tính cách ngoại giáo của nhà chính khách trên đây) vừa lưu manh (có dã tâm lòe bịp người đời). Một thí dụ khác nữa rõ ràng nhất và cũng gần đây nhất. Khi cho xuất bản các cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 1998 và 2000), bộ sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã (Houston, TX: Văn Hóa, 1999), và cuốn thơ song ngữ A Poem For My Children – Bài Thơ Cho Con (Houston, TX: Văn Hóa, 1999), chúng tôi đều trình bày những sự kiện lịch sử trên đây với những tài liệu dẫn chứng rõ ràng (ngọai trừ cuốn A Poem For My Children) để hỗ trợ cho những lập luận của chúng tôi đưa ra. Vì thế mà ngay cả các nhà trí thức "con chiên" ngoan đạo thuộc loại kiên cường bênh vực cho Giáo Hội La Mã cũng không thể phản biện được. Vào đầu thập niên niên 1990, chính quyền Việt Nam thi hành chính sách đổi mới, bỏ lại quá khứ sau lưng để hướng về tương lai, thi hành chính sách hòa đồng và đòan kết dân tộc với mục đích lôi kéo những thành phần vốn dĩ nằm trong thế lực thù địch của chính quyền hiện nay dù là ở quốc nội hay quốc ngoại để cùng bắt tay nhau xây dựng đất nước cho được phú cường hầu có thể sánh vai cùng với các nước tiên tiến trong cộng đồng thế giới. Cũng vì thế mà chính quyền Việt Nam mới nói rằng cái nhìn lịch sử ngày nay đã khác, không còn căn cứ vào những trang sử đau buồn của đất nước khiến cho có thể làm thương tổn hay gây bất lợi cho chính sách đoàn kết quốc gia, đoàn kết dân tộc mà chính quyền đang theo đuổi và triệt để thi hành. Đây là cơ hội tốt cho các ông văn nô đạo Chúa cũng như các nhà trí thức "Người Việt Quốc Gia" được hả dạ. Bấy lâu nay đang ở thế bí, không thể nào phản biện được những lập luận nêu lên trong các tác phẩm vạch trần bộ mặt của Giáo Hội La Mã của chúng tôi. Các ông bèn chộp lấy lời tuyên bố “cái nhìn về lịch sử ngày nay đã khác ngày xưa” của Nhà Nước Việt Nam để làm sức mạnh thuyết phục chúng tôi phải công nhận bằng văn tự rằng Giáo Hội La Mã là một “Hội Thánh duy nhât thánh thiện, công giáo và tông truyền”, rằng “ông Ngô Đình Diệm là “một nhà ái quốc chân chính đã chết vì dân” và ngay cả chính quyền Việt Nam hiện nay cũng công nhận theo! Một trong những ông trí thức này là Giáo-sư Nguyễn Văn Trung đã trực tiếp nói với người viết như vậy. Vào ngày 10/11/2001, nhân dịp đến thành phố ở Seattle dự lễ kỷ niệm đệ tam hay đệ tứ chu niên ngày khai sinh ra tờ báo Chính Luận, Giáo-sư Nguyễn Văn Trung gọi điện thọai đến nhà tôi để xin được nói chuyện với vợ chồng chúng tôi. Tuy có chút thắc mắc vì chúng tôi chưa quen biết ông, nhưng đoán biết chuyện viết lách thế nào cũng liên hệ, vợ chồng tôi đồng ý đón ông về nhà tôi để nói chuyện. Có nhiều đề tài được nêu ra trong cuộc nói chuyện liên quan đến tư thế lịch sử của những người Công Giáo xưa kia được chính quyền miền Nam vinh danh. Nhưng có một chi tiết mà chúng tôi vẫn còn nhớ mãi là câu ông tuyên bố: “Khi còn ở Việt Nam, tôi có may mắn được tiếp xúc với nhiều nhân vật cao cấp thuộc thành lãnh đạo của chính quyền Việt Nam. Tất cả họ đều nói rằng cái nhìn về lịch sử của chúng tôi ngày nay khác với ngày xưa. Cho nên, bây giờ, chúng tôi (chính quyền Việt Nam) không nói Giáo Hội La Mã là kẻ thù của dân tộc và cũng không muốn khơi lại những vết thương của đất nước mà nói rằng những người Việt Nam cộng tác với Pháp hay với Vatican hoặc là với Mỹ là Việt gian. Họ cũng là những người yêu nước theo cách riêng của họ”. Như vậy, tôi yêu cầu anh (người viết) nên xét lại những lập luận trong những tác phẩm đã xuất bản và cả những tác phẩm đang viết hay sắp xuất bản của anh.” Vợ tôi thắc mắc: “Giáo-sư nói như thế có nghĩa là lịch sử sẽ tùy theo cái nhìn của các nhà cầm quyền hay sao?” Tôi tiếp theo: “Lịch sử là lịch sử, ở vào bất kỳ thời đại nào, hoàn cảnh nào hay thời thế như thế nào thì những sự kiện lịch sử cũng vẫn không thay đổi. Còn những lời lẽ của các nhà chính khách có tính cách xã giao và luôn luôn thay đổi với từng lọai người đối thoại và thay đổi với hoàn cảnh lịch sử hay hoàn cảnh chính trị khi họ nói. Sự thay đổi này cũng giống như Hoa Kỳ hay bất kỳ các cường quốc nào thay đồi chính sách của họ. Cũng vì thế mà từ giữa thập niên 1950 cho đến đầu thập niên 1970, Hoa Kỳ coi miền Nam Việt Nam là tiền đồn chống lại làn sống Cộng Sản đang dâng tràn từ phương Bắc và triệt để thi hành chính sách Chống Cộng, nuôi dưỡng chính quyền và quân đội miền Nam làm công cụ phục vụ cho nhu cầu chiến lược chống Cộng này của họ. Nhưng đến đầu thập niên 1970, sau khi đã kết thân được với Trung Cộng (trở thành bạn của Hoa Kỳ), Hoa Kỳ đã thay đổi chính sách đối với với Trung Hoa lục địa và cũng thay đổi chính sách đối với miền Nam Việt Nam kể từ đó. Sự thật như thế nào, chắc giáo sư cũng đã rõ!" Nghe tôi lý luận như thế, Giáo-sư Nguyễn Văn Trung tỏ ra thất vọng, và không kềm được sự tức giận, ông đề nghị: “Nếu bây giờ, chúng tôi tổ chức một cuộc hội thảo để nhận xét về các cuốn Đệ Nhất Cộng Hòa Tòan Thư 1954-1963 và hai cuốn Thực Chất của Giáo Hội La Mã của anh, thì anh nghĩ thế nào?” Tôi đáp: “Tùy theo thành phần tham dự cuộc hội thảo này. Nếu thành phần tham dự cuộc hội thảo này gồm toàn những người nằm trong Phong Trào Phục Hưng Tinh Thần Ngô Đình Diệm và những người tự nhận là những người "Quốc Gia chân chính", tôn vinh ông Ngô Đình Diệm lên làm lãnh tụ anh minh của họ, THÌ tất cả tác phẩm của tôi sẽ bị lên án và cá nhân tôi sẽ bị sỉ vả, bị chửi bới bằng đủ mọi thứ ngôn từ vô cùng hạ cấp theo đúng truyền thống trong đạo Ki-tô La Mã. Ngược lại, Nếu những thành phần tham dự cuộc hội thảo này gồm những người có kiến thức lịch sử, thấu hiểu lịch sử thế giới, thấu hiểu lịch sử Giáo Hội La Mã cũng như lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại cùng với những thành phần ngoài đạo Ki-tô, và cũng là nạn nhân của các chế độ đạo phiệt Ca-tô ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, THÌ chắc chắn là phần thắng sẽ về tôi, và những người bênh vực Giáo Hội La Mã và chế độ đạo phiệt Ca-tô của ông Ngô Đình Diệm sẽ bị lên án là bọn cuồng nô vô tổ quốc, vong phản dân tộc.” Đến đây, Giáo-sư Trung chuyển sang câu chuyện khác. Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ với phương cách “đào tạo thanh thiếu niên hay con người theo tinh thần công giáo” của Nhà Thờ Vatican đã làm cho các tế bào lý trí trong trung khu não bộ của những người tiếp nhận sở học của họ qua chính sách này bị thui chột và tê liệt, khiến cho họ không còn khả năng lý trí để tìm hiểu sự vật hay không còn khả năng để phân tách được thuật ngữ của một chính trị gia hay các nhà ngoai giao chuyên nghiệp. Những thuật ngữ ngoại giao điển hình có thể kể khi Cụ Hồ Chí Minh có lần nói "ông Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc” (sic) và các nhà lãnh đạo hay các nhân vật cao cấp chính quyền Việt Nam nói với giới tu sĩ Công giáo và các ông “dân Chúa” rằng, cái nhìn của họ về lịch sử ngày nay đã khác hẳn ngày xưa rồi . Ngay cả đến một giáo sư đại học như nhà trí thức "con chiên" Nguyễn Văn Trung mà còn không biết sử dụng lý trí để suy luận, cho nên mới không hiểu được chiều sâu của thuật ngữ trên đây của nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay, thì còn nói chi đến các ông trí thức nửa mùa mới học xong bậc cử nhân hay mới học xong bậc trung học họăc là mới học xong cấp II bậc trung học! Ngoài những sự kiện đã được trình bày ở trên, độc giả có thể kiểm chứng vấn đề này bằng cách tìm đọc những tác phẩm của các tác giả dân Chúa được gọi là trí thức như các ông Lê Hữu Mục, Nguyễn Văn Lục, Lữ Giang (Tú Gàn tức Nguyễn Cần), Nguyễn Vy Khanh, Nguyễn Văn Chức, Lâm Lễ Trinh, Tôn Thất Thiện, Nguyễn Học Tập, Phan Thiết (Nguyễn Kim Khánh), hoặc là đọc những bài viết với những ngôn từ thiếu giáo dục được phổ biến trên các diễn đàn điện tử hay trong xã hội E-mail đang thịnh hành hỉện nay của những ông "con chiên" học hành chưa qua bậc trung học hay chưa học xong hết bậc 1 (bậc cử nhân) ở đại học. ◎ Không dạy cho học sinh phương cách viết điểm sách (book report). Vì không được học phương pháp điểm sách, cho nên khi họ viết điểm sách của các tác giả mà họ không ưa thích họ tìm cách hạ giá và sỉ vả tác giả bằng cách bới móc đời tư và thêm thắt nhiều điều không tốt để bôi bác và sỉ vả tác giả. Thành thử ra bài "điểm sách" của họ trở thành bài viết “điểm mặt” tác giả. Đây là trường hợp ông "con chiên" Trương Phú Thứ viết bài “Đọc Sách: A Poem For My Children” đăng trên tờ Văn Nghệ Tiền Phong số 559 tháng 5 năm 1999, trang 26, 27, 86 và 87, viết bài (Điểm sách) Xóm Đạo của tác giả Nguyễn Ngọc Ngạn đăng trên diễn đàn Take2Tango (https://www.take2tango.com/?display = 6761) ngày 25/4/2009 cũng như những trường hợp của các tác giả dân Chúa khác viết bài và viết sách nói về cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Hoa Kỳ: TXB, 1986). Đây cũng là một nét đặc thù của nền văn hóa Ca-tô của các ông bà “dân Chúa” thường rêu rao là “sống theo lương tâm Công Giáo” hay “sống đạo theo đức tin Ki-tô”. ◎ Không dạy cho học sinh, sinh viên biết phương pháp viết bài tiểu luận, khảo luận, biên soạn một cuốn sách theo phương pháp khảo luận. Hậu quả là: a.- Chỉ đạo lãnh vực viết lách của kẻ khác sang đề tài chống cộng. Khi phải đối đầu với bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã của người viết, thì họ đặt vấn đề là “Tại sao không viết về miền Bắc Việt Nam hay các chế độ Cộng Sản?” mà lại “chỉ viết về Miền Nam và Giáo Hội La Mã?” Không phải chỉ có một người mà có rất nhiều người đặt ra câu hỏi như trên. Thưa rằng ngay ở các lớp bậc trung học, các em học sinh đã được dạy phương cách viết “điểm sách” và “viết tiểu luận”, theo đó có thể chọn bất cứ đề tài nào mà tác giả cảm thấy thích thú hay có khả năng nhất, và các câu chuyện cũng phải xoay quanh đề tài đó mà thôi, nếu không sẽ cho là bị lac đề. Đặt ra câu hỏi như vậy là hàm hồ, lố bịch và sống sượng, biểu lộ thái độ lo sợ về những sự thật xấu xa trong khu rừng của đủ mọi thứ tội ác của Nhà Thờ Vatican sẽ bị phơi bày ra trước công luận. Có thể những người hỏi như thế nghĩ rằng Giáo Hội La Mã là một vùng cấm địa mà không một ai được rớ hay nói tới. Nhưng ở thời đại ngày nay, không ai được phép bịt miệng kẻ khác nói những điều có thật của lịch sử. b.- Tự ý bắt quặt lái sang đề tài khác (lại cũng chống cộng) khi ở vào thế bí, thành ra lạc đề. Tệ hơn nữa, nhiều khi không thể tranh luận được, họ lại quay ra lên án hay gán cho đối thủ những tội danh tưởng tượng để tránh né và che lấp tình trạng thiếu hiểu biết hay dốt nát của họ về đề tài. Tình trạng này đã xẩy ra rất thông thường trong các cộng đồng dân Chúa của Vatcian và những người đồng minh chống Cộng của họ ở hải ngọai. c.- Để chống lại công trình sưu khảo mà kết luận bất lợi cho nhà thờ, những văn sĩ Ca-tô chê bai rằng viết theo phương pháp khảo luận là “tạp ghi cóp nhặt quan điểm của nhiều người và nhiều tác giả..” Đây là trường hợp ông (cựu luật sư) Nguyễn Văn Chức viết trong cuốn Việt Nam Chính Sử (Fall Church, VA: Alpha, 1992) với nguyên văn như sau: “Cuốn VNMLQHT không phải là một cuốn hồi ký. Đúng hơn, nó là một tạp ghi cóp nhặt quan điểm của nhiều người và nhiều tác giả. 93 cuốn sách và 52 tạp chí được trích dẫn. Bản thân ông Đỗ Mậu chỉ xuất đó đây như một loại giây leo còm cõi sống bám vào những chất liệu cóp nhặt.”[10]
◎ Làm cho giáo dân và nhân dân dưới quyền hầu như không biết gì về quốc sử, không biết gì về lịch sự thế giới, và cũng không biết gì về lịch sử Giáo Hội La Mã, mà chỉ biết những gì mà Giáo Hội cho biết. Muốn đạt được mục đích bất chính này, Nhà Thờ Vatican phải nắm lấy phần chủ động trong việc làm chương trình học để họ quyết định: a.- Không đưa vào chương trình học toàn bộ những bài học quốc sử và cấm phổ biến những sách sử mà Giáo Hội không cho phép. Nếu vì miễn cưỡng phải có môn quốc sử trong chương trình học, thì các ông bà dân Chúa tay sai của Nhà Thờ Vatican chọn lọc một số bài lịch sử và tóm lược đến mức độ chỉ còn là hình thức cho lấy có, rồi đưa vào chương trình. Việc làm như thế đã giảm thiểu tối đa giá trị của các bài học có thể kích thích lòng yêu nước của thanh thiếu niên. Kết quả là học sinh chỉ mơ mơ hồ hồ về quốc sử và có thể nói là không biết gì về quốc sử. Người viết đã tiếp xúc với rất nhiều con chiên của Nhà Thờ Vatican, hầu hết họ không biết gì về quốc sử, nhưng lại nhớ khá rõ về các ông Abraham, Moses, các vua Saul, vua David, vua Salomon, vua Hérode, v.v… của nước Do Thái. Trái lại, hầu như họ không biết gì các vua Hùng dựng nước và các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Tây Sơn và Nguyễn của dân tộc ta. Độc giả có thể kiểm chứng vấn đề này bằng cách đọc những mấy trang 1592-1593 trong cuốn Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan (Fall Church, VA: Alpha, 1991) của Linh-muc Vũ Đình Hoạt, trong đó ông cho rằng “Chuyện Vua Hùng là Chuyên hoang đường không đáng tin.” Điều khôi hài là trong khi đó thì ông ta lại tin tưởng mãnh liệt vào cả rừng chuyện láo khoét cực kỳ hoang đường gấp triệu lần được nói rõ trong thánh kinh Ki-tô nếu so với chuyện các vua Hùng của dân tộc Việt Nam ta. Một số trong cái rừng chuyện cực kỳ hoang đường này là (1) hai cục đất sét được nặn ra giống như hình người rồi hà hơi vào thành con người thực sự có đủ cả thất tình và lục dục và bảo rằng hai cái khối đất sét hình người này là ông bà tổ của lọai người, (2) chuyện con rắn biết nói xúi giục bà Eva ăn trái cây hiểu biết, (3) chuyện Chúa tạo dựng nên vũ trụ trong 6 ngày, (4) chuyên Chúa hiện thân là thánh ma (holy Ghost) xuống hiếp dâm bà Maria mang bầu và đẻ ra ông Jesus, (5) chuyện bà Maria đã từng có tám người con mà vẫn còn trinh, v.v... Chúng ta biết rằng những người không biết quốc sử thì không có lòng yêu nước. Như vậy rõ ràng là chủ trương của Nhà Thờ Vatican là phải làm thế nào để bọn con chiên và người dân dưới quyền không có lòng yêu nước. Có như vậy thì Vatican mới dễ dàng mê hoặc và sử dụng họ vào việc chống lại đất nước và dân tộc của họ. Hành động của các ông bà dân Chúa người Việt trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thế kỷ 16 cho đến ngày nay là bằng chứng rõ ràng cho sự kiện này. Đó là kết quả đầy thắng lợi của Vatican trong việc hạn chế, cắt xén và kiểm soát gắt gao môn quốc sử. b.- Không đưa toàn bộ những bài học lịch sử thế giới vào chương trình học và triệt để cấm phổ biến những sách sử có đầy đủ toàn bộ bài học lịch sử thế giới từ A đến Z. Trong chương trình học, nếu bất đắc dĩ phải có những bài học lịch sử thế giới, thì đó chỉ là những bài học đã được chọn lọc và đã bị sửa lại để mất đi cái ý nghĩa đích thực của nó. Về vấn đề kiểm soát gắt gao môn lịch sử thế giới, xin đọc các trang 99-101 trong cuốn Đời Viêt Văn của Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1986) của tác gỉa Nguyễn Hiên Lê. Mấy trang sách này đã được chúng tôi trích dấn trong Tiểu Mục A: Coi nhẹ vấn đề đào tạo giáo viên dạy môn Sử Địa và Công Dân (nơi tiều đề nói về mối lo âu) ở trên và cũng nằm trong chương sách này. Sở dĩ Giáo Hội phải làm như vậy là để tránh né, không làm nguy hại đến hệ thống tín lý Ki-tô hoặc là không phơi bày ra những việc làm tội ác của Nhà Thờ Vatican chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua. Đại khái là những bài học có liên hệ đến những đề tài dưới đây bị Nhà Thờ loại bỏ khỏi chương trình học hoặc bị diễn dịch sai lạc để bóp méo sự thật: Thứ nhất là lý thuyết khoa học khẳng định rằng trái đất đã xuất hiện ở trong vũ trụ cách đây hàng nhiều triệu năm và bầy người đầu tiên cũng đã có mặt ở trên trái đất này cách đây cả mấy triệu năm. (Lý do là những điều này hoàn toàn trái ngược với những gì đã nói trong thánh kinh). Thứ hai là những bước tiến của loài người trong các lãnh vực khoa học, kỹ thuật, chính trị, văn chương, học thuật và xã hội. (Lý do là vì những vấn đề này sẽ phơi bày ra những tính cách và thủ đọan dối trá trong thánh kinh và trong những lời dạy của Nhà Thờ Vatican). Thứ ba là các Phong Trào Đòi Cải Cách Tôn Giáo (The Reformation 1309-1648), Thời Đại Lý Trí (the Age of Reason - 1500-1789), Thời Đại Cách Mạng Dân Chủ (The Age of Democratic Revolutions - 1603-1815), Các Phong Trào Xã Hội Phản Đối Thế Lực Đương Quyền (Movements of Social Protest 1800-1900), v.v... Đây cũng là những phần quan trọng mà Giáo Hội La Mã có chủ tâm bưng bít và đã bưng bít liên tục cho đến ngày nay. Thứ tư là thuyết tiến hóa của nhà bác học Charles Robert Darwin (1809-1882). Thứ năm là đời sống hoang đàng, loạn luân, loạn dâm và phi luân của các giáo hoàng và giới tu sĩ. Thứ sáu là những cuộc tranh giành quyền lực và tàn sát lãn nhau trong Giáo Hội La Mã. Thứ bảy là việc phát động các cuộc thập tự chiến và việc thiết lập các Tòa Án Xử Dị Giáo. Thứ tám là việc ban hành những thánh lệnh ăn cướp (đất đai) trong thế kỷ 15. Thứ chín là phong trào các nước Âu Châu vùng lên làm cách mạng chống lại Vatican. Thứ mười là những hành động Vatican cấu kết với các cường quyền Âu Châu để áp bức và bóc lột nhân dân. Thứ mười một là những hành động Vatican cấu kết với các đế quốc xâm lược đem quân đi chinh phục đất đai ở ngoài Âu Châu làm thuộc địa. c.- Cô lập giáo dân: Có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Linh-mục Trần Tam Tỉnh có ghi lại trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Guơm về chủ trương quy tụ giáo dân vào sống trong một công đồng riêng biệt để thi hành chính sách bưng bít những gì mà Nhà Thờ Vatican muốn bưng bít: "Ngọai trừ các cụm nhà thành thị dân chúng sống lẫn lộn, người Công Giáo thường được tập trung lại thành làng xóm riêng, tách rời khỏi người lương, sống chen chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu Tây, chọc lên trời, cao vượt khỏi lũy tre. Bị đóng khung và được đòan ngũ hóa bởi hàng giáo sĩ, họ trở thành một lực lượng quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ khi cha xứ kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào, thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không được Giáo Hội chính thức phê chuẩn, chẳng hạn sách Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ điển của Việt Nam, hoặc các tài liệu cách mạng đều bị cho là ngược với đạo. Cac sách của Voltaire, Montesquieu, khỏi nói tới Các Mac, vừa bị nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị giáo luật khai trừ, nhưng ngay cuốn sách thánh đã dịch ra tiếng bản xứ mà cũng chẳng ai được biết đến (có một bản sách thánh in bằng hai thứ tiếng La Tinh và Việt ngữ, khổ lớn, nằm trong thư viện các chủng viện và một vài cha xứ, còn giáo dân thì không thể rờ tới.)"[11]
◎ Nhồi nhét vào đầu óc con chiên những tín lý Ki-tô nhảm nhí phản khoa học và những lời dạy lưu manh, phản nhân luân, bất nhân, bất nghĩa và phản khoa học. Song song với việc dùng phương pháp độc thoại và kiểm sóat chặt chẽ những bài học sử trong chương trình học, Nhà Thờ Vatican còn triệt để nhồi nhét vào đầu óc tín đồ: a.- Những tín lý Ki-tô chọn lọc lấy từ trong thánh kinh nhưng sửa đổi sao cho phù hợp với chính sách tuyền truyền của Giáo Hội, (Xin xem các sách trong Cựu Ước và Tân Ước để biết về những tín lý Ki-tô nhảm nhí này. Một số trong những tín lý này đã được trình bày ở trên.) b.- Những lời dạy bịp bợm và cực kỳ lưu manh của Giáo Hội. Dưới đây là một số những lời dạy hoặc những lập luận gian xảo của Giáo Hội mà tất cả mọi giáo dân ngoan đạo (cuồng tín), đều phải tuân thủ: 1.- Niềm tin tôn giáo không cần đến lý trí. 2.- Phúc cho ai không thấy mà tin. 3.- Vâng lời quý hơn của lễ. Phải quên mình trong vâng phục 4.- Chỉ cần có một niềm tin bằng hạt cải thì có thể bê cả trái núi quăng xuống biển. 5.- Phải tuyệt đối tin tưởng và trung thành với Tòa Thánh Vatican và các đấng bề trên. 6.- Không ai có quyền xét đoán Giáo Hoàng. 7.- Chỉ có Giáo Hội La Mã mới được quyền cai quản toàn cầu. Các hoàng đế và vua chúa sẽ được hôn bàn chân của Giáo Hoàng khi đến thăm (bệ kiến) ông ta. Chỉ công nhận quyền lực của Tòa Thánh Vatican, chỉ công nhận các chính quyền Liên Minh với Tòa Thánh Vatican và các chính quyền đã tuân phục Vatican hay các thế lực liên minh với Vatican. 8.- Ngoài Giáo Hội, không có cứu rỗi. 9.- Chuyện tốt khoe ra, chuyện xấu che lại. Phải giấu kín những chuyện xấu trong giáo hội, không nên để cho người ngoại đạo được biết. 10.- Cha (linh mục) là đại diện của Chúa. Phải coi Cha như Chúa. Những gì Cha nói và hành động là nói và hành động theo ý Chúa. 11.- Là giáo dân ngoan đạo, không được bàn tán và nói hành nói tỏi các Cha.Kẻ nào nói hành nói tởi các cha (linh mục) thì sẽ bị Chúa trừng phạt đày xuống hỏa ngục đời đời. Nếu các cha có làm gì sai trái, thì đã có Chúa phán xét. 12.- Giáo Hoàng có thể giải trừ cho nhân dân khỏi phải làm bổn phận đối với các ác quyền bất công, tức là xúi giục nhân dân chống lại các chính quyền nào không chịu thần phục Vatican. Nhà Thờ Vatican đã và đang làm như vậy đối với chính quyền Việt Nam. Những hành động của Giám mục Ngô Quang Kiệt và những linh mục xúi xục giáo dân (đàn cừu non) Hà Nội chống phá chính quyền, từ cuối năm 2007 đến nay là bằng chứng. Thực ra còn nhiều lắm! Người viết chỉ tạm đưa ra sơ sơ 17 lời dạy trên đây của Nhà Thờ Vatican. Lấy lý trí và phân tách, chúng ta thấy bất kỳ lời dạy nào trên đây của Nhà Thờ Vatican cũng hàm chứa ý đồ phỉnh gạt và lừa bịp tín đồ với dã tâm bốc hốt và vơ vét thật nhiều quyền lực vào trong tay. Những các ông bà dân Chúa thuộc loại ngoan đạo đã bị chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã làm cho thui chột hết tất cả những tế bào lý trí trong não bộ, cho nên họ không còn có khả năng nhìn ra cái dã tâm bịp bợm của Vatican trong những lời dạy trên đây. Chúng ta thấy những lời dạy bịp bợm và vơ vào trên đây của Nhà Thờ Vatican hoàn toàn trái ngược với những lời dạy hết sức vô tư và hoàn toàn vô vị lợi với chủ tâm chỉ muốn rèn luyện cho con người để họ biết sử dụng lý trí hầu có thể hành xử sao cho "vừa mắt ta ra mắt người" và cũng là để khỏi bị người đời lừa gạt. Dưới đây là mười lời khuyên dạy vô tư của Nhà Phật. 1.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết. 2.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống. 3.- Chớ vội tin vào điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền. 4.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay trong sách vở. 5.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình. 6.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình 7.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt. 8.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với định kiến của mình. 9.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được sức mạnh và quyền uy ủng hộ. 10.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình truyền thuyết.” [12] Tìm hiểu sâu rộng hơn nữa, chúng ta sẽ thấy rằng, Vatican hay Giáo Hội La Mã không những chỉ đòi hỏi tín đồ phải triệt để vâng lời và tuân thủ những lời dạy nặng tính cách phỉnh gạt, lừa bịp và vơ vào (như đã nói ở trên), mà còn có chủ tâm cưỡng bách tín đồ phải triêt để hành xử đúng theo lời giáo huấn phi luân giống y hệt như những lời phán phi luân của Chúa Jesus trong Matthew (10: 34-37) [đã trích dẫn ở trên]. Sự kiện này được ông Phan Đình Diệm, một trí thức Ca-tô và cũng là Hội Trưởng Hội Giê-Su Giáo (Houston, Texas) ghi lại như sau: "XÉT RẰNG (4): Công Đồng Chung thứ 19 Tridentinô (Trentô 1545-1564), Giáo Hội đã ra tay củng cố "quyền giáo huấn" là một "chân lý tuyệt đối". Công Đồng đưa ra tín lý và giáo điều vào canon hình luật (thánh luật), một lời nói phạm vào điều cấm của một canon (thánh luật) là thụ án hỏa thiêu sống dễ như chơi. Cha con tố cáo nhau, vợ chồng tố cáo nhau, anh em tố cáo nhau, bạn hữu tố cáo nhau, hàng xóm láng giềng tố cáo nhau, v.v... trước tòa án của Giáo Hội. Giáo Hòang Paul IV (1555-1559) tuyên bố: "Nếu bố tôi là dị giáo đồ, tôi sẽ chụm củi thiêu sống ông ta luôn" v.v... Ví dụ canon thứ nhất bị thiếu sống, viết: "Nếu bất cứ ai nói rằng, con người có thể tự biện minh trước Thiên Chúa bằng việc làm của chính nó, bất kể việc làm qua giáo huấn nhân bản tự nhiên, hay giáo huấn của luật, nhưng không qua ân sủng của Thiên Chúa, (không) thông qua Đức Jesus Kitô, nó phải tuyệt thông (let him be anathema)...Hàng trăm "canon anathema chi li vụn vặt như thế", giáo điều được "huấn quyền tuyệt đối của Giáo Hội" đưa vào hình luật, giết hại cơ man nào là người trong 8 thế kỷ (năm 1232, Giáo Hòang Gregory IX (1227-1241) thiết lập tòa án xử bọn dị giáo, gọi là Inquisition). Một phương ngôn của khoa thần học Roma là: "Khi Giáo Hội Roma nói, mọi tiếng nói khác phải câm đi". Một Giáo Hội tự "tuyệt đối hóa" mình nắm cực quyền trên sinh mạng sống đồng loại như thế, người ta không thể nói đến dân chủ.” [13] Những lời dạy phản nhân luân và mất dạy này đã ảnh hưởng mạnh mẽ vào đầu óc của những con chiên và những người Việt Nam tiếp nhận sở học qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Vatican trong thời kỳ 1862-1945 trên toàn cõi Đông Dương, và đặc biệt là ở miền Nam Việt Nam cho đến ngày 30/4/1975. Chính sách giáo dục mà Giáo Hội La Mã luôn luôn đòi hỏi phải để cho Giáo Hội có một nền giáo dục độc lập để “đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo” là như thế đó! Đây là chính sách giáo dục khốn nạn và dã man nhất trong lịch sử nhân loại vì nó sẽ làm cho con người mất hết tình thương yêu hồn nhiên bẩm sinh đối với những người thân thương trong gia đình cũng như đối với tổ quốc và dân tộc. Tác dụng của nó là làm cho mối liên hệ giữa con người và con người như lứa đôi trai gái, vợ chồng, cha mẹ và con cái phải nhường bước trước "đức tin Kitô" hay "lòng kính thương" của họ đối với Giáo Hội La Mã. Nói cho rõ hơn, chủ tâm của Nhà Thờ Vatican là làm cho mất đi cái sức mạnh tình yêu thương giữa những người trong cùng một gia đình và tình yêu cúa người dân đối với đất nước. Một khi đã mất đi cái sức mạnh của thứ tình yêu này, thì nền tảng của gia đình bị băng họai. Ở vào tình trạng này, con người trở nên bơ vơ trơ trọi và phải tìm một điểm tựa khác để bấu víu mà dựa vào. Giáo Hội tin rằng, Giáo Hội sẽ là điểm tựa cho tín đồ ở vào trường hợp này, và khi đó tín đồ sẽ dành hết lòng kính yêu của họ cho Giáo Hội (được ngụy trang là "tình yêu đối với Thiên Chúa"). Ngòai việc làm dã man trên đây, Giáo Hội còn có chủ tâm hủy diệt tình yêu dân tộc và tình yêu tổ quốc trong lòng tín đồ. Có nhiều bằng chứng về chủ trương dã man này bằng hành động cũng như bằng những ngôn từ của giới tu sĩ và bọn trí thức Ca-tô: 1.- Trong 27 nguyên tắc của bản tuyên cáo "Dictatus papae" do Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085) ban hành vào năm 1075, có hai nguyên tắc nói thẳng thừng rằng, “chỉ có Giáo Hội La Mã mới được quyền cai quản toàn cầu” và “Giáo Hoàng có quyền truất phế tất cả các ông hoàng đế.” (Chương 13 sẽ nói rõ vấn đề này.) 2.- Các nhà truyền giáo dạy dỗ các ông bà dân Chúa người Việt rằng, “Đừng thừa nhận quyền lực nhà vua và luật pháp nước họ” và dạy con chiên rằng “Đức Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy nhất của họ, học chỉ tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican mà thôi.”[14] 3.- Trong câu vè “Nhất Chúa, nhì cha, thứ ba Ngô Tổng Thống”[15] mà Nhà Thờ Vatican sáng tác rả để giáo dục giáo dân người Việt trong nững năm 1954-1963. 4.- Tháng 8 năm 1964, Linh-mục Hoàng Quỳnh đã đưa ra khẩu hiệu “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa.”[16] Khẩu hiệu này được coi như một triết lý hành động được nêu lên cho giáo dân theo đó mà hành xử. 5.- Linh-mục Trịnh Văn Phát viết: ”Trong suốt thời gian ở Việt Nam tôi đã suy nghĩ và tự hỏi mình phải làm gì cho quê hương và Giáo Hội. Giúp quê hương không phải là bổn phận trực tiếp của tôi, nhưng tôi có bổn phận với giáo hội vì tôi là người của giáo hội và được đào tạo để sau này phục vụ cho giáo hội. Có nhiều anh em yêu cầu tôi về giúp cho địa phận, tôi thẳng thắn trả lời tôi không có tự do chọn lựa, tôi được huấn luyện để phục vụ theo nhu cầu của giáo hội.” [17] 6.- Ông "con chiên" Petrus Trương Vĩnh Ký viết thư thỉnh cầu vị chỉ huy đạo quân thập ác của nước Pháp còn nằm ở ngoài khơi Việt Nam gấp rút tiến đánh Việt Nam. Lá thư này được ghi lại trong sách Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 188-1945 (Tập 1) với nguyên văn như sau: "Tháng 3/1859, Petrus Key viết "Grand Chef et Vous Tous, très honorables officers de la flotte francaise": Ayez pitié de nous; Ayez pitié de nous. Vous êtes nos libérateurs et la main des ennemis nous a touchés! Hala! The wearer knows very well where the shoe pincheth. Nous savons aussi que qui trop embrasse mal étreint; Et cependant nos souffrances nous poussent à invoquer votre puissance et à vous exposer du fond du coeur tout ce que je viens de soumettre à votre prudence et à votre sagesse." [18] 7.- Ông cựu luật-sư Công giáo Nguyễn Văn Chức viết: ”...Bổn phận của chúng ta, người công giáo tỵ nạn, đối với Giáo Hội và quê hương... Vì vậy, nếu trong công cuộc loại trừ bạo quyền Cộng Sản, tôn giáo tại Việt Nam là động lực vận hành và thúc đẩy, thì trong công cuộc phục hưng con người sau khi xóa bỏ chế độ Cộng Sản, tôn giáo tại Việt Nam sẽ là nhân tố chủ đạo, chỉ đạo và quyết định. Riêng về phía Thiên Chúa Giáo, quyền Thánh Kinh sẽ là cẩm nang trong sứ mạng phục hưng con người và đạo lý tại Việt Nam.” [19] Rõ ràng là ông dân Chúa Nguyễn Văn Chức muốn đem quyển Thánh Kinh đầy những tín lý hoang đường nhảm nhí với những lời dạy độc ác, trả thù, tàn sát những người khác tôn giáo cực kỳ dã man, những chuyện loạn luân, phản nhân luân và dâm loàn để làm cẩm nang dạy dỗ đàn con chiên Việt Nam. Đồng thời, ông ta lại tỏ ra là một tín đồ ngoan đạo, tuyệt đối trung thành với Tòa Thánh Vatican, triệt để tuân hành những lời dạy láo khóet trong Thánh Kinh và lời dạy lưu manh của Giáo Hội rằng “Đức Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy nhất của họ, họ chỉ phải tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican mà thôi.” Ông ta cũng đã cụ thể hóa lòng trung thành với Tòa Thánh Vatican bằng lá thư đề ngày 25/2/1955 thỉnh cầu Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thành lập đạo quân thập tự Việt Nam để bảo vệ chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và thi hành sứ mạng mở mang nước Chúa của ông bằng bạo lực. Xin xem toàn bộ bản chụp lá thư này nói các trang 527-529 trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Tacoma, Washington, 1998). Độc đáo hơn nữa, trong bài viết “Một Khuôn Mặt Siêu Việt Trong Một Thế Giới Hữu Hạn”, đăng trong Tạp Chí Thế Giới Ngày Nay Số 139, nơi trang 51, ông Nguyễn Văn Chức còn viết một câu văn bất hủ chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Nguyên văn câu đó như sau: “Đối thoại với Giáo Hoàng là mang tội bất kính, là phường vô lại hay vô giáo dục” Trần Chung Ngọc. “Vài ý kiên về bài “Được Đối Thọai Với Giáo Hoang John Paul II” của ông Đõ Mạnh Trí.” [20] 8.- Các ông "con chiên" Nguyễn Bá Cẩn, Nguyễn Văn Canh, Lý Tòng Bá, v.v..., hùa nhau thành lập cái gọi là Việt Nam Cộng Hòa Foundation, rồi viết thư gửi Liên Hiệp Quốc yêu câu cơ quan này dùng quyền lực tái lập việc tình trạng chíi đôi đất nước Việt Nam thân thương của chúng ta để thành lập chế độ đạo phiệt Ca-tô làm tay sai cho Giáo Hội La Mã với danh xưng tàng hình là Việt Nam Cộng Hòa, giống như thời "chế độ Diệm" (1954--1963) và "chế độ Diệm không Diệm" (1967-1975).[21] 9.- Ông dân Chúa Nguyễn Mậu viết: ”Vấn đề được nêu lên ở đây với tất cả mạo muội và run sợ vì có thể bị xem như là vô lễ phạm thượng. Chúng tôi trông vào sự độ lượng của hàng giáo phẩm cũng như hy vọng rằng sự trưởng thành của giáo dân ở thời đại này sẽ giúp thật nhiều cho sự thể hiện lý tưởng Ki tô hữu.” Nguyễn Mậu. “Thời Sự Trong Tuần.”[22]. Nực cười nhất là suốt trong chiều dài lich sử cận và hiện đại của nước ta, khi lao vào làm những hành động vong bản, phản quốc, phản dân tộc, tàn sát những người đồng hương thuộc các tín ngưỡng khác, cướp của, đốt nhà, đốt chùa, phá đình, phá miếu, hãm hiếp đàn bà con gái, giết người, mổ bụng, phanh ngực nạn nhân lấy gan đem nướng và lấy mật hòa với rượu, rồi ngồi nhậu hả hê với nhau thì họ KHÔNG RUN SỢ!. Ấy thế mà khi phải nêu lên một vấn đề gì với các đấng bề trên của họ thì họ RUN SỢ, coi là "VÔ LỄ, "PHẠM THƯỢNG", và họ cho rằng "Đối thoại với Giáo Hoàng là mang tội bất kính, là phường vô lại hay vô giáo dục”. Chính sách đào tạo thanh thiếu niên “theo tinh thần công giáo” của Nhà Thờ Vatican đã biến tín đồ Ca-tô người Việt thành hạng người siêu ngu xuẩn, siêu hèn hạ và siêu dã man như thế đó! 10.- Ngày 15/3/2001, Giám-mục Nguyễn Văn Thuận tuyên bố những lời lẽ phản quốc để đời như sau: “Vatican không nói, mà làm. Làm ra sao thì cứ nhớ lại biến cố Đông Âu thì rõ.” [23] Ai cũng hiểu rằng khi đưa ra lời tuyên bố như vậy là Hồng Y Nguyễn Văn Thuận muốn nhắn nhủ những người đồng đạo của ông ta rằng: “Yên trí đi, tuy rằng không tuyên bố ồn ào hay công khai, nhưng Tòa Thánh Vatican đã và đang hành động tiến chiếm Việt Nam giống như trước đây Vatican đã làm ở Đông Âu và Việt Nam trước đây.” Hồng Y Nguyễn Văn Thuận được coi như một trong số mấy người Việt Nam đi tu leo lên chức vụ hồng y. Khác với các ông hồng y người Việt Nam khác, Hồng Y Nguyễn Văn Thuận được tín đồ Ca-tô người Việt xưng tụng hết mình vì ông này là cháu gọi Ngô Đình Diệm bằng cậu (cậu ruột). Tình trạng được xưng tụng này đã khiến cho hồng y Nguyễn Văn Thuận vốn dĩ mang cái bản chất hợm hĩnh, huênh hoang khoác lác của truyền thống trong xã hội dân Chúa, lại càng trở nên hợm hĩnh, huênh hoang khóac lác nhiều hơn. Cũng vì thế mà khi đến California, vào ngày 15/3/2001, ông hồng y này (lúc đó còn là giám mục) mới đưa ra lời tuyên bố phản quốc để đời như trên. Lời tuyên bố trên đây chứng tỏ rằng ông Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã đặt quyền lợi của Tòa Thánh Vatican lên trên quyền lợi của tổ quốc và dân tộc Việt Nam. Nói cho rõ hơn, ông ta đã coi Vatican là nước tổ và coi tổ quốc Việt Nam là thù địch. Đưa ra lời tuyên bố phản quốc trên đây, Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã để lộ cho mọi người thấy rõ ông ta là một thằng mất gốc và phản quốc. Chúng ta biết rằng bất cứ một người Việt Nam nào cũng thấu hiểu cái truyền thống “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” của dân tộc Việt Nam ta. Ai cũng biết rằng ngày nay Việt Nam có được giải giang sơn chạy dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu và lan sang tới biên giới Việt Miên tại Hà Tiên là nhờ công lao mồ hôi và xương máu của tiền nhân ta trong các công cuộc dựng nước, mở nước và giữ nước từ mấy ngàn năm cho đến bây giờ. Không biết khi tuyên bố như vậy, ông hồng y này có nhớ rằng ông ngoại của ông ta là Ngô Đình Khả và người cậu ruột của ông ta là ông Ngô Đình Diệm cũng đã từng “tuyệt đối tin tưởng vào Vatican” để rồi cha con nối tiếp nhau gục mặt đi trên bốn chân làm tay sai cho quân cướp ngoại thù Thập Ác Vatican. Bố (Ngô Đình Khả) thì đào mả nhà ái quốc Phan Đình Phùng, lấy xác đốt thành tro, rồi lấy tro trộn vào thuốc súng bắn đi để lập công với giặc, con (Ngô Đình Diệm)i thì tổ chức một cuộc đại lễ hiến dâng cả nước Việt Nam cho Đức Bà Maria để làm hài lòng Vatican. Đúng là: Trứng rồng lại nở ra rồng, Việt gian lại đẻ ra dòng Việt gian. (Nhại ca dao Việt Nam). 11.- Ông Nguyễn Gia Kiểng viết đọan văn ngược ngạo, hết sức Ca-tô trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn như sau: "Việc bách hại người Công Giáo đã là một vết nhơ khó tẩy xóa được trong lịch sử Việt Nam. Đó là sự kiện chính nhà nước Việt Nam, chứ không phải một đòan quân xâm lược nào, đã tàn sát một số lớn người Việt Nam hoàn toàn vô tội. Thảm kịch còn lớn hơn nữa vì nhà nước đó biết họ vô tội nhưng vẫn giết họ. "Điều ngạc nhiên là cho tới nay chưa có một chính quyền Việt Nam nào, nhân danh sự liên tục quốc gia, tổ chức một ngày để xin lỗi những người Công Giáo về sự sai làm kinh khủng đó." [24] 12.- Giáo sĩ và giáo dân người Việt thuờng sử dụng cụm từ “Phục vụ Chúa”. Vấn đề đặt ra là đã nói rằng, “Chúa toàn năng, toàn thiện, có mặt ở khắp mọi nơi và biến hóa vô cùng”, thì Chúa đâu có cần ai phục vụ, nếu không phải là “phục vụ Nhà Thờ Vatican”, góp bàn tay theo đuổi tham vọng bá quyền thống trị toàn cầu và nô lệ hóa nhân loại?
Trên đây là một số bằng chứng về cái bản chất vong bản, phản quốc, phản dân tộc, phản quê hương và tinh thần khiếp sợ Tòa Thánh Vatican, khiếp sợ các ngài mang chức thánh trong Giáo Giáo Hội La Mã của bọn tu sĩ và "con chiên" Việt Nam. Chúng ta thấy tất cả những lời tuyên cáo, dạy dỗ, khẩu hiệu sặc mùi chính trị độc tôn của Nhà Thờ Vatican trên đây hoàn toàn trái với truyền thống văn hóa của dân ta với những châm ngôn như “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, “Việc nước trước việc nhà”, “Phục vụ tổ quốc” , “Vì nước quên minh” hay “Vị quốc vong thân”, và: “Chết vì tổ quốc, Cái chết vinh quang, Lòng ta sung sướng, Trí ta nhẹ nhàng.” (Khi hiên ngang bước lên đọan đầu đài, người anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học đã ung dung đọc mấy câu thơ này.) Như vậy, rõ ràng là dã tâm của Nhà Thờ Vatican vừa biến tín đồ thành hạng người vừa mất hết tình yêu hồn nhiên đối với những người thân thương đối với gia đình, vừa mất hết tình yêu thiêng liêng đối với dân tộc và tổ quốc, vừa chẳng biết vì đâu mà con người đã vươn lên tới nền văn minh tin học như ngày nay. Chúng ta biết rằng, những người không có tình yêu đối với gia đình sẽ trở thành một đứa con hoang trong xã hội, những người không có tình yêu thiêng liêng đối với dân tộc và tổ quốc thì sẽ trở thành những đứa con hoang trong cộng đồng quốc gia, và những con người không biết gỉ về những cuộc tranh đấu gao go cam khổ của tiền nhân để chống chọi với thiên nhiên và chống lại các thế lực kỳ đà cản trở bước tiến hóa của loài người thì sẽ trở thành những đứa con hoang trong cộng đồng nhân lọai. Về phương diện tâm lý, những người mà tình yêu lứa đôi hay tình yêu vợ chồng hoặc tình yêu gia đình BỊ HỦY DIỆT hay KHÔNG CÓ hoặc COI NHẸ (bất kể là lý do gì), đều là lọai người bất bình thường. Hầu hết những người bất bình thường thuộc lọai này đều là những người KHÔNG CÒN NHÂN TÍNH. Chúng ta biết rằng, những con người không còn nhân tính sẽ hành động chẳng khác gì loài súc sinh. Như vậy là với chủ trương sử dụng những người thân thương trong gia đình để nằm vùng rình mò dò xét lẫn nhau rồi báo cáo với các đấng bề trên của họ, Giáo Hội đã có dã tâm "súc vật hóa con người", biến con người xuống hàng "súc sinh" và làm băng họai xã hội. Trong Chương 10 ở sau, chúng tôi sẽ nêu lên những con người mất hết nhân tính trong xã hội Ki-tô.
CHÚ THÍCH [1]The News Tribune [Tacoma, Washingon] 2 March 2009, Morning edition: B6. [2] Lý Chánh Trung, Tôn Giáo Và Dân Tộc (Sàigòn: Lửa Thiêng, 1973), tr. 66. [3] Nguyễn Hiến Lê, Đời Viết Văn Của Tôi (Westminster, CA: Văn Nghệ,1986), tr. 99-101. "Đầu niên khóa 1954-55 trong chương trình Trung Học Đệ Nhất Cấp có thêm môn Lịch- sử Thế-giới dạy trong 4 năm. Ông Thiên Giang lúc đó dạy sử các lớp đệ lục, đệ ngũ. Tôi bàn với ông soạn chung bộ sử thế giới càng sớm càng tốt cho học sinh có sách học, khỏi phải chép "cua" (cours). Ông đồng ý. Chúng tôi phân công: tôi viết cuốn đầu và cuốn cuối cho lớp đệ thất và đệ tứ; ông viết hai cuốn giữa cho lớp đệ lục và đệ ngũ. Chúng tôi bỏ hết công việc khác, viết trong 6 tháng xong; tôi bỏ vốn ra in; năm 1955 in xong trước kỳ tựu trường tháng chín. Bộ (Lịch-sử Thế-giới) đó khá chạy, sau tôi nhường cho nhà Khai Trí tái bản. Một chuyện đáng ghi là vì bộ (sử) đó mà năm 1956 tôi bị một độc giả ở Cần Thơ mạt sát (tôi) là "đầu óc đầy rác rưởi" chỉ vì chúng tôi nhắc qua đến thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người. Chẳng cần nói ai cũng biết độc giả đó là người Công Giáo. Sau đó lại có một linh mục ở Trung yêu cầu bộ Giáo Dục cấm bán và tịch thu hết bộ (lịch sử thế giới) đó vì trong cuốn II viết về thời Trung Cổ, chúng tôi có nói đến sự bê bối của một vài ông Giáo-hoàng. Bộ phái một viên bí thư có bằng cấp cử nhân tiếp xúc với tôi. Ông này nhã-nhặn khen tôi viết sử có nhiệt tâm, cho nên đọc hấp dẫn như đọc bộ sử Pháp của Michelet; rồi nói rằng sách của tôi được bộ Thông Tin cho phép in, lại nạp bản rồi, thì không có lý gì tịch thu, cấm bán được, chỉ có thể ra thông cáo cho các trường đừng dùng thôi: cho nên ông ta chỉ yêu cầu tôi bôi đen vài hàng trên hai bản để ông ta đem về nộp bộ, bộ sẽ trả lời linh mục nào đó, còn bán thì tôi cứ bán, không ngại gì cả. Tôi chiều lòng ông ta. Ông ta lại hỏi lớp mẫu giáo của tôi đã được phép của bộ chưa. Tôi đáp: Đơn nộp cả năm rồi, giấy tờ đủ cả, tôi đã nhắc Sở Giáo Dục thành phố, mà người ta cứ làm thinh, không cho phép mà cũng không cấm. Ông ta chỉ gật đầu. Hồi đó bộ Lịch Sử Thế Giới của tôi chỉ còn một số ít. Tôi hỏi các nhà phát hành, được biết có lệnh cấm các trường ngoài Trung dùng nó, trong Nam thì không. Chỉ ít tháng sau bộ đó bán hết. Tôi không tái bản. Công Giáo thời đó lên chân như vậy. Nghe nói một ông tỉnh trưởng ở miền Tây không dám cho hội Phật Giáo cất chùa trong thị xã và bảo: "Công Giáo cất nhà thờ, bây giờ Phật Giáo cũng xin cất chùa, bộ các người muốn kình với Công Giáo hả?" Một hôm bà láng giềng của tôi cho hay: "Ít lâu nay tôi thấy ngày nào cũng có một hai người ngồi ở quán cà phê bên kia đường nhìn về phía nhà thầy và nhà tôi như rình cái gì. Hôm qua một người vào nhà hỏi tôi: "Ông Lê ở nhà bên lúc này đi đâu mà không thấy?" Tôi đáp: "Ông ấy đau, nằm ở trong phòng, chứ đi đâu? Thầy cứ vô mà hỏi. Rồi họ đi". Vậy là mật vụ rình tôi mà tôi không biết. Vì tôi là công chức thời Pháp mà tản cư lâu quá, về lại không hợp tác với chính phủ Diệm, hay vì bộ Lịch Sử Thế Giới mà họ theo dõi như vậy? Có lẽ cả hai. Hơn một chục năm sau, một giáo sư ở Huế vào thăm tôi, hỏi: "Tại sao hồi đó ông không làm đơn trình bày rằng ông đã dùng sách nào để viết về các ông giáo hoàng thời Trung Cổ đó, rồi xin cho bộ sử của ông được dùng trong các trường?" Tôi đáp: "Không khi nào tôi làm việc xin xỏ đó". Sau ngày 30-4-1975, giáo sư đó lại thăm tôi nữa, bảo: "Tôi phục tư cách của ông từ hồi đó." [4] Nguyễn Ngọc Quỳ. “Tản Mạn Quanh Cuốn Trần Lục.” https://www.sachhiem.net/ LICHSU/NguyenNgocQuy.php Ngày 5 tháng 4, 2009. “Trước hết, điểm mặt xem ai nâng Trần Lục lên: Hội Truyền thống Giáo phận Phát Diệm, Đức ông Trần Ngọc Thụ (Rome), các LM Nguyễn Thái Bình, Trần Phúc Vị, Trần Phúc Nhân (ba vị nầy từ Việt Nam qua), LM Nguyễn Gia Đệ (Canada), LM Trần Quý Thiện, hai Đức ông, 3 Linh Mục, cùng với ông Lê Hữu Mục và 5 trí thức giáo sư Công giáo (đồng tác giả trong một cuốn sách dày 640 trang để vinh danh và ca tụng LM Trần Lục) , ông Vũ Quang Ninh và ông Sơn Diệm Vũ Ngọc Ánh, hai nhân sĩ Công giáo tại Mỹ, …như thế cũng tạm đủ để kết luận tính đại diện cho quan điểm Sử học và Văn hóa của toàn bộ Giáo hội Công giáo Việt Nam về con người Trần Lục rồi. Vả lại, cho đến giờ nầy, không thấy một cuốn sách nào của người Công giáo viết "khác", lại càng chẳng thấy một người Công giáo Việt Nam nào lên tiếng "phản đối" các vị nầy, kể cả những chuyên viên viết lách Công giáo lúc nào cũng sẳn sàng đòi "dạy Sử" cho cả nước như các ông "tiến sĩ" Cao Thế Dung, ông Tú Gàn thẩm phán Nguyễn Cần và ông cựu Nghị sĩ đao to búa lớn Nguyễn văn Chức. Bây giờ hãy xem họ nâng ông Cha Trần Lục nầy lên đến độ cao nào: "danh nhân anh tài không những của Giáo hội Công giáo mà còn của dân tộc Việt Nam chúng ta" (LM Trần Quí Thiện), "danh nhân không những trong nước Việt Nam mà còn cả ngoài nước", "(Đức Ông Trần văn Khả)", "đức độ và tài ba", "LM Trần Lục là một vĩ nhân của lịch sử hiện đại" (ông Sơn Diệm Vũ Ngọc Ánh), "gương chung cổ cho người cả nước đời đời soi chung" (ông Vũ Huy Bá), …và nhiều lời tâng bốc mà chính những anh hùng liệt nữ nước ta như các bà Trưng bà Triệu, và các vị Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học cũng không sánh bằng.” [5] Nguyễn Ngọc Quỳ. Tlđd. “Trong buổi hầu chuyện duy nhất với Bác Hoàng Xuân Hãn lúc tôi vừa mới chân ướt chân ráo đến Paris, Bác có cho biết lý do Bác luôn luôn nặng lòng với quê hương là vì Bác nghiên cứu Sử. Càng biết nhiều về những biến cố đã xảy ra trên quê hương, và càng biết rõ dân tộc ta đã đối trị với những biến cố đó như thế nào, Bác lại càng thấy gắn bó thiết tha với con người và đất nước Việt Nam. Bác còn dặn thêm là phải đan bện hiểu biết Sử học với hiểu biết Văn hóa và Địa lý để tạo thành thế chân vạc Văn-Sử-Ðịa thì kiến thức mới vững vàng và tấm lòng mới sắt son. Tôi luôn luôn ghi nhớ lời căn dặn đó của Bác trong quá trình nghiên cứu và viết lách nghiệp dư của mình. Lời căn dặn nầy lại càng thúc bách hơn vào tháng Mười năm nay, khi một người bạn gửi tặng cuốn "Linh Mục Trần Lục – Thực Chất Con Người và Sự Nghiệp" do hai ông Bùi Kha và Trần Chung Ngọc viết, tạp chí Giao Điểm xuất bản. Nội dung cuốn sách không có gì mới mẻ đối với chúng tôi, những người quan tâm đến lãnh vực nghiên cứu Sử Việt Nam, nhất là từ lúc văn khố Pháp ở Aix-en-Provence công khai hóa các sử liệu cho dân chúng tự do tham khảo. Chuyện ông cha Trần Lục nầy, ai đọc Sử kỹ càng mà chẳng biết. Ngay từ lúc còn học Chu Văn An ở Sài Gòn trước 1975, "Trần Lục" đã là một đề tài thảo luận sôi nổi (và suýt đi đến đấm đá) giữa đám học sinh chúng tôi và những người bạn học sinh Công Giáo ở trường Trần Lục. Chúng tôi, lúc đó, có rất ít sử liệu và không trả lời được một luận cứ chẳng dính líu gì đến chủ đề thảo luận, nhưng họ cũng cứ dùng để phản bác: "Nếu đã gọi Linh Mục là người theo Tây phản quốc thì tại sao Chính phủ, bộ Quốc gia Giáo dục, và toàn thể trí thức Việt Nam không ai phản đối việc đặt tên ngôi trường Trần Lục của chúng tôi. Dễ cả nước mù hết hay sao ?". Phải sau 1975, ra đến nước ngoài và được tự do tiếp cận với nhiều nguồn thông tin gốc, tôi mới trả lời được câu hỏi "cả nước có mù hay không" đó. Và buồn cho nền giáo dục miền Nam, nơi tôi đã thâu nhận kiến thức Trung học, năm phút! Buồn cho một thủ đô miền Nam, vừa có hai tên đường Phan Đình Phùng và Đinh Công Tráng, lại vừa có tên trường của chính kẻ đã đắc lực góp công giúp Tây tiêu diệt hai vị anh hùng chống xâm lăng nầy: Trần Lục! Từ chuyện cũ của Miền Nam đó, bây giờ chuyện hải ngoại cũng lại giống y chang, nổi cộm lên ray rứt cả trong đầu lẫn trong tim. Một người đã hướng dẫn và cung cấp cho quân xâm lược 150 tay súng Công giáo để đánh chiếm thành lũy Ninh Bình của nước ta, một người đã huy động 5.000 giáo dân Việt Nam giúp Tây tiêu diệt chiến khu Ba Đình của anh hùng Đinh Công Tráng, một người đã từng bị lãnh tụ chống xâm lăng Phan Đình Phùng đè ra hỏi tội và đánh đòn công khai, một người đã từng được quân xâm lăng Pháp tưởng thưởng công lao bằng hai Bắc Đẩu Bội Tinh, một người như thế mà lại được cộng đồng chức sắc và trí thức Công giáo hải ngoại, cho đến giờ nầy, vẫn còn ồn ào "nâng" lên thành anh tài của Việt Nam và vĩ nhân của thế giới, thì làm sao lý giải được hiện tượng chua xót và … quái đản nầy? Trước hết, điểm mặt xem ai nâng Trần Lục lên: Hội Truyền thống Giáo phận Phát Diệm, Đức ông Trần Ngọc Thụ (Rome), các LM Nguyễn Thái Bình, Trần Phúc Vị, Trần Phúc Nhân (ba vị nầy từ Việt Nam qua), LM Nguyễn Gia Đệ (Canada), LM Trần Quý Thiện, hai Đức ông, 3 Linh Mục, cùng với ông Lê Hữu Mục và 5 trí thức giáo sư Công giáo (đồng tác giả trong một cuốn sách dày 640 trang để vinh danh và ca tụng LM Trần Lục) , ông Vũ Quang Ninh và ông Sơn Diệm Vũ Ngọc Ánh, hai nhân sĩ Công giáo tại Mỹ, …như thế cũng tạm đủ để kết luận tính đại diện cho quan điểm Sử học và Văn hóa của toàn bộ Giáo hội Công giáo Việt Nam về con người Trần Lục rồi. Vả lại, cho đến giờ nầy, không thấy một cuốn sách nào của người Công giáo viết "khác", lại càng chẳng thấy một người Công giáo Việt Nam nào lên tiếng "phản đối" các vị nầy, kể cả những chuyên viên viết lách Công giáo lúc nào cũng sẳn sàng đòi "dạy Sử" cho cả nước như các ông "tiến sĩ" Cao Thế Dung, ông Tú Gàn thẩm phán Nguyễn Cần và ông cựu Nghị sĩ đao to búa lớn Nguyễn văn Chức. Bây giờ hãy xem họ nâng ông Cha Trần Lục nầy lên đến độ cao nào: "danh nhân anh tài không những của Giáo hội Công giáo mà còn của dân tộc Việt Nam chúng ta" (LM Trần Quí Thiện), "danh nhân không những trong nước Việt Nam mà còn cả ngoài nước" " (Đức Ông Trần văn Khả) ", "đức độ và tài ba", "LM Trần Lục là một vĩ nhân của lịch sử hiện đại" (ông Sơn Diệm Vũ NgọcÁnh), "gương chung cổ cho người cả nước đời đời soi chung" (ông Vũ Huy Bá), …và nhiều lời tâng bốc mà chính những anh hùng liệt nữ nước ta như các bà Trưng bà Triệu, và các vị Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học cũng không sánh bằng. Nhưng Cụ Sáu Trần Lục ơi ! "Danh" gì cũng không thay được cái danh dâng người và súng cho quân xâm lược, "Đức" gì cũng không thay được cái đức bị cụ Phan đánh cho ba roi, "Tài" gì cũng không thay được cái tài huy động Giáo dân tiêu diệt chiến lũy của nghĩa quân Ba Đình, "Gương" gì cũng không thay được cái gương cúi đầu nhận Bắc Đẩu Bội Tinh của giặc. Thế mà nào là Đức ông , nào là Linh Mục, nào là Giáo dân trí thức cứ đội Cụ Sáu lên đến chín tầng mây. Quái đản thật ! Cụ làm vĩ nhân của Công giáo, nhất là Công giáo Việt Nam, thì đúng quá rồi, nhưng họ còn muốn Cụ làm vĩ nhân của cả dân tộc Việt Nam và cả nhân loại nữa thì Cụ có chịu không? Tôi bèn kết hợp người "nâng", cách "nâng", và đối tượng được "nâng" lại với nhau trong một phương trình, và giật mình tìm ra được đáp án cho hiện tượng quái đản nói trên: Cứ người Công giáo làm thì Công giáo Việt Nam phải nhắm mắt mà khen. Bất chấp chuyện làm có xấu mấy chăng nữa! Họ không lý đến sự thật, và cũng chẳng cần đắn đo xem có xúc phạm đến dân tộc hay không. Tình cảm tôn giáo của người Công giáo Việt Nam mạnh hơn liên đới của họ với đất nước Việt Nam, và áp đảo hẵn một chút lương thiện trí thức nào đó còn sót lại của tinh thần đại học mà họ đã tiếp thu. Họ chỉ có một tiêu chuẩn để đánh giá: Có lợi hay có hại cho Công giáo? Cho nên, để có lợi cho Công giáo, họ đã lạy Trần Lục thì làm sao mà thờ Đinh Công Tráng và Phan Đình Phùng được, vì có điều nầy thì không thể có điều kia ! Đáp án nầy không chỉ giải thích riêng "vụ" Trần Lục, mà còn làm sáng tỏ thêm ứng xử văn hóa và đánh giá lịch sử (lúc đầu có vẽ khó hiểu) của họ qua những trường hợp rõ ràng không chối cải được khi họ chạy tội cho những đồng đạo Pétrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Nguyễn Trường Tộ, Alexandre de Rhodes, … hay khi họ phản ứng hằn học với các phong trào yêu nước chống xâm lăng của Văn Thân, Cần Vương, và các vua chúa triều Nguyễn. Điều thê thảm và bất hạnh cho chính họ (và một phần rất nhỏ cho dân tộc Việt Nam) là ứng xử tâm lý đó đã trở thành vận động có tính quy luật trong tâm thức tôn giáo của người Công giáo Việt Nam. Họ muốn thành thật cưỡng chống cũng không được! Ta muốn hết sức giúp họ giải hoặc thì bị họ xem như kẻ thù ! Hãy lấy vụ ông Ngô Đình Diệm như một trường hợp cụ thể và điển hình để khảo sát: "Chuyện" chỉ mới xảy ra chưa đến 40 năm, tài liệu khả tín và nhân chứng sống còn đó, đầy đủ và rõ ràng. Chỉ riêng ở Pháp (là quốc gia dính dự ít đến biến cố nầy), tài liệu gốc và tác phẩm Sử có đăng ký tại Thư viện trong vùng Paris mà thôi cũng đã gần 200 tài liệu. Từ mười năm nay tôi đã để tâm đọc hết và thấy tuyệt đại đa số đều đi đến một kết luận rằng đó là một chế độ thất bại về mặt quản trị quốc gia và tồi tệ về mặt đạo đức luân lý, chỉ trừ một số rất ít sách tìm cách chống đỡ, bào chữa, lại còn vinh danh chế độ nầy ! Tác giả số sách rất ít đó, dĩ nhiên, là Linh mục và giáo dân (Pháp và Việt). Vì ông Diệm là Công giáo, nên Linh mục và giáo dân (và chỉ họ mà thôi) cứ bò dài ra mà tung hô. Rất đơn giản ! Ở Mỹ, thì sự tương phản đó còn đậm nét hơn. Cho nên tôi vẫn thắc mắc tự hỏi không biết các "bộ óc chiến lược" của người Công giáo ở đâu mà không thấy rằng càng ngụy biện bào chữa thì tội bán nước của Giáo hội càng bị phát hiện nhiều thêm, càng tô son trét phấn cho cái gọi là "tinh thần Ngô Đình Diệm" thì chân tướng phi dân tộc của tinh thần đó càng bị phát lộ. Và kéo theo nó, như vụ Trần Lục, những phản bác giúp cả nước thấy rõ thêm lịch sử hình thành đen tối của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Đúng là cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng ! Do đó mà câu hỏi vẫn còn nguyên vẹn, và câu trả lời vẫn là có cái gì không ổn trong tư duy và tình cảm của người Công giáo Việt Nam. Tại sao chỉ người Công giáo lại có loại ứng xử quái đản rất đậm nét, đều khắp và có tính quy luật như thế ? Và tại sao khi thêm thuộc tính "Việt Nam" vào đặc tính "Công giáo"của họ, thì cường độ đậm nét, đều khắp và có tính quy luật nầy lại gia tăng lên gấp bội ? Vì vậy mà những nóc nhà thờ bắt chước một cách thô kệch dáng uốn cong của kiến trúc mái chùa, những buổi lễ đạo có áo thụng xanh khăn chít đỏ màu mè cho ra vẽ dân tộc … mà người Công giáo Việt Nam bày đặt dàn dựng, thực chất chỉ là lớp phấn son kệch cởm nhằm tự dối mình và đánh lừa người. Tại vì bên dưới dáng mái cong và bên trong lớp áo thụng đó mà vẫn còn giới chức sắc và lớp trí thức lạy thờ và vinh danh những loại Việt gian như Trần Lục, thì căn tính nô lệ ngoại bang và truyền thống theo đạo bán nước của Giáo Hội làm sao gột bỏ được. Con đường trở về với dân tộc thật là dễ dàng mà cũng thật lắm chông gai ! Dễ vì trẽ mục đồng lên năm ê a mấy câu hát ca dao của thôn dã Việt Nam cũng làm được, nhưng khó vì đã đội năm ba cái mũ Hồng Y của Vatican, mang trong người hai ba cái bằng thần học Tây phương, thì muôn đời cũng không mở mắt được. Cho nên Bác Hãn ơi, hiểu Sử đã thật là khó. Nhưng ứng xử theo những gì mình đã học, thì đối với một số người Việt Nam mất gốc xa nguồn lại có truyền thống làm tay sai cho giặc, thật không phải dễ thưa Bác.- N.N.Q, Paris 11-1999.” [6] Lý Chánh Trung, Tìm Về Dân Tộc (Sàigòn: Lửa Thiêng, 1972), tr. 25-26.
[7]
Lê Hoàng
"Christian Arguments for God's Existence.” [8] Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr. 35 & 171. [9] Nigel Cawthorne, Tyrants History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (Londen: Arcturus, 2004), tr. 167-168. [10] Nguyễn Văn Chức, Việt Nam Chính Sử (Fall Church, VA: Alpha, 1992), tr.1. [11] Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 54. [12] Thích Nhật Từ, Kinh Tụng Hàng Ngày (New Delhi, Ấn Độ:Đạo Phật Ngày Nay, 2002), tr. 98-99. [13] Phan Đình Diệm. "Tuyên Cáo 6 ngày15/6/1999". tanvien@kitohoc.com. Ngày 19/9/1999. [14] Nguyễn Xuân Thọ, Bước Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam 1858-1897 (Saint Raphael, TXB, 1995), tr. 17. [15] Nguyễn Ngọc Ngạn , Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr. 18. [16] Chu Văn Trình, Văn Sử Địa (Tavares, Florida:Vab Tu Thư Tự Lực, 1989), tr. 80. [17] Trịnh Văn Phát. Cảm Nghi Một Chuyến Đi. (Đăng trong Giáo Hoang Học Viện PIÔ - Liên Lạc Số 2 - Nhóm Úc Châu th?c hi?n, tháng 7 năm 1995, tr 72. [18] Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 1883-1945 - Tập 1 (Houston, TX: Văn Hóa, 1999), tr. 130 . [19] Chu Văn Trinh, Thái Vân & Trần Quang Anh. Việt Nam Với Cuộc Dấy Loạn Hòa Bình Của Giáo Chủ John Paul II (Mt. Dora, Florida: Ban Tu Thư Sử Địa, 1994), tr 10 [20] Trần Chung Ngọc. "Vài Ý Kiến về bài "Ðược Ðối Thoại Với Giáo Hoàng John Paul II " của ông Ðỗ Mạnh Trí." Giao Điểm Số 27 - Summer 1997: 18-26 [21] Xin xem Chuong 1 và Chuong 2 sách Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Ða Nguyên, 2004) [22] Nguyễn Mậu: "Thời Sự Trong Tuần" Chính Nghia - Bộ Mới Số 251 [San Jose, California] ngày 03/12/1994. [23] Vi Anh. “Vatican Làm, Không Nói.” Việt Báo Miền Nam số 305, Thứ Bẩy 14/7/2001: A1. [24] Nguyễn Gia Kiểng, Tổ Quốc Ăn Năn (Paris: TXB, 2001), tr. 187.
|
|
Trang Nguyễn Mạnh Quang |