Thời Bi Tráng

- tiểu thuyết -

Nguyễn Văn Thịnh

 

CHƯƠNG KẾT

Nhân Tín được ban phụ trách trại gọi lên. Mấy ông cán bộ nét mặt tươi tỉnh trang nghiêm lắm:

- Có lệnh… trả quyền công dân cho anh kể từ hôm nay!

Nhân Tín gật nhẹ cái đầu, kìm mình ráng không biểu cảm ra ngoài.

- Anh có nhớ thời gian đã qua là bao nhiêu lâu không?

- Thật ra lúc đầu tôi trông từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm. Nhưng dần tôi không có khái niệm về thời gian nữa.

- Chúng tôi theo dõi thấy anh như cam chịu nên chẳng cần ý tứ giữ gìn gì. Những biểu lộ bướng bỉnh tưởng như là chống đối nhưng thực ra chỉ là sự trực tính của người có tự ái cao. Liệu chúng tôi có lầm không ?

- Cảm ơn các ông đã không có hành vi bạo lực với tôi.

- Anh có điều gì oán trách chúng tôi không?

- Lịch sử các cuộc chiến tranh, quyền của kẻ thắng là có thể làm cả những điều bại hoại nhân luân. Kể cả đội quân thánh chiến trong cuộc Thập tự chinh thời trung cổ đến quân đội của Napoléon, của Hitler, của Nhật hoàng đã làm gì trên những đất nước bị thất trận, người dân Trung Đông và Châu Âu cũng như Châu Á mãi không quên. Ở nước ta, quân Nguyên-Mông, quân Minh, quân Thanh, đã làm những gì, các thế hệ người Việt Nam dù chính kiến khác nhau nhưng đời đời đều oán hận. Huống chi một cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài mấy mươi năm, biết bao nhiêu oán thù chồng chất. Một bên thắng, một bên thua trong keo quần nhau chí tử ắt phải có sự trừng phạt. Giả như bên chúng tôi thắng, tôi cũng không thể đảm bảo với các ông một sự tốt lành. Trong gia đình tôi cũng có người theo các ông và bị bên chúng tôi bắt tù đày. Nói thật tôi cũng thấy căm giận và xấu hổ. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nói trước Quốc hội rằng nếu Việt cộng chiến thắng, ít nhất sẽ có hai trăm ngàn người bị giết trong khi dư luận vống lên tới hai triệu người! Không có một cuộc tắm máu đã là một điều không thể oán hận các ông. Đúng ra là phải oán hận những kẻ lừa dối phản bội mình. Có điều là các ông đánh giá qúa cao các tổ chức và vai trò cá nhân của đối phương, cảnh giác qúa mức, không đặt mình trong hoàn cảnh của người sống ở một xã hội hoàn toàn khác, dễ ngộ nhận để quy kết và đã không ít người mắc vạ. Nó làm mất đi mối thiện cảm bấy lâu vẫn âm thầm trong lòng họ.

Ông trưởng trại già vẻ mặt khắc khổ chăm chú nghe, gật gật cái đầu, giọng rủ rỉ của người từng trải:

- Cái sự chiến thắng của quân đội cách mạng chiến đấu để giải phóng quê hương và đồng bào mình khác hẳn về bản chất sự chiến thắng của quân xâm lược. Nhưng dù sao người đứng ở hai bên chiến tuyến có cái nhìn khác nhau về nhiều mặt là điều tất nhiên thôi. Bây giờ đất nước hòa bình thống nhất rồi, chúng ta có thừa thời gian để hiểu nhau, điều chỉnh cho nhau để cùng hòa hợp với những ai thành tâm hướng về nguồn cội và tương lai của quốc gia dân tộc mình… Trở về nhà, anh có ý định làm gì không?

- Các ông không sợ chúng tôi làm nguy hiểm cho xã hội?

- Vì đề phòng như thế nên chúng tôi mới phải gom lại và từ từ lần lượt đưa các anh nhập vào xã hội. Anh chưa phải là người cuối cùng mặc dù tính ra cũng đã 8 năm 4 tháng 16 ngày. Tuy nhiên chúng tôi có xem xét về nhiều mặt. Xã hội càng ổn định vững vàng chúng tôi càng mau chóng trả các anh về cho tới hết. Chúng tôi trút đi được gánh nặng này.

- Trước đây chúng tôi cảm phục các ông về tinh thần hy sinh chiến đấu. Ở đây, chúng tôi cảm phục các ông về tinh thần chịu đựng. Đời sống của các ông như thế thì người tù làm sao đòi no đủ được?

Mấy ông cán bộ cười khà khà:

- Thiếu đói thế mà sao trông anh cứ phây phây? Chúng tôi nghĩ gia đình anh ở Sài Gòn thì giàu có, ở Hà Nội thì đầy đủ, ngoài sự viện trợ về vật chất cụ thể chắc còn có lắm đồ bổ dưỡng kín đáo để cho anh dành bồi dưỡng?

Cán bộ cởi mở, Nhân Tín tỏ ra thân thiện:

- Viện trợ thì cũng có nhưng chung quanh bao nhiêu người khổ thế làm sao nuốt trôi qua cổ được? Mỗi lần chia sẻ chỉ được ít ngày.

- Trong đó có phần cho số anh em quản giáo chúng tôi? – Ông trưởng trại nét mặt nghiêm lại, có vẻ hơi buồn:… Việc đó là nghiêm cấm nhưng chúng tôi không thể theo sát từng người. Thực lòng, nhiều thứ anh em chưa từng được biết. Khổ thế đấy! Dù sao cũng là việc chẳng hay ho gì. Nói ngược nói xuôi đều đúng cả. Các anh tù. Chúng tôi tu nhưng là tu không tự nguyện nên dễ phá giới. Chỉ mong mau thoát của nợ này.

- Không! Chính các anh nhường cho tôi đấy! Tôi phải cảm ơn nhiều lắm.

Mọi người nhìn Nhân Tín ngạc nhiên lắm. Anh tủm tỉm:       

- Lên đây hai năm, các anh giao cho tôi đàn bò mấy chục con. Tôi chăn bò, con nào cũng béo tốt, lại đẻ sòn sòn, bò số tăng, các anh tín nhiệm lắm và tôi tha hồ được… bú bò!         

Mọi người ồ lên kinh ngạc: 

- Thảo nào tớ để ý thấy cậu ít ăn sáng lắm, cứ tưởng cậu có ý đồ gì. Bú thế nào? Con bò cũng chịu cho người bú à? Có ghê không?

- Các anh để phí nhiều của qúi lắm! Đói dài mà trước mắt hàng chục thiếu phụ bò vú cứ nây nẩy lắc lư để đấy. Sữa bò tươi nguyên thủy lúc này hấp dẫn hơn bơ sữa thượng thặng trong các nhà hàng, còn ghê nỗi gì nữa chứ? Tôi bú trực tiếp! Lúc đầu thấy hoi hoi nhưng dần quen đi. Cũng giống như ngủ với người đẹp hôi nách, mới thì ngột ngạt nhức đầu, dần dần lại thấy nồng nồng say say. Như các anh quen với mùi sầu riêng và người Sài Gòn dần quen với mùi hoa sữa Hà Nội đấy. Lúc đầu còn nhăn mũi như khỉ gặp mắm tôm, sau thấy khoái mũi, khoái khẩu tươi tỉnh lắm. Vừa bú vừa bóp... Chị bò đứng đờ ra. Mình vừa no vừa sướng!

- Thằng quỉ sứ! – Ông trưởng trại phì cười, đập vào vai Nhân Tín.

Họ nói chuyện chan hòa vì đã là công dân bình đẳng. Một cán bộ hỏi chân tình:

- Hoa Kỳ đang cho nhận đoàn tụ gia đình. Cậu thuộc diện HO ưu tiên đấy!

- Tôi chưa thể nói trước điều gì. Tôi nhận ra từ ngữ cải tạo các anh dùng ở đây cũng có phần đúng đấy. Bây giờ tôi nhìn đất nước, nhìn đời, nhìn con người khác trước nhiều. Vì lý do gì phải đi xuất cảnh, tôi nhìn nước Mỹ cũng khác, nhìn đồng đội cũ của tôi cũng khác.

- Được sự tiếp tay của CIA, ngay trên đất Mỹ và mấy nước quanh ta, một số người lập ra đội quân chuyển lửa về quê hương mong dựng dậy một cái thây ma thối rữa. Theo anh liệu chúng có làm nổi không?

- Thời gian ở đây, các anh cho học tập, tôi vỡ ra một số điều về nội lực và ngoại viện. Cách mạng thắng vì phát huy tối đa nội lực. Điều ấy phải có dân ủng hộ. Chúng tôi thua vì dân chúng thờ ơ nên chỉ biết trông chờ ngoại viện. Ăn của người phải làm được việc cho họ chứ không ai nuôi báo cô mình. Không được việc, tất nhiên phải dẹp. Cá nhân thì cho chết. Quốc gia thì vạn sự vô can! Đấy là văn hóa Mỹ, đúng nghĩa ra là thứ văn hóa nô dịch! Không rã rời ra mới là sự lạ! Tôi nghĩ các nhà lãnh đạo quốc gia dư biết còn có những mưu toan lớn và nguy hiểm hơn nhiều. Chỉ cách mạng mới đánh giá được hết nội lực của mình. Còn một dúm người lưu vong vô công rồi nghề mới bày đủ trò kiếm ăn, chỉ giỏi đánh võ mồm thôi. Những năm Sài Gòn đang phồn hoa và quân lực Sài Gòn đang khí thế mà người Sài Gòn đã có câu ví độc: “Bạn nhà binh. Tình nhà thổ!”... Các anh đừng cười, đấy là tôi nói thật! Những đêm dài vô hạn nằm ở đây, mỗi khi nhớ lại mà trên da thịt tôi như có đầy những mũi kim châm! Cái tình chiến hữu lẽ ra phải thiêng liêng lắm chớ? Dù đội quân ấy không còn nhưng nó vẫn như một lời nguyền mà cái hồn ma ấy bước không qua! Tất nhiên vẫn có một số người dại dột cả tin sẽ như vật thí thân vô ích.

Ông trưởng trại vui vẻ tâm tình:

- Thực tình mà nói với anh, được giao làm cái nghề này nhiều lúc chúng tôi đau đầu tức muốn vỡ gan. Nhưng nhớ lời dạy của Bác Hồ: “Ai bỏ cách mạng tùy họ. Nhưng cách mạng không bỏ một ai!” là chúng tôi lại nén xuống, kiên trì chờ đợi. Tôi hy vọng những điều anh nói ở đây là thật bụng và giữ được mãi trong lòng. Trước kia, trong hoàn cảnh đặc biệt của đất nước, chúng ta từng coi nhau như kẻ thù. Bây giờ chúng ta là đồng bào, cùng chung một bọc thai sinh. Dù ở đâu chúng ta cùng hướng về một tổ quốc Việt Nam đã rũ bùn đứng dậy ngẩng cao đầu tuy rằng còn đói bụng. Sáng mai có chuyến xe đưa anh về Hà Nội. Đang vào dịp cuối năm, liệu anh ăn tết với ông cụ hay với vợ con?

- Xin các anh cho tôi thư lại mấy ngày để đi chào hỏi bà con quanh đây. Bao lâu nay bà con đối xử tử tế với mình.

- Này! Cậu có gửi đứa con nào trong dân không đấy?

- Tôi nói, tin hay không tùy ở các anh. Dù vợ tôi bên kia đã lấy chồng. Người góa phụ bao lâu nay chăm nuôi tôi như người vợ tự nguyện. Chúng tôi đã có một đứa con trai ba tuổi. Cảm ơn các anh không khe khắt với tôi.

Ông Thanh ôm chặt con vào lòng và tấm thân gày của ông cũng nằm gọn trong vòng tay Nhân Tín con ông. Nước mắt ông nhòa nhạt.

Dạ Lan đem con nhỏ ra đón chồng. Nhân Tín quyết định cùng ở lại ăn tết với cha và chị. Ông Thanh đem con đi chào họ hàng và những nơi thân quen cũ. Nhân Tín nói với Cẩm Nhung:

- Em thật không ngờ miền Bắc khổ đến thế và người dân ngoài này giỏi chịu qúa.  Liệu đã tận khổ hay chưa?

- Khó khăn làm sao hết được. Địch họa, thiên tai cứ xoay vòng. Có điều là không phải ai cũng khổ đâu. Như mấy đứa cháu ngoại bác Tham, toàn đi du học nước ngoài, về nước là có chỗ làm ngon lành, vậy mà có đứa còn không chịu về đấy. Trong khi cô Hoa nhà mình chết mất xác dưới sông, con gái lớn chết vùi trong hang núi, thằng Báu thương binh, về học y khoa, bây giờ đang ở bên Campuchia ấy. Mấy đứa em nó còn vất vả. Vậy mà cậu ấy còn viết văn nữa đấy !

- Hôm nào đưa em tới thăm chị Hương Giang đi. Bây giờ em mới thấm. Bác Tham đã làm hết sức để em đừng dấn sâu vào phía bên kia, cha con thành đối lập. Bác làm là vì cậu. Bác đã hết sức bao bọc ba mẹ con em. Lúc ấy không ai nghĩ sẽ lại có ngày này. Cả cậu, mợ và bác đều hết sức đáng trọng và rất đáng thương. Em ân hận vì đã có lúc thờ ơ trước tình cảm của cậu với mình. Không hiểu sao lúc đó cơn tự ái trong mình trào lên, em cảm thấy đố kỵ, bất cần những người ở phía bên kia dù họ là ai.

- Em biết không, hai vợ chồng Nhân Trí vượt biên thoát được tới Hồng Kông, nhắn tin qua Paris. Mợ bay ngay sang đón các em qua Pháp. Bây giờ cô cậu ở với bác Tham và mợ. Bố mẹ Yên Thịnh cũng được các con định cư ở Thụy sỹ từ lâu rồi bảo lãnh qua bên đó. Bích Liên và Văn Khoa đã cưới nhau.

- Cậu có phiền gì chuyện mợ và bác Tham không?

- Cậu còn thương mợ và vẫn qúi nể bác Tham. Trong hoàn cảnh ấy, chuyện gì đến thì phải đến. Chị cũng làm cậu khổ lắm. Bây giờ chị càng thương cô Thảo Tâm. Bao lâu, hai người như hình với bóng âm thầm mà không ai dám tắt phụt đi cái đèn sáng lắt lay làm cho họ khổ. Người đàn bà không có con thì cô đơn buồn tẻ lắm. Thằng Anh Minh làm cho chị thấy những khổ đau đang được bù đắp lại.

- Sao hai mẹ con không vào thành phố Hồ Chí Minh với bên nội cháu?

- Ông bà nội cháu hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành đều bị chúng nó bắt và thủ tiêu. Anh em tứ tán bên này, bên nọ. Hòa bình rồi mới tìm lại nhau nhưng hòa hợp với nhau cũng khó. Chị vào trong đó một thời gian thấy lộn xộn quá. Tình cảm gia đình chẳng bù đắp được gì. Xã hội lộn xộn như ngoài chợ trời. Trong cơ quan dòm ngó, tị nạnh, phe phái, ngấm ngầm kèn cựa lẫn nhau. Người ta bảo nhất trụ – nhì tù – tam khu – tứ kết, mấy người Bắc kỳ thừa cơ vào hôi của. Cái tốt ít người thấy. Cái xấu cứ lồ lộ ra làm mình ngượng lây. Không loại trừ cả những ông to bà lớn bao lâu lên mặt giảng thuyết người ta, chẳng những vơ vét lại còn cậy thế đi buôn cả hàng quốc cấm. Chị nghĩ càng thương anh và ông bà các cháu. Những người ấy không tiếc thân mình cho một xã hội không phải thế này. 

- Trong tư thế bất bình đẳng, em gặp nhiều người cách mạng, thấy họ không đến nỗi nào. Họ hành động vì mục tiêu cao cả. Chỉ có điều họ qúa cường điệu và như là mê mỵ về một chủ thuyết nên cứ ép người khác ngay một lúc phải nghĩ như họ, nói như họ và cả tin như họ. Còn họ làm những gì thì lúc nổi, lúc chìm mình không thể đặt điều ra được. Chế độ nào mà chẳng tuyên truyền cái hay cho mình cái dở cho người. Nhưng nặng tuyên truyền quá thì sa vào nói nhiều làm ít, dễ thành nói dối và ưa hình thức. Hôm rồi em đưa vợ con vào viếng lăng Bác Hồ. Em nghĩ thời kỳ lịch sử vừa qua, cả nước mình chỉ có Bác là nhà lãnh đạo quốc gia vĩ đại nhất. Chính thể Sài Gòn ngày trước và người Pháp, người Mỹ cũng phải tôn trọng và ca ngợi Cụ là nhà yêu nước lớn. Mấy tờ báo lá cải có vài lời bôi bác lăng nhăng đều bị tẩy chay. Ngay trong số sỹ quan binh lính cộng hòa cũng không mấy ai ưa đứa nào nói hỗn về Cụ. Nhưng khi thấy trước lăng, người ta kéo nhau đến xếp hàng nghiêm hơn đi lễ nhà thờ, đọc diễn văn báo công với người… đã chết! Em thấy kỳ kỳ không sao hiểu nổi. Ngay như các tín đồ đi lễ ở chùa hay ở nhà thờ, họ chỉ lầm rầm cầu xin điều gì, phải quấy chỉ một đệ tử với đấng bề trên được biết. Nhưng ở đây người ta công khai giữa thanh thiên bạch nhật để thiên hạ cùng nghe! Bản báo công giống như bản báo cáo thành tích thi đua chứ gì? Ông Cụ nằm đó có biết người ta nói trời đất chi đâu! Hồi Mặt trận giải phóng mới nổi lên, Sài Gòn đã thấy nguy rồi. Trước kia nghe nói cách mạng, cứ tưởng là chuyện của người. Bấy giờ em mới hỏi bác giáo cách mạng là gì? tốt hay xấu? do ai nghĩ ra? ai làm cách mạng? mang lợi cho ai? Bác trả lời: Cách mạng là một sự đổi thay, khởi nguồn từ những mâu thuẫn xã hội sâu xa. Mục tiêu của cách mạng do những người trí thức nghĩ ra, thực thì ít, viễn tưởng thì nhiều. Những người cuồng tín hăng hái tiên phong được những người cả tin hưởng ứng, những kẻ hoạt đầu hùa theo. Cuộc cách mạng nào cũng nhân danh sự công bằng bác ái nhưng bị kích động cực đoan hoặc vì tư thù hay vụ lợi đã xảy ra không ít điều bất nhẫn, làm mờ đi cái thiện căn của nó và hằn sâu những hận thù. Cái được chẳng của riêng ai nhưng cái lợi dành cho ít người thôi. Qua phút hoan hỷ lúc đầu, xã hội lại vào khuôn với những ông chủ mới cầm cương, bền yểu là do họ! Em lại hỏi cách mạng đến khi nào hết? và có nhất thiết phải đổ máu không? Bác bảo cái mới nào rồi cũng thành xưa cũ, hủ lậu, phải thay đi. Nhân tình thế sự cứ lòng vòng như thế. Sách vở gọi nó là vòng xoắn ốc! Tuy nhiên không người cầm quyền nào tự rời bỏ cái ngai quyền lực và bằng mọi giá giữ lấy mới nên bi thảm. Chỉ khi nào họ hủ hóa suy đồi đến mục ruỗng ra và nhân dân không cam sống như vậy nữa thì sẽ chẳng còn gì! Thế giới tưởng rằng có những cuộc cách mạng ngọt ngào nhưng vẫn là những sự đổ vỡ đớn đau!

- Em có biết chồng chị Hương Giang là ai không? Hồi ấy em còn bé, không biết đâu. Anh ấy là anh Nhỏ với chị Nhài ở nhà mình đấy. Chị Hương Giang ngày xưa là người yêu của anh Nghĩa nhà mình. Chị em mình chẳng nên đến đấy làm gì vì thực bụng anh ấy chẳng thích ai biết tông tích của mình đâu.

- Thế chị Hương Giang có biết điều ấy không?

- Hai người quen nhau trên chiến khu Việt Bắc trong khi anh Nghĩa đi Nam tiến rồi bị vết thương cột sống. Suy cho cùng vợ chồng là duyên số em ạ. Như chị tình cờ gặp lại bố cháu Anh Minh mà trước đó tuy cùng học nhưng cũng chỉ quen nhau sơ sơ thôi. Cậu cấm không cho chị và Nhân Trí hở răng ra. Mãi vừa rồi, trước khi bác giáo đi xuất cảnh cậu mới đành phải nói thật ra vì anh ấy là người có quyền quản lý nhóm người như anh Nghĩa, em không hiểu được đâu. Có lẽ bác nói lại với chị Hương Giang nên anh Nghĩa mới được vào thành phố Hồ Chí Minh. Cậu và chị có vào tổ chức đám cưới cho anh Nghĩa với chị Nhài. Hai người có ân tình sâu nặng với nhau lắm. Cũng là cái duyên ông trời se em ạ!

- Cuộc sống đầy bí ẩn, chẳng biết sao mà đoán được!

Chiều tất niên, ông Thanh mặc bộ đồ lễ chỉnh tề, đứng trước bàn thờ, vẻ mặt thành kính trang nghiêm, ông lầm rầm khấn những gì lâu lắm, đến Cẩm Nhung cũng sốt ruột vì bao nhiêu năm cô chưa thấy cha mình khấn lâu như thế bao giờ. Khi mọi người ngồi quanh mâm cơm cúng hạ xuống, mắt ông Thanh rơm rớm, giọng ông xúc động lắm:

- Kể từ năm 1946 đến nay, gần bốn chục năm đằng đẵng, lúc này, hai cuộc chiến tranh mà cậu đã tham dự vào mới coi như chấm dứt. Mọi nỗi buồn phiền quên dần vì cậu đang đi vào qúa khứ. Hôm nay và tương lai là của các con cháu. Cậu cầu ông bà, tổ tiên phù hộ cho con cháu được sống an lành trong cảnh thanh bình. 

Chị Nhài đẩy chiếc xe lăn cho chồng dừng lại trước cửa phòng bác sỹ chủ nhiệm khoa. Người trai trẻ cùng đi gõ cửa, với cử chỉ quen thuộc anh chủ động mở rộng cánh cửa ra. Chiếc xe dừng lại giữa phòng, vị bác sỹ tóc hoa râm đứng bật dậy chạy tới vồn vã nắm tay người ngồi trên xe:

- Trời ơi… qúi nhân!

- Tôi tới đây chúc mừng hạnh phúc của anh!

Bác sỹ nhìn qua cô y tá giúp việc đứng phía sau:

- Em nhận lời chúc mừng của người bạn đặc biệt này đi!

Cô y tá trẻ tươi cười cúi đầu nói lời cảm ơn thật ngọt ngào.

- Tại sao anh biết tôi ở đây ?

Anh Hà Giang chỉ vào người trai trẻ:

- Nó là em tôi!

Cùng lúc anh kéo chị Nhài đứng bên thành xe cạnh mình:

- Tôi đến để chia sẻ với anh hạnh phúc của tôi đây!

Bác sỹ Đức Phúc thật vui nhìn bác sỹ nhà văn trẻ Ngọc Thạch:

- Đất nước mênh mông vậy mà vẫn trong tầm những bước chân. Quanh quẩn lại gặp nhau! Tôi biết cậu này từ dạo ở Trường Sơn. Anh còn nhớ cặp Bắc Hà–Hồng Hà chứ? Cô ấy bây giờ cũng là bác sỹ. Bốn đứa con thì hai đứa đi học nước ngoài vì lý lịch sạch. Không có đứa nào mang áo lính một ngày. Mẹ làm bác sỹ tuyển quân thì con thoát lính nhưng đi nước ngoài dễ ợt. Anh ta đại tá về hưu, được cấp một căn hộ tập thể nhưng nhà của tôi con anh ta vẫn ở.

Bác sỹ Ngọc Thạch trong một lần về thành phố bổ túc chuyên môn, hai thầy trò lại gặp nhau. Vốn có cảm tình với người học trò từ khi còn là người lính trẻ, với uy tín của mình, ông đã nhận Ngọc Thạch về phụ việc, chỉ bảo và truyền kinh nghiệm cùng kiến thức cho anh.

Không biết ông thầy với anh mình có mối quan hệ đặc biệt với nhau từ lâu, trong một lúc tình cờ nói chuyện với anh:

- Ông thầy đỡ đầu cho em có uy tín về chuyên môn nhưng về chuyện riêng thì qúa nhiều trục trặc. Lẽ ra được phong giáo sư nhưng vì ông bỏ vợ.

Anh Hà Giang dò hỏi, nhận ra bạn mình. Anh biết chuyện tình éo le của bạn:   

- Những cuộc hôn nhân bất chợt hậu quả chưa biết thế nào. Nếu chấp nhận cũng có thể tạo ra hạnh phúc. Nếu cam chịu thì một lúc nào đó cũng rã ra thôi. Ít ra cũng giải thoát được một người. Dù sao cũng là tai họa cho những sản phẩm nó tạo ra!

Gần nửa thế kỷ, bao nhiêu biến động, thăng trầm với một đời người. Hai người bạn gặp bao chìm nổi có dịp chia sẻ với nhau những vui buồn của một thời lịch sử. Từ đây họ có nhiều dịp chia sẻ và đồng cảm về những biến cố một đời người. Họ là cặp bạn tri âm. 

Bác sỹ chưa hết ngạc nhiên về hạnh phúc đầu đời đã đến với mình:

- Cuộc gặp gỡ như là định mệnh hoặc như một trò đùa để lại những oán hận mà mình không biết thanh minh được là sao?!

Trong khi anh Hà Giang không sao quên được mối tình hồn nhiên đằm thắm của người con gái Bến Tre:

- Trong hoàn cảnh ly tán mà cô ấy vẫn một lòng tin và mang niềm tin ấy vào cõi vĩnh hằng. Tôi đã tìm về chốn cũ nhưng không gặp người xưa. Lớp trẻ mới lớn lên không biết họ. Dò ngược lại tôi chỉ biết tới một ni cô Diệu Hương, biệt động thành. Không ai biết gì về Út Nước! Nhiều chiến sỹ hoạt động nội tuyến hy sinh đến nay vẫn chưa dò ra được tung tích, nguồn gốc ở đâu. Họ là đồng đội thân thiết của ta nhưng khi nằm xuống, mộ chí là tấm bia trắng lặng im muôn thuở! Nhiều điều bí ẩn chưa được phân minh. Có người còn hứng chịu những điều tai tiếng thị phi mà những người thân yêu của họ vẫn phải gồng mình ra chịu! Vợ chồng tôi giỗ cô ấy hàng năm.

Chuyện tình đã qua vẫn để lại trong bác sỹ một kỷ niệm nặng nề dai dẳng:

- Tôi không giận, không chê trách gì cô ấy. Lịch sử đã gắn chúng tôi lại với nhau nhưng chỉ dính được ở phần da thôi. Bấy lâu hai con người giáp mặt nhau nhưng chỉ quen hơi mà mỗi trái tim vẫn đập theo nhịp của riêng mình. Bây giờ cũng là lịch sử cho hai con người ấy được tách ra dù có muộn màng. Mỗi người đều được và mỗi người đều mất. Không thể nói ai thiệt hơn ai. Suy cho cùng là cái nền văn hóa. Khi hai nền văn hóa khác biệt nhau hợp lại vì một lý do gì thì sẽ giống như hồn ông Trương Ba trong da anh hàng thịt… Nó giằng xé tim gan và đau đớn ê chề!

Anh Hà Giang tư lự như một triết nhân:

- Con đường đời nhìn tới thật dài mà quay lại thì thật ngắn. Trên con đường ấy, hạnh phúc là lúc ta gặp một bóng mát, một trái ngọt, một dòng nước trong. Không thể nói hạnh phúc nào lớn hay nhỏ nhưng tất cả đều chỉ là những niềm vui chốc lát. Nỗi bất hạnh như một vết gai đâm, một hòn đá vấp, một hố sập giữa đường, một vết thương… có khi để lại những nỗi đau âm ỉ hoặc dị tật suốt đời.

Biết bạn đang vận vào mình. Bác sỹ nhận ra nỗi đau của mình chưa là gì so với nỗi đau của người bạn ngồi đây.

- Cũng may cho tôi nhờ có một nghề hữu dụng cứu cánh cho mình. Lâu dần rồi chuyện cũ sẽ quên đi.

- Một người bạn để lại trong tôi những tình cảm trái ngược vừa giận vừa thương bởi mỗi người ở một hoàn cảnh phải làm tròn phận sự của mình. Cũng nhờ anh âý mà việc xử trí với tôi có sự nương nhẹ hơn người. Khi Liên Xô dấy lên sự kiện pêrestrôika (đổi mới) và glasnôt (công khai hóa), thổi lên làn gió mới dân chủ, anh gửi thư đi nhiều nơi minh oan cho một số người chịu án qúa nặng nề. Nhưng chính anh ta lại hứng lưỡi tầm sét từ trên trời giáng xuống!

Anh Hà Giang bùi ngùi cảm cái ân tình của anh Lê Quốc Trung:

- Ngày trước, giặc Pháp đã treo giải hàng trăm lạng vàng đổi lấy đầu anh! Trên đời này vẫn còn những con người nhân hậu, sẵn lòng vì người, không lo điều họa cho mình như thế. Người ta trong khốn khó thường thương nhau nhưng chung lợi lộc lại dễ hại nhau. Cái tình đời trớ trêu ấy như luật nhân sinh mà sao không biết giữ mình?

Bác sỹ dường như không mấy quan tâm tới sự đời:

- Tôi nghe nói đã có những động thái làm lành, tưởng mấy anh xuôi rồi? Nếu không chịu thì các anh đưa tay ra hứng lấy cái lộc hậu ấy làm gì để rồi lại khuấy động lên? Coi chừng giận qúa mất khôn. Kẻ thương người giận chưa hẳn đều là tử tế. Không tỉnh thức thì dễ lộn xòng với phường mạt cưa mướp đắng. Nhiều anh lúc còn chức quyền thì ngậm tăm sống chết mặc bay, lúc về làm phó thường dân mới tỏ ra là nghĩa hiệp. Phải chăng còn ham một chỗ trên cái chiếu giữa đình làng? Lòng yêu nước vô tư một thời bị nhuốm màu chính trị để bây giờ cứ bới móc mãi ra những điều ân oán! Con người ở đâu cũng ước ao được sống trong một xã hội yên ổn, ấm no, công bằng, dân chủ, văn minh. Tôi không muốn ai lợi dụng mình.

Anh Hà Giang thở dài:

- Tự do dân chủ và trách nhiệm công dân phải là những khái niệm bình đẳng với nhau. Tự do dân chủ là khát vọng của con người không bao giờ thỏa mãn. Xã hội càng dân chủ càng nhiều tự do. Đồng thời trách nhiệm càng ràng buộc cá thể với cộng đồng. Một sự ngoại lệ là không thể có trong một xã hội kỷ cương. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh chiến tranh, nhiều quyền tự do chính đáng bị hạn chế, thậm chí cấm đoán vì sự tồn tại của cộng đồng. Khi chiến tranh kéo dài quá lâu, mọi sinh hoạt xã hội đã thành nếp, khó đổi thay! Người cầm quyền nhìn xã hội với con mắt mãn nguyện của người chiến thắng trong khi người dân thì mệt mỏi với bao nhiêu mất mát và những điều u uất trong lòng. Cụ Hồ nói: “Có độc lập mà không có tự do thì đấu tranh giành độc lập để làm gì”? Trong các quyền tự do thì tự do ngôn luận là quyền quan trọng nhất. Nhà cầm quyền có trách nhiệm để người dân được công khai phát biểu chính kiến, tư tưởng và quyết định vận mạng của mình. Văn chương nghệ thuật và báo chí là người phát ngôn, người hướng dẫn, người bảo vệ cho những yêu cầu chính đáng của công dân. Nhìn vào nội dung các sáng tác và báo chí, người ta đánh giá được bản chất của một thể chế. Khi tự do bị kiềm toả tới mức người ta cam sống quen như vậy thì xã hội không còn người quân tử mà chỉ có lũ tiểu nhân, dù ở thang bậc nào cũng thế. Đó là tiền đề để một dân tộc chìm dần vào cuộc đời nô lệ.

- Tôi vẫn nhớ và đồng cảm với suy nghĩ của anh từng chia sẻ: Người ta chỉ thật sự có tự do dân chủ trong một xã hội tiến bộ, văn minh. Lúc đó mỗi người vừa ý thức được trách nhiệm của mình vừa biết mình được có những quyền gì.

- Chào ông tướng đến nhà!

Vợ chồng anh Hà Giang vui mừng đón khách. Thiếu tướng Hoàng Tuấn chưa ngồi đã nói:

- Tướng gì nữa! Bây giờ mới được rũ bỏ bộ áo lính, mang tấm thân bã này về trao cho vợ.

- Hôm trước, trên TiVi, tôi thấy ông dẫn đầu đoàn quân rút qua biên giới trở về.

- Chỉ cần một tháng, ta đánh cuốn chiếu giải phóng liền 18 tỉnh từ biên giới phía đông sang biên giới phía tây, cứu nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng. Nhưng rồi bị cầm chân ở đó tới mười năm! Thực ra, từ năm ngoái, các cơ quan chỉ đạo quân tình nguyện đều đã bàn giao cho bạn trực tiếp chỉ huy. Đây là những đơn vị chiến đấu cuối cùng.

- Liệu đã thật sự yên chưa?

- Trước kia ta tưởng đánh xong giặc Mỹ, dù nhử kẹo kẻ nào to gan lớn mật cũng không dám động đến con cháu Lạc Hồng mình nữa, ít ra phải mấy đời sau khi tấm gương trước mắt chưa mờ. Thế mà quân Mỹ chưa rút đi hết, người hàng xóm đã thọc lưỡi lê vào sườn. Chuyện đời tới đâu biết tới đó thôi.    

- Đau thật, hàng chục ngàn sinh mạng và hàng trăm ngàn người thương tật, gộp vào một triệu rưỡi liệt sỹ và hơn nửa triệu thương phế binh thời đánh Mỹ.              

- Phải đặt con số hơn 50 ngàn sinh mạng quân và dân mình kể cả trẻ con, phụ nữ, người già vùng ven biên giới bị sát hại thảm thương do ta mất cảnh giác, nuôi ong tay áo, không nhìn ra bọn phản bội, do dự suốt mấy năm trời mới thấy càng thấm thía.

- Có người nói ta bị sa lầy ?

- Hãy để lịch sử xem xét. Lúc đầu định đánh xong rồi rút về ngay. Nhưng khi ta chớp nhoáng đánh tan tác hơn 20 sư đoàn quân Pôn-pốt vừa rã ngũ vừa bỏ chạy mà làm như vậy có khác chi ném đá ao bèo mà lực lượng bạn đã có gì đâu? Trong khi không thiếu gì kẻ giấu mặt giật dây, nuôi ăn, dúi súng cho lũ thổ phỉ phục thù. Ta phải làm thay bạn vừa giữ đất, giữ dân đồng thời vừa giúp bạn xây dựng chính quyền, lực lượng vũ trang, đưa những người dân tha phương trong các trại tập trung trở về quê quán và phục hồi kinh tế, xây dựng 800 kilômét phòng tuyến biên giới phía tây. Thời gian một, hai, ba năm là không thể. Nhưng năm, bảy năm hoặc lâu hơn nữa, phải có sự tổng kết toàn diện và nghiêm chỉnh để rút ra bài học. Mỹ là một quốc gia công nghệ và khoa học hàng đầu, trình độ tổ chức kế hoạch hoá rất cao. Khi đưa quân vào Việt Nam, họ dự tính chỉ 18 tháng hoặc hơn chút thôi. Nhưng thực tế không cho họ làm theo ý muốn, lại còn chuốc họa vào mình. Huống chi ta, phát động chiến tranh trong hoàn cảnh vạn bất đắc dĩ thế nào thì ai cũng biết. Khởi cuộc dù sao cũng chủ động nhưng kết thúc thì bị động! Một gánh quốc phòng nặng cũng chỉ 100 người dân lo cho một người lính thôi, trong khi ở ta 40 người dân phải lo cho một người cầm súng! Cáng đáng mãi sao nổi? Rõ ràng là ta rút sớm được một năm theo hạn hợp đồng với bạn.

- Có chuyện gì để người ta bức bách không?

- Ta bị ăn quả lừa bởi một đòn phản gián thành ra nhìn gà hóa quốc! Ta đã chính thức có lời xin lỗi bạn. Đánh đám tàn quân thổ phỉ này không ác liệt nhưng dây dưa dai dẳng và không đơn giản chút nào. Tướng ta có ông chết nằm, có ông chết đứng! Ngay trên đất mình, sống trong lòng nhân dân mình mà nhận diện kẻ thù có lúc còn sai huống chi ở nơi xứ người xa lạ, thổ ngơi, phong tục, ngôn ngữ bất đồng. Ngày bọn chúng mới giở mặt phản bội, nhiều người tốt bỏ chạy sang ta, mình lại nghĩ là âm mưu khiêu khích, đưa trả lại để họ bị chúng giết hại thẳng tay. Đã mất bạn đồng minh lại còn bị mang tiếng oán là đem con bỏ chợ!

- Về mặt ngoại giao ta có bị thiệt thòi nhiều?

- Ta đuổi được quân xâm lược Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Về mặt dân tộc là một thắng lợi lịch sử vĩ đại nhưng ngay trong nội bộ quốc gia không phải đều vui mừng phấn khởi. Sự hòa hợp dân tộc cần có thời gian. Thiên hạ có người mừng, có người dửng dưng, có người không thích thậm chí còn chống phá. Chính quyền Pôn-pốt diệt chủng nhân dân của chúng, xâm phạm lãnh thổ và tàn sát dã man nhân dân của một nước láng giềng độc lập có chủ quyền, từng kề vai sát cánh chống giặc ngoại xâm, mọi người đều rõ cả. Tại sao khi ta chiến đấu tự vệ và giải thoát cho nhân dân nước họ thì người ta không ủng hộ, lại còn kéo bè tẩy chay cô lập ta trong khi vẫn để cho bọn diệt chủng ngồi trên cái ghế đại diện quốc gia tại Liên Hiệp Quốc? Nhưng để rồi xem, anh trò nhẹ dạ cả tin sẽ chết bởi chính bàn tay ông thầy đầy mưu ma chước qủy. Trên đời này chưa biết khi nào mới hết luật rừng, cá lớn nuốt cá bé. Lẽ phải trước tiên thuộc về kẻ mạnh! Hãy lấy sinh mạng hàng chục ngàn đồng bào, chiến sỹ của ta và hàng triệu người Campuchia chết trong các cuộc tàn sát tập thể và các trại tập trung để trả lời cho họ. Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng. Tôi tin rằng lịch sử sẽ đồng tình với việc ta làm. Chẳng những đã cứu được một dân tộc thoát họa diệt chủng mà cũng bẻ gãy được mũi giáo sau lưng để lo những đòn nguy hiểm hơn rập rình phía trước.

- Tôi hỏi anh với suy nghĩ của người viết sử. Tôi ngồi đây, nghe được các thông tin chính luận và nghe cả những tạp âm. Cảm ơn anh về những thông tin của người lính chiến thực thụ cũng như tôi từng được nghe những người lính chiến đấu trên các đường phố hồi tết Mậu Thân kể lại. Có điều đáng buồn là những người lính bây giờ chiến đấu xa quê hương tuy không khó khăn ác liệt như thời chúng ta đánh Pháp và đánh Mỹ nhưng họ phải chấp nhận những khó khăn không đáng có và âm ỷ một nỗi đau.

- Cảm ơn anh chia sẻ một phần nỗi lòng của người lính chúng tôi. Tuy nhiên ác liệt bởi bom đạn thì không bằng nhưng khó khăn thì mỗi thời một khác. Một vị thượng cấp lên thị sát trận địa, tận mắt thấy những vất vả thiếu thốn của người lính, ông về làm một bài thơ tỏ lòng thương xót lâm ly lắm. Nhiều anh thêm vào những lời tán tụng lòng thương ấy bao la. Thật tình tôi chỉ xem qua. Nhưng tôi được nghe lính ta nhận xét: Ngày xưa Bác Hồ thương đoàn dân công đói rét ngủ ngoài rừng làm người ta càng thương Bác vì thời đó Bác cháu đều mất nước, đói rét đành phải chịu. Bây giờ nước nhà độc lập, chính quyền về tay nhân dân rồi thì Nhà nước phải có trách nhiệm điều hòa phân phối. Cớ sao để người lính nơi chiến trận chịu cảnh trải lá cây làm chiếu, áo quần lấy làm chăn, bữa ăn với nước mắm đại dương bát canh toàn quốc, là người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm chớ sao còn thương vay khóc mướn nỗi gì? Đấy là nỗi đau của những người đang ngày đêm đối đầu với cái chết.

- Thời gian luôn thử thách chúng ta !

- Lúc ngoài mặt trận, chỉ lo đánh giặc. Khi về hậu phương, nhập vào cuộc sống đời thường, người lính chợt thấy mình lạc lõng mới nhận ra cái qúi nhất là thời gian… Không gì bù lại được! Nếu không có điểm tựa khó mà vượt lên. Tôi bước vào tuổi già rồi, bây giờ mới thấy đời người ngắn quá. Thời gian còn lại chỉ là sự nghỉ ngơi đỡ đần cho vợ phần nào và vui cùng con cháu. Nhưng phải có một cơ sở kinh tế gọi là ổn định. Tôi thật sự không hiểu số lương hàng tháng gửi về giúp vợ con lo được đến đâu nên trong lòng mung lung lắm. 

- Các ông chưa được yên đâu! Người anh em “lý tưởng tương đồng” đã thò cái vòi bạch tuộc tới quần đảo Trường Sa rồi đấy! Thêm vào cái chuyện nhân quyền đang làm nhiều nước rối tung lên – Anh Hà Giang chia sẻ nỗi lo với bạn.

Vị tướng một đời xông pha trận mạc ngồi trầm ngâm… Ông nói chậm rãi nhỏ nhẹ trong vẻ ưu tư :

- Thật ra chuyên chính và nhân quyền đều là vũ khí lợi hại của hai bên đối phương. Chỉ khác nhau như thanh gươm và cái bẫy. Khi gươm vung lên ai chẳng hãi? Còn lúc sập bẫy rồi mới biết! Tuy nhiên nhân quyền luôn là yêu cầu bức bách của mọi xã hội trong mọi điều kiện lịch sử nên nghe dễ lọt tai. Còn nói tới chuyên chính thì người ta nghĩ ngay tới một tai ương vì đã không chỉ một lần nhìn thấy! Vấn đề là phải có phương kế mới thuyết phục lòng người. Lời thơ Tố Hữu: “Tình bạn thời nay có khác xưa / Nghĩa tình e sớm nắng chiều mưa / Chợ trời thật giả đâu chân lý / Hàng hóa lương tâm cũng thiếu thừa” ngẫm càng thấy đúng. Đã sinh ra ở trên đời, mỗi người kể cả vĩ nhân chỉ có thể làm tròn vai trò lịch sử của mình thôi. Chuyện lâu dài thuộc về mai hậu!

Một thanh niên mặc đồ bộ đội, khập khiễng một bên chân gỗ đi thẳng vào nhà, vội khựng lại khi nhận ra vị thiếu tướng ngồi đó, lúng túng cúi chào:

- Chào thủ trưởng ạ! 

Khách ngạc nhiên nhìn người lính trẻ gày gò đen nhẻm như người Miên. Chủ nhà chưa kịp nói thì anh lính đã nhanh nhảu đỡ:  

- Lúc thủ trưởng xuống kiểm tra đơn vị em sau trận tập kích quân Pôn-pốt ở gần căn cứ Pailin. Sau đó em bị thương lúc đi trinh sát. Em tên là Danh.

Anh Hà Giang giới thiệu:

- Mẹ nó là chị tôi. Anh cũng biết !

Danh hấp tấp nói luôn chẳng giấu giếm gì :

- Cậu ơi! Hai bố con cháu bị bắt trên biên giới. Thấy cháu là thương binh nên họ thả cho về. Còn bố cháu bị giữ lại.

- Đi đâu qua biên giới mà bị bắt? – Vị tướng hỏi.

- Đi… buôn! – Danh đáp ngập ngừng.

- Buôn lậu hả? – Thiếu tướng trợn mắt lên.

Danh bị chạm nọc, không còn giữ ý nữa:            

- Mình không may thì bị bắt chứ người ta đi buôn lớn gấp mấy chục lần mình, lại đi về xoành xoạch công khai bằng phương tiện công vụ mà có hề hấn gì đâu vì họ được bảo vệ!

Thiếu tướng đỏ mặt lên, ông cáo từ gia chủ:

- Tôi có hẹn xuống thăm chú em Tô từ một dàn khoan dầu khí về đợi ở Vũng Tàu.

Anh Hà Giang sượng, thanh minh với bạn :

- Về tuyến sau anh sẽ thấy nhiều chuyện phức tạp, buồn lắm!

Khách ra về rồi, anh Hà Giang trách cháu:

- Mày vô ý qúa!

- Cháu sốt ruột lo cho bố cháu. Mà tướng tá quan quyền bây giờ đi buôn bán đỏ đen bạo hơn đám sỹ tốt nhiều. Vợ con các ông ấy đi về tứ phương như đi chợ, buôn toàn hàng quốc cấm như vàng, bạc, đá quí, kim cương, ngoại tệ chứ không thèm chạy chợ mấy thứ lạc xoong như mình đâu. Hoặc là ông ấy giả nai. Hoặc là ông ta lạc hậu thì rồi sẽ hối. Chú làm sao cứu ba cháu ra đi!

Anh Hà Giang hỏi vợ:

- Mình làm gì được bây giờ?

Chị Nhài góp ý :

- Hàng hóa thì đành chịu mất thôi. May lắm là xin được người. Anh Ba Phát – anh Tuấn này cũng biết đấy, đại tá chuyển ngành về làm Phó chủ tịch tỉnh ấy.

Anh Hà Giang khuyên cháu:

- Mày làm tờ đơn trình bày rõ là thương binh, chót dại một lần. Bảo bố mày làm bản tường trình nói rõ là cán bộ mất sức, về hưu, hoàn cảnh khó khăn. Mợ cùng mày lên gặp lãnh đạo, nói thật là anh ấy cũng đi làm nghĩa vụ quốc tế mấy năm, gia đình khó khăn quá, may ra người ta thông cảm.

Anh Bình được thả về, trắng tay nhưng anh cay cú:

- Lúc mới về hưu, có ít tiền, sẵn nghề cơ khí, mấy thằng thợ ngứa nghề rủ nhau mày mò sản xuất xe thô sơ với chu trình khép kín từ bộ khung, vành, trục, ổ bi tới săm, lốp. Sắt thép phế thải, bi, nhông, díp để rỉ hoen thiếu gì. Cao su tái sinh và cao su sống đầy rẫy khắp nơi. Mất bao mồ hôi công sức, cơ ngơi mới dựng lên, công việc vừa vào nền nếp, cứu đói cho hàng chục người thì chiến dịch X30 – kiểm tra hành chính, cho quân đi gom sạch. Bao nhiêu anh điêu đứng. Đến cú giá–lương–tiền làm mình không đứng lên được nữa. Vợ con gom góp đồng nào cứ tin Nhà nước gửi vào tiết kiệm. Gửi mười còn lại một. Gặp vố này nữa, sạch sành sanh! 

- Bây giờ cha con anh tính chuyện gì nữa đây? Làm chuyện phạm pháp là tôi không dám dính vào đâu đấy.          

- Sản xuất trì trệ, thương nghiệp đình đốn. Bù vào lỗ hổng ngân khố chỉ còn cách lạm phát và bổ thuế tăng thu. Mà địa chủ, tư sản bị dọn sạch rồi! Không còn cách nào khác là nhắm vào những người sống nhờ vào buôn bán, không tha cả những người buôn gánh bán bưng. Xã hội muôn vạn người, muôn vạn nghề. Phải tạo điều kiện cho người ta tự nuôi thân được là mừng. Có nhà nước nào gánh nổi mọi sự trên đời? Nhưng khoa tay múa chân làm chuyện gì cũng đụng vào những điều cấm kỵ. Mà bó tay thì không chết đói ngay cũng chết dần mòn vì suy dinh dưỡng. Không làm ra của, người ta xoay ra hà lạm của công. Không được thì trấn lột của nhau. Thằng nào ma mãnh thì sống được!

Thằng Danh lầu bầu:

- Từ đời lính con nghiệm ra rằng: Thoát khỏi nguy nan bế tắc người ta dễ chủ quan ảo tưởng. Ảo tưởng mãi không thành thì phải dối! Hết dối nổi rồi đành liều! Đã liều phải lừa! Lừa với lưu manh cùng một duộc!

Nó vùng vằng bỏ đi. Nghe tiếng cái chân giả lộc cộc xa dần, ông Thanh ái ngại nói với người cháu rể:

- Tôi lo cho thằng bé quá!

Anh Bình lặng lẽ lắc đầu:

- Bây giờ mỗi người phải tìm cho mình một cách sống riêng. Nó trẻ nhưng không dại nữa. Nó gian truân mất mát quá nhiều. Vượt ra từ cõi chết nên nó biết tìm con đường sống. Chỉ cầu trời cho nó có sức khỏe thôi.

Hà Nội như bị điện giật khi nghe tin Gorbachôp giải tán Đảng cộng sản Liên Xô kéo theo sự sụp đổ của một Liên bang vĩ đại. Từ những năm giữa thế kỷ đã bộc lộ sự bất bình của các nước Ba Lan, Hung ga ri, Tiệp khắc. Lẽ ra nên coi là tiếng chuông cảnh tỉnh, người ta phải nhìn lại sửa mình. Nhưng dựa vào sức mạnh áp chế được rồi người ta càng tự mãn chủ quan để cho những khuyết tật có hệ thống của tổ chức chính trị – kinh tế phát triển tới mức trở thành hiểm họa mới hoảng hốt xoay ra cải tổ – cải lương lố bịch, càng lộ ra những điểm yếu chết người, đưa tới sự rã rời của từng nước không kiềm chế nổi. Cuộc thảm sát khủng khiếp ở Thiên An Môn gây chấn động dư luận toàn cầu không thể tái diễn ở Đông Âu để giữ cho bức tường Berlin – biểu tượng điển hình của thời kỳ chiến tranh lạnh, dài 155 kilômét, bất ngờ dựng lên chỉ trong một đêm vào năm 1961 cũng bị đạp đổ chỉ trong một đêm sau 28 năm tồn tại, báo hiệu một cộng động xã hội tưởng chừng bất khả xâm phạm đã đến lúc tan rã không phép lạ nào cứu nổi. Mọi ranh giới do con người dựng nên cũng sẽ do con người phá bỏ. Bạo lực có thể giết người nhưng không tiêu diệt được ý chí hợp quần.

Ông Thanh và người cháu rể ngồi bần thần như vừa mất đi một vật qúi vẫn trưng trong tủ. Tưởng rằng hai chú cháu đã cắt mọi liên hệ với một ý thức rồi thì họ sẽ dửng dưng nhưng thực ra mối gắn bó tinh thần bao lâu qua những tháng năm đặc biệt còn sâu nặng lắm. Họ thẫn thờ trong yên lặng. Ông Thanh buồn bã:

- Tôi cứ nghĩ do ta đi lên từ một mặt bằng qúa thấp về nhiều mặt mới sinh ra những cố tật trầm kha như thế và tin vào một Đảng cộng sản Liên Xô vững mạnh. Sự đổ vỡ ngày hôm nay không thể từ những tác động ngẫu nhiên. Những năm đen tối, gian khổ, mình hướng tới một nguồn sáng để có lòng tin và định hướng mà đi. Khi đến nơi mới rõ nó chỉ là một ngọn nến lung linh chứ không phải là ngọn đèn thần mà sao không ai dám nói thật ra?! Có thể dối một người lâu dài, dối nhiều người trong một thời gian nhưng không thể dối mọi người mãi được. Người phương tây có câu chuyện ngụ ngôn về bộ áo hoàng đế được dệt bằng thứ tơ thần chỉ dành riêng cho bậc minh quân tài ba lỗi lạc và cũng chỉ những người quyền quý thông thái mới nhìn ra được nó. Trong khi hoàng thượng cứ tảng lờ đi cao đầu kiêu hãnh diễu hành khoe ra với thần dân bộ hoàng bào đặc biệt thì đám triều thần theo sau bấm bụng khúm núm tán dương bệ hạ mang bộ áo đế vương rực rỡ cao sang cả thế gian này không đâu có được. Còn dân chúng thì nghĩ rằng mình là người trần mắt thịt hèn kém không thể nhìn ra nên cứ khấu đầu tung hô Vạn tuế! Chỉ khi một đứa bé con thấy chuyện lạ đời mới nhảy tâng tâng vỗ tay reo toáng lên Nhà vua ở truồng thì mọi người mới chợt tỉnh ra! Cái thói háo danh hoang tưởng dễ làm người ta hoáng mắt và tự dối mình đáng thương như thế.

- Sẽ đến lúc lịch sử trả lời vì sao những con người chân chính, tài năng, trí tuệ, hiến dâng mà số phận họ lại bi thảm gieo neo đến thế giữa lúc những yêu cầu Tự do–Dân chủ–Nhân quyền thôi thúc nhân loại thoát ra khỏi cái vòng kim cô ác nghiệt bấy lâu nay? Vì sao đến nỗi chỉ một người thôi mà cũng phá tan được cả một nhà nước khổng lồ? Ai phóng tay cho bọn người cơ hội được quyền tạo án hãm hại hàng loạt những nhà khoa học, chính trị, quân sự và những người chân chính trung kiên? Ai đã bật đèn xanh để cho đám lâu la cuồng tín giết hại thảm thương các vị khai quốc công thần, các tướng lĩnh lừng danh, các nhà trí thức là nguyên khí quốc gia? Điều kỳ quái ấy hiển nhiên mà sao vẫn tồn tại được?! Vì sao chúng ta biết quá ít về những người bị oan khiên thiệt mạng hoặc bị tước bỏ khả năng phát huy trí tuệ? Ông tướng cầm quân đánh bại liền hai tên xâm lược khổng lồ hung hãn bỗng bị tước tay súng giao cho việc đi đặt vòng tránh thai, không chỉ là hạ bệ một tượng đài, còn là sự xúc phạm danh dự cả một đội quân lừng danh bách chiến bách thắng trước giặc ngoại xâm. Đành rằng không có sự lãnh đạo sáng suốt với đường lối đúng hợp lòng dân thì không thể có một đội quân trung thành anh hùng dũng cảm hy sinh như thế nhưng nếu như không có những người chỉ huy tài ba mưu lược thì đội quân nào cũng bị thiêu rụi trong cái lò lửa chiến tranh khốc liệt mà thôi!

- Bánh mì cho người đói – Ruộng đất cho dân cày – Tự do cho người nô lệ – Hòa bình cho các dân tộc là những nhu cầu chính đáng vừa bức thiết vừa muôn thuở của loài người. Có điều là cách làm thế nào để thực hiện nó thôi. Những hành vi quá khích chỉ nuôi dưỡng hận thù. Tuy nhiên giữa người đi đòi và kẻ bị đòi không ai dễ chịu ai đâu – Đấy là bản năng hoang dã của con người. Lịch sử nhìn nhận nó vừa nghiêm khắc vừa độ lượng nhưng không thể để cho kẻ nào độc quyền nhân danh công lý làm điều nghĩa hiệpsẽ dễ thành bạo chúa.

Hai con người từng suốt đời tin vào một lẽ phải thánh thiện và thành tâm dâng hiến, giờ chợt tỉnh nhìn những đổi thay, trầm mặc như hai tượng đá. Ông Thanh cất giọng buồn :

- Ảo tưởng về cuộc cách mạng thế giới đã đem lại một xã hội bị cào bằng về mọi mặt. Người ta căm thù tư hữu và lên án thứ tự do dân chủ giả danh trong khi áp đặt ý chí của một người sau khi mê hoặc nhiều người bằng sự sùng bái cá nhân! Còn con người là còn thiện ác. Người ta vẫn nhân danh điều thiện để làm điều ác đấy… Một nước không như một nhà. Một quốc gia không là thế giới. Một người có thể sống vị tha nhưng một cộng đồng không thể chết cho cộng đồng khác sống. Thế giới đại đồng như người ta mơ về cõi trời vậy... Quyền lợi là cái lõi trong mọi mối quan hệ của con người, kể cả với quốc gia. Nó lúc hay lúc dở là sự thường tình. Anh có nghĩ ở ta rồi sẽ có sự đổi thay nào không?

- Dư luận đang rộ lên chuyện đa nguyên đa đảng. Thực ra nước mình đã từng có cả rồi nhưng chẳng mang lại thực chất gì. Đó là chuyện của những người làm chính trị, mưu sự bá vương. Người lương thiện đang cần đời sống có sự đổi thay thiết thực, được ăn no, mặc ấm, có chỗ ở cho ra hồn, ốm đau được chữa trị tử tế, con cái bé được học hành, lớn lên có việc làm ổn định, việc xã hội mọi người gánh vác công bằng, luật pháp không trừ một ai.

- Tôi chưa hiểu đổi mới tư duy ý định nói gì?

Nhiều điều ấp ủ trong lòng bây giờ anh Bình có dịp nói ra:

- Tư duy nào là mới? Tư duy nào là cũ? Chỉ có trước đây ta nghĩ sai, làm sai, bây giờ sửa lại. Không nói thẳng ra điều ấy nghĩa là vẫn sĩ diện với cái hư danh vĩ đại thiên tài. Hồi cháu đi làm sửa sai, người ta trưng lên khẩu hiệu: Cải cách ruộng đất thắng lợi – Sửa sai và tiến lên! Đã thắng lợi việc gì phải sửa sai cấp thời rầm rộ đến thế? Thắng lợi của cải cách ruộng đất là gì? Là mang lại ruộng đất cho nông dân chứ gì? Trong khi ai cũng thừa hiểu không thiếu gì cách ôn hòa, nhân đạo mang lại một khoảnh ruộng chó nằm ló đuôi cho dân cày, cần gì phải làm cuộc đấu tố giết người tới mức vô luân thường đạo lý như thế, để lại hậu quả xấu về con người và lòng tin dai dẳng mãi đến hôm nay? Thế rồi lại khiên cưỡng người ta hợp tác, hợp doanh – thực chất là lấy lại ruộng đất, công cụ sản xuất của người lao động giao cho ông tập thể vô hình, cha chung không ai khóc để đến nỗi nông dân chán nản, bỏ hoang phí đất đai, công nhân ngồi chờ việc, nhìn nhau chịu đói. Đến lúc ngửa nón ra xin ăn, không ai cho nữa, dân thì đói mà cái ghế ngồi thì lung lay mới phóng tay khoán sản, lại cười ha hả bảo họ vỗ tay hoan hô ngày hội mới như ban ơn cho họ được sống lại thêm lần nữa! Ngày hòa bình thống nhất mới vỡ ra cái lòng tin ngây thơ gửi vào ông bạn láng giềng! Rồi Hiệp ước hợp tác toàn diện Việt-Xô chỉ còn là mảnh giấy khi Liên Xô đang ở cuối trào! Hãy xem sự cố mấy đảo ở Trường Sa bị lấn chiếm trong khi tàu nổi tàu chìm của họ đậu đầy ở cảng Cam Ranh vẫn án binh bất động! Hội đồng tương trợ kinh tế (Khối CEB) lúc ấy đang chới với cũng phải ôm thêm một đồng chí sài mòn chưa biết sẽ giao cho nó làm gì ngoài cái việc đánh nhau ra! Ta vẫn hỉ hả xoa tay tự hào “đi dép lốp cao su lên tàu vũ trụ”! Không thấy giặc trong ta, chỉ thấy giặc quanh ta. Nếu không thiên tai thì là địch họa kể cả những đứa trẻ sinh ra vô kế hoạch! Cách mạng là khoa học. Khoa học tối kỵ sự áp chế, vũ đoán và dối trá. Phải sai đúng rạch ròi, dám phủ định điều mình từng khẳng định. Khoa học thừa nhận công lao của những nhà phát minh sáng chế nhưng không chấp nhận một thiên tài vĩ đại nào bao trùm lên tất cả. Hai mươi năm rồi vẫn quẩn quanh trong mớ bùng nhùng của một sai lầm duy ý chí thì sao gọi là cầu thị? Để đến lúc cùng đành phải nói ra: Đổi mới hay là chết, có nghĩa là không ít người đã chết thật rồi mới dò dẫm đi lại từ bước khởi đầu! Phải thoát khỏi sức hút của lòng mê hoặc đã thành thói quen của những kẻ trung thành với Chúa để được là Thánh tông đồ, tụng kinh thờ Phật để được thành Bồ tát.

- Người ta truyền khẩu lời thở than của không ít vị chức sắc đương quyền: Tôi là chính nhưng không có quyền! Mà sao các vị vẫn ngồi lỳ trên cái ghế hư danh ấy? Cái gì gắn chặt đến thế ngay cả với những người được gọi là hiền? Phải chăng cái chế độ bao cấp độc địa khiến người ta không dám rời ra? Từ đó sinh ra lớp thuộc hạ vừa gian tham vơ vét vừa chỉ biết tấu chung chung hiểu sao cũng được!

- Cái chế độ bao cấp dai dẳng làm hư hỏng bao nhiêu con người, băng hoại xã hội, phải coi như là tội ác! Nhưng người ta đổ lỗi hết cả cho điều kiện khách quan chứ không do sự vô cảm chủ quan của người nào. Suốt thời gian bao cấp ai là người điêu đứng nhất? Chế độ bao cấp mất đi mới là do tác động khách quan. Nó còn, vẫn khối kẻ ung dung sung sướng đề huề, ai khổ mặc ai.

- Hôm rồi địa phương nghe trên báo về thế nào, mấy vị tới thăm, cho gói trà, hộp bánh là tiêu chuẩn cán bộ tiền khởi nghĩa và bảo tôi làm đơn xin phục hồi sinh hoạt Đảng, trên sẽ xét cho xóa đi thời gian gián đoạn. Đảng bỏ tôi chứ tôi đâu bỏ Đảng thì sao tôi lại phải làm đơn? Ông bà cha mẹ xưa nay cũng dạy bảo con làm việc thiện. Tôi vào Đảng để làm việc thiện chứ không cầu sự tiến thân. Muốn tiến thì mình phải tự rèn, tự học chứ cần gì phải dựa vào ai mới tiến lên được? Không có Đảng tôi vẫn là người lương thiện.                         

Hai vị cán bộ tận tâm tận tụy một thời quá lứa ngao ngán nhìn thế sự đổi thay. Thằng Danh nằm dài trên ghế, gác tay lên trán, không biết nó ngủ hay suy nghĩ gì nhưng chắc rằng nó chẳng quan tâm gì tới nỗi buồn lo của các bậc bề trên. Nó uể oải ngồi dậy, loay hoay lắp khúc chân gỗ vào mỏm chân cụt lủn. Thấy ông và cha mặt mày ủ ê, nó hiểu ngay lòng các cụ:

- Các vị già đa cảm quá. Con thấy chuyện đến muộn rồi! Bao lâu nay mình được dạy phải biết tự lực tự cường thì cần gì phải sống dựa vào ai? Các vị có nghe khắp nơi người ta rủ rỉ câu này: Ta ưu việt vì cho ai cũng có việc làm nhưng không ai làm việc! Không ai làm việc nhưng ai cũng có lương! Không ai sống nổi bằng đồng lương mà người ta vẫn sống dù không ai vừa lòng! Không ai vừa lòng mà ai cũng hoan hô! Sự đời trái khoáy ấy đã động tới thiên đình nên mới cho tự cứu lấy mình. Sao các vị còn ngẩn ngơ lưu luyến?! Trong cái dở có cái hay. Mình thoát khỏi sự lệ thuộc vào ngươi mà sao cứ lúng túng như gà mắc tóc?!

Bích Liên từ  Paris báo về tin khẩn: Mẹ bệnh nặng, khó qua khỏi được!

Cẩm Nhung và Nhân Tín chuẩn bị cùng nhau sang với mẹ. Chuyện tình cảm tế nhị, hai chị em không dám dạm ý cha.

Ông Thanh bồn chồn, bứt rứt, phút cuối cùng, ông nói với Thảo Tâm:

- Em cho tôi cùng đi với các con được không? – Ông không dám tự quyết vì cái tình của cô với ông nặng quá. Ông không muốn để cô buồn. Nhưng nghĩa tao khang kiếp này không trọn có lỗi của ông.

                 Cô Thảo Tâm không cản nhưng sâu tự đáy lòng, cô dấm dứt buồn: Một đời cô dành tất cả tình thương yêu cho anh ấy, cô không muốn bị sẻ chia!

Nhân Trí đón ba cha con từ sân bay về thẳng bệnh viện vì sự sống của mẹ đang ở những giờ phút cuối. Dường như bà ráng sức chờ con.

Cẩm Nhung không kìm nổi mình, cô gục đầu vào lòng mẹ khóc nức nở như ngày còn bé. Bà Lê Thị Hợi đang lơ mơ như bay trong đám mây mờ nhòa tối-sáng. Làm sao mà bà nhận ra ngay tiếng khóc của con bé ngày nào? Sắc mặt bà tươi lại, đôi mắt sáng ra, đưa đẩy, tay bà run rẩy giơ lên đòi ngồi dậy. Các con đỡ đầu bà cao lên. Dường như toàn bộ sức lực còn lại bà dồn cho con bé: 

- Tội nghiệp con tôi… Mới tý tuổi đầu đã góa bụa! – Những giọt nước mắt to nặng lăn xuống gò má già nua. Hai tay bà ghì chặt con vào lòng như muốn che chở nó.

Cẩm Nhung càng khóc to hơn.

Nhân Tín ngả đầu bên vai mẹ, anh hôn lên đôi gò má hoen nước mắt.

Một tay bà ép má con vào đôi môi khô héo, thì thầm:

- Con tôi bướng bỉnh… vào tù có bị làm tội làm tình nhiều lắm không con?

Dường như bà không gánh nổi những nỗi đau con mình phải chịu, bà thở hổn hển, rã rời tay chân. Mọi người hốt hoảng đặt đầu bà thấp xuống. Ông Thanh lay hai vai, ghé sát tai bà:

- Mợ nó ơi! Mình ơi!

Bà nhận ra tiếng ông nhưng bà không đủ sức quay lại hay bà muốn tránh ông, giọng bà thều thào:

- Ông có khổ lắm kh… ô… ng?

Đó cũng là hơi thở ra cuối cùng và không hít vào được nữa. Người bà mềm thõng ra. Ông Thanh khóc rống lên:

- Không! Tôi không khổ đâu bà ơi! Bà mới khổ vì tôi!

Văn Khoa và mấy người y tá đỡ ông dậy, kéo ông lùi xa ra trong khi bốn đứa con bà gục trên lòng mẹ khóc lên tức tưởi.   Ông Tham Phú mất hồi năm ngoái, an táng bên mộ bà Nguyễn Nữ Đạm Tâm. Sau đó sức khỏe bà Lê Thị Hợi sa sút nhanh lắm. Bà dặn lại, tạm thời an táng nhờ một nghĩa trang xứ đạo, khi nào có điều kiện thì hỏa táng, tro cốt đưa về quê nhà, rắc xuống dòng Nhị hà cho lẫn với phù sa trôi đi đâu cũng được.

Một ngôi mộ mới nằm giữa những ngôi mộ lạ nơi xứ người, dưới hàng hàng cây thập ác như những cánh tay người giơ ra im lìm, lặng lẽ suốt ngày đêm.

Trong số người đưa tang ít ỏi có cả chị Hương Giang. Chị sang Paris ở với con. Dường như chị sống không hạnh phúc.

Thằng cháu đích tôn của ông Thanh bà Hợi vào tuổi thiếu niên, có cái tên gợi cảm đầy ấn tượng: Nguyễn Đại Dương. Với nó, đại dương cũng như cuộc đời này thật thái bình và thơ mộng. Nhưng với cha mẹ nó là gợi lại nỗi kinh hoàng !

Đứa con trai của Nhân Tín tên là Thomp Nguyen, đã trưởng thành, qua chịu tang bà nội. Mẹ nó đã là người dưng. Ông nội và cha nói tiếng Mỹ thì nó lắc đầu lia lịa mà nó nói tiếng Việt thì ông và cha nó đều ngao ngán. Nó chỉ từng người hỏi:

- Người này là dad? Người này sinh ra dad… – nó nói theo người lớn nhắc:… Yes… là on noi?

Người lớn hỏi nó:

- Có muốn đón cha và ông nội qua Mỹ ở không?

- Nguoi nay đuoc nuoi!

Nó chỉ vào ông gật đầu, rồi lắc đầu chỉ vào cha:

- Nguoi nay phai lam viec!

Cha nó sôi máu lên, nói như quát :

- Tao không cần ăn bám đứa nào!

Nhìn thái độ giận dữ của cha, nó xua tay :

- Oh! Oh! Cong san đoc tai… gay chien… Khong tot đau!

Ông nội tái mặt đi trong khi cha nó đỏ mặt lên.

Lúc đầu, Nhân Tín cũng có ý định tiện dịp này qua Mỹ thăm bạn bè và thăm dò tình thế xem sao nhưng trước tình cảnh ấy anh chán ngán nản lòng. Một số bạn bè từ xa tới gặp, rủ anh ở lại:

- Ông thuộc diện ưu tiên số dzách, gật là được ngay. Muốn xin cư trú theo kiểu nào cũng được.

Anh chối từ ngay :

- Qua đây thì vợ mình đã là vợ người ta, con nói chuyện với cha như ông tây thuộc địa nói với người bản xứ, ngửa tay ăn xin thì nhục, chẳng lẽ đi làm cu ly kiếm sống giữa những người xa lạ coi mình như mọi? Trong khi về nước tôi có vợ, có con, làm ông chủ trại chăn nuôi, không giàu có nhưng sống cũng đề huề.

- Nhưng mất tự do, áp đặt!

- Cái tự do tôi cần bây giờ là được sống thanh nhàn với vợ con, được làm việc theo sức của mình. Chuyện xã hội chính trị tôi không quan tâm. Nhưng có một điều tôi nhận ra là mình không nên cực đoan, chê qúa lời hoặc khen qúa đáng. Ngày tôi đang ở tù thì Tàu đánh qua, tôi hiểu ra người ta không phải là tay sai Trung cộng. Ngày tôi ra tù ít lâu thì Liên Xô sụp đổ mà người ta vẫn đứng được, tôi nhận ra họ không phải là tay sai của Nga Xô. Thực ra lúc tôi coi họ là kẻ thù, đối kháng quyết liệt mà sâu xa trong lòng tôi vẫn có chút gì trọng nể không thể nói ra vì lòng tự ái. Bây giờ sống chung, tôi thấy họ cũng là những con người. Còn xã hội gì, tôi nghĩ như cái tên một câu lạc bộ nào đó trên chiếc áo cầu thủ thôi. Cốt lõi vẫn là tài cầu thủ xứng ở loại nào… Hạng hai? Hạng một? Ngoại hạng hay Tuyển quốc gia? Bây giờ, tôi chấp nhận làm fan cho đội Việt Nam. Dù mặc áo vàng, áo xanh hay áo đỏ đã có FIFA xếp hạng. Nhưng tôi vẫn vui buồn với nó vì nó là những người Việt Nam thật sự.

Có người chỉ trích vỗ mặt anh phản bội đồng đội, phản bội lý tưởng quốc gia, anh không tự ái, trả lời thủng thẳng:

- Ông tướng bốn sao Westmoreland từng là người hùng trong cuộc chiến tranh ở Triều Tiên, sang Việt Nam lãnh cương vị Tổng tư lệnh liên quân Việt-Mỹ nắm trong tay hơn một triệu binh hùng tướng mạnh với vũ khí tối tân dùng mặc sức mà cũng chịu phận bẽ bàng thay ngựa giữa dòng, về nhà nói ra nỗi lòng cay đắng: “Trong cuộc chiến tranh này chúng ta không có anh hùng, chỉ có những kẻ ngu xuẩn. Tôi là một trong số những kẻ ngu xuẩn đó!”. Vậy sao tôi và các bạn không biết quên đi cái quá khứ nặng nề u ám đó để được sống thanh thản trong quãng đời còn lại chẳng còn dài? Nếu nói đến lý tưởng quốc gia thì bây giờ nhìn vào tấm bản đồ thế giới, mảnh đất hình chữ S bên bờ biển Đông rành rành hai chữ Việt Nam! Đành rằng cái nước Việt Nam ấy sướng khổ thế nào? Đó là việc của chín mươi triệu quốc dân hiện hữu. Dù sao tôi không hề muốn cưa đôi hay chia năm sẻ bảy cái mảnh đất khốn khổ này ra chỉ để chuốc vào những bất hạnh ê chề!

Vợ chồng Bích Liên hướng dẫn mấy cha con đi xem một số nơi tiêu biểu của Paris: tháp Eiffel, bảo tàng Louvres, Khải hoàn môn, Nhà thờ Đức Bà, hẻm Compoint,  vườn Luxembourg, và đi tàu thủy trên sông Seine vào buổi tối. Văn Khoa làm hướng dẫn viên tích cực.

Tháp Eiffel cao mà thanh tú, sừng sững như con hươu cao cổ khổng lồ, đứng xoạc bốn chân bên bờ sông Seine, đầu đụng mây bay cúi nhìn thiên hạ. Nó ra đời vào dịp kỷ niệm tròn 100 năm Cách mạng Pháp (1889 – 1789). Vượt qua những lời chê bai, phỉ báng – kể cả của những bộ óc lớn đương thời, lúc khai sinh, nó nghiễm nhiên trở thành niềm kiêu hãnh và biểu tượng của Paris. Tháp cao 320 mét, được ghép bởi 15 ngàn thanh sắt dính chặt với nhau bởi 2 triệu rưởi con ốc bù loong. Có ba tầng ở độ cao khác nhau để người ta lên thưởng ngoạn – đi bằng thang máy hoặc dò theo 1710 bậc tới tầng cao nhất. Mỗi sân tầng chứa được hơn năm ngàn người và đều có cửa hàng bách hoá, quán ăn. Người Paris tự hào vì nó: Cả thế giới ngưỡng mộ và thèm có ngươi. Trong tất cả các tượng đài, ngươi được phiên bản nhiều nhất, bằng vàng, bằng đồng, bằng đá, bằng mỡ lợn, bằng kem… Paris không có ngươi khác gì  con chim cụt cánh !

Trên tầm cao 50 mét của Khải Hoàn Môn, ngắm nhìn toàn cảnh Paris. Dưới chân nó là Quảng trường Ngôi Sao với 13 con đường lớn nhỏ toả ra bốn phương tám hướng, ngày đêm xe chạy tít mù và kia là dòng sông Seine uốn lượn miệt mài với những con tàu như những cánh hải âu ngược xuôi không mệt mỏi. Thi hài một người lính vô danh được mai táng ngay bên tường vòm cổng chính. Theo con đường lớn qua đây, nước Pháp tiễn đưa cha đẻ của Những người khốn khổ (Les misersbles) về yên giấc ngàn thu trong điện Panthéon với hàng chữ vàng chói lọi: Vinh quang đời đời thuộc về các vĩ nhân.

Nhân Trí rùng mình nhớ tới người em, người đồng đội năm xưa, tự nói với mình:

- Những chiến sỹ ấy đều có tên nhưng sẽ không ai biết nữa vì họ âm thầm ngã xuống ở khắp mọi nơi. Không ai biết chiến công của họ, thậm chí sự xả thân của họ còn bị hiểu khác đi! Không sự tôn vinh nào xứng với sự hy sinh ấy. Biểu tượng này chỉ có ý nhắc người đời đừng bao giờ quên họ!

Từ quảng trường Ngôi sao đi theo đại lộ Champs Elisées – con đường đẹp nhất Paris, thênh thang thẳng tắp đến quảng trường Concorde. Vỉa hè rộng, hàng cây cao thẳng vút lên, có nhiều ghế gỗ cho khách bộ hành nghỉ chân. Người Paris có thói quen ngồi nhâm nhi ly cà phê bên hè phố, thích thú ngắm thiên hạ qua lại như những dòng nước ngược chiều nhau.

Quảng trường Concorde thoáng rộng mênh mông, chung quanh nhiều lâu đài, dinh thự nguy nga tráng lệ. Bùng binh hoa ở giữa nổi lên rực rỡ, lúc nào cũng có người đi dạo đông vui. Đứng trên cầu Concorde, phía bên kia là tòa nhà quốc hội, anh Văn Khoa giải thích :

- Ai đến Paris mà không tới đây là sự khiếm nhã với lịch sử của thủ đô ánh sáng. Trong hơn ba mươi cây cầu bắc ngang con sông Seine – như giải lụa vắt ngang thành phố, thì cây cầu này là biểu tượng thiêng liêng vì nó được xây một phần bằng đá của nhà ngục Bastille bị phá trong cuộc cách mạng năm 1789, ngày quatorze Juillet (14/7), nội hàm ý nghĩa nhân văn: Nhân dân Pháp vĩnh viễn đạp dưới chân mọi nỗi ô nhục của sự áp bức đọa đày!

Anh chỉ tay về phía quảng trường:

- Chính nơi đây, người ta đặt cỗ máy chém. Vua Louis XVI, hoàng hậu Marie Antoinette và rất nhiều phần tử bảo hoàng bị cách mạng đem ra xử trảm trước sự phẫn nộ của nhân dân. Cả pho tượng Louis XV hiên ngang trên mình ngựa cũng bị đạp đổ xuống. Khi kẻ cai trị cho mình cái quyền được chà đạp lên giá trị của con người là tự chúng châm ngòi pháo cho một sự đổi thay gọi là cách mạng. Đó là hậu quả của sự bất bình chồng chất có thể biến thành cơn nộ khí xung thiên! Sau đó người ta đặt tên là quảng trường Concorde có nghĩa là kết đoàn, hòa hợp để xóa đi ấn tượng về những năm khủng khiếp (một tác phẩm thơ của Victor Hugo).

Nhân Tín nhìn lên đỉnh Kim tự tháp từ Ai Cập chuyển về đây, nói bâng quơ:

- Phải chăng cách mạng trước là ai nộ sau mới là ái lạc?

Ông Thanh từ tốn nói:   

- Có bị đè nénmới thấy cần phải đổi thay. Tùy vào sức nén, sự nộ khác nhau: phẫn nộ, thịnh nộ hay cuồng nộ! Đó là một cuộc cải cách, đảo chính hay nổi loạn. Thân phận con người vào thời điểm ấy thật điêu linh: Cái đúng, cái sai chưa biết dựa vào đâu mà phán xét. Luật pháp nằm trên họng súng, mũi gươm, đầy rẫy những sự nhiễu nhương, bi thảm!

Với những người Việt Nam kháng chiến, đến Paris không thể không đến hẻm Compoint. Chung cư số 9 xưa đã bị phá bỏ để xây dựng toà nhà mới nhưng ở ngay lối ra vào đúng nơi cổng cũ, ngang tầm nhìn có gắn một tấm biển đồng với hàng chữ Pháp: Ici de 1921 à 1923 a vécu et milite pour indépendance et la liberté du peuple du Vietnamien et des autres opprimes Nguyễn Ái Quốc connu sous le nom Hồ Chí Minh – Janvier 1983 (Nơi đây từ 1921 đến 1923, Nguyễn Ái Quốc sau này là Hồ Chí Minh nổi tiếng đã sống và chiến đấu vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị áp bức – Tháng 1/1983).

Ông Thanh tần ngần đứng bên bồn hoa trước tấm bảng… Một ông Pháp già từ chung cư đi ra vui vẻ bắt tay mấy người xứ lạ phương đông :

- Các vị đến từ Việt Nam?

Không đợi khách trả lời, ông tự tin giải thích ngay:

- Tại Bảo tàng Lịch sử sống (Le musée de L’Histoire vivant) ở thành phố Montreuil cách đây không xa có dành riêng một “Không gian Hồ Chí Minh”lưu giữnhững kỷ vật như cái cánh cửa cũ kỹ còn nguyên ổ khoá và chốt cài, cái bàn rửa mặt, cái mắc áo… đặt trong một căn phòng hẹp dưới chân cầu thang tượng trưng nơi ông Nguyễn Le patriote trước kia từng ở. 

Và ông tự giới thiệu về mình : 

- Tôi từng bị tù vì Việt Nam vì tôi là lính phản chiến không chịu sang Đông Dương. Ra tù, tôi gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và tích cực tham gia phong trào phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy. Chiến thắng Điện Biên Phủ của các ông là nhát búa chí mạng giáng vào những cái đầu thực dân ngoan cố. Chúng tôi khâm phục sức chịu đựng của các ông bền bỉ tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng trước một tên đế quốc khổng lồ tới thắng lợi hoàn toàn. Hồ Chí Minh là nhà yêu nước lớn, thông minh, khả ái. Dù ông đã cho nước Pháp một đòn đau nhưng chúng tôi chưa từng coi ông là kẻ thù và vẫn trân trọng với những dấu ấn của ông ở đây.

Ông Thanh nắm chặt tay người bạn già lần đầu mới biết:

- Chúng tôi hiểu rằng thắng lợi của chúng tôi có sự cổ vũ to lớn về tinh thần của những người bạn Pháp và cả người Mỹ dân chủ, yêu chuộng tự do và công lý như ông!

Có người để cởi mở nỗi lòng, ông bạn Pháp nói một hơi:

- Trước đây, Đảng Cộng sản Pháp rất mạnh và có uy tín vì đã tích cực tham gia kháng chiến chống phát xít Đức, ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, Algérie. Tuy nhiên sau khi những việc làm độc tài chuyên chế tàn bạo của Stalin bị phanh phui, nhiều đảng viên đã ra khỏi Đảng và tôi cũng thế. Tự do–Bình đẳng–Bác ái vừa là mục tiêu xã hội vừa là danh dự con người. Không thể vì bất kỳ lý do nào để trà đạp lên chân lý đó. Sau này thấy tình hình ở Trung Hoa, Triều Tiên, Cu ba rồi đến sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa càng làm cho tôi thất vọng. Có chủ nghĩa cộng sản thật không? Chủ nghĩa xã hội là gì ? Những lãnh tụ cộng sản là người thế nào? Bài học cho chúng tôi là không cuồng tín với bất kỳ chủ thuyết nào và không cả tin vào một ai… Điều tối thiêng như tôn giáo, đấng tối kính như giáo chủ mà bị lợi dụng cũng thành thảm họa… Riêng với Việt Nam thì tôi khó hiểu qúa… Có người bảo là người Việt Nam kín chuyện?

- Mỗi dân tộc có cách ứng xử theo truyền thống văn hóa riêng của mình!

Ông Thanh lịch sự cảm ơn và chia tay người bạn hảo tâm.

Ông bà dược sỹ Bảo Toàn trước khi chết đều day dứt về một đứa con trai không biết đang nằm lại ở đâu. Đôi lúc Nhân Trí cũng chợt nhớ đến những kỷ niệm khốc liệt, đau buồn và đứa em vợ cũng là người bạn chiến đấu thân thiết đã hơn một lần cứu mạng cho mình. Nhưng cuộc sống qúa bộn bề và anh nghĩ cũng vô phương. Từ ngày đứng bên mồ người chiến sỹ vô danh trên nóc vòm Khải hoàn môn, bóng hình Quốc Anh thường chợp chờn trong giấc ngủ và từ đó lòng dạ anh cứ bồn chồn. Việc chung ai người lo hết đặng. Lòng riêng không thể vô tình với người đã khuất. Như có điều gì thôi thúc phải đi tìm dấu tích đứa em, dù việc không thành anh cũng thỏa lòng vì đã làm hết phận mình. Anh liên hệ với chị Cẩm Nhung và hy vọng sẽ có sự chỉ dẫn hữu ích.

Trong bốn anh chị em, chị cả Cẩm Nhung chịu nhiều vất vả thiệt thòi nên toàn bộ gia sản mẹ để lại, các em đều dành cho chị. Nhờ đó chị đã chuộc lại được phần ngôi nhà mà trước kia cậu đã cưu mang cho người đồng đội tá túc tạm thời trong lúc xảy chân. Ông Lý Qúy Dân trước khi về chết ở quê, sượng sùng nói với người bạn một thời kháng chiến gian khổ có nhau và đã giúp đỡ mình:

- Xin anh tha cho vì tôi bất lực không bảo được vợ con.

Nhưng thằng Lý Qúy Quốc nói át cha:

- Bố dở hơi! Thời nay người ta sống có theo đạo lý nào đâu mà bố cứ tự hành mình như thế? Hỏi như mấy đồng tiền mồ hôi xương máu của bố gửi tiết kiệm dành cho con từ dạo con ở truồng không biết xấu hổ đã bị người ta hô biến công khai mà có ai mắc tội tình gì?

Ông nắm tay người bạn già, mếu máo:               

- Khi bà lão nhà tôi mất, tôi bảo thằng con để đại tang như là cái nghĩa cho mát lòng người quá cố mà cũng đẹp đời. Nhưng mẹ nó bảo bà ấy đi theo đoàn thể thì đoàn thể để tang cho bà ấy chứ lúc sinh tiền bà coi nó có là cái gì đâu! Nhưng rồi chúng nó lại xí phần, bảo bán nhà cửa đất đai đi, lên mua nhà thành phố. Tôi làm sao dám làm điều phụ bạc? Nhưng tôi nằm xuống là chúng nó chẳng cần biết đất nhà thờ, đất nghĩa trang gia tộc gì đâu. Chúng nó chỉ cần tiền! Tôi thật đắc tội với tiền nhân! Ngày mình theo Đảng đi đánh thực dân đế quốc có nghĩ tới ra cơ sự thế này đâu?!

So với cha con ông Thanh thì mẹ con cô Ngọt không phải là nghèo. Suốt thời bao cấp, mọi người cứ tự hào yên phận với tiêu chuẩn khẩu phần đủ thứ của mình thì ba mẹ con cô bất chấp những điều tai tiếng thị phi, vẫn nhởn nhơ lưu thông hàng hóa tuồn từ luồng hàng chính thống ra thị trường dân chúng đang khát khao, tiêu thụ với bất cứ giá nào nên được ăn ngon, mặc ấm và còn dư của để chạy cho thằng con thoát khỏi mọi đợt tuyển quân và tăng tích lũy. Đến thời đổi mới tư duy, mọi người được cởi trói – tự cứu lấy mình, có bột mới gột nên hồ, mẹ con cô phất lên nhanh chóng. Cô Ngọt vênh vác, chẳng cần dè dặt, nói toang toác:

- Tao đi lên từ cái chỗ con phe xó chợ đầu đường suy ra còn lương thiện hơn nhiều ông cán bộ quen ăn vụng dân lại nhờ có chức quyền đi ngang về tắt, cũng phe đủ thứ, kể cả cái ghế họ đang ngồi, cái mề đay đeo trên ngực!

Cô để cho con Thảo Nguyên nói bắn tin với cha con người đã cứu giúp mình:

- Nếu nhà tôi không đến ở cũng có người khác xông vào. Cách mạng nào chịu để cho dân nghèo nằm chết rét ngoài đường trong khi người khác ở rộng thênh thang? Đây là nhà mẹ tôi thuê, trả tiền hàng tháng hẳn hoi chứ có ở nhờ ở đậu gì đâu? Bố mẹ tôi cũng kháng chiến, cũng mất mát đủ điều, cũng chịu nhiều oan khuất, gia đình lại không có ai theo giặc mà đã được nhà nước ưu ái cái gì đâu? Đuổi chúng tôi ra ở ngoài đường thì chế độ còn gì là ưu việt nữa? Chẳng ai ngu mà bước ra không. Xã hội này đều như thế cả!

Cẩm Nhung phải ngọt nhạt thương lượng với cô, chịu bồi thường một phần ba ngôi nhà theo giá thị trường, mẹ con cô nhận cho còn là biết giữ tình hữu nghị. Cô tậu luôn căn nhà to gấp rưỡi ở ngay đầu phố. Cẩm Nhung than thở với cha:    

- Giúp người, hại mình! Người ta khi nghèo khổ thì hiền lương tử tế nhưng khi có chút tiền chút quyền thì lòng tham và tính háo danh nổi dậy, dễ thành phản trắc thậm chí là độc ác. Hiểu ra thì đã muộn rồi. Khốn nỗi chẳng cái dại nào giống cái dại nào, cũng như chẳng điều xấu nào giống nhau để biết mà ngừa. Sống giữ cho yên mình thật khó!

Cha cô tặc lưỡi :

- Mỗi thời cái dại, cái khôn một khác, làm sao biết được. Sống đừng hại ai cũng thiệt nhưng là để phúc về sau con à!

Người vợ liệt sỹ ấy đã chuẩn bị chu đáo cho em.

Nhà nữ ngoại cảm không còn trẻ nhưng chưa thể gọi là già, dáng hiền hậu nhưng nét mặt không biểu cảm ngay cả khi cười. Mọi người gọi là cô với vẻ thành kính như người ở cõi trên.

Cô chắp tay hướng lên bàn thờ gia chủ lầm rầm lời khấn không ai nghe rõ. Rồi lại khấn vái sáu phương đông-tây-nam-bắc-thượng-hạ. Cô qùy gối trước chiếc bàn đặt ở giữa nhà có ba nén hương đang tỏa khói cắm trong cái ly đầy gạo, một ngọn nến lung lay mỗi khi có làn gió nhẹ lọt vào, tấm ảnh của liệt sỹ Quốc Anh đặt trên cuốn nhật ký chiến trường để mở mà Nhân Trí còn lưu giữ được và hai tấm ảnh ông bà dược sỹ. Sau mấy phút nhìn đăm đắm vào những tấm hình, nhà ngoại cảm mở to mắt ra tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Em chào anh ạ! Em là… được gia chủ mời tới đây để tìm hài cốt người thân là liệt sỹ Nguyễn Quốc Anh, hy sinh tại mặt trận Quảng Trị mùa hè năm 1972.

Sau đó cô là người chuyển dịch cuộc nói chuyện giữa cô với những người đang có mặt ở đây hiện hữu và vô hình:

- Bác nào đậm người, trông khỏe lắm, có bộ răng trắng đều, miệng rất tươi, lúc nào cũng như cười. Bác ấy nói: Tôi đưa chú ấy về nhà của tôi để gặp mọi người!

- Anh Dũng! – Cẩm Nhung bật lên, suýt khóc òa nhưng cô kịp chụp hai tay lên miệng, giữ chặt lại vì nhà ngoại cảm đã dặn trước tránh mọi sự xúc động quá mức có thể làm gián đoạn cuộc gặp gỡ âm-dương.                

- A! Cháu chào các bác! Em chào anh Quốc Anh! Chị Yên Thịnh và anh Nhân Trí mời anh về đây để hỏi hài cốt của anh hiện nằm ở đâu ạ? để đưa anh về nằm ở một nơi nào anh muốn ạ! 

- Hai anh em lãnh chung một trái pháo lớn từ ngoài biển bắn vào. Anh ở gần mà chỉ bị hất tung lên. Tôi ở xa hơn nhưng chịu nhiều mảnh đạn, xương thịt tơi bời.

- Thế hài cốt anh có được ai mai táng ở đâu ạ?   

- Đơn vị hy sinh gần hết. Người ta vùi chung vội vã trong một nấm mồ tập thể. Mấy năm trước địa phương đã cải táng dời vào khu vực chiến sỹ vô danh ở nghĩa trang liệt sỹ Trường sơn.

- Trong đó có cả anh chứ ạ?

- Không, khẩu súng có khắc tên tôi và người bạn gái tuy cũng bị gãy nát nhưng còn đeo bên mình. Một người quen nhận ra và đưa tôi tới một nơi cách ngôi mộ chung đó không xa, chôn riêng trên một nền nhà bỏ hoang.

- Đúng rồi! Khẩu B41 có khắc tên Quốc Anh – Minh Hà, lúc nào cậu ấy cũng đeo kè kè bên mình, kể cả lúc ăn, lúc ngủ! – Nhân Trí nghẹn ngào.

- Bây giờ anh có còn nằm ở đấy nữa không ạ?

- Vẫn nằm nguyên đấy ở giữa nhà, buồn lắm. Người ta lại xây lên nhà tầng, khi đào móng chút nữa chạm vào tôi!

- Anh giúp em tìm được hài cốt  đưa anh về nghỉ nơi vĩnh hằng yên tĩnh có được không ạ?

- Dễ tìm thôi. Con đường dọc làng đi qua ấp đấy. Ngôi nhà quay ra mặt đường, có con chó ngồi trước cửa nhìn ra, thấy người lạ bước tới thì nó đi vào, ngồi ở góc nhà.

- Anh phù hộ cuộc đi tìm mộ của chúng em thành công ạ! Hai bác bảo cứ đi đi, các bác xót con nằm không yên nơi ngày đêm người ta qua lại vô tình giẫm đạp lên. Tay cầm ba nén hương, khi đi qua dãy nhà tự nhiên cả ba nén hương cùng tắt, cứ chiếu thẳng ngôi nhà đối diện mà vào. Cháu cảm ơn hai bác ạ! Em không thấy bác đậm người, khoẻ mạnh, lúc nào cũng cười tươi nữa.

Chị Cẩm Nhung không nén nổi lòng, gào lên như phút vĩnh biệt anh trong bệnh viện ngày nào:

- Anh Dũng ơi… Đừng bỏ em!

Cơn khóc bị dồn nén bao lâu òa ra.

Nhà ngoại cảm như trong cơn mơ bừng tỉnh, nét mặt mệt mỏi, ngơ ngác nhìn mọi người.

Nhân Trí tổ chức chuyến đi chu đáo. Những người ruột thịt và nhiều bạn bè thân thiết cùng đi.

Địa hình thay đổi hết, không nhận ra được nữa nhưng địa danh thì anh không quên nên dò dẫm hỏi cũng tới nơi. Người lớn xưa không còn ai, hoặc tứ tán đi đâu, hoặc đã về cõi thiên thu. Người trẻ mới lớn lơ mơ về những gì đã xảy ra ngay chính trên mảnh đất mình đang ở. Trước kia chỉ là một vết đi mờ trên dải cát trắng xuyên suốt mấy ấp, bây giờ là con đường cái chính xuyên làng trải nhựa, xe ô tô tải đi lại bụi bốc mù lên. Ai cũng hồi hộp nhưng không thể hiện sự ngại khó hoặc nôn nóng vì mất mát thời gian. Con đường dài, đi chậm để xem xét địa hình, cảnh vật chung quanh. Chiều ngày thứ ba, có người tỏ ra mệt mỏi, lung lay ý chí, giảm niềm tin. Nhà ngoại cảm coi đó là chuyện bình thường:

- Người trần chỉ đường cũng đã khó tìm huống chi là người âm chỉ.

Góc ruộng bên đường còn xác một chiếc xe tăng. Mọi người dừng lại, vừa đứng xem vừa nghỉ. Bỗng nhà ngoại cảm xăm xăm lội xuống giữa ruộng lõng bõng nước, cô vục tay gom đất thành một ụ nhỏ, vẫy người cùng xuống châm một nén hương. Cô lầm rầm nhỏ to khấn vái rồi quay lên bờ :

- Nơi ấy vùi xác một người lính Sài Gòn. Anh ta bảo nằm dưới ruộng này lạnh lẽo lắm và chỉ sang dãy nhà phía xóm đàng kia có một người lính giải phóng bắn cháy xe của anh ta vẫn đang nằm ở đó…

Cô nói với vợ chồng Yên Thịnh: 

- Đừng cố chấp chuyện đã qua. Anh chị ra thắp hương và hứa sẽ bốc cốt cho người ta, rồi người ta sẽ giúp mình. Bây giờ ai cũng là những linh hồn, không thể hại nhau.

Nhân Trí và Yên Thịnh nghe theo lời khuyên, lội ra giữa ruộng, gom đất thành cái ụ to hơn, thắp hương và khấn:  

- Chúng tôi đi tìm mộ người thân. Tình cờ gặp anh ở đây. Lúc sống chúng ta bắn nhau mà cũng chẳng có thù hận riêng gì. Bây giờ là lòng xót thương con người với nhau. Chúng tôi sẽ cải táng anh về nơi cao ráo và sạch sẽ hơn.

Bỗng nhiên một luồng gió mạnh thổi mấy nén hương bùng cháy lên…

Đoàn người quẹo qua con đường nhánh vào xóm nhỏ. Trong khi mọi người đang quẩn quanh nhận xét địa hình thì một cơn gió xoáy làm cả ba nén hương trên tay nhà ngoại cảm cùng tắt lịm đi. Nét mặt nhà ngoại cảm hớn hở, mắt sáng ra, loanh quanh nhìn mấy ngôi nhà tầng quanh đó thì Yên Thịnh chỉ:

- Nhà bên kia có con chó !

Mọi người xô qua đường hướng tới ngôi nhà tầng. Con chó đứng trước sân lùi lũi đi vào, ngồi chống chân trước cửa đề phòng. Thấy người ta đông qúa, dường như sợ, nó cụp đuôi, lùi dần vào rồi ngồi chồm chỗm góc nhà trong tư thế nhe răng cảnh cáo. Thấy nhiều người xôn xao kéo tới, chủ nhà ra hỏi sự tình. Anh xã đội giới thiệu chủ khách. Nhân Trí trình giấy tờ hợp lệ. Ông bà chủ không phản đối nhưng còn dè dặt :

- Nếu đúng có chuyện ấy thì chúng tôi hoàn toàn ủng hộ vì đây là việc làm đền ơn đáp nghĩa và mình đi lại trên chỗ người thiêng nằm là có tội. Nhưng nếu không đúng thì các vị tính sao?

- Dù đúng hay không, chúng tôi cũng phải có trách nhiệm hoàn nguyên trạng. Chỉ xin gia chủ cho phép chúng tôi tiến hành công việc thuận lợi thôi.

Nhà ngoại cảm chỉ vị trí khai quật đúng ngay nơi con chó đã ngồi. Sự thật đúng là như thế. Hộp sọ bị vỡ toang. Xương chân bị gãy. Khẩu B41 gãy gập và rỉ sét nhưng dòng chữ Quốc Anh – Minh Hà khắc trên báng súng vẫn còn. Minh Hà không ngờ người bạn trai ngày ấy đã in hình mình trong trái tim anh nặng sâu như thế. Những giọt nước mắt của cô rơi trên dòng chữ hẳn làm cho chàng họa sỹ vui lòng.

Ông chủ nhà chắp tay vái cái tiểu xương:

- Xin liệt sỹ xá tội vì lâu nay chúng tôi không biết!

Ông quay qua nói với mọi người:

- Từ ngày về ở đây, thỉnh thoảng tôi thoáng thấy bóng người đeo súng đi vào nhà rồi biến mất! Các vị làm việc này vì tình riêng và cả nghĩa chung, cũng là giải thoát cho gia đình tôi. Xin các vị cứ lo việc hậu táng cho liệt sỹ. Chuyện sửa sang nhà cửa chúng tôi lo được.

Bỗng nhà ngoại cảm nhìn Yên Thịnh hỏi:

- Chiếc xuồng máy đang chạy giữa biển vào ban đêm thì bánh lái bỗng nhiên bị rong biển quấn vào. Mọi người cuống cuồng lên?!

Yên Thịnh run lên. Chuyến ấy hai chiếc cùng khởi hành, mở hết tốc lực chạy thục mạng. Xuồng của vợ chồng cô đột nhiên gặp sự cố, tưởng sẽ bị bắt lại trong khi chiếc kia vẫn ngon trớn chạy. Nhưng vào tới lãnh hải Hồng Kông thì không thấy chiếc xuồng ấy đâu nữa. Những người trên đó cũng bặt tăm tích luôn. Không chừng họ gặp nạn gì?

Nhà ngoại cảm quay qua Nhân Trí:

- Linh bảo muốn về nằm ở nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn, nơi ấy có nhiều đồng đội. Tìm được linh là nhờ vào một người quen cũ đấy. Người ta bây giờ còn sống nhưng khổ lắm, ở mãi trên rừng có con đường mang tên số. Phải tìm mà giúp người ta.

Lòng anh xao xuyến về một sự ứng nghiệm không thể nào giải thích.

Lễ cải táng liệt sỹ được địa phương phối hợp với gia đình tổ chức theo đúng ý của người đã hy sinh trong không khí trang nghiêm và đầy tình thương xót. 

Nhân Trí giữ đúng lời hứa đưa người lính Sài Gòn khỏi nơi ruộng nước. Nhưng việc tìm người còn sống để trả ơn thì dịp này anh chưa làm được. Vả lại người quen cũ đấy là ai? Biết bao nhiêu người tốt bụng cưu mang chiến sỹ thật sự vô tư. Anh muốn có thời giờ nghỉ ngơi và suy nghĩ.

Thủy Tiên nghỉ làm cô giáo:   

- Ngày xưa, dạy học là nghề yên tâm thanh thản nhất dù không giàu có. Bây giờ thầy cô chịu nhiều sức ép, của học trò, của phụ huynh học sinh, của cả đồng nghiệp và còn cấp cao hơn nữa. Phụ huynh nào cũng muốn con em mình thành một nhân tài. Nhà trường mỵ dân ép giáo viên xuề xòa tạo nên thành tích ảo vừa được việc mình vừa hợp ý trên. Học sinh ngộ nhận về thực lực của mình, càng sinh ra lười nhác. Thi cử chạy theo thành tích, trên dưới đều hỷ hả… Suy cho cùng, cả xã hội cùng thỏa mãn về sự tắc trách của mình. Người thầy không tìm thấy niềm vui trong nghề nghiệp nên khó lòng yên với phận mình thì làm sao sống gương mẫu được!

Cô vốn khéo tay, thời đi học ham thích nữ công. Gặp lúc xã hội mở rộng giao lưu, hàng hóa phong phú. Cô giao tiếp rộng, hiểu được nhu cầu thị hiếu mới, có óc tổ chức nên rủ chị Nhài và Dạ Lan cùng hợp tác mở tiệm thời trang. Chị em cô là những người đi đầu của một nghề mới, đi lên từ cơ sở của chị Nhài. Với tính cẩn thận chắc chắn và kinh nghiệm thương trường của chị, kết hợp với óc sáng tạo của Dạ Lan và sự sắc sảo nhạy bén của Thủy Tiên nên cơ đồ phát triển, nhiều người biết tiếng.

Dạ Lan hài lòng với hạnh phúc của mình, nói với chị Nhài:

- Ngày học trường Đồng Khánh Huế, thày tử vi bảo em có số tiền hung hậu cát, hai đời chồng nhưng không làm bé. Suốt đời em không quên ơn chị.

Sau ngày giải phóng, cha anh Bảo Phúc trở về. Hồi tết Mậu Thân, ông bị bắt, may gặp con người bạn học theo bên Cách mạng nên ông được đem vào chiến khu rồi đưa ra Bắc, lao động ở nông trường. Lúc nước nhà thống nhất, ông được trả tự do về với gia đình. Dạ Lan cho thằng Bảo Thân về sống với nội và chu cấp đều cho con ăn học. Nó ngoan, có hiếu, học giỏi, đậu vào trường Y khoa Huế. Cô vẹn tình vẹn nghĩa với người tình xưa và bây giờ, được vui trong duyên mới. Thằng Ái Nhân như là đứa con chung của ba người đàn bà có thân phận không may khác nhau cùng sống dưới mái nhà này. Nó ra đời lúc cô long đong vất vả. Thủy Tiên đặt tên cho nó:

- Ở đâu mà con người biết yêu thương nhau sẽ không còn bất hạnh!

Nhân Tín tỏ ra chín chắn. Dạ Lan chuẩn bị cho chồng một trang trại nhỏ chăn nuôi gia súc, mục đích để giữ chân anh. Nào ngờ anh tìm được thú vui trong công việc mới. Các loại sách vở chăn nuôi chất đầy bàn, đầy tủ. Trang trại của anh mở rộng dần ra và vật nuôi đa dạng hơn, nhiều người biết tiếng. Anh quan tâm đến những việc gì liên quan thiết thực tới công việc của mình. Xã hội mở cửa, nhiều bạn cũ của anh tứ phương đi về gặp nhau. Dạ Lan lo trong bụng mà không dám nói. Anh biết ý vợ, bảo:

- Em cứ yên tâm với công việc của em đi. Đời người ngắn lắm, được làm việc trong sự yên bình đó là hạnh phúc. Người Việt mình bây giờ dù còn khác chính kiến nhưng không ai dại ham chuyện khuấy lộn, hỗn loạn, giết hại nhau đâu.

Vợ chồng cô Thêm di tản qua Pháp cũng trở về. Ông Dương Trọng Đức bây giờ hành nghề Luật, mở Công ty tư vấn đầu tư, có đông khách hàng từ Nam ra Bắc. Ông bà đi về thường xuyên, ở trọ khách sạn. Ngôi nhà cũ ở Đakao trước khi xuất cảnh cô đã sang chủ quyền cho bà chị, các cháu đang làm cơ sở kinh doanh. Biết lòng vợ còn vẩn vơ luyến tiếc, ông khuyên giải bà:

- Của giả là thứ phù du, lúc nó làm mình thăng hoa, lúc nó làm mình chìm đắm. Ngày ấy xác xơ nhớn nhác, nháo nhào theo nhau bỏ của chạy lấy người chứ có ai đuổi mình đi đâu? Giá như là cục kim cương mình còn mang đi được. Cứ bo bo giữ lấy của, cả người nữa chắc chi còn? Coi như trên đường đời mình thoát cơn sóng gió đắm đò. Mạng người là qúy nhất. Còn khối óc, bàn tay lại làm ra của. 

Giới có của mới ngày một đông. Dù lắm đất, nhiều nhà, của nổi, của chìm cơ man đều được Nhà nước chấp nhận và cổ võ dưới cái tên là doanh nhân mới. Đại hội biểu dương giới doanh nghiệp thành đạt thật đông vui. Yên Thịnh, Thủy Tiên, vợ chồng Dạ Lan, ông Đức bà Thêm có trong số đó. Ai cũng mặc đẹp, lại có bông hoa lóng lánh cài trước ngực, nét mặt tươi tắn và rạng rỡ. Ông nhà nước khen đáo để. Cả xã hội hăng hái làm giàu! Một ông nhà văn già tay giơ cao ly rượu hồng lớn tiếng chúc mừng:

- Tôi chúc cho các nhà doanh nghiệp trẻ chúng ta thành công, đại thành công. Thương trường là chiến trường. Chúng tôi mong các bạn cũng có nhiều anh hùng, dũng sỹ như những người lính chúng tôi chiến đấu trước kia!

Người ta cùng nâng cốc, cụng ly hoan hô ông nhà văn quảng bá một nền văn hóa doanh nhân kiểu mới. Chủ xí nghiệp tư nhân trẻ Bùi Công Danh đến bàn có lẫn lộn mấy ông nhà văn, anh ta tự kéo ghế ngồi, chạm cốc và ngửa cổ uống cái ực, hướng về ông nhà văn già:

- Em không nói lại được mấy vị văn chương chữ nghĩa bề bề. Em chỉ xin nói thực lòng. Các vị chúc thành công, đại thành công thì em xin nhận. Nhưng để trở thành anh hùng, dũng sỹ thì em không dám!

Anh lấy cái chân gỗ đá mạnh vào chân ông nhà văn dưới gầm bàn làm ông đau điếng: 

- Ngày xưa em mất cái này mà vẫn chưa được thành dũng sỹ, anh hùng. Bây giờ em chẳng dại. Tuy nhiên danh hiệu ấy em vẫn để thờ chứ không dám xúc phạm tới đâu!

Ngước lên, anh nhận ra ông cậu bác sỹ nhà văn Ngọc Thạch mặt mày nhăn nhó cùng ngồi trong số đó. Cậu, cháu tuổi tác không chênh nhau mấy. Anh đứng lên kéo ông cậu đi:

- Cháu vì xã giao phải tới đây để trưng cái mặt ra và đóng góp vào từ thiện. Dù sao cậu cháu mình từng mang áo lính, đánh nhau với giặc bằng súng bằng lê chứ không bằng miệng, đã đổ máu ra chứ không phải là nước bọt và thấm thía một điều là mình còn sống sót tới hôm nay đã quá là hạnh phúc. Nhưng thời thế đổi rồi. Bây giờ không ai ham những chuyện lạc lõng viển vông. Ngày xưa người nghèo là chí cốt, là chỗ dựa của người cách mạng. Bây giờ nghèo là hèn! Giàu mới sang và đáng trọng! Doanh nhân giàu đã đành nhưng không ít người  cách mạng cũng giàu lên rất nhanh! Khoảng cách giàu nghèo ngày càng mở rộng có là điều lạ trong mô hình xã hội có định hướng công bằng, dân chủ, văn minh và không còn giai cấp? Mọi người đều là đồng chí cả! Vậy thì cổ phần hóa xí nghiệp rồi để nó lọt vào tay ai? Và tích tụ ruộng đất cho ai được lợi? Nhà doanh nghiệp với nhà tư bản khác gì nhau? Điền chủ, địa chủ khác gì nhau? Người lao động có phải đi làm thuê cho ai không? Ai vận hành xã hội nếu không là người nắm của cải vật chất trong tay! Xóa đói giảm nghèo nhưng cái đói cái nghèo mỗi thời một khác, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố: con người, xã hội và thiên nhiên. Người hiền lương không ước mơ được làm ông chủ mà chỉ muốn điều thiết thực là được có việc làm ổn định, được đảm bảo an sinh, rũ bỏ đi nỗi lo triền miên day dứt  của cái phận nghèo thì mới mong có được quyền bình đẳng! Cháu không là người lữ hành trên sa mạc để tin vào ảo ảnh nào. Cháu biết rõ mình đang sống giữa cuộc đời này trên đất nước Việt Nam vào những năm đầu của thiên niên kỷ thứ ba và đang ngồi trên lưng cọp nhưng vẫn tỉnh táo để nói với cậu rằng: Thời nào cũng thế, người anh hùng dũng sỹ tự nguyện hy sinh vô tư vì việc nghĩa. Thằng đi buôn phải tính lợi cho mình, không dụ được đâu. Doanh nhân với chính khách giống nhau – Không đa trá không được việc. Nguyễn Du thánh thật! Cụ cho Hoạn cô chiêu với Thúc cậu ấm kết duyên Châu-Trần là sự gá nghĩa giữa quan với lái. Có quyền, có tiền việc gì chẳng xong. Hèn chi người như Kiều chỉ làm thân lươn trạch! Mấy ông nhà văn chen vào chốn đó làm chi? Hơi đồng tanh thật nhưng mấy ai chê? Rồi là một dây một buộc đố dằng cho ra thì có là xạo hết chỗ nói không nào?!  

Hai cậu cháu trọn một đêm say thật với nhau. Tàn canh, lúc trời hửng sáng, nó bật dậy, vươn vai ngáp xả hơi, giọng tỉnh như sáo:

- Mọi sự rồi sẽ đổi thay dù không biết hay dở thế nào. Con bài chưa lật ngửa nhưng đang lộ diện! Ai cũng nghĩ phải tự lo cho mình và thế là chẳng ai lo cho ai cả! Chúng ta đang ngồi trên con tầu tăng tốc mà nhiều người cùng cầm lái. Thân phận mình không biết gửi vào ai!

Hai người trẻ tuổi trải lòng cho nhau để rồi mỗi người lại đi một ngả theo con đường mình chọn.

  Cha con anh Bình có lúc sa cơ lỡ vận tưởng như sạt nghiệp nhưng thằng Danh đã xúi bố mẹ bán đất đai đi cho nó làm vốn phục hồi. Nó nên sự nghiệp nhưng cái tình trong họ chẳng còn. Quê cha nó ở mãi xa. Chốn này là quê mẹ. Các cụ ngoại lập nghiệp ở đây từ mấy đời, cơ ngơi khá giả, ruộng vườn vào loại không nhất cũng nhì làng. Gặp thời chiến tranh nhà tan cửa nát. Sau đó là những biến động, họ mạc chẳng ai thiết đến ruộng vườn. Con cháu làm không xuể thì giao cho hợp tác. Cha nó miệt mài đi đó đi đây để mặc cho mẹ nó một đàn con. Nhờ ruộng đất của ông bà, mẹ con nó bám lấy, xoay xỏa, sống đắp đổi qua ngày. Đến lúc khoán sản, các Hợp tác xã rã ra. Ruộng đất mạnh ai nấy chiếm. Công điền công thổ làng xã ngày xưa mất sạch huống chi là ruộng đất tư đã để cho người khác canh tác bấy nay. Đến khi đất đai đã biến thành vàng thì sự tranh giành trở nên quyết liệt. Cái lý đã chẳng rõ ràng thì tình khó giải. Thằng Danh lý sự:

- Đành rằng là đất của các cụ ngày xưa nhưng con cháu không làm thì cũng giao cho người khác, liệu có đòi lại được không? Như ông trưởng tộc nhà mình đấy, phần đất của cha đã hưởng, còn mảnh đất để mồ mả ông bà gia tộc cũng khoanh lại, bán đi, lên nhà lầu, tậu xe máy. Có ai phân biệt là đất ruộng hay đất nghĩa trang đâu?

Ông Thanh chồng chất thêm những ưu phiền: Mình còn đây mà con cháu coi như không có. Mối quan hệ gia tộc rã rời rồi. Chẳng còn ai biết sợ, biết nghe ai nữa! Nghĩ tới ông bà cha mẹ thuở xưa chắt chiu nín nhịn, có chút của tậu ruộng vườn lo cho con cháu lại bị coi là của chiếm đoạt, phi nghĩa! Bây giờ người ta của cải cơ man nào, lấy ở đâu ra mà nhanh như thế? Điều gì làm nên những sự đảo điên trái luân thường vậy? Thuở xưa, làm giàu là sự tích lũy từ đời ông, đời cha cho tới đời con, đời cháu. Mỗi đời gom tích lại một chút mới nên. Các cụ bảo làm giàu nhanh chỉ có đi ăn cướp! Người ta coi khinh những anh giàu sổi. Nhưng bây giờ toàn người giàu sổi. Nói rằng do máy móc hiện đại tinh vi, của cải làm ra nhanh, nhiều thật đấy. Nhưng công điền công thổ chỉ teo tóp lại chứ đâu có nở ra? Nhà phố, đất ruộng, đất rừng lọt vào tay kẻ này ắt phải tuột khỏi tay người khác. Xã hội lại sinh ra lớp kẻ giàu người nghèo mới! Những anh giàu mới ngoi lên ắt bao che bênh vực cho nhau. Người nghèo vẫn nai lưng ra làm phu, đi lính… Cứ như thế loanh quanh luẩn quẩn! Cái kỷ cương luân thường chẳng còn thì cái tình muôn năm cũ cũng nhạt phai đi. Chúng nó nghĩ sao chứ Hiếu giả bách hạnh chi tiên, chớ có coi thường.                                 

Ngọc Thạch ước làm một nhà văn. Là thày thuốc trẻ có chỗ làm, chỗ đứng như anh là niềm ao ước của khối người. Nhưng ít ai hiểu lòng anh. Anh thường hỏi ý kiến thầy Đức Phúc:

- Bây giờ ai cũng điên lên làm giàu. Đến lúc nào đó, người ta sẽ cảm thấy cuộc sống ấy nhàm chán và vô vị, muốn trở về với cuộc sống giản dị hơn, thật người hơn. Nhưng lúc này người ta trưng ra bao nhiêu mẫu người và bảo đây là mới.

- Con người có lịch sử hàng triệu năm rồi, quá đủ thời gian để ngành khoa học nhân văn phác họa chân dung của từng giới người trong xã hội. Là vua phải minh. Là quan phải liêm. Kẻ sỹ phải hiền. Là thầy phải chính. Là tướng phải mưu. Thầy tu phải xả. Thầy thuốc phải nhân. Đi buôn phải thật. Người trên khoan hậu. Kẻ dưới trung thành… Chẳng qua là bình cũ rượu mới thôi.

- Thế nhà văn?

- Viết văn là chơi với chữ. Con chữ vậy mà có hồn, nó gây ra đủ điều ân oán! Khen chê đời đều khó cả. Nhìn ra cái thiện, nhận ra điều ác không dễ đâu. Nói là tự cái tâm nhưng phải là cái tâm từng trải với lòng nhân ái vị tha. Khi những điều viết ra không thuận lòng mình mà được khen nghĩa là ta đang mài cùn đi ngòi bút. Khi viết thật ra lòng mình để chia sẻ những nỗi khổ đau bất hạnh, vạch ra cái sự vô nhân, có thể lụy tới thân! Sự ghét thương đều từ đó mà ra.  

- Em muốn chuyên tâm cho việc viết văn.                    

- Phải chuẩn bị chu đáo. Cần có một nghề sống độc lập, để cây bút trong tay không lệ thuộc vào ai. Đừng làm quan chữ. Đừng đi buôn chữ. Đừng để cho mình hóa dại hóa rồ vì chữ đến nỗi dùng chữ hại người, mắc bả hư danh mà mang họa, tai tiếng để đời!     

- Thầy cho em kinh nghiệm của chính mình? 

- Thật ra tôi chưa bao giờ có một mơ ước lớn. Tuổi trẻ tôi không biết làm gì. Đi học như chuyện tất nhiên của thời thơ trẻ. Dù có đậu bác sỹ chưa chắc tôi đã hành nghề y. Tôi theo kháng chiến như một sự tình cờ đẩy đưa. Tôi viết văn từ một xúc cảm bất thần và tôi đã khổ vì nó rồi tôi xa lánh nó mặc dù lòng riêng tôi vẫn vấn vương. Nhưng tôi không ân hận. Trước kia, Tổ quốc, Nhân dân với tôi là một khái niệm mơ hồ. Bây giờ là máu thịt. Tôi cảm thấy mọi vui buồn của mình có nơi chia sẻ. Người ta không thể được cả hay là mất cả. Bước vào cuộc đời mới chập chững ngây thơ. Ông Nguyễn Khắc Viện là bậc đàn anh, cũng là tấm gương lớn về sự học và sự dấn thân nói câu chí lý: “Hãy bỏ đi phần ngây và giữ lại phần thơ! Trong sự ngây thơ có cái dở là dại khờ, có cái hay là vô tư trong sáng, Đó là đôi cánh thiên thần cho con người có thể níu vào đó để bay lên. Con người mà chỉ có tinh khôn sẽ thành con cáo! Tôi mượn ý thơ của Exênhin để nói với mình và bây giờ chia sẻ với em :

          Nếu một ngày thiên thần lên tiếng gọi

          Bỏ quê hương lên sống ở thiên đường

          Quê hương ơi… Thiên đường xin để đấy

          Giận ngàn lần nhưng thương vẫn cứ thương.

Nhân Trí không quên lời dặn của Quốc Anh qua nhà ngoại cảm. Anh rà lại bao nhiêu người quen cũ lâu nay tưởng đã nhòa trong trí nhớ. Người quen cũ ấy của ai? Tình cờ anh đọc lại nhật ký của em. Đúng rồi, Hiền là người quen của anh mà Quốc Anh cũng biết. Cô Hiền vẫn trêu em mà là thủ trưởng của anh đó thôi? Anh phân vân, một người con gái đẹp và đảm đang tháo vát như thế có thể lâm vào cảnh khổ tới mức nào? Nhưng anh cũng muốn gặp lại người xưa. Anh kể thật tình với vợ. Vì gợi ý của em, Yên Thịnh cũng tán thành nhưng cô muốn cùng đi với chồng.

Con đường mang tên số thì nhiều nhưng đường Chín là chiến trường cũ của anh với những địa danh Gio Linh, Cam Lộ…  mà nay nghe nhắc tới người anh như nổi da gà. Nhưng bây giờ cảnh lạ, người lạ biết tìm ở đâu. Anh sắm chiếc xe máy thật khỏe, đi tới cụm dân cư nào cũng lần mò vào hỏi thăm dò. Mùa nắng, những cơn gió lào gợi nhớ một thời, có lúc anh không hiểu nổi tại sao mình đã qua được những ngày như thế? Ngày xưa chỉ có bộ đội và du kích mới ở nơi cùng kiệt núi rừng. Bây giờ người đông đất chật, người ta lần vào mãi những vùng đồi núi hoang vắng sâu xa khai phá. Yên Thịnh đã nản. Anh động viên:

- Làm việc gì cũng vậy, đến lúc mệt nhất là sắp thành công đấy.

- Anh không thấy mệt vì có nguồn động viên đặc biệt gặp người tình xưa.

- Người ta có chồng con rồi còn làm gì được nữa?

- Có người mòn mỏi đợi chờ mới có được bản tình ca nàng Solveig chứ?

Vợ chồng anh nghỉ chân trong một quán sâu mãi cuối đường mòn. Mấy người uể oải ngồi than thời tiết. Nét mặt ai cũng chai sạn và như già trước tuổi. Nhân Trí hỏi lần dò. Một ông già ở đây đã lâu, mách:   

- Anh hỏi tầm phơ như thế có mà tìm cả năm. Ở đây là dân tứ xứ và có nghèo thì mới phải ở mãi nơi sơn cùng thủy tận này. Ít ai biết tên tuổi của nhau. Có một gia đình từ dưới Quảng Trị lên đây lâu rồi nhưng gia cảnh thảm thương lắm. Lúc đầu ở gần lộ lớn, sau túng thiếu qúa, sang lại bán đi, cứ thế lùi sâu thăm thẳm vào mãi cuối xóm kiệt cùng trong kia. Không ai biết tên cả vợ chồng con cái. Người ta gọi là cái nhà trời đày. Anh cứ đi theo con đường này chừng vài cây số, ở cuối ngọn đồi thứ hai, giáp cái núi lớn chắn ngang, chỉ có một cái chòi lá độc nhất thôi là đó.

- Tại sao lại gọi là nhà trời đày hả bác? – Yên Thịnh ngại ngùng.

- Tưởng ác miệng mà thật ra đúng là như thế. Cứ tới khắc biết. Ông ta là thương binh, dù có thương bao nhiêu cũng không binh nổi!

Nhân Trí không tin rằng người xưa ra nông nỗi ấy nhưng anh muốn đến tận nơi vì tính tò mò mặc dù vợ anh lộ ý muốn lui.

Hai người ngập ngừng đứng ở đầu ngõ. Ngôi nhà như chiếc áo tơi rách nát. Ngoài sân cỏ rác ngổn ngang. Trong cái yên lặng đến rợn người bật lên âm thanh chói tai như  tiếng hú của con thú hoang. Yên Thịnh bấu chặt vai chồng. Một người phụ nữ quần áo lôi thôi từ phía sau nhà chạy ra. Thấy người lạ, cô ta hốt hoảng, đi thụt lùi như muốn bỏ chạy. Nhân Trí vẫy tay cười thân thiện. Cô dừng lại, lắc đầu quầy quậy, cái mặt như người ngớ ngẩn. May sao từ trong nhà thấp thoáng bóng ai. Một ông già hốc hác hom hem, tóc bạc trắng, dáng lòng khòng đứng trong cửa hỏi ra:

- Ông bà đi tìm nhà ai?

Nhân Trí chưa kịp trả lời đã nhận ra sau lưng ông còn có một người như bộ xương khô, hai tay vịn vào vai người phía trước, đôi chân dặt dẹo run rẩy, cái cổ ngửa ra, đôi mắt đờ dại, từ cái miệng méo xẹo phát ra những âm thanh nghe như tiếng mèo. Yên Thịnh bám chặt vào chồng. Ông chủ nhà nói cho khách yên lòng:

- Nhà tôi đây ở sâu nhất xóm rồi. Ông bà quay ra đi lối bên phải mau tới lộ lớn hơn.

- Tôi muốn tìm nhà bà… Hiền ở dưới Quảng Trị lên đây?   

- Hiền là tên của bà nhà tôi, người gần thành cổ. Nhưng có lẽ trùng tên.

Một thằng bé chừng 3-4 tuổi trần truồng chạy tới nắm tay người phụ nữ hét lên:

- Nóng! Nóng!

Người nó đỏ lựng, dày cộp, sần sùi trông thật gớm ghiếc. Người đàn bà kéo nó ra cái lu, xối vào người nó mấy gáo nước. Thằng bé nhảy tưng tưng, chạy tới bên ông già hếch mặt lên nhìn khách. Nhân Trí lúng túng:

- Tôi là lính trung đoàn Ba, tiểu đoàn Mười chủ lực.

- Thì đúng là các anh chốt ở địa bàn quê chúng tôi rồi. Tôi là lính tỉnh đội vẫn phối thuộc với các anh.

Tuy nhiên chủ không dám mời khách vào nhà.   

- Bà nhà tôi ra rẫy nhổ mấy bụi mì. 

Ông đang nói thì một người đàn bà ôm mấy gốc mì che kín cả mặt đi vào giữa sân. Thấy có người lạ, bà bỏ vội xuống:

- Ông bà vô lộn nhà rồi phải không?

Nhân Trí nhìn đăm đăm. Không ngờ người con gái một thời đẹp đến thế mà bây giờ quắt queo tàn tạ mức này. Mái tóc bạc gần hết, lơ thơ, như những sợi cỏ khô. Bộ răng dù đã rụng đi vài chiếc nhưng mấy chiếc còn lại vẫn sáng trắng và đều. Anh tiến đến gần người quen cũ:

- Cô… à chị Hiền còn nhận ra tôi không?

Bà già lắc đầu, nhìn cả hai người khách:

- Chúng tôi quê mùa… không dám quen người thành phố!

- Tôi là Nhân Trí, lính đại đội Hai, trung đội Một, đóng quân ở xóm nhà… chị. Chị còn nhớ trung đội trưởng Quốc Anh hay hát không?

- Cái anh trắng trẻo, vẽ đẹp, hay hát bài Bình Trị Thiên ấy… chết rồi mà!

- Và cô đã chôn cậu ấy?

- Các anh chết hết cả. Tôi nhận ra khẩu súng có khắc tên hai người. Tưởng anh cũng chết rồi mà? Lúc ấy tôi khóc mãi vì không tìm thấy xác anh. Mấy năm tôi vẫn cúng hai anh một ngày. Sau rồi nghèo khổ quá nên quên. Giỗ bố mẹ tôi cũng quên. Quên luôn cả chỗ tôi đã chôn anh ấy ở đâu! Bây giờ tôi không còn nhớ gì nữa đâu!

Nhân Trí và Yên Thịnh không nén nổi xúc động. Sự ghê sợ ban đầu thay cho một tình thương cứ trào lên. Hai người chủ động bước vào nhà. Chủ nhà càng lúng túng khi khách nhận ra trên cái chõng ọp ẹp ở góc nhà là một thân hình teo tóp, không có tóc, chân tay co quắp giật liên hồi, mắt trợn trừng, trắng dã, miệng đầy rớt rãi. Giọng thật thà không chút ngại ngùng, bà chủ phân trần:

- Nhà tôi khốn khổ thế này ông bà đến đây làm gì thêm khổ?

Từ sau nhà lại vang lên tiếng thét chói tai dồn dập hơn cùng với những tiếng va đập rầm rầm như có ai đập phá. Bà chủ vừa nói vừa tất tả bỏ chạy ra sau:

- Khổ qúa! Con Người Rừng nó đang lên cơn.

Nhân Trí dắt tay vợ bước theo bà chủ. Trong cái chuồng tre như là cái cũi, một đứa bé gái chừng 8-9 tuổi trần truồng, đầu tóc rũ rượi, tay chân khẳng khiu như cành củi mà rãy đạp lung tung, nhảy, bò lồng lộn dữ hơn con vượn nhốt trong sở thú, cái đầu dài ngoẵng lúc lắc lia lịa, miệng la hét ầm ỹ. Nó vớ bất kỳ vật gì có dưới sàn đưa lên miệng nhai như đang trong cơn đói. Bà chủ lấy từ trong cái rổ ra một củ mì sống đã bóc vỏ, vừa mới đưa ra, con bé vồ ngay lấy, quay mặt vào tường nhai ngấu nghiến. Bà nắm tay vợ chồng khách kéo lên nhà:

- Nó 16 tuổi rồi đấy mà như con vượn điên!

Cả khách và chủ không thể nói lên một lời nào. Nhân Trí càng cảm thấy lòng mình thắt lại khi nhìn mặt vợ tái đi, môi cô run rẩy. Anh chủ động nói:

- Bây giờ chiều muộn rồi. Đã biết nhà đây. Chúng tôi quay ra phố, sáng mai sẽ lại thăm anh chị.

Chủ nhà chào khách, cũng không mong gì họ quay trở lại:

- Cảm ơn các bác nhớ đến chúng tôi thế là tốt quá rồi!

Nhân Trí bàn với vợ:    

- Em vừa xúc động vừa sợ lắm phải không? Anh không thể bỏ đây mà về ngay được. Em về thành phố trước để kịp cuộc họp của người ta đã hẹn. Em đến ở với chị Nhài. Anh ở lại, phải làm một việc gì thiết thực giúp đỡ anh chị em mình. Mọi khoản chi tiêu hoãn lại để anh tập trung lo việc này. Chắc chắn là di chứng của chất độc dioxin trong thuốc diệt cỏ màu da cam mà quân đội Mỹ rải khắp miền Nam trong thời ta kháng chiến.

- Thế tại sao anh không bị?  

- Có thể đơn vị anh luôn cơ động, chỉ ở mỗi nơi trong thời gian ngắn. Còn anh em bộ đội địa phương bám trụ suốt bao lâu.

Vợ chồng cô Hiền vẫn không tin Nhân Trí sẽ trở lại. Cô ôm lấy anh bộ đội thân yêu năm xưa, khóc nức nở, vừa mừng cho anh còn sống, vừa mừng cho mình còn có người nhớ tới. Cô dốc hết nỗi lòng:

- Hòa bình rồi, người cũ mấy ai còn đâu. Ông nhà tôi thương binh, giải ngũ. Trong đầu, trong phổi còn đầy mảnh đạn, lâu lâu lại ho ra máu và lên cơn đau đầu dữ dội. Sanh hai đứa con đầu, làm ăn khó quá, nghe người ta, bán cơ ngơi đi lên xây kinh tế mới. Lại sanh thêm hai đứa nữa. Đứa nào lúc mới sanh thấy cũng dễ thương lắm. Chỉ có điều là đứa nào cũng lì lợm, cô đỡ đét đỏ mông chỉ ọ ẹ ò è chứ không chịu cất lên tiếng khóc. Nhưng cứ đến 5-7 tuổi là theo nhau đổ bệnh. Con đầu có khá hơn, nó chỉ bị chứng đau đầu, mất trí nhớ, không học được, tính tình dở dở ương ương. Năm nó 16-17 tuổi, có thằng vợ chết sớm, tôi cho không. Nhưng lại đẻ ra thằng bé con, da cứ đỏ lựng lên như con rồng lửa. Nhà chồng nó bảo người ma, không chứa cả con lẫn mẹ. Nó lại ôm con về đây. Sau này người ta bảo là bệnh vẩy nến, do ông ngoại nhiễm thuốc độc diệt cỏ truyền đến mấy đời. Thằng thứ hai học hết cấp Một cũng đau đầu, bỏ học. Đau phát điên phát rồ lên. Nó sống được đến giờ là may lắm vì bao nhiêu lần nó lao đầu vào tường, vào đá, muốn đập cho bể cái đầu ra. Có lúc nó lên cơn điên, đè cha nó ra đánh ông gần chết. Có lúc nó cưa cột nhà để làm củi. Vợ chồng tôi ra rãy, nó ở nhà đập chết gà, chó, heo đem cho người ta. Mấy năm nay chân tay nó teo tóp đi và mất trí nhớ hoàn toàn. Thằng út thì nằm liệt từ nhỏ tới giờ, 13-14 tuổi đầu rồi, chân tay co quắp lại, chỉ biết ăn thôi. Khổ nhất là đứa con gái thứ ba, càng lớn nó càng như con thú rừng, chỉ biết gào với nhảy cuồng lên, cào cấu, cắn xé, bạ cái gì cũng vơ vào mồm. Mỗi đứa đều có tên nhưng lại gọi theo cái tật: con Khờ, thằng Điên, con Người Rừng, thằng Liệt, thằng Rồng lửa. Mà đứa nào cũng ăn khỏe lắm anh ạ. Chạy lo cho con củ sắn, củ khoai, hũ gạo là mệt lắm rồi. Lúc đầu còn chạy thầy chạy thuốc, sau chỉ lo ăn mà vẫn trầy trật lắm. Mấy đồng lương hưu và trợ cấp thương tật của cha nó ăn nhằm gì. Cơ nghiệp lụn bại dần. Bây giờ còn hai bàn tay tong teo run rảy thế này. Muốn chết lắm nhưng nghĩ lại mình chết thì để chồng con khốn khổ cho ai? Ước gì được chết chung cùng với nhau một lúc như cái ngày chúng nó bắn giết các anh. Hoặc như mình phải là người chết sau cùng. Lúc ấy trời không bắt chết tôi cũng nhảy xuống sông xuống núi mà chết chứ sống tàn tạ thế này để làm gì?!

Người đại đội trưởng dũng sỹ năm nào ngậm ngùi nhìn vợ:

- Tại tôi bị nhiễm chất độc da cam mới đổ bệnh cho con, cho cháu làm bà khổ lây. Giá như ngày ấy bà đừng lấy tôi thì đâu đến nỗi này. Bây giờ sáu miệng ăn chỉ trông vào một tay bà ấy. Bà nhớ mặt tôi, kiếp sau có gặp thì tránh xa ra.

- Vợ chồng là cái duyên trời. Con gái quê lúc ấy mà vớ được anh bộ đội chiến thắng trở về là vinh dự lắm. Cái số tôi với ông kiếp này bị trời đày như thế, chẳng lẽ kiếp sau ông trời không có mắt hay sao? Ông không việc gì phải ân hận cả!

Nhân Trí chỉ biết ngồi nghe mà không cần giấu đi những giọt nước mắt chảy ra trước mặt mọi người.

Yên Thịnh rất vui với chồng. Người thân chia sẻ với việc làm của anh. Một thời gian ngắn anh đã dựa vào Hội Cựu chiến binh, nhờ bà con địa phương góp công xây dựng cho người bạn kháng chiến năm xưa một nơi ở đàng hoàng. Ngôi nhà nhìn ra lộ lớn, phía trước làm một cửa hàng buôn bán nhỏ để anh chị làm phương tiện sinh sống hàng ngày, phía sau phân chia chỗ ở tạm hợp với bệnh cảnh của mỗi người và một triền đồi rộng làm kinh tế lâu dài. Vợ chồng cô Hiền cứ xuýt xoa:

- Thật là trời giúp cho vợ chồng tôi.

Yên Thịnh cảm động lắm:

- Suy cho cùng việc gì cũng có tay trời ở trong!

Dạ Lan nắm tay thằng bé Rồng lửa xót xa:

- Để mạ nhờ một tổ chức từ thiện bảo trợ cho con.

Nhân Trí thở dài buồn bã:

- Con số thống kê sơ bộ cả nước có bốn tới năm triệu người phơi nhiễm dưới các phi vụ rải thuốc diệt cỏ màu da cam có chứa chất độc dioxine. Không thống kê nổi bao nhiêu người đã chết vì nó? Và nó còn tiềm ẩn trong bao nhiêu nạn nhân để gây ra những căn bệnh quái ác hành hạ dần mòn giết chết người ta? Con số hơn hai trăm ngàn trẻ dị tật bẩm sinh mà căn nguyên đa phần do di chứng nhiễm độc chất dioxine từ cha mẹ. Không ai biết nó làm biến đổi gène di truyền tới bao nhiêu thế hệ?

Chị Nhài mủi lòng, lo thiết thực :

- Bước đầu tôi sẽ cung cấp đều hàng đủ để mở một tiệm chạp phô (tạp hóa) nhỏ. Nhưng nên đặt một cái tên như là thương hiệu, biết đâu mình có thể phát triển dần lên.

Cô Hiền bật lên:

- Quốc Anh! Ơn này nhờ có những người như anh ấy.

Yên Thịnh nói với chồng :

- Sân trước này rộng, ta xây một cái am thờ chung Quốc Anh, tiểu đội trưởng Thành và nhà thơ Tầm Xuân – Quay qua cô Hiền:… Hàng năm vào dịp 30 tháng Tư, nhờ anh chị thắp nén nhang giỗ chung cả ba người. Chúng em ở xa đều hướng về đây.      

Vợ chồng Văn Khoa–Bích Liên về nước dịp này, cùng theo các anh chị lên đây. Thấy chồng lặng lẽ trầm ngâm khác với tính sôi nổi vui vẻ của anh, Bích Liên lo lắng:

- Anh mệt hay anh xúc động?

Văn Khoa dốc ra những suy tư:

- Không biết nữa. Tại Công viên quốc gia Hoa Kỳ có bức tường hoành tráng ghi danh những lính Mỹ chết trận ở Việt Nam. Nhiều lắm! Rất lưu tâm du khách. Tôi thấy có người đến đặt dưới chân tường hoa hoặc vật gì đó – có lẽ là kỷ vật liên quan đến người đã khuất, đứng lặng hồi lâu, bóng nhòa trên những dòng tên lẫn trong mây trời cây cối, như người ở hai thế giới tâm sự với nhau, nghĩa là với họ chiến tranh đã thuộc về qúa khứ. Bây giờ tới đây, tôi thấy như chiến tranh vẫn đang hiện hữu chưa biết đến bao giờ! Tôi suy nghĩ về những người lính ở hai bên. Người ta gọi họ bằng nhiều danh xưng rất đối lập nhau: là lính viễn chinh xâm lược! là chiến sỹ vệ quốc quân! là cộng quân chà đạp nhân quyền! là chiến sỹ bảo vệ tự do công lý! là lính đánh thuê tay sai phản quốc! là chiến sỹ giải phóng quân! là du kích VC phiến loạn! là chiến sỹ quân đội quốc gia!... Dù chết vì lý do gì nhưng đa phần họ còn rất trẻ, vẫn cần được sống! Tại nơi dựng tấm bia khổng lồ ấy, năm xưa tôi từng thấy hàng đoàn người Mỹ biểu tình ngày đêm, có người bức xúc tự thiêu, đòi rút quân về nước? Tại xứ sở này trước sau vẫn là nơi tôi chôn nhau cắt rốn, nơi gửi thân mãi mãi ông bà cha mẹ của tôi? Thực lòng có lúc tôi muốn tìm cho ra lẽ về cái chết của cha tôi? Nhưng lúc này tôi nghĩ phải thành tâm nhìn vào lịch sử. Mỗi người là một nạn nhân với nỗi đau riêng. Người ta có thể chia sẻ với nhau niềm vui nhưng không ai muốn chuốc thêm nỗi đau cho mình. Sao ta cứ gồng mãi trên vai gánh nặng?! Lịch sử tạo ra nó thì ta viết trang sử mới được không?

Gợi đúng suy tư của mình, nhà-văn-bác-sỹ Ngọc Thạch bật lên: 

- Đúng! Cảnh đạn bom máu lửa không còn nhưng hậu họa của chiến tranh vẫn còn dai dẳng và chúng ta đang phải đương đầu với cuộc chiến mới mà kẻ thù lẫn lộn bên ta, chúng dùng những loại vũ khí tinh xảo giảm thanh, không ầm ào náo động nhưng sức tàn phá của nó không thua giặc ngoại xâm. Nó hủy hoại niềm tin yêu giữa con người từ gia đình ra xã hội. Hôm nay nó làm tan hoang đất nước để ngày mai con cháu ta còng lưng gánh nợ, không khác chi những kẻ cõng rắn cắn gà nhà!

Văn Khoa nói ra những trăn trở của mình:

- Tôi có công việc thường xuyên qua lại nhiều nước bên  Âu Mỹ. Điều đáng mừng là số người Việt Nam qua đó và số người Việt mình bên đó về thăm quê ngày một nhiều hơn. Đó là cơ hội để bầy con Lạc cháu Hồng xóa dần đi những hiềm khích và xích lại ngày một gần nhau dù kẻ ở chân trời người nơi góc biển. Tuy nhiên vẫn còn không ít kẻ phá ngang mà nhiều người không muốn dây vào coi như tránh voi chẳng xấu mặt nào! Dù số đó ngày ít dần đi nhưng đừng mong nó sẽ tuyệt hẳn vì giữa hai quốc gia không bao giờ hết những điều khác biệt, lại kẻ Á người Âu mà con người ta thì sống ở đâu quen đó, trong khi hiến pháp Hoa Kỳ chấp nhận mọi công dân được công khai biểu lộ chính kiến của mình ngay cả với ông Tổng Thống… Con sông Bến Hải cũng giống như con sông Gianh chỉ gợi lại một thời kỳ lịch sử ly tán đau thương mà không người Việt nào muốn nó tái diễn ở một địa danh nào nữa. Người Việt Nam ngày càng được coi trọng dù là mới nhập cư ở những xứ sở văn minh xa lạ. Họ không bị coi rẻ như những kẻ cù bất cù bơ tha phương cầu thực. Họ cần mẫn làm ăn phát đạt, được tin cậy và đảm đương nhiều việc quan trọng. Không ít người đạt được những danh vị mà người bản địa hằng mong ước. Tuy nhiên trong những người mới xuất dương du học, số đạt được học vị cao chưa nhiều và đa phần họ không về nước dù là nhà nước cấp học bổng cho họ học thành tài? Trái lại số quan chức qua chơi lĩnh bằng của các trường gọi là đào tạo tại chức từ xa thì lại rất nhiều! Với những tấm bằng bán rao ở chợ trời Âu Mỹ ấy, mang về nước sẽ là vật chứng đảm bảo cho họ thăng tiến nhanh trên đường hoạn lộ. Đấy là lý do vì sao nền giáo dục và công cuộc cải cách xã hội của ta thua kém người ngay cả so với những nước láng giềng không xa!

Anh thở dài lắc đầu: 

- Một lần ở New York, tình cờ tôi làm quen với một vị quan chức chưa phải là già. Nhân tiện sang lĩnh bằng, ông ta nhờ tôi dẫn vào một siêu thị mua bán xe hơi và chẳng ngần ngại đắn đo gì đặt mua ngay một chiếc xe đời mới nhất. Trong khi chờ nhận bill, ông ta điện về nhà riêng cô con gái đang học ở một trường Đại học tư gần đó đến đổi xe! Tôi cứ bị ngạc nhiên vì với người bản địa có công việc làm ổn định cũng chưa dám sài sang như thế thì trong bữa ăn nhẹ đãi tôi ở quầy, ông ta cụng ly vẻ rất tự hào hãnh diện nói bô bô vì chung quanh không có bóng dân mít khô mít ướt nào: Nói thật với cậu, ở bên nhà tớ không cần nhớ những đứa nào mang quà cáp đến biếu trong những dịp này dịp nọ nhưng mà tớ không quên một thằng nào không đến! – Anh Văn Khoa méo miệng cười:… Thật tình đến lúc này tôi mới hiểu ra ý nghĩa câu nói của vị quan chức ấy!  

Nhìn mọi người chung quanh, lại nhìn ra cảnh đồi hoang nắng rát, giọng anh ràu ràu:

- Làm giảm nỗi đau của vài người không khó. Nhưng để giảm nỗi đau của bao nhiêu con người từng trải qua những tình cảnh lịch sử phức tạp khác nhau, phải có tấm lòng chân-thiện không chỉ ở mỗi người, cần cả cộng đồng lớn nhỏ gần xa. Làm cho mọi người thức tỉnh dám gạt sang bên mọi hận thù ân oán để sống với nhau hòa ái vẫn là chưa đủ. Cần phải làm gì nữa để những điều ngang trái không thể diễn ra mới khó hơn nhiều vì kẻ chủ mưu giấu mặt, có khi lại nắm trong tay quyền lực! Tôi không bi quan và cũng chẳng lạc quan vì tôi nghĩ đó là cuộc chiến trường kỳ dai dẳng thắng thua chưa biết về ai mà cái mầm tai họa cứ lơ lửng treo trên đầu một dân tộc đã chịu quá nhiều đau khổ rủi ro! Tôi không mang hoa đến đây nhưng tôi để lại nơi này nếu không là tất cả thì cũng là phần lớn trách nhiệm của tôi trong những ngày còn lại…

Nhà văn Ngọc Thạch kịp có ngay bài báo: Lòng nhân ái nên đặt ở đâu? Giữa trang là hình ảnh khốn khổ của những nạn nhân chất độc màu da cam trong một gia đình và hai biệt thự nguy nga – là cơ ngơi của một viên chức cấp cao tại thành phố và nơi ở của cậu ấm đang du học ở nước ngoài, kẹp giữa căn nhà tả tơi rách nát của gia đình cựu chiến binh đáng thương tâm ấy. Bài viết ngắn, nêu ra câu hỏi: Nguyên nhân của nỗi đau thương ấy không thể chỉ đổ lên đầu giặc Mỹ. Còn thứ giặc gây nên tai họa đau thương không kém, không khác gì quân phản bội nối giáo cho giặc ngoại xâm – đó là tham nhũng. Ai cũng nói tham nhũng là quốc nạn, đe doạ sự mất còn của thể chế xã hội và thề nói Không(!) với nó. Vậy mà lần nào tổng kết đều tái đi tái lại câu nói như là chơi chữ: Tham nhũng có hạn chế nhưng chưa bị đẩy lùi(?) và diễn biến có chiều phức tạp! Ai làm cho nó phức tạp? Người dễ có khả năng tham nhũng lại cầm còi bắt thằng tham nhũng! Lỡ cái mặt chuột lòi ra thì khi đưa ra xét xử lại được mở lòng khoan dung xét công giảm tội! Công của lũ người đó đáng gì so với những người này? Hỏi những ai là đồng phạm? Bài báo gây xúc động mạnh trong lòng công chúng.

Gia đình chị Hiền nhận được nhiều sự giúp đỡ của những tấm lòng ưu ái nhưng anh chị giao lại khoản tài trợ ấy cho các tổ chức từ thiện san sẻ cho những người đồng cảnh không may.

Nhân Tín nói với người anh em viết báo:

- Thời trước có người nói đánh tham nhũng thì hết người làm việc. Rồi thể chế ấy không còn! Bây giờ cũng có người nói vậy! Thế thì hai thể chế ấy khác gì nhau? Có phải vì nó tham nhũng? vì nó không dân chủ? hay vì sự vô trách nhiệm của những người cầm trịch dẫn đến sự vô cảm, vô can của mọi người?

Người thầy-thuốc-nhà-văn-thương-binh ấy đã là con rể của ông bác sỹ thầy già. Ông thầy duyên tình thì lỡ dở mà duyên văn thì oan trái. Cũng may còn cái duyên nghiệp với một nghề nhân ái an ủi đời ông. Khi nhận ra tín hiệu con gái ông thầy lưu ý tới mình, anh trò nghi ngại hỏi thầy :

- Người con trai tật nguyền còn gì hấp dẫn một người con gái?

Ông thầy bảo:

- Gái tham tài, trai tham sắc!

- Con có tài gỉ?

- Phô tài ra là tự chuốc họa vào mình. Để người nhận ra tài mình dở-hay chưa biết ?

- Có ai giấu tài không ? 

- Tài do mình tạo nên và có Trời phù trợ. Kẻ ác dùng tài hại người. Người khôn dùng tài kiếm lời. Người hiền dùng tài giúp đời. Càng tài hoa lắm càng oan trái nhiều !

Cô gái chỉ yêu cầu chàng trai có một điều: Hãy đừng dính dấp tới nghiệp văn chương. Mình không bạc với nó rồi nó cũng bạc với mình. Chắc là cô nhận ra từ tấm gương của người cha.

Anh ừ ào nghĩ sẽ chiều ý vợ nhưng cái nghiệp văn vừa là tình yêu vừa là món nợ. Anh tâm sự với thầy:    

- Goeth nói: Người ta có thể ăn nửa bữa, ngủ nửa đêm nhưng không thể đi nửa đường chân lý, yêu bằng nửa trái tim… Con chót yêu nó quá rồi!

Nỗi giận hờn nhân tình thế sự dù nén lại mà cứ bật lên:

- Nhà cửa, ruộng vườn hàng bao đời người nông dân sinh cơ lập nghiệp nay bị di dời để làm sân golf và con cháu họ sẽ thành một lũ Xuân tóc đỏ tân thời! Ruộng đất là của trời cho, giống như miếng da lừa thần ban cho anh chàng Raphael của Balzac ấy: Nếu mi có ta, sẽ có tất cả. Để mất dần đi, đời mi sẽ co lại theo ta! Khốn khổ là người dân quê chân chất có muốn bỏ nó mà đi đâu. Người ta vẽ ra viễn cảnh huy hoàng để thừa cơ đục nước béo cò, gieo cảnh khốn cùng cho ai?! Không ít kẻ tham nhũng vẫn được coi là trong sạch để vững mạnh đua nhau đục khoét! Chờ khi lịch sử phán xét phân minh thì biết bao thân phận đáng thương ấy đâu còn nữa !

Những nỗi đau đời cứ làm anh nhức nhói không kềm lại được, bộc phát ra:

Ta muốn làm mưa nguồn thác đổ

          Thành những trận lũ quét, lũ truồi

          Để vùi sâu dưới đất

          Hay cuốn phăng ra biển

          Mọi sự dối trá

          Cùng lũ hôi tanh

          Để những người tử tế

          Được sống trong niềm tin và yên ổn

Đấy là mối lo mà người vợ trẻ luôn thấp thỏm trong lòng. Cô chỉ biết than thở với cha họa chăng có thể… Bác sỹ Đức Phúc chia sẻ với con:

- Hình ảnh Don Quihôtê đã thành bất tử vì ông giống như một văn nhân hiệp sỹ giữa thời buổi nhiễu nhương. Ngọn giáo kia là ngòi bút diệt trừ mọi oan trái bất công. Tấm mộc đồng là lòng nhân ái chở che cho những con người khốn khổ trên cõi đời này. Cái cối xay là con qủy trêu ngươi. Còn gió nó còn quay mãi! Thực ra những người như ông chẳng giết được ai và cũng chẳng cứu được ai nhưng nhờ đó mà cuộc đời này còn mang điều nghĩa. Một gia đình không có tình thương khác gì ngôi nhà hoang cho mấy kẻ lạc loài tạm trú? Một xã hội không có tình thương khác gì một ổ lưu manh khổng lồ đủ loại? Kẻ bị chạm nọc bảo họ ngông cuồng. Người được bênh lại bảo họ mang nghiệp chướng mà thương họ. Dù sao họ vẫn khổ suốt đời và nỗi khổ ấy như là bệnh dịch mang họa cho những người thân!

Chuyến bay đầu ngày của hãng Hàng không Việt Nam cất cánh rời sân bay Thủ đô vào một ngày cuối năm. Chiếc BOEING khổng lồ nhấc mình khỏi đường băng vút lên không trung. Vào thời điểm ấy, mọi người ngồi trong khoang máy bay đều tập trung cho sự thích nghi khi từ mặt đất mới thoát lên bầu trời và theo dõi sự ổn định của đường bay. Bỗng dưng chiếc máy bay nghiêng mình và dường như vòng lại. Những người quen với đường bay tỏ ra ngạc nhiên và lo lắng. Từ dãy ghế VIP có ba người đứng dậy quay về phía hành khách. Đứng giữa là một bà lớn tuổi, tóc hoa râm, mặc toàn đồ đen, nét mặt phúc hậu man mác buồn. Cô nữ tiếp viên trẻ đẹp, bộ áo dài màu cánh sen đồng phục của ngành hàng không. Anh phi công to lớn, lễ phục trắng muốt, ngực đỏ những tấm huân chương, nét mặt trang nghiêm, giọng chậm rãi, rõ ràng:

- Thưa đồng bào và qúi vị! Vào khoảng giờ này, tại khoảng trời này, cách đây đúng 30 năm, một phi công anh hùng đã hy sinh để bảo về bầu trời thủ đô thiêng liêng của tổ quốc chúng ta. Kẻ thù ỷ vào sức mạnh của các phương tiện và vũ khí tối tân hòng làm tê liệt tinh thần chiến đấu của người Việt Nam bảo vệ tổ quốc của mình. Một biên đội MIG–19 bất ngờ xuất kích từ một sân bay dã chiến bí mật ở miền Trung. Trung tá phi công Huỳnh Anh Dũng bay trước, tự lộ mình ra lừa địch, làm mục tiêu cho lũ máy bay tiêm kích truy đuổi, để cho đồng đội thừa cơ địch sơ hở, bay vọt lên, lao thẳng vào tiêu diệt chiếc máy bay chiến lược B52 trên bầu trời Yên Bái. Khi nhiệm vụ hoàn thành, máy bay bị trúng đạn, đồng chí Huỳnh Anh Dũng được phép nhảy dù ra. Nhưng chiếc máy bay mất đà đang lao thẳng vào một trường học. Đồng chí kịp nhận ra, kéo ghì cần lái cho chiếc máy bay chếch lên, vượt tầm lướt xa ra. Phi công không còn thời gian nhảy khỏi buồng lái nữa! Một lúc, đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ hợp đồng chiến đấu tiêu diệt giặc và bảo vệ tính mạng của đồng bào. Sự hy sinh cao cả của các đồng chí là tiếp nối truyền thống vẻ vang của anh bộ đội Cụ Hồ, mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ tiếp theo…

Nét mặt trang nghiêm, anh trân trọng nâng tay bà mẹ:

- Đây là nhà giáo Nguyễn thị Cẩm Nhung, người bạn đời của phi công liệt sỹ anh hùng…

Vẻ mặt tươi lên, tay hướng về buồng lái:

- Và người đang điều khiển chiếc máy bay của chúng ta lúc này là phi công Huỳnh Anh Minh, chính là con trai duy nhất của phi công Huỳnh Anh Dũng và mẹ đây.

Chiếc máy bay chao cánh như muốn gửi lời chào cả mọi người trên trời, dưới đất. Cô tiếp viên nâng bó hồng lớn tặng mẹ. Anh phi công giúp bà gieo ra khoảng không những cánh hoa hồng tươi đỏ chói trong tiếng nhạc tưởng vong hồn nghĩa sỹ. Bà quả phụ cứ để cho những hàng nước mắt tuôn rơi, nói trong nghẹn ngào:

- Xin cảm ơn những ai còn nhớ đến những người như chồng tôi. Tôi đau khổ nhưng không ân hận. Anh ấy đã hy sinh cho tổ quốc Việt Nam thống nhất, hòa bình, cho tương lai hạnh phúc của trẻ thơ và cho sự no ấm yên vui của những người lương thiện.

Ngồi ở khoang giữa máy bay có hai ông già nét mặt trầm tư. Ông hồng hào tươi tốt ngồi không yên như có điều gì day dứt. Ông lớn tuổi tàn tật, thu mình trong chiếc xe đẩy, vẻ khắc khổ đăm chiêu như tượng. Mấy du khách tây ngồi bên, một ông dè dặt bập bẹ mấy câu tiếng Việt:

- Thưa… Ông là một nạn nhân chiến cuộc?

Ông già tàn tật sực tỉnh, trả lời lưu loát bằng tiếng Anh:

- Tôi là lính Cụ Hồ, bị thương thời chống Pháp…

Ông chỉ Cẩm Nhung :

- Cô ấy là em tôi…

Và  chỉ ông già ngồi bên :

- Đây là người anh em của tôi định cư ở Canađa đang muốn về quê.

Ông khách tây vồn vã nắm tay ông :

- Rất hân hạnh! Cho chúng tôi được nói lời kính trọng với ông và chia sẻ nỗi đau thương với bà – tay chỉ người góa phụ. Năm nào tôi cũng qua du lịch Việt Nam vì tôi thấy ở đất nước này, những con người ở đây còn nhiều bí ẩn. Nhìn bề ngoài đất nước này thật xinh đẹp thanh bình tuy còn nghèo khó nhưng sau những bộ quần áo đẹp và những nụ cười thân thiện của mỗi người dân là những vết thương chiến tranh thật khó lành. Chiến sự xảy ra ngay trên đất nước các ông mà có tới mấy trăm ngàn người mất tích trong khi phía binh sỹ Mỹ có chừng ba ngàn mà hơn phân nửa đã được các ông giúp tìm thấy hài cốt, là điều chúng tôi suy nghĩ. Tôi đã đến thăm tỉnh Thái Bình vì nơi ấy còn để lại nhiều di hại của cuộc chiến tranh màu da cam. Thật là khủng khiếp. Sưu tra bản đồ chiến sự nơi đó không nằm trong địa bàn các phi vụ rải thuốc diệt cỏ thì tại sao theo thống kê của các ông, Thái Bình có số người dị tật nhiều nhất ở Việt Nam?

- Đúng là quân đội Mỹ chỉ rải thuốc diệt cỏ có chất dioxin xuống các vùng căn cứ kháng chiến từ phía nam vĩ tuyến 17, chủ yếu dọc theo giải Trường Sơn và vùng duyên hải Trung và Nam Bộ. Thực ra, chiến sự ở đấy rất ác liệt, những nơi không kiểm soát được thì họ hủy diệt bằng mọi cách. Dân thường không thể sống nổi, phải cụm về gần các căn cứ quân sự Mỹ. Ít ra các ông cũng đạt được mục tiêu cô lập Quân giải phóng và kiểm soát chặt chẽ đồng bào chúng tôi để bổ sung vào số lính Sài Gòn. Miền Bắc thực sự là hậu phương lớn vô tận của miền Nam cả về sức của, sức người. Thái Bình là tỉnh đông dân nhất miền Bắc lúc đó, lại có phong trào chi viện cho tiền tuyến rất mạnh. Thanh niên nam, nữ đi chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu có mặt ở hầu khắp các nơi chiến sự ác liệt và gian khổ nhất. Tất nhiên số liệt sỹ, thương binh, bệnh binh và hậu quả chiến tranh là rất nặng nề.

Hiểu ra, ông ta rối rít cảm ơn và nói:

- Sức chịu đựng của người Việt Nam lớn qúa. Bao nhiêu sự tích có thể dựng lên những tượng đài. Nhiều người Mỹ chúng tôi rất mừng khi chính phủ của chúng tôi gỡ bỏ lệnh cấm vận với các ông và hơn nữa Tổng Thống Bill Clinton đã có một việc làm sáng suốt là bình thường hóa quan hệ với Việt Nam dù bên ông còn nhiều lực cản. Đó là bước đi quyết định tạo điều kiện cho Việt Nam sớm hòa đồng với các quốc gia trên hành tinh này và sẽ mau phát triển. Hy vọng rằng lúc đó nước Mỹ sẽ có những đóng góp thiết thực ít ra cũng trong lĩnh vực nhân đạo để làm giảm đi nỗi đau mà nhân dân Việt Nam đang chịu đựng.

- Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đó là ước vọng muôn đời của dân tộc chúng tôi. Trong lịch sử, sau mỗi cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, chúng tôi đều muốn cầu hòa. Tiếc rằng nước lớn nào cũng khó chấp nhận một nước nhỏ không chịu khuất phục mình. Đó là bi kịch trước hết cho những người dân lương thiện chúng tôi. Với người tàn tật, sự trợ giúp bên ngoài là điều qúy giá. Nhưng chủ yếu phải dựa vào nội lực mới vượt qua được sự mặc cảm cùng những khó khăn của chính mình. Dù có mối quan hệ bình thường với mọi quốc gia, chúng tôi vẫn hiểu rằng muốn tồn tại thì phải biết sống trong một thế giới mà tình hữu nghị và sự bình đẳng mới chỉ là câu nói ngoài cửa miệng.

- Ông vẫn là người lính chiến và là một nhà nghiên cứu sử!

Ông Hà Giang dướn người lên, chỉ mấy người anh em ngồi quanh đấy:

- Nếu không biết vượt qua mọi bất trắc thì tôi không còn tới hôm nay để gặp các ông trong cảnh yên bình thế này. Những sự thật lịch sử ấy, các thế hệ người Việt Nam chúng tôi đều biết cả.

Ông khách tây nhìn ông Việt kiều già:

- Ở Ottawa, người ta đặt một bức tượng Thuyền nhân (Boat people) về người di tản ấn tượng lắm!                          Ông Hà Giang tế nhị đỡ lời:    

- Thói thường, kẻ mạnh vẫn nhớ dai và thù lâu những điều người khác gây ra cho họ nhưng lại chóng quên những điều họ gây ra cho người khác.

- Có người từ phía các ông nói: Ngày 30 tháng Tư, có hàng triệu người vui mừng thì cũng có hàng triệu người đau khổ! Vậy các ông giải phóng cho ai? Sự mất mát quá lớn của người Việt Nam liệu có cần không?

- Điều đó thật trớ trêu! Tôi không nghĩ thế. Nỗi sung sướng không trừ một ai vì hòa bình đến với mọi nhà. Thống nhất non sông là niềm vui mừng của mọi người Việt Nam chân chính. Còn nỗi khổ đau là của cả dân tộc dù người ở bên này hay người ở bên kia. Tuy nhiên không nỗi đau nào giống nỗi đau nào, không thể đem ra so sánh được. Lời nói mị chỉ  làm cho những nỗi đau càng thêm nhức nhói. Tốt nhất là cái gì đã qua hãy để nó qua đi! Người Việt Nam chúng tôi sống chết bấy lâu nay chỉ mong Tổ quốc thật là của mình. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, từ xa xưa vẫn lưu truyền lời dạy: Người trong một nước phải thương nhau cùng! Người là hiện thân của Nước. Bằng cách sống bao dung, hòa ái, thù hận sẽ phai dần đi, anh em hòa mục. Dĩ ân báo oán – Làm điều ân nghĩa để xóa bỏ oán hờn. Điều đó đã thành nếp sống của chúng tôi.

Lời nói của người thương binh già khiến ông khách lạ mạnh dạn lên :

- Các ông đã làm cho chúng tôi hiểu ra nhiều điều… Nếu được là người Việt Nam, tôi sẽ xây dựng một nghĩa trang các nạn nhân chất độc màu da cam ngay tại nơi có nhiều di họa, lưu giữ muôn đời những hình ảnh và di cốt của những con người khốn khổ và bất hạnh. Ở nước chúng tôi cũng dựng đài tưởng niệm những binh sỹ Mỹ chết vì ảnh hưởng chất độc hóa học khi họ tham gia những chiến dịch rải thuốc diệt cỏ màu da cam xuống rừng núi ruộng đồng Việt Nam suốt trong thập kỷ 1960. Không lời nói nào mạnh mẽ hơn sự im lặng của nỗi đau tận cùng như thế.

- Tôi thật cảm động và ghi nhận ý tưởng đầy thiện chí của ông. Một tác phẩm nghệ thuật có giá trị trước hết ở sự biểu cảm của nó. Nhưng đồng cảm về một giá trị nhân văn đích thực không dễ đâu. Chúng ta sống vào thời điểm tranh giành đa chính kiến. Cần phải có thời gian để mỗi người bình tâm lại may ra mới có sự đồng nhất nào đó. Điều sung sướng nhất là chúng tôi được sống trong hòa bình, yên ổn.

Trước vẻ hiền hòa cùng những lời chân tình sâu xa của người cựu chiến binh già tàn tật, ông khách bộc bạch lòng mình: 

- Tôi đến từ nước Mỹ, trước đây trong số lính GI (chính phủ liên bang) sớm có mặt ở Việt Nam. Lúc ấy chúng tôi nghĩ  qua đây với sứ mạng bảo vệ nền dân chủ của thế giới tự do và chỉ cầu Chúa ban ân cho được an toàn hết thời hạn một năm làm nghĩa vụ công dân ở xứ sở nhiệt đới mưa nắng thất thường này. Thoát nạn trở về, không có được sự vẻ vang hoan hỉ như hồi cha tôi trong quân đội Đồng minh chiến thắng phát xít trở về. Tôi luôn tự hỏi về bản chất của cuộc chiến tranh này và như nhiều đồng đội, chúng tôi cảm thấy bị dính líu tới nó là điều hổ thẹn. Trở lại Việt Nam nhiều lần, tôi càng thấy thiện cảm với dân tộc này và càng thấy ân hận về một quá khứ tệ hại của đất nước tôi, của cá nhân tôi! Tìm hiểu lịch sử của các ông, tôi thật sự cảm phục đến kinh hoàng. Thời đại nào các ông cũng có chiến tranh chống lại cường quốc lớn! Nhưng đã có ai so sánh giữa cái được và cái mất ấy chưa?

Ông thương binh già ngồi ngay lại, nói rõ từng câu:

- Xưa nay, ở đâu cũng vậy, cuộc chiến tranh nào cũng chỉ nhằm hai mục đích, hoặc để tồn tại, hoặc để tranh hùng. Khi buộc phải cầm súng là chúng tôi đã chọn lựa giữa sự mất còn của một dân tộc, một quốc gia. Vì thế chúng tôi thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ! Thuần túy là lòng yêu nước và tự trọng Việt Nam chứ tuyệt nhiên không bởi sự mê muội cuồng tín vào một giáo lý nào. Tuy nhiên có sự khác thường là chiến tranh kết thúc kẻ thua không phải đầu hàng và người thắng chẳng lợi lộc gì ngoài sự bảo vệ được Tổ quốc và chủ quyền dân tộc mình – Điều mà với người là lẽ đương nhiên nhưng như ông đã biết với chúng tôi nó diễn ra không chỉ một lần!     

- Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh của Hoa Kỳ diễn ra một cuộc rút quân về nước không kèn, không trống, không hoa, không có người ra đón, không có anh hùng, không có chiến công! Người Mỹ chúng tôi gọi thế hệ những người lính đã chiến thắng trong Thế chiến thứ hai là “thế hệ vĩ đại nhất” khi họ chiến đấu cho sự sống còn của nước Mỹ. Thật là điều rất không may cho thế hệ những người lính như tôi phải đối đầu với “thế hệ vĩ đại nhất” của những người lính Việt Nam! Nỗi đau trong lòng mỗi chúng tôi được nhẹ đi bằng những việc làm thiết thực hàn gắn vết thương cho những nạn nhân chiến cuộc và chỉ thực sự hết đi khi kết thúc một đời người theo luật tử sinh. Nhưng nỗi đau lịch sử trong lòng nước Mỹ thì còn mãi. Nó hiển hiện trên Bức tường đá đen như một tượng đài vĩnh cửu ở Wasshington D.C ghi danh 58.315 người con gái con trai của nước Mỹ ngã xuống trên mảnh đất Viễn Đông xa xôi này mà không đem lại điều lợi gì cho tổ quốc mình. Đó là chưa kể tới hàng triệu người của mấy thế hệ đeo đẳng mãi nỗi đau dấm dứt của “hội chứng Việt Nam”dai đẳng chưa biết bao giờ mới hết!

- Trong Thế chiến thứ hai, quân đội Mỹ đã vượt đại dương cùng với quân đội các nước đồng minh cứu loài người khỏi thảm họa phát xít, đã tạo điều kiện cho người Việt Nam chúng tôi thời cơ đứng lên tự giải phóng mình. Tôi được biết trong cuộc chiến khủng khiếp ấy, tại mặt trận Châu Âu, quân đội Mỹ mất hơn 300 ngàn người và ở mặt trận Châu Á số tổn thất cũng gần bằng như thế. Đó là một việc làm nghĩa hiệp, loài người không thể nào quên! Vậy mà sao họ không được vinh danh trên những tượng đồng bia đá? Trái lại với cuộc chiến tranh vô nghĩa ở đây, trong số hơn hai trăm ngàn binh sỹ không may bị tổn thương lại chỉ có bấy nhiêu người được vinh danh trên Bức tường đá đen lịch sử ấy sao?!

Ông cựu binh Mỹ lắc đầu, buồn rầu nói:

- Xin ông đừng nghĩ đó là tấm bằng Tổ quốc ghi công như ở khắp nơi trên đất nước của ông. Thực ra đó là lời nhắn nhủ cay đắng tới các thế hệ mai sau của nước Mỹ cần phải tỉnh táo và sáng suốt, đừng coi thường sinh mạng của con em mình bởi sự tính toán điên rồ ngu ngốc của những ai!    

- Ông sẽ được an ủi nếu biết rằng trên đất nước của chúng tôi từng không chỉ có một đội hùng binh lui quân như thế, thậm chí còn thảm hại hơn! Vả chăng ngay cả trong mỗi bi kịch người ta cũng có thể nhìn ra được những điều sai mà tránh thì chưa hẳn đã hoàn toàn là vô ích. Tuy nhiên những điều kiện xã hội và lịch sử chẳng bao giờ giống nhau. Cái chính là mỗi con người, mỗi quốc gia phải biết kiềm chế cái tôi của mình sao cho đúng mức. Dù sao thì niềm vui của chúng tôi ngoài một cuộc sống yên bình, vẫn chịu sự đối xử bất công!

Ông khách cảm động nắm chặt tay người cựu chiến binh già thương tật :

- Nếu cuộc chiến đấu của các ông nhằm giành độc lập và thống nhất tổ quốc thì chúng tôi khâm phục và đồng cảm vì thời lập quốc chúng tôi cũng có một cuộc chiến tranh chống sự phân ly Nam–Bắc. Bốn năm, mất hơn nửa triệu mạng sống nghĩa là gấp hơn mười lần ở Việt Nam trong khi thời gian chỉ bằng phân nửa! Tuy nhiên Liên bang Hoa Kỳ đã giành được sự thống nhất lãnh thổ và hưng triển như ngày nay… Với chúng tôi, cuộc chiến tranh giành độc lập trước đó là thắng lợi của công lý và cuộc chiến tranh chống ly khai là thắng lợi của văn minh. Cuộc chiến tranh của các ông là thắng lợi của tinh thần Không có gì qúy hơn độc lập tự do?

- Đúng thế !

- Tuy nhiên tôi thật sự không hiểu nổi một dân tộc có nghị lực mạnh mẽ với một lịch sử gian truân như vậy mà sao chưa được hưởng một cuộc sống sung sướng, công bằng và tự do mà vì nó họ đã hy sinh kể cả máu của mình ?

- Các ông nên hỏi lại mình và chúng tôi cũng thế. Dù sao thì tổ quốc Việt Nam của chúng tôi đã giành lại chỗ đứng của mình trên thế giới này, và dân tộc tôi đã có quyền bình đẳng với các dân tộc trên hành tinh này. Niềm tin mãnh liệt vào một xã hội tương lai với chúng tôi đã không chỉ là quá khứ mà vẫn hiển hiện trước mắt dù đó là con đường thiên lý thử thách quyết liệt về năng lực và quyết tâm của một dân tộc bị hy sinh quá nhiều để có được độc lập, chủ quyền và tự do thật sự.

- Con người sống trên trái đất chỉ tin và làm theo những điều gì thiết thực mang lại cho mình quyền sống bình đẳng tự do và hạnh phúc. Đến khi phải từ bỏ thế giới này họ mới mơ một cuộc sống trên nước Thiên đàng của Chúa hay là cõi Niết bàn của Phật.

Ông Hà Giang định nói điều gì đó thì người khách cứ tự nhiên bộc bạch dòng suy nghĩ của mình :             

- Người Mỹ đã nói là làm vì có làm mới rõ đúng sai và chúng tôi đạt được những thành công nhanh chóng bất ngờ vượt lên trước bao đối thủ nhưng cũng chuốc lấy không ít thất bại đắng cay. Tuy nhiên thấy sai là sửa. Người Mỹ không chịu thua kém bất kỳ ai và tin rằng luôn có bàn tay của Chúa chở che, nâng dắt những đứa con phiêu bạt không khuất phục trước mọi trở ngại hiểm nguy để rao truyền đức tin về một sự công bằng, tình yêu thương trên cõi nhân gian này.

- Chẳng lẽ nhân danh một đức tin cao cả mà người ta thủ ác cũng dễ dàng như khi hành thiện?! Trên giải đất này diện tích chỉ bằng ba phần tư bang California mà dân số đông gấp hai lần, người Mỹ đã dội xuống gần bảy triệu tấn bom đạn, bốn trăm ngàn tấn napalm gây cháy, bốn mươi lăm triệu lít chất độc da cam… Nghĩa là gấp ba lần số bom đạn trong Thế chiến II. Chia bình quân mỗi người Việt Nam chúng tôi bất kể già, trẻ, gái, trai chịu 250 kilôgram chất nổ. Ông tưởng tượng xem sức hủy diệt của nó tới mức độ nào? và di họa sẽ tới đâu? Bây giờ các ông tới đây làm nhân đạo! Đành rằng có vẫn hơn không. Nhưng phải chăng người Mỹ đã quen với những bi kịch cùng những vinh quang?

- Chính phủ Mỹ từng có những hành xử kiểu ganster với nhiều dân tộc. Trên thế giới này, chưa có dân tộc nào bằng tinh thần bất khuất và sức chịu đựng bền bỉ đã khuất phục được người Mỹ như người Việt Nam. Nhà cầm quyền nào cũng muốn thể hiện uy lực của quốc gia mà họ đại diện nhưng thực ra là của một nhóm người, thường có những việc làm trái với ý nguyện của dân chúng. Chỉ có một nền dân chủ thật sự mới điều chỉnh được. Chúng tôi ưa thích sự đổi thay tiến bộ, không câu nệ về những chuyện đã qua, không bị ràng buộc bởi những giáo tín hay tình cảm để hướng tới một cuộc sống sung sướng hơn.   

Hai người cựu chiến binh già nhìn thẳng vào nhau. Ông khách giọng thân thiện :

- Thưa ông… Hãy tin những lời tôi nói ra đây là chân thành, xuất phát từ lương tâm người lính được thức tỉnh và kính trọng dân tộc các ông. Nó hoàn toàn xa lạ với lòng đố kỵ tầm thường của những người không dám nhìn thẳng vào sự thật… Cầu sự bằng an cho mọi người! – Ông ta làm dấu Thánh.

Ông Hà Giang nhìn qua ô kính, thầm nghĩ đời mình gặp biết bao sự lạ… Người lính đối phương năm xưa bây giờ đang là người khách ngồi bên trong một chuyến bay. Ông ta  bày tỏ lòng mình để chỉ mong một sự tốt lành cho người từng là đối địch…

Ngoài khoảng không kia đầy những giải mây đủ màu sắc trôi nổi bồng bềnh…

Suốt chuyến bay, khách tôn trọng sự im lặng của người đồng hành từng là kẻ thù của nhau. Họ không biết ông bạn già ngồi đây chất chứa bao nhiêu nỗi đau thể xác lẫn tinh thần, lại vừa chịu thêm một nỗi đau lớn nữa: Người máu mủ ruột già thân thương như người cha yêu qúy của ông không còn nữa! Ông Nguyễn Văn Thanh qua đời đúng vào đêm Rằm tháng Tám.

Ông Thanh vẫy các con chụm lại gần bên, ánh mắt yêu thương hiền từ, giọng nói đoản hơi:

- Cậu thấy sâu xa một điều rằng nỗi đau lớn nhất với một người là gia đình ly tán, với một quốc gia là đất nước chia cắt, dân tộc phân ly. Trải một đời người chịu đựng cậu còn gặp may, được an ủi thỏa mãn phần nào dù không trọn vẹn. Mất cũng nhiều mà được cũng lớn. Cuộc đời tưởng dài mà thật ngắn. Mình chưa chết mà đời mình đã như cổ tích rồi. Xem hay dở thế nào là tùy ở các con. Riêng cậu không ân hận điều gì. Chỉ cầu mong thời thế của các con được làm việc hết mình và sống đàng hoàng tử tế!

Không còn sức nói hơn nhưng trên môi ông giữ lại nụ cười héo hắt.

Cô Thảo Tâm tận tụy với chồng tới những giờ phút chót. Ông nhìn cô ngậm ngùi:

- Với em tôi thật là vô tích sự!

Cô Thảo Tâm chụm lên bàn tay ấy như giữ lại những kỷ niệm yêu thương:

- Không có anh đời em không biết thế nào?

Ông Thanh nắm tay cô không muốn rời ra:

- Cả đời tôi như một đứa trẻ con. Được những báu vật Trời cho mà tôi không biết!

Cô Thảo Tâm nâng bàn tay chồng lên. Hạt lệ già nặng đục nhòa đọng giữa lòng bàn tay ông khô héo nhăn nheo.

Ông tổng luận đời mình với đứa cháu có cuộc đời bất trắc:

- Mỗi người không chủ động được cuộc sống nhưng chủ động được cách sống của mình. Suốt đời chú ghi nhớ lời ông dạy: Cần nhớ lấy chữ NGỘ và chữ NHẪN. Có Ngộ mới biết Nhẫn. Không Nhẫn thì khó Ngộ. Nhẫn mà không Ngộ là ngu. Ngộ mà không Nhẫn bất thành sự. Đời nay đang quay lại bước khởi đầu. Chú đã đi hết một vòng quay.

Ngày đưa ông đi mưa gió sụt sùi như trời và người cùng xót thương ông. Con cháu ông về chịu tang, anh em có dịp đoàn tụ và dự lễ tưởng niệm người anh em liệt sỹ anh hùng hôm nay.

Ông già khoẻ mạnh chính là Đại tá Chu, hướng qua người anh tàn tật mến thương, thì thầm:

- Em như vật phù du trôi nổi giữa dòng đời. Tuổi thiếu niên, muốn được như ao ước của mình lại thành trái ngược! Phải sống bất đắc chí mà lòng vẫn hướng nơi đâu, rồi lại leo lên con thuyền viễn xứ phiêu du! Bây giờ châu đã về Hợp phố mà lòng chưa yên! Trước đây cách mạng chỉ là một ý thức mơ hồ nhưng vẫn có lực hấp dẫn để mình hướng tới một tương lai sáng sủa. Tại sao khi cách mạng thành công mà sức thuyết phục lòng người không như trước nữa?

Ông anh trầm ngâm, giọng vương buồn:

- Trên thế gian này chưa có cuộc cách mạng nào thành công trọn vẹn. Họa chăng nó đạt được ý muốn giải thoát trong chừng mực nào đó rồi người ta lại làm hỏng nó đi! Cụ Hồ từng nói: “Một người tốt chưa hẳn tốt mãi nếu không luôn biết sửa mình. Một tổ chức mạnh chưa hẳn mạnh mãi nếu không còn được lòng dân!”. Hiểu ra điều ấy không khó nhưng theo được không dễ đâu. Trong đời sống cộng đồng, lòng ham muốn như chất xúc tác cho những hậu quả trái chiều nhau. Lúc kích hoạt nó tạo nên năng lực mới. Lúc phân hủy nó phá hoại năng lực của con người. Khi hội tụ, khi phân rã người ta. Nhờ nanh vuốt sư tử được làm chúa tể rừng xanh. Không còn nanh vuốt sư tử là gì? Chuyện ngụ ngôn La Fontaine chú còn nhớ chứ? Lòng ham muốn có lúc làm con người ta mê muội tới mù quáng và tự hủy hoại mình như vậy đấy!

- Đất và nước là cái vừa thực vừa hư, thiêng liêng lắm với con người anh ạ… Cái tình quê mới kỳ lạ làm sao! Ngày ở Sài Gòn, em coi tập bút ký Thương nhớ mười hai của ông Vũ Bằng như bạn tâm giao. Em thường đọc để nhớ về miền Bắc. Nhớ thế nào là trăng non rét ngọt, là rét nàng Bân, là gió nồm nam, gió heo may, là nắng hanh, là oi bức, là mưa phùn gió bấc, là giá rét căm căm… Nhớ những quả nhót, quả mơ, quả mận, quả nhãn lồng, quả vải thiều… Nhớ cánh hoa đào, mùi lúa mới, hạt gạo tám thơm, hạt nếp cái hoa vàng… Nhớ sự pha hòa màu sắc tuyệt vời của những hạt cốm dẻo xanh màu lá mạ, sắc vàng rơm với những chấm đen của trái chuối tiêu chín trứng quốc bên trái hồng đỏ sậm. Đặc biệt là cái đòn gánh một đầu cong vòng lên của những bà những cô hàng cốm làng Vòng. Càng nhớ Hà Nội cồn cào. Qua bên ấy em vẫn mang theo nó, lại nhớ nhiều đến cái bánh dầy ngày cưới, cái bánh chưng ngày Tết. Nhớ tiết Rằm tháng Bảy mưa dầm, mưa ngâu sùi sụt, cảnh chùa chiền tấp nập người ta đi lễ nhớ công ơn sinh thành của mẹ cha, xin xá tội và an ủi những vong linh lưu lạc, lại nhớ những mẹt cháo, chè, nắm bỏng bộp, phẩm oản cúng cô hồn và những người nghèo lớn bé được dịp giành giật nhau của bố thí thập loại chúng sinh… Dịp lễ vu lan lại nhớ về nguồn cội. Ông bà cha mẹ không còn nhưng mảnh đất nơi các người yên nghỉ liệu có được yên không? Và nhớ nhất là mùa thu Hà Nộị… lúc trời trở gió, lá vàng bay lả tả quấn quýt quanh người trước khi rơi phủ  mặt đường, sương thu bàng bạc, mây thu giăng mờ như khói, hơi thu se lạnh, đầm sen tàn tạ, ao hồ nước trong veo lạnh lẽo lăn tăn con sóng, ánh chiều vàng bảng lảng… mà lòng nao nao thương nhớ mơ hồ... Mới cảm thấy thế nào là đẹp não nùng, là buồn se sắt… Em càng thấm thía câu nói của nhà văn: Con tim của người khách tương tư cố lý cũng đau ốm y như là gỗ mục!

Ông Hà Giang trầm lắng trong dòng suy tư: Đây là lần thứ hai trong lịch sử, cuộc chiến tranh giải phóng quy mô của những người nông dân Việt Nam thắng lợi trọn vẹn. Tuy nhiên đất nước hòa bình nhưng thanh bình chưa có. Những người nằm xuống và những người còn sống dù mất cả cuộc đời hay một phần đời liệu đã được yên chưa? Hận thù và dốt nát cùng với sự nổi dậy của lòng tham trong nỗi nghèo đói và tàn bạo của chiến tranh sẽ mọc lên bao nhiêu cỏ dại! Một lớp trọc phú và quan lại nhờ thời sẽ đưa đất nước tới đâu? Điều trăn trở ấy với dân tộc này đã thành muôn thuở! Anh chợt nhớ tới bác Trịnh Huy, bác Phan An Phú – nhà nho, nhà trí giả bất đắc chí và những bậc trưởng thượng thường cảm khái với câu thơ của Tô Đông Pha mà Nguyễn Trãi hay vận vào mình: Cổ lai thức tự đa ưu hoạn / Pha lão tằng vân ngã diệc vân (Xưa nay biết lắm họa nhiều / Già Pha cùng nghĩ một điều như ta). Anh thở dài cảm thương số phận của bậc hào kiệt thi nhân âý sống chết vì một chữ NHÂN và nghĩ tới phận mình: Chúng ta chẳng là gì trong cõi nhân gian đảo điên này. Đời mình thì bão tố mà đời chú thì đông giá. Mình còn chống đỡ mà chú thì âm thầm chịu đựng. Trong lòng chất chứa bao điều đau đớn nặng nề mà chú còn chia sẻ nỗi đau riêng của cháu… Đấy là tình cốt nhục!

Chưa biết cuộc đời rồi sẽ ra sao, nhưng qua cơn chấn động xã hội lớn lao này, hai chú cháu anh mỗi người một cảnh mà vẫn coi trọng điều liêm sỷ, là cốt lõi nhân cách một con NGƯỜI .

 

Thành phố HỒ CHÍ MINH

Viết từ năm 2005 – 2010

Chỉnh sửa có bổ sung tháng 12/2016

 

                                  – Nguyễn Văn Thịnh –

(trang 707)

 

 

 

Tiểu thuyết

THỜI BI TRÁNG

Tác giả: NGUYỄN VĂN THỊNH

ĐT: 08/38 943 279 – 01278 505858

Email: nguyenvanthinh1940@gmail.com

 

 

NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM

65 Nguyễn Du-HÀ NỘI

Tel & Fax: (04) 8222 135

Email: nxbhoinhavan@yahoo.com.vn

CHI NHÁNH MIỀN NAM

371/16 – Hai Bà Trưng – TP HCM

Tel: (08) 38 297 915

Email: dequang@gmail.com

 

 

Chịu trách nhiệm xuất bản: PHẠM TRUNG ĐỈNH

Biên tập: Hoàng Đình Quang

Bìa: Huỳnh Quang Thanh Tùng

Trình bày: Thanh Tùng

Vi tính: Bảo Khanh

Sửa bản in: Tác giả

 

   

In 500 cuốn - Khổ 14X20cm - Tại nhà in Côngty TNHH IN SP

Số nhà: 59/9K 12 Phạm Văn Chiêu - P.14 - Q. Gò Vấp TP. HCM

Số điện thoại: 08.3589.5144 – 3589.9220  –  Fax: 08.3589.9220

Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 380 – 2011 / CXB / 10-19 / HNV  

do Cục Xuất bản cấp ngày 29/04/2011.

In xong và nộp lưu chiểu tháng 10 năm 2011

 

Link http://sachhiem.net/NGVTHINH/NguyenvThinh_TBTj.php

ngày 24-Dec-2016

_________________

• Các bài của Nguyễn Văn Thịnh: link http://sachhiem.net/NGVTHINH/ListNVTh.inc.php

Trang Văn Học