Thời Bi Tráng

- tiểu thuyết -

Nguyễn Văn Thịnh

 

CHƯƠNG BA

Phủ Tây Hồ nằm sát ngay mép nước một doi đất bên bờ đông Tây hồ, giáp đê Yên Phụ, thờ Thượng đẳng tối linh thần – Liễu Hạnh thánh mẫu. Cõi tâm linh, người Việt tôn thờ tứ thần bất tử là các thánh: Gióng, Tản Viên, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh. Thánh là người trần có công to với đời khi thăng hóa được tôn vinh. Thần là người trời giáng thế phò chánh trừ tà, ban phúc cho dân. Tứ Ngài vừa là Thánh vừa là Thần, vừa thực vừa hư. Thánh Mẫu chính là công chúa Quỳnh Hoa, con của Ngọc Hoàng, mấy lần giáng trần có tên là Giáng Tiên, Liễu Hạnh. Nhiều lần Bà hóa thân thành người trần chung hòa thế tục, giúp dân đuổi tà ma yêu quái, ngao du khắp nơi sơn thủy vui cùng mây gió. Dân gian tôn sùng bà là Mẫu nghi thiên hạ. Tương truyền vào thời Lê, có ông Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan giỏi văn thơ lý dịch, một hôm ông cùng hai bạn văn nhân Ngô, Lý dạo chơi vãn cảnh Tây hồ, thuận chân dẫn tới nơi non xanh nước biếc, sen trúc hữu tình, nhận ra một tửu lâu quán trên đề mấy chữ “Tây hồ phong nguyệt”, thấp thoáng sau rèm bóng Liễu nương mỹ nữ cất giọng oanh mời khách. Cuộc kỳ ngộ Thi–Mỹ–Tửu tương phùng giữa phong cảnh gió-mây-trăng-nước-hoa-người kỳ thú làm xao lòng mặc khách tao nhân. Lúc chia tay giai nhân-tài tử vẫn còn lưu luyến. Mấy  lâu sau, nhớ cảnh nhớ người, lòng phơi phới, bạn văn nhân cùng tìm đến thi quán bên hồ. Chốn cũ người xưa chỉ còn là nơi non xanh ngăn ngắt, nước biếc lồng mây, hoa cười oanh hót, hệt như cõi bồng lai tiên cảnh. Chợt nhìn mấy câu thơ để lại, giật mình nhận ra là Quỳnh Hoa công chúa hiển linh!

Mang tiếng sinh ra và lớn lên ở đất Hà thành mà hôm nay bởi sự tình cờ, anh Hà Giang mới đến đây. Thời niên thiếu, vào dịp hè, bạn bè thường rủ nhau lên bơi ở hồ Quảng Bá. Mấy làng chài, cảnh ven hồ dọc đê sông Hồng còn đọng lại trong ký ức một thời của nhiều lứa tuổi là những rặng ổi trĩu trịt quả xanh quả vàng rất ấn tượng và hương thơm của nó thật hấp dẫn nhiều khi níu chân đám học trò lại cùng nhau diễn những trò con trẻ. Việc  đi lễ bái phủ đền là chuyện của các bà các cô, tuổi học sinh không mấy khi nghĩ tới. Từ sau hòa bình, ngôi làng nhỏ bé yên tĩnh mát mẻ này là khu nghỉ đặc biệt của Trung ương, người ngoài khó mấy ai vào được.

Một số cán bộ từng hoạt động nhiều năm ở chiến trường miền Nam được triệu tập tới đây trực tiếp nghe các đồng chí từ tuyến đầu tổ quốc bí mật lặn lội ra Trung ương báo cáo tình hình. Lòng mỗi người xao xuyến nặng nề nghĩ tới bà con đồng chí mình đang chịu bao đau thương tang tóc trước sự khủng bố dã man điên cuồng của lũ phản bội bán nước, tay sai của ngoại bang âm mưu chia cắt lâu dài đất nước. Từng tốp tản bộ ven hồ và tụm lại dưới bóng cây si xum xuê tán lá rườm rà với những rễ nhỏ to tỏa xuống lòng thong. Bên kia hồ, trường Bưởi ngày xưa bây giờ vẫn thế. Anh Hà Giang vừa có cảm giác bâng khuâng vừa thấy nỗi buồn càng trĩu nặng. Anh cảm thấy bất lực vì đời mình bị cột chặt vào chiếc xe lăn!

Điện phủ vắng hoe, xập xệ, khói hương bảng lảng.

- Mời các đồng chí vào thắp nén hương thỉnh Mẫu! – Ông từ phủ già tỏ ra biết khách lạ là ai.

Mỗi người tiếp nhau thắp hương, cúi đầu nhưng lòng dạ để ở mãi đâu. Không mấy dịp có nhiều khách vãng lai đông thế, ông từ phủ cảm động trân trọng lắm:

- Phủ ta đây là nơi Mẫu ngự trước khi thăng hóa. Phủ Giầy – Nam Định là nơi Mẫu hạ giới đầu thai. Ngoài hai phủ còn có ba đền thờ ở dưới Hàng Trống ta, ở Lạng Sơn và Thanh Hóa là nơi Mẫu hiển thánh giải họa cứu người. Ngày xưa, hàng năm, dịp đầu xuân, vào thượng tuần tháng ba có Hội Thánh Mẫu, người ta đi lễ Phủ, Đền nô nức sùng kính lắm…

Cảm thấy khách tuy trang nghiêm mà lơ đãng, ông“từ” bỏ chuyện xa xưa về kể chuyện gần:                  

- Có chuyện rằng, vua Bảo Đại háo sắc ham chơi bỏ mặc việc triều chính quốc dân cho ngoại nhân điều khiển. Vào đầu những năm 1930, viên Toàn quyền Pháp Pasquier dụ ngọt dỗ ngon vua bù nhìn chấp thuận ký điều ước sáp nhập nốt hai xứ Trung kỳ và Bắc kỳ vào Pháp quốc giống như xứ thuộc địa trực trị Nam kỳ để thành một xứ Đông Pháp xa xôi thuần nhất! Một số cận thần nhỏ to với hoàng hậu Nam Phương tìm cách cứu cái tội bán nước hại dân sỉ nhục muôn đời cho cả đám triều thần. Bản hiệp ước được ông vua mất gốc ký rồi và đã nằm gọn trong cặp của tên trùm cướp nước. Người trần không sao gỡ ra được nữa, chỉ còn cách cầu tới thần linh. Bà Hoàng đành tạm quên mình là tín đồ của Chúa Kito, dấn thân vi hành tới Đền, Phủ cầu xin Thánh Mẫu giải cho. Là chuyện ngẫu nhiên hay có một thần phép quyền biến nào chăng mà trên đường về nước, chiếc thủy phi cơ chở tên thực dân cáo già ấy cùng bảy viên quan thuộc hạ tự dưng bốc cháy trên trời cao và chìm nghỉm dưới đáy biển sâu. Bản hiệp định ấy cũng bất đắc kỳ tử như kẻ chủ mưu. Lời sấm Trạng “lửa đâu mà đốt tám gà (Bát kê =Pasquier) trên mây” từ mấy trăm năm trước lúc này người ta mới hiểu ra và thấy là linh nghiệm!

Một chiếc thuyền nan bơi dọc gần bờ. Trên thuyền có hai người với tay lưới phủ trên một lồng chim. Bầy chim đen trũi tuyệt vọng lồng lộn muốn lao ra. Mấy vị khách xô ra sát bờ nhốn nháo lao xao: Con le le!... Con vịt trời!... Con cồng cộc!... Con gà nước!... Con cúm núm!... Con quốc quốc!

Có người gọi to lên:

- Có bán không?

- Ghé mua thử ăn coi!

Ông từ phủ thủng thẳng giải thích:

- Không dễ mua được đâu. Mậu dịch quản lý tại gốc Hợp tác xã rồi. Nó là giống chim qúy hiếm. Loài chim này rất kén ăn, nó biết tìm moi củ sâm nằm sâu dưới đất lên ăn nên mới gọi là sâm cầm. Thịt nó thơm và ngọt, ăn vào bổ dương, tráng khí, kiện tinh, ích thần. Tích xưa kể có cô con gái nghe lời cha đi tìm nó mà lượm được nhiều củ sâm mang về cứu cả làng thoát chết vì đói đấy!

Và ông giải thích liền một hơi:                  

- Giống chim này được liệt kê trong Tây hồ bát cảnh: Bến trúc Nghi Tàm / Rừng bàng Yên Thái / Đàn thề Đồng Cổ / Phật say làng Thụy / Sâm cầm rợp bóng /  Đồng bông Nghi Tàm / Chợ đêm Khán Xuân / Tiếng đàn hành cung.

Ông già thở dài ý tiếc rẻ:

- Bây giờ bảy cảnh mất biệt tăm tích từ lâu rồi. Chỉ còn lại giống chim này. Ngày xưa nó dạn dĩ lắm, bơi đặc quanh thuyền như đánh bạn với người… Nhưng mà ngày càng phập phù thưa thớt và sợ người lắm!

Anh Hà Giang hồi tưởng lại:

- Tôi nhớ là cứ vào mấy tháng rét cuối năm, bầy vịt trời ở đâu bay về như mảng mây đen sà xuống đông đặc mặt hồ. Những buổi chiều mờ mờ sương khói, ngồi trong lớp học bên kia, nhìn qua cửa sổ đóng kín mít thấy bầy chim bay lên nhào xuống lặn lội trong gió rét căm căm hoặc ngay cả lúc trời mưa buốt giá thế mà thấy lòng nao nao thương kiếp chim giang hồ vất vả!

- Ấy, đừng tưởng thế mà thương nó! Mùa đông ở phương bắc lạnh hơn ta nhiều lắm. Bầy chim di trú qua bên đây để tránh cái rét nước đóng thành băng tuyết. Bắc quốc sông hồ nhiều và rộng bát ngát mênh mông như biển, hoa thơm trái lạ bạt ngàn, tha hồ kiếm ăn. Ngày xưa nó là một trong năm sản vật đặc biệt hàng năm dân thành Thăng Long mình phải đem cống tiến nhà vua mãi trong Kinh đô đấy – Và ông đọc tên mấy thứ đó vần như một câu ca: Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm / Cá rô đầm Sét, sâm cầm hồ Tây.

Vừa ra khỏi làng, mấy anh em  tụm lại cùng đi bên xe của Hà Giang rù rì tâm sự.  Một người đàn ông như đang đợi sẵn từ dưới rặng ổi, hai tay xách hai cặp chim chạy tới:

- Các đồng chí muốn mua chim?

- Đúng là chim sâm cầm không? – Một anh vượt lên hăng hái.

- Còn gì nữa. Tôi giữ lại được mấy con. Các đồng chí thử xem hương vị Tây hồ!

Con chim mà giá gấp mấy con gà. Các anh đắn đo lừng khừng.

- Của này đâu lọt ra ngoài chợ được. Chúng tôi lặn lội rình mò suốt ngày bẫy được dăm con mà đâu dám ăn. Hàng phân phối tiêu chuẩn đặc biệt cấp trung ương đấy! Dấu diếm được mấy con lén đem trao đổi kiếm thêm vài bơ gạo nuôi các cháu. 

Mấy dịp hưởng đặc sản nổi tiếng đất Hà thành. Mấy anh tặc lưỡi gom tiền mua đại. Người bán nhận tiền rồi biến nhanh sau rặng ổi. Tới dốc Yên Phụ, một anh nhanh nhẹn ghé vào một quán bên đường. Lúc ra thủ bên nách một bọc gói trong giấy báo. Mặt anh tươi rói, thì thào:        

- Quốc lủi Bắc Giang… làng Vân chính hiệu! Toàn là thứ qúy hiếm ngày xưa vua chúa mới được dùng, dân thường dễ gì được hưởng!

Mấy anh em nghỉ chân bên ghế đá hướng ra hồ. Cái nắng hửng ấm lên giữa ngày đông làm người ta cảm thấy dễ chịu nhưng trong lòng mấy chiến sỹ năm xưa vẫn nung nấu một điều u ẩn. Chờ nghị quyết cụ thể tới bao giờ nữa trong khi ta bị dồn ép đến thế cùng rồi. Nhiều người muốn vùng lên ào ạt bất kể chi! Giải thích thế nào anh em chưa dễ thông đâu. Có người ý này ý nọ. Một anh nói thẳng ra:

- Chúng ta ngồi đây mà ở trỏng anh em đồng chí mình đang bị chúng săn đuổi như “dặm cù chuột” giữa đồng. Tôi không chờ đợi được nữa đâu! Mấy thằng bạn đã tìm về Nam bằng đủ mọi con đường. Mấy đơn vị đóng trong Thanh–Nghệ–Tĩnh, nhiều đứa rủ nhau bỏ đi tập thể nửa bí mật nửa công khai. Không qua giới tuyến được thì họ vòng sang Lào, sang Thái. Nhiều đứa bị khai trừ. Có đứa bị bỏ tù vì vi phạm quân phong quân kỷ! Nhưng tôi không sợ. Kỷ luật gì tôi cũng chịu!

- Ta muốn làm gì cũng không thể tách mình ra khỏi mối tương quan giữa thế và lực ở hai miền và bối cảnh quốc tế hiện nay!

Người do dự, người nôn nóng, kín đáo hoặc công khai bộc lộ chính kiến của mình và cũng chỉ mỗi người tự giải tỏa cho mình thôi. 

Một ông trong bộ đồ thể thao, tay cầm chiếc cần câu, dáng vẻ thư nhàn đi ngang qua, nhìn mấy con chim bị trói nằm quay lơ bên bờ cỏ. Ông ta bước tới gần, cúi xuống ngó nghiêng rồi quay qua mấy người đang ngồi đây thân thiện hỏi:

- Mấy đồng chí mua những con chim này ở bên vệ đê phải không? Nó là chim gì đấy?

- Bác người ở đây mà không biết nó là con chim gì à? Chim sâm cầm đấy!

Ông ta cười xòa:

- Tôi biết ngay là các đồng chí bị lừa mà!

Và ông vui vẻ giải thích cho:

- Giống sâm cầm đầu đen, mình xám, mào trắng nhạt dẹt và rộng, mỏ nhọn như chim nhưng giữa bốn ngón chân có màng mỏng dính vào nhau như chân vịt vì nó sống nhờ vào sông nước. Con này thuộc giống gà nước, mào mỏng nhú lên, chỉ biết kiếm ăn trên cạn, gọi là con quốc quốc hay con gia gia cũng nó, sống đơn lẻ, thường lủi trong các bụi rặm ven hồ, đầm, đồng nước, đẻ lang!

Mấy anh em quên cả chuyện đang bàn, mỗi người một phản ứng khác nhau. Ông khách lạ kể chuyện vui như để an ủi mấy anh em từ phương xa tới:

- Trong hàng ngàn con sâm cầm mới có một con đầu đỏ là cực kỳ qúy hiếm. Đấy mới là chim tiến vua. Hàng năm phải tiến triều mười cặp chim đầu đỏ thì kiếm đâu ra? Ngày xưa mấy anh lý xã vùng này khốn khổ vì chuyện đó. Thế mới có câu “đít Lý Râu / đầu Án Cộng”. Cái đít anh Lý bị đòn vua cũng trơ ra như cái đầu anh Án trụi tóc vì đòn ghen của vợ!

Ông cười xuề xòa chia sẻ:

- Nếu đúng là sâm cầm thì vặt lông rồi thui lên đem nấu cháo hoặc hầm với hạt sen Tây Hồ này, có thêm vào đương quy, thục địa, kỳ tử thì càng tốt. Hoặc là có thể sấy khô, ngâm rượu ngon, để quá trăm ngày hẵng uống. Nhưng là con chim quốc thì chỉ có cách phi sào hành mỡ cho thơm vì thịt nó… tanh!

Người lạ đi rồi, mấy anh em đem cái hớ hênh của mình ra mổ xẻ:

- Người địa phương là thổ công đất họ. Không ai qua mặt được đâu!

- Vậy thì chai rượu làng Vân này cũng… dởm! Bây giờ gạo người ăn mua theo tem phiếu còn chưa đủ lấy đâu ra gạo dư nấu rượu?

Các anh được học lý luận nhiều, lại xoay ra triết lý về thói gian dối là đặc tính địa phương? là thuộc tính giai cấp nông dân hẹp hòi thiển cận? hay chỉ là một tính cách lịch sử xuất hiện trong thời điểm nhất định nào thôi? Kết thúc cuộc tranh luận kiểu này thật khó. Anh Hà Giang lảng chuyện đi:

- Chỉ một cái tên của hồ này đã lắm chuyện rồi: Nào là Đầm Trâu, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Tây Hồ, Đoái Hồ… Sau ngày vua Quang Trung đại thắng quân Thanh, có một thời gian lưu lại ở Thăng Long. Một hôm nhà vua ngự lãm cảnh Tây Hồ, có ông tiến sỹ văn thần muốn được lòng Hoàng đế qùy tâu: Trịnh Tạc là kẻ bất tài mà cũng biết kiêng kỵ húy tây vương bắt đổi “đoài” thành “đoái”. Nay bệ hạ uy danh bốn bể, muôn dân tôn phục, xin đổi tên hồ để tránh phạm húy quý hương! Ông vua áo vải cờ đào chiến tích lẫy lừng như thế cả cười: Tây hồ là thắng cảnh của đất Thăng Long, người Thăng Long yêu quí và gắn bó với Tây hồ bao đời nay rồi. Họ Trịnh làm trái đạo trời mới bị diệt. Nay ta lẽ nào chỉ vì việc nhỏ mà làm điều sái lòng bách tính. Ta nay là khách Tây Sơn cùng các nhân sỹ Bắc Hà vãn cảnh Tây hồ chẳng là duyên kỳ ngộ lắm ru? Cảnh không phụ người nỡ nào người phụ cảnh?!

Nét mặt nghiêm trang, anh Hà Giang chậm rãi :

- Cho đến nay nền công nghiệp của ta vẫn mới chỉ là khởi đi những bước đầu thôi, lại trong bối cảnh rất đặc biệt thì giai cấp mới chỉ là một đứa trẻ con chập chững. Chúng ta cứ ngộ nhận mình, chê bai phỉ báng người. Không có ai xấu cả ngoại trừ những kẻ ích kỷ cơ hội, phản bội, bất nhân là tồi tệ thậm chí là nguy hiểm. Chúng ta quen phân tích đánh giá theo sách vở, vừa nâng vừa hạ đến nỗi người nông dân vừa cảm thấy như mình mới là người quyết định vận mệnh quốc gia nhưng lại tự ty về gốc gác của chính mình. Hàng ngàn đời nay nông thôn và người dân quê vẫn là nguồn cội thân thương rất đỗi tự hào mà bây giờ ta không còn  nhận diện ra! Nó vẫn đói rách, dốt nát và lạc hậu mà lại nghênh ngang hãnh tiến lạc lõngđến lạ kỳ. Ai đời mo cơm, quả cà, chân đất với tấm lòng cộng sản tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội được không? Hỏi nó giống ai ở trên đời này? Chính chúng ta đang xa rời gốc rễ. Không hiểu mình thì làm sao hiểu người ta được?!

Căn phòng chừng chục mét vuông ở ngay dưới chân cầu thang cơ quan là nơi làm việc cũng là nơi ở của cán bộ Hà Giang. Với công việc của người nghiên cứu và dịch thuật lại sống độc thân, anh không cảm thấy gì là chật chội. Việc ăn uống anh tự lo với sự phụ trợ của bạn bè. Cái bếp dầu chiếm một khoanh nhỏ xíu so với những chồng sách kềnh càng… Điều nan giải nhất là kho sách nhưng rất may cơ quan có cả một thư viện khổng lồ. Ngoài giờ làm việc, anh bao luôn công việc cho người thường trực.

Trên bàn, lá thư miền Nam không phong bì, rách mướp, vàng ố, hoen mờ dù cố làm cho phẳng nhưng vẫn còn nhiều nếp nhăn không thể mất đi đặt trên tấm khăn rằn xếp gọn gàng ngay ngắn. Thư không còn là của riêng người nhận. Nỗi đau của một người là nỗi đau của cả tuyến đầu tổ quốc. Nỗi nhớ niềm tin không chỉ dành trông ở một người mà là sự hướng tới và hy vọng cả hậu phương rộng lớn. Anh Hà Giang giữ gìn, trân trọng, không chỉ đã thuộc nằm lòng những lời những ý trong thư mà hằn in trong đầu nét chữ và vị trí từng câu trên mấy trang thư dày đặc. Người viết vội không kịp đề ngày và nơi gửi hay là sự cố tình vì sống trong cái chết dập dình và sự khắc khoải chờ mong dằng dặc thì ngày nào chẳng thế, ở đâu cũng vậy. Đây là lá thư Bến Tre bằng máu và nước mắt của một người con gái gửi cho anh:

Anh Hai ơi !

Không biết thơ này em viết có đến được với anh không? Khi cầm thơ trong tay anh còn nhớ con bé Út Nước ngày xưa mà anh đặt tên xếp thứ là Tám Hương Thủy nữa không? Em đêm ngày cầu mong cho anh được lành vết thương và nếu như vết thương tai quái không chịu cho anh hết bịnh thì anh Hai vẫn còn sung sướng là được sống yên bình với người thân, với đồng đội, được học hành và có Bác Hồ che chở cho.

Anh Hai ơi! Chết hết ráo rồi anh à! Là em nói lớp người khi em còn nhỏ thì người ta đã là người lớn như anh, các cô, cậu, chú, bác, ba, má, dượng, dì… May có ai còn là nhanh chưn đi điều lắng hoặc trốn biệt tăm mãi đâu không biết nữa? Những ai đang sống nghênh ngang phất phơ xe ngựa giữa ấp giữa làng thì coi như chết còn hơn, bà con mình bớt khổ vì sự tráo trở ăn ở hai lòng của họ!

Ngay sau khi các anh đi tập kết, thằng điền chủ Tý chạy lên Sài Gòn về đòi lại ruộng, ba không chịu, cự lại: Nếu như đó là cục vàng thì các ông có bỏ đấy không? Hoặc giả tui nhặt được, tui sài hết các ông có đòi lại được nữa không? Các ông bỏ của chạy lấy người, ruộng đất để hoang, bom đạn mặc sức cày sới, chúng tui sống chết đêm ngày với nó mới ra được hạt lúa trái cây, bi giờ các ông về đòi sao đặng. Nếu các ông cần, xin chuộc lại tui ưng! Nó kêu lính đồn kéo xuống bắn chết ngay tại đầu bờ rồi vu lên ba cầm đầu Việt cộng nằm vùng chống đối quốc gia! Má bị bỏ tù mấy tháng rồi nó cho về quản thúc tại gia, bọn tề xã ấp ngày nào cũng xục vô nhà kiểm tra lục soát. Mấy anh chị không chịu được phải bỏ trốn đi. Anh Bẩy vô ở trong giồng, bị đám lính tuần lủi phục bắn chết lúc đang đặt đó trong kinh! Chúng lập ra những đoàn tố cộng bắt bà con mình tố giác lẫn nhau, xếp loại từng nhà ghi trên những Bảng nóc gia. Chú Năm Thẩm là nông dân thì vô Hội Nông dân chớ có gì đâu mà chúng vu là Việt cộng đầu sỏ, bắt qùy sám hối, tra khảo đặng moi ra cơ sở. Chú đâu biết gì mà nói. Chúng bắt vợ con chú lên bót và biểu nếu không khai ra còn liên hệ với những ai chúng sẽ bắn bỏ từng người và chú là sau chót. Ổng ức quá nhằm mấy thằng phản bội ác ôn khai cho chúng là đảng mật của ta gài vô. Mấy thằng bị bắn bỏ liền. Nhưng rồi nó cũng phát hiện ra chú chơi ác, đem ra giữa chợ mổ bụng moi xem gan bây lớn! Chúng bắt các chị có chồng tập kết phải viết giấy ly hôn rồi bọn cảnh sát, dân vệ, mấy đứa trở mặt đầu hàng sáp vô hù dọa o bế ép làm vợ bé! Anh còn nhớ đám cưới tập thể ở Cao Lãnh không hà? Được mấy hôm là các anh xuống tàu, các chị lại về chờ đợi. Chị Chín có mang rồi, nó ép sao cũng cự tuyệt, đang đêm một đám xông vô nhà. Mấy hôm sau người ta đi chợ thấy xác chị dạt mãi ngoài vàm. Người thì biểu nó cưỡng bức xong rồi bóp cổ chị quẳng xuống sông. Người thì biểu chị không chịu nhục nhảy xuống sông tự vẫn. Mấy người lớn bị khủng bố bức bách quá chịu qui hàng làm phản đã đành. Mấy đứa nhỏ mới lớn biết chi, có đứa cha đi tập kết mà cũng nhập vô đám thanh niên cộng hòa hùa theo với bọn dân vệ, cảnh sát ác ôn mang theo xiên chĩa đi lùng xục xăm xoi từ trong nhà ra đến ngoài vườn tìm kiếm bắt bớ đánh đập bắn giết bà con làng xóm! 

Sông Cổ Chiên, sông Hàm Luông ngày nào cũng có xác người trôi nổi dập dềnh!

Chúng bắt mọi người vô ở trong khu dinh điền gần chợ gần lộ cho dễ kiểm soát. Nhà nào mang Bảng nóc gia đen là nguy hiểm, chúng mặc sức làm tình làm tội, hạch hỏi tra xét công việc và hành tung của từng người. Hàng ngày ra ruộng xa cả chục cây số, đi bộ mỏi chưn, đi ghe mỏi tay, còn làm gì được nữa?! Sáng đi muộn, chiều về sớm hoài, chịu sao đặng? Ai không nghe ở lại trong vuông trong giồng là theo Việt cộng làm giặc, chúng không dễ gì để yên cho đâu! Chúng nó thâm hiểm lắm, biết người đằng mình ẩn trốn trong các cụm địa hình, buộc đàn ông con trai cầm gậy cầm dây lùa đi trước, có lính theo sau. Bắt được người nào phải trói lại và đánh đập ngay trước mắt chúng nó. Có người vừa đánh vừa khóc, nó hạch: Bộ thương Việt cộng lắm sao? Ổng đáp: Tui thương tui vì bất lực chịu làm điều thất đức để mang tiếng ác cho con cháu đời sau!

Hết chịu nổi rồi anh Hai ơi! Em phải bỏ lên thành ở đợ cho người ta, lâu lâu lén về thăm má.

Vậy mà anh Hai biết hôn? Quê mình nổi dậy rồi đó! Tưởng là ai cũng sợ nhưng vì lâu nay mình muốn cho yên, không muốn chuyện người ta biểu mình gây gổ làm rối loạn lên. Nhưng mình càng nín nhịn chúng càng làm tàng quá sức thì phải đến nước này thôi! Ngày cuối năm Hợi sang năm Tý mà chẳng ai lo tết nhất, cứ hè nhau đồng loạt khởi nghĩa từ ấp tới xã tới tổng tới khắp mọi nơi. Đang đêm tiếng trống, tiếng mõ, tiếng thùng thiếc, tiếng súng đạn nổ đùng đùng nghe hết hồn, tiếng loa kêu gọi bà con nổi dậy, gọi địch đầu hàng, rần rần xã này liền xã khác, vang lên tới cả trên phố huyện. Nhiều nơi mang rơm, lá bặp dừa khô chất đống to đùng đốt lửa đỏ rực trời rồi hù lên là ta đánh phá tháp canh chỗ này, bót đồn chỗ nọ. Nghe tin phao lên có bộ đội 502 bên Đồng Tháp và cả bộ đội miền Bắc về hỗ trợ, mang theo nhiều súng lớn súng nhỏ hành quân rầm rập suốt đêm. Em cứ hồi hộp coi chừng biết đâu trong đó có anh Hai. Mãi sau mới vỡ lẽ ra là các cô chú anh chị đánh nghi binh. Súng đạn toàn là cây, bập dừa bọc trong tấm mủ cho thanh niên khiêng vác lặc lè. Chứ súng đạn thiệt chôn giấu mấy năm nay bị tụi nó khui hết trọi rồi còn đâu. Chỉ toàn là dao, phảng, mác, mã tấu với cây tầm vông thôi! Sau rồi mới có súng đạn thiệt lấy từ đám lính dân vệ, bảo an bỏ chạy.

Bọn tề – điệp liên gia ấp xã chui lủi biệt tăm, nhiều đứa ra đầu thú xin nhân dân tha tội chết. Đám lính bảo an đóng chặt cổng đồn bót lại, im re không dám nổ một phát súng. Chị Tư tôm xông ôm con của tên trưởng bót xông vô đòi mở cổng cho anh em ta ào vô chiếm bót. Mãi cả tháng sau mới có lính chủ lực trên Sài Gòn xuống. Đám này quen thói hung hăng tàn ác lắm nhưng chúng đâu ngờ bây giờ ta được phép đánh trả rồi, súng đạn nổ rần rần khắp các xóm ấp bờ kinh, thằng chết thằng co giò chạy về kêu trời. Chúng cụm lại một nơi, dùng cối, pháo bắn bừa bãi, bắt bớ tùm lum giết hại người ta. Bà con hè nhau kéo về “chi khu” trên quận. Từ các kinh rạch đổ ra sông lớn đặc nghẹt những xuồng ghe chất đầy người già, đàn bà con nít, chất đống đồ đạc mùng mền tấm đệm, có cả trâu bò, chó heo, gà vịt… Tiếng súc vật kêu ran trời dậy đất, tiếng người la thét đòi lính quốc gia không được tàn sát dân lành, đòi bồi thường nhân mạng. Người ta tứ phương kéo tới đông nghẹt quanh “chi khu”, đầy phố quận. Bà con phố thị cũng là người từ quê lên trú chứ ai, có cả gia đình lính và cảnh sát cùng kéo tới tiếp tế đồ ăn nước uống, ủng hộ cô bác dưới quê. Cuối cùng chúng phải xuống nước rút quân và hứa để cho bà con làm ăn sinh sống.                  

Anh Hai ơi! Em bỏ không lên thành nữa. Các cô chú anh chị giao việc cho em. Em nhát lắm mà có được học hành gì đâu ngoài mấy chữ và mấy bài toán hồi anh dạy. Nhưng nghĩ tới bà con quê hương mình, nghĩ tới anh, nghĩ tới miền Bắc là em phải ráng. Có điều là sức mình liệu có chọi nổi với nó không? Chúng nó có Mỹ  chi viện xả láng thiếu gì súng đạn tiền của. Liệu Bác Hồ có cho miền Bắc vô giúp sức với miền Nam không? Và anh Hai có vô đây  nữa không?

Anh Hai ơi! Chưa  biết em có sống nổi tới ngày gặp anh Hai không hà? Anh đừng cho là em nói dại. Em đã từng thấy biết bao bộ đội của anh, bao nhiêu bà con anh em trong bấy lâu nay. 

Dù gì thì em vẫn cầu mong có một ngày được ra quê hương miền Bắc gặp Bác Hồ, gặp anh.

Cầu mong anh Hai mạnh giỏi và tiến bộ.

Em Út Nước tức Tám Hương Thủy đây.

Bảy năm chiến đấu ở miền Nam, cũng gần bằng thời gian ấy nữa trôi qua nhưng những con người, cảnh vật vẫn hằn in trong anh sâu đậm. Khắp nẻo rừng già miền Đông với chiến khu D, khắp miền sông nước Đồng Nai, Vàm Cỏ, Cửu Long và miệt bưng biền Đồng Tháp , khắp cả miền Tây đầy sông rạch với những cánh rừng U Minh thượng, U Minh hạ chim muỗi đặc trời tới tận miệt Năm Căn tận cùng của mỏm Cà Mau mung lung mây nước. Chỗ nào cũng để lại trong anh những kỷ niệm không phai mờ được về tình dân, tình đồng đội, tình người. Những ngày gian khổ đói vàng con mắt. Những ngày đơn vị tan tác vì địch bố càn. Những ngày vui ta thắng địch và dân trúng mùa.  Tiếng khóc câu cười, tiếng hát niềm đau, hòa trong bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và máu xương biết bao người.

Ngày sắp có hiệp định Genève, tinh thần địch quân tan tác. Lính viễn chinh Pháp chỉ mong chờ ngày hồi hương. Lính ngụy bù nhìn Bảo Đại dã đám tanh bành. Nhiều đồn bót mới nghe tin bộ đội hành quân ở mãi đâu đã vứt súng bỏ đồn chạy mất tiêu. Ban chỉ huy trung đoàn quyết định phân tán chủ lực tranh thủ mở rộng vùng giải phóng gây thanh thế cho chính phủ Cụ Hồ. Tham mưu trưởng trung đoàn Hà Giang chỉ huy một phân đội trên đường hành tiến về miền Tây, bị một toán lính đạo vệ binh đoàn phục kích bất ngờ giữa cánh đồng lúa bạt ngàn, anh bị trúng thương ngay loạt đạn đầu. Hai chân anh đờ ra, chỉ bò lết được thôi. Quân y cấp cứu ban đầu rồi giao cho dân công chuyển về hậu cứ. Đơn vị tiếp tục nhiệm vụ truy quét đám tàn quân phản động. Vết thương ngọt xớt gọn hơ đau nhói ở nơi lưng. Bác sỹ gắp ra viên đạn ngon lành, hy vọng là vết thương sẽ hồi phục lại. Bao nhiêu lần chuyển đổi xuồng ghe, về đến vùng giải phóng Bến Tre thì hiệp định Genève vừa được ký. Cô bác địa phương nhận chăm sóc thương binh chờ ngày chuyển quân theo hiệp định. Gia đình bác Ba chỉ còn cô con gái út, mấy người con lớn đã có gia đình ra ở riêng. Bà già phúc hậu, ít nói, quanh quẩn việc nhà. Ông già rắn rỏi, quán xuyến ruộng vườn, thích kể các tích chuyện xưa và tự hào về gốc gác gần xa:

- Người Bến Tre này đa phần phát tích từ Thuận Hóa và miệt xứ Quảng vô nên phát sanh nhiều danh thần, võ tướng như các ngài Trương Tấn Bửu, Phan Thanh Giản… Nhiều danh sĩ đang lúc sinh thời hoặc viên tịch rồi cũng tụ hội về đây như thầy Đồ Chiểu, thầy Võ Trường Toản và nhiều vị văn nhân võ tướng. Ông bà tui xưa mới vô ở cù lao Bảo mãi sau mới dời qua cù lao Minh là đất Mỏ Cày này. Nghe truyền lại thì xưa kêu là Mõ Cày vì hồi khai thiên lập địa nơi đây là rừng của cọp, dân sợ lắm phải tôn ngài là Hương Cả và lập miếu thờ ông Cả Cọp. Tuy nhiên, khi đi cày vẫn phải có người gõ mõ vang lên để canh chừng.

Cô gái mới lớn hồn nhiên thương người và hay xúc động. Một huyện Mỏ Cày này cô đi chưa hết thì trời đất ơi chuyện trên rừng dưới biển, miền Đông miền Tây đã là quá xá rồi nói chi tới chuyện xa miết Sài Gòn, Hà Nội, miết tới núi rừng Việt Bắc nơi có Bác Hồ như một ông tiên thương con nít lắm. Anh thương binh Hà Giang nói giọng Bắc nhỏ nhẹ líu ríu khó nghe nhưng riết rồi thấy êm tai. Anh biết nhiều, giỏi chữ, tật nguyền đau đớn vậy mà không muốn người khác bận tâm về mình, cứ âm thầm chịu đựng, ráng sức tự lực, ít muốn phiền hà đến ai, lại còn bày chuyện ra để có việc làm. Cô Út nhiều khi phải giành lấy việc giúp anh. Bà già có lúc giận lẩy:    

- Tụi bay từ mãi ngoải vô đây đánh giặc cho cả nước, lỡ bị thương là bà con tao phải lo, kẻo cô bác ngoải trách bà con trong này vô tâm vô tính!

Anh thương binh chỉ lặng lẽ cười rồi lại bày cho Út học chữ. Khi con bé tự tay nắn nót viết được những dòng chữ đầu tiên, nó len lét đưa tờ giấy khoe và ghé vào tai má rì rầm đọc: Công cha như núi thái sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra / Một lòng thờ mẹ kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Bà Bảy tròn mắt nhìn con, không ngờ lại có chuyện này. Nó dạy con bà cái chữ, lại dạy cả cái nghĩa nữa kìa! Thương con, bà lại thương cái thằng con nhà ai mà tội nghiệp? Nước mắt bà rưng rưng. Con gái cũng giụi đầu vào vai má nghẹn ngào:

- Con thương ảnh quá hà!

Bà già đem chuyện hỏi chồng. Ông biểu:

- Thằng đàn ông kín bụng lắm!

Bà chép miệng:

- Dù gì thì xa xôi tít tắp lại bặt tin cả chục năm trời chắc gì vợ nó đã chờ. Hay là nếu nó ưng nhau thì cho nó ở đây chớ về ngoải có khi còn cực hơn nữa thì sao?

Ông giảng giải cho bà rõ ra

- Bà có điên không? Hết hạn, Nam, Bắc bên nào giữ nguyên bên ấy rồi thì đám quốc gia về đây, cái thân mình còn chưa biết ra sao nữa huống chi là mấy người bộ đội Cụ Hồ, lại Bắc kỳ nữa thì giấu làm sao được? Cứ để hai năm nữa đất nước thống nhứt muộn gì. Nó ra ngoải còn hy vọng chữa lành bệnh được!

Anh được đưa về khu tập kết 100 ngày ở Cao Lãnh sâu mãi trong Đồng Tháp Mười. Ông đóng cho cái cáng tre gọn gàng chắc chắn. Bà già với cô Út cùng đi. Chiếc ghe tam bản má ngồi mũi, con gái bơi sau vòng vo theo đường kinh rạch, có lúc băng đồng nhắm hướng mà đi. Gặp chỗ nước cạn, Út lội hì hụi long đẩy ghe cả một đoạn dài. Những nơi giao thủy giao lộ người ta xuồng ghe tàu xe nườm nượp, vui thiệt là vui mà buồn cũng thiệt là buồn nhưng phải nín đi. Vậy mà cũng có lúc không cầm được, nó bật ra bằng những dòng nước mắt, những lời nói nghẹn ngào không hết ý. Anh Hà Giang gặp lại đồng đội của mình, vồn vã vội vàng, mỗi người đều có tâm trạng thầm kín riêng tư lúc này. Dù có người phụ giúp nhưng cô Út vẫn không chịu rời tay cáng.

Nhiều đơn vị tổ chức đám cưới tập thể.

Khi các bà má đưa con gái đến đây chỉ là với ý tiễn mấy đứa con bộ đội ra đi nhưng lúc này mới thấy tình cảm của chúng nó lộ ra, quấn quýt nhau không muốn rời xa. Thương quá, cả đứa đi và đứa ở! Các má chụm lại quyết một điều đem bàn với Ban chỉ huy: Nếu cặp nào thương nhau thiệt tình thì cho tổ chức đám cưới tập thể ngay tại nơi đây, miễn chấp tục lệ, các má về sẽ thỉnh với ông bà rộng lòng cho sấp nhỏ trong cảnh biệt ly cấp thiết lúc này, chỉ một lời nhắn nhủ:

- Mấy đứa ra ngoải với Bác Hồ ráng rèn luyện, học tập cho ngon và giữ lòng chung thủy với miền Nam. Khi trở về các má sẽ giao lại tụi nó vẹn toàn!

Thế là hàng chục đám cưới được tổ chức gấp gáp đơn sơ mà cảm động lắm. Bà con cô bác sở tại miễn chấp tục lệ xưa, sẵn lòng cho các cặp vợ chồng mới cưới vô ở nhà mình ít bữa rồi mai kẻ Bắc người Nam tội nghiệp! Ban chỉ huy hỏi Hà Giang:

- Ý má ưng cho đồng chí cô Út đấy!

Anh rưng rưng cảm động nắm tay hai người lâu lắm:     

- Tình cảm của ba má và em con ghi nhớ mãi… Khi lành vết thương nhất định con sẽ trở lại miền Nam!

Đêm chia tay bùi ngùi bịn rịn, anh nói cho vui:

- Giữ mãi cái tên Út Nước thì làm sao lớn được? Nước với thủy là một. Em thứ tám. Có biên thư cho anh cứ ghi là Tám… Hương Thủy đi!

Những đêm này, anh thao thức không ngủ được với bao điều suy tư trăn trở. Lâu nay anh đã yên phận và quên đi đôi chân liệt. Anh cảm thấy vẫn là người hạnh phúc vì còn hai tay nguyên vẹn, đôi mắt sáng, bộ óc tỉnh táo và trái tim nhạy cảm. Anh làm việc cật lực không để ý tới thời gian dầu là mùa hè oi nồng hay mùa đông buốt giá. Những tập sách dịch văn học được các bạn trẻ đón đọc nồng nhiệt vì nó thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước và trách nhiệm công dân trong mỗi người vẫn còn đang âm ỉ phập phù. Những tập sách dịch triết học có ý nghĩa thiết thực giúp mọi người tìm hiểu kho tàng trí tuệ tư duy tinh tế nhất của nhân loại. Những bài viết của anh được đánh giá có lý luận căn bản vững vàng. Anh cảm thấy đời mình còn ý nghĩa.  Nhưng bây giờ, sao mà tù túng thế?! Đôi chân liệt này là một tai nghiệt của đời anh! Cái xe lăn thành vật cản bước chân anh! Thơ Petófi càng làm anh bức bối :

Một ý nghĩ cứ dày vò tôi mãi

Chết trên chăn gối một chiếc giường

 Tàn tạ dần như hoa nọ phai hương

Con sâu cứ ăn ruồng ngầm ngấm

Chết mòn mỏi như nến kia cháy chậm

Trong một căn phòng trống trải không ai…

Tôi không ưng cái chết đó… Trời ơi !

Cái chết đó tôi không thèm ! Tôi muốn…

Là cái cây sét gầm quật xuống

Là cái cây bão thổi trốc lên

Là tảng đá lăn sấm động vang rền

Giữa trời đất chuyển rung… nhào xuống vực!

Sao đúng quá với tâm trạng anh lúc này? Anh thèm khát được hoạt động xông xáo như ngày xưa, được hò hét nổi xung lên trong tiếng đạn và nếu phải chết anh ước ao được chết gục giữa đồng lúa bạt ngàn hay bên bờ kênh xanh mát trong tiếng reo hò vui chiến thắng. Bấy lâu nay, tình yêu tưởng sẽ không bao giờ đến với anh nữa. Nhưng bây giờ ở nơi xa xôi ấy vẫn có một người con gái ngày đêm đang nghĩ tới anh, dành cho anh nguyên vẹn tình cảm nhớ nhung yêu thương da diết nhất và rất cần đến sự hiện hữu của anh. Anh biết sau ngày gặp lại, Hương Giang phải dằn vặt đau khổ lắm để dồn nén xuống những tình cảm muốn bật lên. Nhưng bây giờ cô đã là mẹ và những đứa con đã hồn nhiên vô tư  biến nỗi đau ấy trong cô thành những kỷ niệm mơ hồ. Anh tự hỏi tại sao ngày ấy anh bất chợt bộc phát lên cái tên Hương Thủy mà không chỉ là Huỳnh Thị Thủy? Tại sao anh không dám có một lời hứa hẹn đinh ninh? Tại sao anh vẫn không muốn người con gái phải ràng buộc với anh bởi một lời hứa hẹn hay bởi anh không muốn bị ràng buộc vào ai? Cả một khoảng không gian và thời gian đằng đẵng xa xôi như thế mà tương lai với anh vẫn mơ hồ như một dấu hỏi cặp kè bên một dấu than. Hay là trong anh ám ảnh một điều gì như là định mệnh?!

Anh cảm thấy nhà cửa phố phường thành chật chội. Chiều chiều anh thường dạo xe ra hướng bờ sông Hồng. Nhìn dòng nước chảy miên man, nhìn khoảng không bát ngát và những cánh chim trời tất tả. Anh đau đớn thấy mình bất lực, muốn hét thật to lên! Anh gục xuống, bỗng thấy thông cảm và thương đồng đội quá. Nhớ thương như thế. Dày vò như thế. Sức lực như thế mà phải buộc chân bó tay ở đây? Cần hiểu họ và hãy rộng lòng với họ!

Ngày chủ nhật, ông chú lôi đồ nghề ra lúi húi sửa xe cho cháu.

Người lạ bước vào. Khách dáng cao, da trắng, rất chủ động:

- Đồng chí Thanh có nhà?

Khách đưa tay ra:

- Chào đồng chí! Tôi ở bên Bảo vệ chính trị – Tay kia rút từ túi áo ra tấm thẻ màu đỏ.

Chủ nhà đáp lễ và giới thiệu:

- Anh Hà Giang, cháu tôi, công tác ở Viện triết học về chơi!

Thái độ hòa nhã thân thiện, sau những câu thăm hỏi xã giao, khách từ tốn hỏi chủ nhà:

- Đồng chí có biết ông dược sỹ Bảo Toàn?

- Ông dược sỹ trước kia có Pharmacie (Nhà bào chế thuốc) lớn nhất ở phố Hàng Bài? – Chủ nhìn khách thăm dò.

- Đồng chí có biết chuyện gì không?

- À, con gái ông cùng học với thằng cháu nhà tôi! Hai đứa thân nhau lắm. Tôi có nghe ông ấy trốn đi Nam. Nhưng đấy là chuyện của bên Công an!

- Không sao đâu! Biết là con em đồng chí mình, tôi đến thăm và nói để đồng chí lưu ý nhắc nhở cháu. Tuổi học sinh, bạn bè các cháu vô tư. Đừng để con em mình dại dột trong mối quan hệ xã hội phức tạp vô tình bị lợi dụng thôi!

Anh Hà Giang tham gia vào chuyện:

- Nếu đúng là ông dược sỹ ấy thì tôi biết. Những ngày đầu kháng chiến bảo vệ Thủ đô, tôi phụ trách một đơn vị công an xung phong. Ông ấy nhiều lần vượt qua sự kiểm soát của địch, tiếp tế cho ta thuốc men và ủng hộ cả tiền bạc nữa. Lúc đó là sự động viên tinh thần chiến sỹ ta lớn lắm. Khi đơn vị rút về hậu phương, tôi được chuyển qua bên quân sự nhưng có bàn giao cho anh em hoạt động nội thành mấy cơ sở trong đó có cả nhà tư sản kim hoàn mỹ nghệ Bùi Hưng Gia ở phố Hàng Trống nữa. Từ ngày về nước, tôi lu bu nhiều chuyện và cũng có sơ xuất. Nhưng thật tình với đồng chí là tôi rất hạn chế mọi sự gặp gỡ giao lưu.

Khách tươi hẳn lên, vồn vã:

- May quá! Thì ra người nhà với nhau cả. Tôi tên là Lê Quốc Trung, đồng chí ạ! Ngày đầu kháng chiến tôi là công an xung phong thành Tô Hiệu (Hải Phòng) sau hoạt động ở mặt trận Đường Năm, tới hòa bình vào tiếp quản Thủ đô. Tôi đến đây chỉ là tiện dịp đi qua nhà ghé thăm thôi chứ thật ra chuyện đó không có gì lớn cả. Nhưng gặp đồng chí đây như là một nhân chứng đỡ cho đương sự. Ông ta không nói ra nhưng bà vợ khóc lóc kể lể là gia đình trước đây là cơ sở của ta mà lúc hoạn nạn không ai ngó ngàng gì tới. Có người biết đấy mà cố lờ đi vì sợ liên lụy! Chúng tôi không rõ thực hư thế nào?

Anh Hà Giang hoạt hẳn lên:

- Tôi sẵn sàng đứng ra chứng nhận về sự đóng góp của ông ấy cho đơn vị chúng tôi và tôi biết hiện còn một số anh em công tác thành hồi ấy có bí mật liên hệ với ông ấy. Tôi tin những người như thế không phải là địch đâu!         

- Chúng tôi đang suy nghĩ. Thời sự lúc này khá phức tạp. Nhân lúc ta “sửa sai” và bước vào “cải tạo kinh tế tư nhân” thì một số trí thức xoáy vào những sai lầm đòi đủ các thứ tự do dân chủ, các Đảng đòi chia quyền lãnh đạo. Ông ta có chân trong thành bộ đảng Dân Chủ. Ông ấy liên hệ với một phái bộ trong Ủy ban quốc tế cho trốn trong thùng hàng chuyển vào Nam. Ra đến sân bay bị an ninh ta phát hiện giữ lại. Đơn thuần chỉ là phản ứng vì quyền lợi bị đụng chạm hay bên trong có tổ chức nào khác không? Với giới trí thức ta có đối sách riêng. Có thêm những bằng cớ cụ thể thì chúng tôi có cơ sở đề xuất sớm cho ông ấy về nhà.

Hai người trao đổi những việc cần làm.

Trong bữa ăn, ông Thanh hỏi con:

- Chuyện bên gia đình bạn con tới đâu rồi?

Cẩm Nhung tố cáo luôn:

- Ngày nào con cũng thấy nó lăng xăng tới nhà người ta… làm gì?

Nhân Trí đỏ mặt lên:

- Bạn bè giúp nhau lúc hoạn nạn là sai à? – Nó nhìn cha:… Con qua chở bạn Yên Thịnh mang cơm vào Hỏa Lò cho bác ấy có được không?

- Mày không được kết nạp vào Đoàn là phải. Mày mất lập trường! – Cẩm Nhung trừng mắt lên.               

- Bác ấy làm gì sai tới đâu thì Nhà nước trị tới đấy, tôi không có ý kiến gì. Nhưng tôi không bỏ bạn tôi! – Thằng em đỏ mặt lên.

- Thế nó theo cha phản động mày cũng theo nó à? – Cô chị lý sự.

Thằng em bỏ bát cơm đứng dậy cự lại:

- Giả như cậu mình, anh mình lỡ làm chuyện gì đấy lôi thôi thì chị cũng mặc kệ à? Chuyện nào ra chuyện nấy chứ!

Ông Thanh hiền từ kéo con ngồi xuống:

- Cậu cũng không biết cụ thể chuyện ấy ra sao?

Nhân Trí cảm thấy được cha ủng hộ, ra sức thanh minh cho bạn:

- Ông bà bí mật bàn nhau nhất trí cả rồi. Nhưng khi ông cất bước ra đi chưa được một buổi chiều thì bà thấy nhớ nhung không chịu nổi hay là bà sợ ông vào đấy lại gặp bà bé ngày xưa thì không biết. Thế là bà cuống quýt lên nói thật với các con và bàn nhau đi báo công an. Nhưng bây giờ thấy ông ngồi tù thì bà ân hận lắm! Bạn con cứ rối cả ruột lên không biết làm gì.

Anh Hà Giang hỏi em:

- Thế bạn có nói cho em biết nguyên nhân nào mà cha bạn bỏ đi không?

- Đương nhiên là chuyện người lớn không đem bàn với trẻ con rồi. Nhưng bạn em bảo ông ấy chán chường nhiều thứ lắm. Gia tư cơ xưởng một lúc mất sạch. Hợp doanh mà như cướp giật! Nhưng không nói ra được vì chính tay mình ký vào đơn tình nguyện! Mà không ký thì không vào tù cũng tan cửa nát nhà vì ông Công nghiệp hoạnh những là công cụ và kế hoạch sản xuất cùng với việc thuê mướn công nhân? Ông Thương nghiệp ép môn bài và phải trình bày cụ thể việc khai thác nguồn nguyên liệu? Còn ngoi ngóp được thì ông Tài chính bóp cổ với đủ các thứ thuế đặc biệt là cái khoản thuế bổ xung dù có đem bán vợ đợ con đi cũng không bù vào được! Bây giờ chủ chẳng ra chủ, thợ chẳng ra thợ. Mang chức Cửa hàng phó mà ông có được bàn bạc gì về kế hoạch sản xuất, kinh doanh lời hay lỗ và kể cả chuyện nhân sự đâu. Ngồi không thì xấu hổ, muốn bày việc ra làm  phải bàn đủ lệ bộ từ Chính quyền, Đoàn lớn, Đoàn nhỏ, tới Đảng bộ xem xét. Nhất trí cả rồi mới lên thỉnh thị cấp trên và chờ chỉ đạo. Còn sợ bị mang tiếng là tiếm quyền lãnh đạo nữa chứ! Hàng ngày nhìn cơ xưởng tiêu điều đi! Cái labo trên gác biến thành nhà ở. Cái cửa hàng bày la liệt vậy mà chỉ toàn những hộp thuốc cũ rỗng ruột với hàng mẫu trưng ra thôi. Người bán nhiều hơn người mua vậy mà cũng cắt cử đủ cả các cấp bậc Cửa hàng trưởng-phó, tổ trưởng, tổ phó… Liên miên họp hành! Kế hoạch chưa xong đã tổng kết rồi bình bầu, phê bình, góp ý, đấu tranh moi móc nhau đủ thứ chuyện. Ông ấy bảo mất của tuy có tiếc nhưng còn hy vọng vì người còn thì của làm ra chẳng mấy hồi. Nhưng người sống sờ sờ ra đây mà bị buộc chân bó tay, cái đầu không nghĩ chuyện làm ăn, chỉ nghĩ những mưu gian mẹo vặt dối lừa nhau những thi đua thành tích thì rồi cùng kéo nhau xuống hố. Mấy ông cán bộ còn phấn đấu leo lên đủ các cấp từ sơ đến trung cấp A–B, rồi cao cấp, thượng tầng cao cấp chứ làm dân cải tạo thì chỉ được tiếng khen là phục tùng giai cấp lãnh đạo thôi. Sống mà như chết! Bác ấy bi quan bế tắc. Trong khi ông chú ngày xưa vì trốn lính xin vào ngạch cảnh sát, làm thượng sỹ chuyên đứng chỉ đường, vậy mà cũng bị liệt vào nằm trong bộ máy đàn áp của đối phương, buộc phải đưa cả gia đình lên mãi trên Phú Thọ làm kinh tế mới! Người thành phố lên rừng cuốc đồi đá sỏi trồng chè trồng sắn làm sao chịu nổi? Vợ con nhếch nhác trách chồng oán cha. Ông em mỗi lần về lại than thở ý trách ông anh ngày ấy ngăn cản không cho em di cư vào Nam bây giờ mới nên nông nỗi ấy! Ông bà quẩn quanh thở ngắn than dài vừa tiếc công của vừa ân hận. Mấy người con lớn ông cho qua Pháp học từ lâu rồi. Chỉ còn Yên Thịnh với thằng em Quốc Anh thôi. Bạn em khổ tâm bối rối lắm!

Anh Hà Giang khen em :

- Việc em làm là đúng đấy!

Cẩm Nhung nghẹn ngào:

- Nhà mình cũng phức tạp lắm chứ! Cha kháng chiến, đảng viên mà mẹ lại công giáo, theo giặc chạy vào Nam. Vừa rồi Chi đoàn giới thiệu con đi học lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng nhưng lên Chi bộ người ta xóa tên đi! – Nước mắt cô lã chã.

Ông Thanh nhìn con thương hại :

- Các con vào đời sớm quá! Ở tuổi các con mà xen vào những chuyện phức tạp của người lớn thì chưa hẳn đã là tốt đâu. Thời nào trong một lớp học cũng có lẫn lộn con cái của kẻ giàu, người nghèo, kẻ sang người kém, đủ các thành phần xã hội. Mình hợp với ai thì chơi, không hợp thì thôi chứ không nên thành kiến chê bai đả kích lẫn nhau. Cắp sách tới trường là để học thầy, học bạn, học chữ, học nghĩa, học đạo làm người, học lòng nhân ái vị tha, mở mang đầu óc để biết định hướng đời mình chứ đâu có học thói dòm dỏ, đố kỵ, khích bác này nọ, gây ra ân oán hận thù! Các con đừng lẫn lộn giữa đạo đức và chính trị. Một đằng là sự giàng buộc về trách nhiệm và tình cảm trong các mối quan hệ giữa con người với nhau. Một đằng là mối liên kết xã hội có chừng mực từng nơi từng lúc để làm chung một việc. Hết việc này lại sang việc khác, bạn thù cũng khác tùy thời.

Ông Thanh vào nằm bệnh viện mấy tuần nay. Bệnh thực thể không nặng, chỉ là một stress tinh thần thôi nhưng cũng vì thế mà khó nói và khó trị. Chuyện không đâu vô cớ mà cứ làm cho ông dù muốn quên phứt nó đi mà không sao quên được. Nhiều lúc ông bần thần không muốn tiếp xúc với ai. Công việc nhớ nhớ quên quên chậm trễ mà vẫn thấy ông lúc nào cũng cắm cúi trên bàn làm việc. Các con đang tuổi ăn tuổi học, bản tính ông lại vốn ít nói thở than nên chúng không để ý. Cô Thảo Tâm thấy ông khác thường lo lắng và chăm hỏi nhưng ông giữ nguyên im lặng. Anh em trong cơ quan phát hiện ra. Người đoán này nọ, dù có hiểu ra nguyên cớ nhưng vẫn là sự suy ra từ cái lòng của họ.

Ông là một trong những người khởi lập cơ quan này. Số người hợp đầy đủ tiêu chuẩn như ông không mấy đâu: có văn hóa cơ bản, có thời gian dài thử thách, tính tình cẩn trọng, ít giao du và có kinh nghiệm thực tiễn tuy xuất thân của ông vốn là nghề cạo giấy. Chức năng công việc ngày càng phức tạp, cơ quan phát triển thành một ngành trọng yếu trong hệ thống chính quyền chuyên chính. Lẽ ra đương nhiên ông phải được giao trách nhiệm là người chủ chốt đứng đầu. Nhưng đột nhiên tổ chức cấp trên có văn bản yêu cầu đồng chí Thanh giải trình rõ về mối quan hệ trong thời gian hợp tác với chính quyền tay sai thời thuộc Pháp(!)đồng thời điều một cán bộ quân sự chuyển ngành về phụ trách. Ông làm “Bản tường trình” mà băn khoăn chẳng lẽ hàng chục năm một lòng tận tụy vẫn chưa đủ độ tin cậy hay sao? Ông sớm đi theo phong trào không vì mục đích áo cơm hay là danh vọng mà chỉ bởi lòng tự trọng của một con người. Trách nhiệm của người dân với nước giống như bổn phận con cháu với ông bà tổ tiên. Cha ông thường dạy các con phải học giữ từng điều hiếu-trung-tiết-nghĩa thì mới mong giữ được điều liêm-sỷ giữa đời. Sau này người ta mới phóng lên, gọi phong trào là cách mạng chứ lúc ấy không mấy người nghĩ chuyện lớn lao như thế. Cũng như người ta nghĩ giải phóng là thoát khỏi cái cảnh chướng tai gai mắt bị thằng Tây đè đầu cưỡi cổ mình thôi. Sau này mới thấy giải phóng nhiều chuyện quá. Giải phóng con người là phải làm cho người ta thoát khỏi sự lệ thuộc cả vật chất lẫn tinh thần. Bây giờ gia đình ông lại ly tán vì ông muốn giữ tròn chữ trung chữ tiết mà để dở dang chữ nghĩa chữ tình! Ấy vậy mà bỗng dưng ông bị truy xét lại cái thời từng hợp tác với chính quyền thực dân cướp nước mà ông đã rũ bỏ đi rồi làm ông cảm thấy dù có hết lòng thì vẫn bị coi như người ngoài cuộc! Thời thế ấy, mọi người đều phải thế. Như ông Bá Di và Thúc Tề ngày xưa, vì bất phục nhà Chu, bỏ vào rừng không thèm ăn gạo của nhà Chu nữa thì vẫn ăn rau, lá, qủa và uống nước của nhà Chu đó thôi? Chết rồi vẫn bị mang tiếng nho gia hủ lậu!

Vậy mà “Bản tường trình” của ông bị trả về vì chưa đạt yêu cầu, còn có ý kiến chỉ đạo cụ thể cần làm rõ có mối quan hệ riêng tư với người Pháp nào không(?!). Từ chỗ lờ mờ đến dần rõ ra sự thật, ông buồn lắm và đầu óc nặng nề trước nhân tình thế sự. Anh Trần Quyết Tâm đi học ở nước bạn về, bây giờ giữ việc trọng yếu trong cơ quan tổ chức. Câu hỏi chắc là ám chỉ vụ Jean Debue đây! Người biết rõ việc này là anh Nghĩa và bác Trịnh Huy. Nhưng Nghĩa là cháu ruột vả lại lâu nay ông vẫn giữ kín chuyện này. Cuộc đời biến cải vũng nên đồi là chuyện nhân thế thường tình. Chỉ thương cháu tật nguyền mà âm thầm chịu đựng một mình thế cũng đủ rồi. Bác Trịnh Huy ghi lời bảo chứng rõ ràng: “Việc đồng chí Thanh cứu giúp một viên chủ sự người Pháp vào thời tiền khởi nghĩa là có sự chỉ đạo của đoàn thể đúng với chủ trương của lãnh đạo phong trào lúc đó”! Người từng giữ trọng trách một thời đã ghi như thế vẫn không giải được cho ông nỗi buồn:    

- Một khi Tào Tháo đã nghi thì chỉ dùng người vào việc chết thôi! Em không buồn vì cái ghế đâu. Phải sống trong nghi kỵ là một điều xúc phạm và không bao giờ yên ổn được!

Ông anh thở dài an ủi ông em:

- Đáng tiếc là đã ngồi lên cái ghế trị vì rồi dễ quan liêu lắm. Tệ quan liêu làm người ta có mắt như mù!Ông Thanh vẫn coi bác Trịnh Huy là bậc tiền bối giỏi giang tâm huyết nhưng bây giờ bác chỉ như cái bóng của quá khứ thôi và những lời của bác mang một nỗi u hoài :

- Qúa tự hào về chiến thắng dễ đưa tới chỗ ngộ nhận về sự vĩ đại của mình. Chân lý là ta và ta là chân lý! Khi cách mạng mới nổi lên, gần như toàn bộ anh em trí thức cả nước phấn khởi lắm, họ không tiếc gì trí lực, vật lực đem ra cống hiến cho cách mạng. Nhưng dần dần thì rơi rớt! Do anh em cũng có. Không chịu được gian khổ chỉ là điều phụ thôi. Điều chính yếu là họ bị ngợp trước sức mạnh vật chất của địch mà không nhìn ra sức mạnh tinh thần to lớn của ta nên không tin là cách mạng có thể vượt qua. Suy cho cùng họ cũng mắc tật quan liêu, không nhìn ra sức chuyển động trong tình thế mới! Tuy nhiên phần ta cũng phải nghiêm khắc nhìn mình. Thật sự ta không tin họ vì nghĩ rằng họ gắn chặt với tầng lớp thống trị quá hay vì ta yếu ở điểm nào? Cái khẩu hiệu tả khuynh ngớ ngẩn “Trí-Phú-Địa-Hào: đào tận gốc, trốc tận rễ!”, dù ta nói bỏ đi rồi nhưng vẫn ám ảnh cái mầm kỳ thị! Có kẻ cầm quyền nào bỏ được trí thức đâu? Người trí thức chỉ muốn được cống hiến tài năng. Bản thân họ xuất thân từ mọi thành phần xã hội và khi nắm được tri thức của nhân loại, những người trí thức tiên tiến nhìn ra chân lý và chính họ thức tỉnh mọi người. Lênin nói “Không có tri thức không có cách mạng” mang ý ấy. Chúng ta vừa dùng họ vừa nghi ngờ họ nên ta ưa lấy số đông quần chúng ra áp đảo và bây giờ thanh gươm Damocles là cái biện pháp chuyên chính để ta khống chế răn đe họ. Thanh gươm ấy đáng sợ thật nhưng coi chừng nó cũng hại ta!   

Chiều nào cô Thảo Tâm cũng vào bệnh viện chăm lo ông. Người sơ giao khen ông có cô vợ trẻ khéo nấu ăn lại nhu mì hiền hậu. Người thân tình biết chuyện muốn chắp mối hai người nhưng ái ngại trước bao điều trắc trở. ÔngkýFinance nằm chung với ông một phòng tặc lưỡi:

- Hai cái kẹo để kề bên mãi cũng dính vào nhau huống chi gái lỡ thì với anh đàn ông xa vợ!

Từ ngày về thành phố, hai ông gặp nhau đôi lần ở đâu đó, thăm hỏi vài câu rồi mỗi người mỗi việc. Dù sao cái tình kháng chiến vẫn có nhiều kỷ niệm khó quên và bây giờ trong cảnh cùng là người bệnh nên dễ dàng tâm sự:

- Nghe bà bủ kể lúc sinh ra, tôi bé tẹo như con mèo, người đầy lông lá, khóc không ra tiếng. Ông bố tôi ngồi nhà ngoài, nghe nói sinh con trai đắc ý lắm, vỗ đùi lên tiếng hỏi: Ước được mấy cân? Bà mụ trả lời gọn lỏn: Một vạn cân! Ông cụ tợp chén trà, rũ quần đứng dậy: Tao lên xã làm giấy khai sinh cho thằng Đỗ Vạn Cân đây! Tôi lớn lên cao thì mau mà cân thì chậm lắm. Dài hơn một mét bẩy mà chưa bao giờ cân đến được cái vạch 50! Vậy mà không ốm đau lặt vặt, được việc với vợ những lúc giúp bà ấy phơi phong áo xống nhưng không có sức lực điền!

Chuyện riêng tư ông lắm nỗi niềm:

- Tôi học hành không giỏi mà cũng không dốt nhưng tếu lắm. Ông bố bảo: Mày thi cũng khó đậu… mà dù có đỗ đạt gì cũng không làm quan được! Mới học hết cát dèm (quatrième moderne – tương đương lớp 8/12) thì ông cụ bảo học vậy kiếm ăn tạm được rồi, cho nghỉ ngang lấy vợ. Mình không ham mấy cái chữ mà bụng cũng muốn lấy vợ thử xem nó mặn ngọt thế nào. Ông cụ hẹn ngày ra mắt. Cô gái nửa tỉnh nửa quê nuôi tằm kéo tơ, bán hàng xén đầu phố huyện, da dẻ trắng trẻo, má lúm đồng tiền, cứ quanh quẩn vào ra, thỉnh thoảng đưa mắt liếc trộm nhìn anh khóa dở trông tình ra phết. Bà cụ khen: Hay lam hay làm, to mông rộng háng, lưng gù cánh phản – nái dòng đấy con! Ngày cưới xin, các cụ định từ trước cả cái ngày ra mắt. Là vợ chồng rồi mới phát hiện ra mấy điều không hợp. Một là đứa cao đứa thấp, lúc đứng lúc nằm chẳng bao giờ giáp mặt nhau! Hai là cầm tờ báo, chồng thích xem mục rao vặt và chuyện tiếu lâm, vợ chúi mũi vào mấy cái chuyện tình vớ vẩn. Ba là vợ chồng chẳng biết tâm tình với nhau những gì ngoài mấy chuyện vặt cửa nhà muôn thuở nghe mãi mà phát bệnh. Nhưng điều ấy chẳng hề hấn chi. Cái chính là ăn ở với nhau mấy năm bà ấy cho ra liền tù tì bốn thằng con trai tròn trùng trục. Tứ tử trình làng, bố mẹ tôi khoái lắm vì mấy đời liền nhà tôi trưởng tộc mà toàn là độc đinh. Bây giờ một lúc gần nửa tá đinh hỏi không mê sao được. Cũng nhờ có thế mà ngày tôi đi kháng chiến các cụ bình chân như vại: Nó thích theo ai cứ việc. Cái ngữ ấy chỉ làm quan sai thôi! Mình bỏ cha mẹ già với bốn đứa con lít nhít ở nhà cho bà ấy một mình xoay xỏa. Lúc đầu nói đi là đi chứ không kịp nghĩ thời gian sẽ bao lâu. Vậy mà thoáng chốc, ba ngàn ngày kháng chiến trở về. Người ta thì đoàn tụ vui vẻ, hạnh phúc tràn trề nhưng mình thì… ngậm bồ hòn làm ngọt! Bà ấy gọi anh em thân tộc bên nhà tôi tới, dắt ra bốn đứa con mình và một đứa bé gái trông chẳng giống ai ẵm nách trên tay, tuyên bố với mọi người rằng: Tôi không xứng đáng với ông. Nhưng vì các con mà tôi không đành. Nay ông về đây, tôi giao trả lại cái dòng cái giống, gia tư nhà ông. Từ nay tôi đi ra khỏi nhà này! Mọi người ngơ ngáo nhìn nhau. Như ngày kháng chiến, bảo tôi ôm cả khối bộc phá cho nổ tung cái đồi A1 ở Điện Biên Phủ hăng lên tôi cũng dám làm. Nhưng bây giờ bảo năm bố con ôm nhau để… cùng chết đói thì tôi chưa phải thằng điên. Họ mạc anh em bình thường thì lời ong tiếng ve, tiếng bấc tiếng chì nhưng trước cảnh này ai ai cũng im như thóc. Tôi chỉ thiếu nước qùy xuống lạy bà ấy thôi: Tôi nợ mình nhiều lắm! Bao nhiêu năm một mình mẹ nó gồng gánh cả nhà này. Bố mẹ tôi đến lúc mãn đời cũng một tay mình chăm lo gánh vác. Có mình các con mới được thế này để bây giờ tôi về đây nhận làm cha chúng. Mọi chuyện khác quên đi, tôi không bao giờ nghĩ tới! Còn một điều tôi không dám nói ra là nếu để bà ấy ra đi thì chỉ còn cách theo thằng sở khanh ấy di cư vào Nam để lao vào thân lẽ mọn là mình thêm tội với các con. Nhưng nói vậy thôi chứ quên đi không nghĩ tới làm sao được! Mình là thằng đàn ông tử tế đàng hoàng hẳn hoi chứ đâu có phải là thằng vô tướng bất tài bất lực hoặc là có trăng phụ đèn gì đâu! Vợ chồng những lúc mặn nồng, thượng mã rồi lại nghĩ tới có thằng khốn nạn nó ghì cương phi nước kiệu nhong nhong ngựa ông đã về là mình tự nhiên… xìu xuống! Xem chừng bà ấy cũng cay đắng hiểu ra: Sao mà ông lẩy bẩy như Cao Biền dậy non thế? Để cho êm thấm, phải tự làm công tác tư tưởng cho mình còn khó hơn anh chính trị viên đốc chiến quân trước giờ nổ súng. Coi như mình làm nghĩa vụ của thằng… cha! Bà ấy nhận xét chua chát lắm: Chính sách dân vận của các ông đây! Nghĩ cho cùng, làm chồng, làm cha mà không lo toan quán xuyến được cho vợ con là hỏng bét! Cảnh nhà tẻ nhạt thế nào. Chỉ còn cách khuây khoả ở cơ quan. Ở sở Finance ngày xưa, mình chỉ làm ký quèn chứ không phải là ký gộc. Nhưng bây giờ về sở cũ mình thành người thạo việc. Từ chức nhóm, tổ lên đến cấp phó phòng nhanh lắm. Mọi việc giao mình làm hết. Tôi lo tròn phận sự. Ông trưởng chuyên đi họp hành hội nghị, lâu lâu đáo về nghe báo cáo và để mình thỉnh thị. Tuy nhiên đến đó là kịch trần rồi. Mấy lần ông trưởng phòng được nhấc lên thì lại có người ở đâu điều tới. Một hôm tình cờ gặp anh bạn học cũ làm luật sư bên thành phố. Dường như chợt nhớ ra điều gì, anh ta vỗ vai mình hỏi:

- Này… Anh đảng phái gì chưa?

- Tôi mensêvích!

Anh ta mừng như vớ được vàng:

- Vậy thì vào đảng tôi đi!

Đảng của ông ta là Đảng Xã hội. Tôi ậm ờ.

- Tụi mình đang phát triển, cần người tin cẩn lắm. Ông làm sao thành communiste (người cộng sản) được. Ông muốn làm son fils (con họ) hay là cher ami (bạn thân) của đảng cầm quyền? Có chỗ ngồi, chỗ ăn, chỗ nói xênh xang vui vẻ!        

Mấy ông luật sư bây giờ đâu có việc gì làm! Mình tặc lưỡi gật đầu. Hôm tổ chức kết nạp,  ông bạn ghé tai dặn dò thân ái:

- Tôi chỉ nhắc ông một điều thôi: Đảng mình là đảng mặt trận. Ông chớ có dở chứng đòi chia quyền lãnh đạo là lôi thôi lắm đấy!

Tôi được bổ sung ngay vào thành ủy đảng và giữ chân thường trực. Họp hành tiệc tùng hiếu hỷ đó đây, từng có chân trong đoàn đại biểu thủ đô đi nước ngoài chơi đấy. 

Anh em cũng có lúc tâm sự với nhau: Một đảng này lại họp bàn thực hiện nghị quyết của đảng kia thì có gọi là đảng bạn bình đẳng với nhau được không nhỉ? Nhưng thôi, lịch sử đặc biệt mà. Cũng chỉ vì cái sự độc lập–thống nhất nước nhà là nguyện vọng của toàn dân thôi. Thế mới là Việt Nam ta! Ông vui vẻ nhận:

- Đời mình như một trò đùa!

Trông người lại nghĩ đến ta!Ông Thanh bồi hồi suy nghĩ lại đời mình. Ông đã để hạnh phúc tuột mất đi! Tại sao ông dễ dàng chấp nhận sự phân ly như thế dù nghĩ rằng chỉ một thời gian ngắn ngủi thôi? Do suy tư nông cạn mà nhìn chuyện đời ngờ nghệch đơn giản quá không? Lời ông Ký Vạn Cân: làm chồng, làm cha mà không lo toan quán xuyến được cho vợ con là hỏng hết, cứ làm lòng ông nhoi nhói. Dù bà có ở lại cũng chỉ sung sướng một thân ông. Ông bó tay bất lực chẳng giúp gì được cho vợ cả. Với tài tháo vát của bà ít ra mấy mẹ con cũng không đến nỗi ăn bữa nay lo bữa mai như cảnh ba bố con ông hiện tại, lại còn bị đặt một cái dấu hỏi to tướng trong lý lịch cả bố lẫn con! Tuy nhiên để mãi cái cảnh vợ chồng xa cách, con đứa này không cha, đứa kia không mẹ suy cho cùng là lỗi ở ông! Có một điều ông âm thầm suy nghĩ mà không dám nói ra ngay cả với chính mình: Dường như giữa hai người có một sự gì không đồng cảm với nhau nữa?!

Thời buổi ngày càng thắt ngặt. Cẩm Nhung ở nội trú trong trường, chiều thứ bảy mới về nhà. Nhân Trí đã vào Đại học Y-Dược. Hai bố con đi làm đi học suốt ngày, việc chạy ăn thật là vất vả. Ông sợ nhất cái cảnh xếp hàng: chen lấn, xô đẩy, cãi cọ nhau chí chóe, mọi ngón nghề láu tôm láu cá trổ ra. Người thua bao giờ cũng là ông! Đau đầu nhức óc, mệt bở hơi tai nhưng đến lượt mình thì hết hàng rồi! May ra mua được thì cũng là hàng ôi hàng ế. Không chịu thì thôi. Tem phiếu hết hạn rồi! Phần ông được cái bìa C còn đỡ nhưng ăn vào một miếng mà nuốt khó trôi, nghĩ càng đắng đót. Ai chẳng biết những câu vè nghe như sát muối vào lòng: Tôn Đản là của vua quan. Vân Hồ là của trung gian nịnh thần. Chợ trời là của muôn dân! Ông được liệt vào hàng ngũ trung gian nịnh thần? Đồng nghiệp bạn bè đồng cảnh với ông cùng chạnh lòng lắm nhưng rồi tặc lưỡi bảo nhau: Mấy thằng Chí Phèo ấy chấp làm gì. Miệng thế gian ngọt ít đắng nhiều muôn thuở ai cấm được! Không dưng cả nước này như một làng Vũ Đại khổng lồ?! Cái chữ liêm – sỷ thấm sâu trong ông qúa rồi. Miếng ăn là miếng tồi tàn, đấng trượng phu với kẻ tiểu nhân không khác gì nhau! Những lúc cần bước chân vào chốn đó, trong lòng ông cứ thấy nhồn nhột thế nào, cảm như mình làm điều gì vụng trộm, trong khi có kẻ lại nghênh ngang vênh vác. Chẳng biết thời buổi này ra làm sao nữa?!

May mà có cô Thảo Tâm chứ không thì bí lắm. Tất cả tem phiếu lương thực, thực phẩm giao hết cô lo. Chuyện đời nhiều sự bất ngờ. Ngày cô Thảo Tâm bị đuổi việc chán đời thất nghiệp mà ông cũng không muốn cho theo nghề cô Ngọt. Hay ho gì cái nghề hàng thịt hàng cá đứng ngồi góc chợ, đanh đá, đáo để, chua ngoa. Lúc ấy ông giận cô Ngọt lắm. Nghĩ đi nghĩ lại thì cái bệnh sỹ vẫn cồm cộm trong đầu khiến ông không thể thức thời. Lúc nào cũng thế! Bây giờ mà thân quen được với một cô bán hàng ngoài chợ, cô mậu dịch viên đứng quầy hàng là sung sướng vênh vác lắm. Họ bị mang tiếng là dân phe phẩy, làm kinh tế ngoài luồng hoặc là móc ngoặc tuồn hàng mà lại là người tự do nhất trên đời này dù bị coi như đứng ngoài lề xã hội, chỉ như con ruồi con muỗi, cùng lắm là bị mấy anh thuế vụ, công an xua đuổi chốc lát chứ không phải là đối tượng nguy hiểm để bị trừng trị thẳng tay đâu. Đời coi thường họ, họ coi thường đời, lạnh lùng, lặng lẽ, không bị lệ thuộc bởi những qui định hay lề thói nào.

Thảo Tâm không bị ràng buộc trách nhiệm với ai. Không thân thích ruột rà, chỉ có ông Thanh là người gần gũi bao lâu nay, hiểu cô và kín đáo thương cô. Cô cũng hiểu ông neo đơn lấn bấn mà âm thầm cam chịu với lòng tự trọng. Cô gợi ý khéo cô Ngọt chủ động mỗi tháng đỡ ông chút tiền nhà để anh thêm tiền mua sách vở cho các cháu học hành. Ông thấy khó xử, Thảo Tâm bàn vào:

- Người ta giúp nhau có hạn chứ ai giúp được lâu dài. Cô ấy kinh tế tự do mà hơn các anh nhiều đấy!

Dù là sống giữa anh em họ hàng nhưng không ai giúp được gì cho ai. Cô Thảo Tâm là người gắn bó thiết thực với bố con ông:

- Cô ấy lo cho bố con mình như mợ ấy! – Nhiều lần ông nói với các con như thế.

Cô Ngọt chẳng cần giữ ý tứ gì, nói toẹt ra với Cẩm Nhung:

- Sao không chịu cưới cô Thảo Tâm về cho cậu mày đi?

Con bé giận lắm, chẳng vừa:

- Cậu cháu không quen thói vợ nọ con kia đâu!

Cô Ngọt tức lắm, nói trêu ngươi bóng gió:

- Muốn tìm thầy tu thì phải vào chùa may ra mới bói được một ông sư thật. Chớ thấy ai trọc đầu mà ngỡ là sư thì không là sư hổ mang cũng là sư thịt chó! Thời nay thiên hạ đua nhau cạo trọc đầu để được gọi là sư đấy!

Cẩm Nhung ấm ức nhưng không nói lại được cô. Dù đã lớn rồi nhưng nó chưa thể hiểu hết tình đời. Mợ không có ở đây thì trách nhiệm của nó càng lớn để giữ gìn sự êm thấm và danh dự của gia đình. Nó thương cậu nhưng suy nghĩ đơn giản lắm: Cậu cô đơn thì mợ cũng cô đơn! Nó không mảy may có một suy nghĩ lung lay nào về mợ. Nó biết cô Thảo Tâm lâu nay tốt với nhà mình và trong lòng vẫn qúy cô. Nhưng bây giờ nó nghi ngờ: Lòng tốt nào cũng vì vụ lợi mà cái chung thì ít, cái riêng thì nhiều! Nó hỏi ý thằng em. Nhân Trí bảo:

- Mợ có ở đây đâu! Nhiều ông miền Nam tập kết lấy vợ có ai biết thực hư thế nào không?

Nó mắng em:

- Mày vô trách nhiệm!

  Nó sợ cậu, không dám nói ra nhưng nó có những biểu hiện ý tứ khác thường với cô Thảo Tâm. Qua mắt người lớn làm sao được. Ông Thanh bảo:

- Con không được hỗn với cô!

Con bé đứng thần người. Nó cắn chặt môi để dằn lòng xuống nhưng hai hàng nước mắt túa trào ra. Không chịu được nữa, nó gục vào lòng ông:

- Cậu còn thương mợ nữa không? Còn thương chúng con không?

Hai cha con ôm nhau cùng khóc. Ông Thanh dỗ con:

- Nên nông nỗi này là lỗi do cậu! Lúc nào cậu cũng thương mợ và các con!

Cô Thảo Tâm biết chuyện, càng thương cháu, thương anh ấy và thương cả nỗi mình.

Ông Trịnh Huy cũng gặp chuyện không muốn mà nên và không ở cương vị điều hành quan trọng nữa. Có người bảo tuổi tác là điều cản trở. Nhưng cũng không hẳn là như thế. Ông thuộc lớp lão thành từng trải đa năng, thành tâm, trực khẩu. Những bài báo của ông ngày xưa nhà cầm quyền lúc đó tức lắm nhưng vì cái bánh vẽ tự do ngôn luận nó không làm gì được, chỉ đục bỏ đi từng câu từng khúc thôi, càng làm công chúng tò mò tìm hiểu. Bây giờ cái khẩu khí ấy không hợp nữa rồi. Nhưng ông hiểu nhiều, biết rộng, tinh thông chữ tây chữ tàu nên được giao cho làm Sử. Vốn là người ưa hoạt động, tưởng như trái khoáy mà sự tình cờ lại hợp với ông. Ông bảo: Làm cây ngay giữa trời dễ gãy. Nhưng làm cây ngay giữa rừng rất khó vươn lên! Ông từng đưa ra câu hỏi trước hội nghị có hàng ngàn người dự: Được làm sử quan, tôi phải viết thế nào về một thời gian dài cải cách ruộng đất, đã có hàng ngàn đảng viên ưu tú và quần chúng tận tình với Đảng bị đem ra xử bắn mà không được xét xử nghiêm minh. Chẳng lẽ căn nguyên chỉ đơn giản là ta bị động máy móc học người?

Khi người ta hành động không ai nghĩ mình làm sai. Nhưng nêú biết nghe, biết nhìn cả hai phía trước sau thì sớm nhận ra điều phải trái. Càng độc quyền càng dễ sa vào độc đoán. Chức trọng quyền cao làm sai càng khó sửa vì hạ cấp nói ra sợ phạm thượng mà ở đời được mấy người tỉnh thức và có gan phủ nhận mình đâu?! Người làm Sử trước hết phải vô can, vô cầu để được sáng lòng soi nhìn sự việc trước sau. Điều gì nói được hôm nay thì nói nếu không ghi lại gửi đời sau. Người thức giả bao giờ cũng giữ được sự bình tâm.

Công việc của ông với anh Hà Giang vừa giống nhau lại vừa khác nhau. Giống nhau vì đều cần có sự ưu tư trí tuệ chỉn chu. Khác nhau vì một người có thể tạm gác lại nói sau, một người cần bộc trực ngay chính kiến.   

Hai bác cháu đang ưu tư lắm.

- Bài báo của anh ra không hợp thời. Nghe nói Ban biên tập bị kiểm điểm nặng nề lắm .

- Cháu muốn biết quan điểm của bác?                

- Anh nói không sai. Hòa bình là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Khi nhà nước công nông mới ra đời, Lênin đã có bản “Tuyên ngôn hòa bình” nổi tiếng. Nó cho người ta hiểu rằng chính quyền vô sản là một nhà nước xây dựng chứ không phải là nhà nước chiến tranh – nhà nước đẻ ra từ họng súng!

- Đến bây giờ vẫn đúng!

- Chiến tranh và Hòa bình vẫn là câu hỏi lớn treo lơ lửng trước mắt loài người. Có kẻ miệng nói hòa bình nhưng tay gây chiến!

- Và cũng có kẻ lấy chiến tranh làm phương tiện cứu rỗi cho mình! Nhưng hòa bình và phát triển là đích tới của chúng ta.

- Đó là chuyện chung lâu dài. Còn chuyện của mình trước mắt, anh  nghĩ thế nào?   

- Nếu có đôi chân lành lặn, cháu cũng xin trở lại miền Nam chiến đấu! – Anh Hà Giang đặt lên bàn lá thư miền Nam của mình.

- Cái nút là ở đấy!

Bác Trịnh thở phào vì đã tìm ra được mối tương đồng:

- Ta phải lo chuyện của ta. Đấy là điều đang rắc rối. Cần phát động đấu tranh vũ trang hay chăm lo củng cố hòa bình xây dựng hậu phương? Trong khi yếu tố quyết định thành bại của cách mạng trên cả nước chính là từ hậu phương lớn ta đây. Chiến tranh hay hòa bình đang là điểm bất đồng gay gắt trong nội bộ chúng ta, cũng là thể hiện cục diện thế giới ngày nay. Không thể dựa vào cụm từ tình cảm cách mạng để hành động thiếu cân nhắc được. Cách mạng Việt Nam bây giờ muốn phát triển không thể tách ra khỏi một cộng đồng mà cộng đồng ấy đang rạn nứt ghê gớm, chưa biết bao giờ mới hàn lại được?!

- Cháu hiểu và muốn thể hiện quan điểm của mình về giáo điều và xét lại.

- Ta nói chuyện ta đi. Ở miền Bắc tuy có hòa bình nhưng lòng dân chưa yên! Cải cách ruộng đất làm rối loạn nhân tâm khủng khiếp, tuy có sửa sai nhưng chưa tìm tới căn nguyên, mấy năm chưa hồi lại được đâu. Cái thời nhất đội nhì trời không còn nhưng cái sự nhất vẫn còn dai dẳng lắm! Tiếp đó là hợp tác hóa gần như cưỡng bức, người nông dân chỉ thấy đơn giản một điều là ruộng đất vào tay rồi lại tuột mất đi nên họ thờ ơ! Vẫn theo khuôn sáo ấy, ta vừa cải tạo tư sản vừa làm cho thành phố trong như pha lê kiểu Bắc Kinh. Nhưng nhà máy về tay công nhân rồi sản xuất thế nào? Nguồn nguyên liệu khai thác từ đâu? Mạng lưới thu mua, phân phối rã rời. Trong khi trình độ tổ chức và quản lý xã hội của ta non yếu từ trên xuống dưới. Bộ máy hành chính phi sản xuất phình ra, bóp lại rồi lại phình ra lớn hơn! Người lao động không được chăm lo đúng mức. Người thành phố bị đẩy về nơi xa xôi heo hút loay hoay không biết làm gì. Người từ quê lên chiếm ngự thị thành quẩn quanh lúng túng. Những người cảm tình và ủng hộ ta nản lòng. Mọi mặt sản xuất từ thành thị đến nông thôn đều trì trệ và sút giảm nghiêm trọng! Mấy khu kinh tế viện trợ tưởng ghê gớm lắm, thực ra là mới với ta mà cũ với người và hoàn toàn lệ thuộc, không ổn định lâu dài được! Giới trí thức sa sút niềm tin trầm trọng sau vụ ta trừng phạt quá đáng nhóm Nhân văn–Giai phẩm liên lụy đến nhiều người, vô tình hay hữu ý tước bỏ hoặc là vô hiệu hóa tư duy trí tuệ đáng qúy của họ, gây nên sự bất mãn không đáng có. Họ rủ rỉ với nhau: Chút lòng trinh bạch từ sau cũng chừa! Nội bộ lãnh đạo ta có chiều phân hóa.

Anh Hà Giang đặt tay lên lá thư đặt trên bàn:

- Nhưng miền Nam! miền Nam! – Giọng anh lạc đi vẻ đau đớn lắm.

Bác Trịnh Huy vẫn ngồi yên, mắt đăm đăm, trầm tĩnh :

- Bây giờ là ta đụng đầu với Mỹ – một cường quốc quân sự vào hạng nhất nhì thế giới. Nó không là con hổ giấy. Nó là con hổ thực không chỉ vì có cái răng nanh nguyên tử. Nó là một cường quốc có thực lực, có khả năng khống chế áp đảo đối phương kể cả những quốc gia rất mạnh. Trong khi anh Cả ta khuyên hãy “chung sống hòa bình” và anh Hai thì bảo cứ “trường kỳ mai phục”! Ta sẽ dựa vào đâu mà đánh Mỹ? Với phương châm vừa kháng chiến vừa kiến quốc như trước đây liệu ta có thể tự lực cánh sinh được tới đâu? Dù cố gắng hết mình ta chỉ có thể động viên sức người, còn cần rất nhiều vào sự chi viện to lớn toàn diện cả vật chất lẫn tinh thần, từ viên đạn đến từng khẩu phần ăn và sự phối hợp trên các bình diện đấu tranh toàn thế giới chứ ta không thể chiến đấu cô lập được! Sự ra đời của Nghị quyết 15/1959  phản ảnh tình thế trong ngoài phức tạp tới mức độ nào.

- Nhưng miền Nam đã đứng lên rồi!

- Từ lúc khởi thảo đến hình thành và ra được nghị quyết phải trải qua mấy năm trời chờ đợi, thăm dò, họp bàn, tranh luận hao tốn bao xương máu. Một ý kiến của lãnh tụ mở được nút mắc là vô cùng quan trọng. Rất đúng lúc, Bác Hồ đưa ra một gợi ý tài tình tinh tế: Bác phê bình “Đảng bộ miền Nam thiếu sáng tạo, không biết bảo vệ nhân dân và bảo vệ mình”! Cuối cùng nguyện vọng đòi giải phóng, thoát mọi ràng buộc từ nhiều phía đã vượt qua những rào cản lớn và miền Nam đang đứng dậy!    

- Phải đứng lên thôi, chứ không thì lực lượng kháng chiến yêu nước bị tiêu diệt hết trong khi lớp trẻ mới lớn bị tuyên truyền xuyên tạc không hiểu lịch sử thực hư thế nào. Phong trào khó mà gây dựng lại! – Anh Hà Giang nâng lá thư lên.

- Cho nên bài viết của anh không đúng lúc, dễ bị hiểu lầm!

- Trước mắt vũ trang tự vệ là cần thiết nhưng để đi đến mục đích cuối cùng là hòa bình xây dựng. Cháu không chấp nhận những phần tử cơ hội lợi dụng chiến tranh để củng cố quyền lực và địa vị của mình!

- Nhưng cũng có những kẻ cơ hội lợi dụng chiêu thức hòa bình được chứ?

- Vì động cơ nào thì hiệu quả cuối cùng của nó phải là một xã hội hòa bình, phát triển và dân chủ… đúng với tinh thần nhân văn của Chủ nghĩa xã hội!

Khuya lắm rồi, anh Hà Giang ngồi một mình trong phòng nhớ lại những năm kháng chiến. Anh chiến đấu ở miền Bắc chỉ một thời gian ngắn ngủi trong khi anh gắn bó sống chết ở chiến trường Nam Bộ gần chục năm ròng. Tưởng rằng về miền Bắc vết thương trên người anh sẽ lành lại và sức khoẻ anh hồi phục. Không ngờ… Anh âm thầm mang nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần! Anh lấy sách vở làm nguồn động viên để sống. Anh đến gần ánh sáng của trí tuệ nhân loại và nhận ra nhiều điều. Có nhiều điều đã thành lẽ sống chung nhưng có nhiều điều mới mẻ. Nguồn sáng từ mặt trời chiếu ra. Những tia sáng toả ra trong vũ trụ có phân phối đều tới các hành tinh không? Ngay trên hành tinh Trái đất này rõ ràng là nó không đều bởi cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguồn sáng từ tư duy trí tuệ loài người cũng thế. Nó được tiếp nhận khác nhau ở mỗi cộng đồng và mỗi cá nhân. Dường như ở những quốc gia, địa hạt nào nghèo khổ, ở những cộng đồng dân tộc thiếu ánh sáng văn minh rọi tới, ở những con người lam lũ ít học bị đè nén… thường là sống theo bản năng ưa bạo lực? Chính quyền vào tay họ như một sự thoán đoạt ngai vàng muôn thuở. Họ phải giữ nó bằng bạo lực và chuyên chính của họ nghĩa là bạo lực! Họ tranh đấu quyết liệt đòi dân chủ tự do nhưng khi nắm quyền thì họ phân phối nó như của bố thí cho sao hưởng vậy. Chỉ có cách nâng cao mức sống người dân trên cơ sở không ngừng nâng cao hiệu suất lao động, đưa ánh sáng của văn minh trí tuệ tới họ, mở mang dân trí, nếp sống kỷ cương, bảo đảm sự công bằng xã hội thì các quyền tự do dân chủ của công dân mới được tôn trọng, mọi người được phát huy trí tuệ và sức sáng tạo sẽ gắn kết với nhau, mỗi dân tộc xích lại gần nhau, cùng hợp tác phát triển, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị cùng bảo vệ hòa bình. Đấy là tư duy lý trí, là hướng đi, cũng là chuyện dài lâu mãi của loài người.

Nhưng trên Tổ quốc anh và với nhân dân của anh? Giữa lý trí và tình cảm nhiều khi chưa đồng nhất. Từ lúc trẻ, anh đi chiến đấu cho một xã hội công bằng, đạp bằng đi những bất công nhưng lại những bất công mới chồng chất ngổn ngang. Anh linh cảm một ngày nào đó anh sẽ là nạn nhân của những bất công mới đó. Anh thấy giận đôi chân của mình, nếu nó không quen thói ỳ ra, chịu nghe theo sự điều khiển của anh thì anh đã không còn ngồi đây nữa.    

Anh nhớ lại vào một chiều cuối đông mấy năm trước, hình như trùng năm 1960 thì phải, một người đồng đội cũ đến kín đáo chào anh trước khi trở về chiến trường Nam Bộ. Là người lính chiến thực thụ, các anh hiểu điều gì sẽ xảy ra mà lòng mỗi người xốn xang lắm. Bạn như đứng trên khối than hồng, chỉ muốn vọt đi thôi. Anh nhìn bạn vừa muốn chia sẻ những ngày vất vả gian nguy sắp tới lại vừa thèm khát. Nước mắt anh tự nhiên cứ trào ra. Bạn vừa lộ vẻ tự hào vừa tỏ ý buồn phiền:      

- Đây là chuyến đầu tiên về tăng cường sức chiến đấu cho quê hương. Chỉ vẻn vẹn có hai mươi lăm người. Khác chi muối bỏ biển! Dự tính một trăm người nhưng trên cho thế thôi, để nghe ngóng xem sao đã. Mong rằng đầu xuôi đuôi lọt!       

Qua buổi gặp bác Trịnh Huy, anh Hà Giang mới hiểu ra sự đắn đo của người lãnh đạo.

Hai mươi lăm đồng đội của anh tự khai phá con đường rừng hàng ngàn kilômét âm u heo hút cheo leo hoang dại. Liệu khi tới đích còn được bao nhiêu?! Lòng đầy nhớ thương, mệt mỏi, đầu óc mung lung, anh gục trên bàn. Rặng dừa đung đưa thổi gió xuống dòng kênh xanh mát. Dáng người con gái thân quen chèo chiếc ghe nhỏ băng trôi giữa dòng. Bỗng trời đất mịt mù mây khói, sóng gió bịt bùng, ngọn lửa từ đâu bùng lên và bốc cao cuồn cuộn. Người con gái quằn quại đau đớn giơ cao chiếc khăn rằn vẫy gọi người ứng cứu. 

Trong cơn mê mộng chập chờn, vẳng bên tai lời thơ tha thiết từ chiếc radio để ở đầu giường:

… Vì sao chẳng ngày vui trọn vẹn

Như bâng khuâng việc hẹn chưa làm

Vì sao miếng cơm ăn bỗng nghẹn

- Một nửa còn cay đắng : miền Nam !

Ôi miền Nam vì sao mỗi lúc

Mây chiều xa bay giục cánh chim

Đêm khuya một tiếng bầu tiếng trúc

Một câu hò cũng đọng trong tim ?

… Hãy nghe tiếng những người đang sống

Như biển động ầm ầm tiếng sóng

Và hãy nghe cả tiếng người xưa

Như gió khơi reo vọng rừng dừa

Tất cả nói một lời : giải phóng

Cứu miền Nam ! Cứu miền Nam !

Ôi cửa Phật cũng dầu sôi lửa bỏng

Dẫu thiêu mình làm đuốc cũng cam…

Tưởng như lời thôi thúc gọi cứu ngay đây, anh Hà Giang bật người đứng dậy. Cả người anh nghiêng về một bên, chiếc xe lật sang cùng phía đổ sầm xuống gây một tiếng động lớn đánh thức người bảo vệ dậy. Anh ta hốt hoảng chạy vào phòng, vực người thương binh lên.

Anh Hà Giang không nói một lời nào. Mặt anh ngây ra, mắt nhìn mãi đâu xa như còn đang trong cơn mộng du!           

 

(trang 145)

 

Link http://sachhiem.net/NGVTHINH/NguyenvThinh_TBTb.php

ngày 24-Dec-2016

_________________

• Các bài của Nguyễn Văn Thịnh: link http://sachhiem.net/NGVTHINH/ListNVTh.inc.php

Trang Văn Học