Thời Bi Tráng - tiểu thuyết - Nguyễn Văn Thịnh
CHƯƠNG BỐN
Bước sang năm Canh Tý – 1960. Nhà thơ Kim Qúy dắt theo cô vợ trẻ đỏm dáng lòe loẹt tới chúc tết ông bà giáo Phú, gặp luôn vợ chồng cô Thêm hàng xóm ngày xưa. Ông chồng Dương Trọng Đức, thoát đời lính về theo học trường Dược và Luật, giờ mở Pharmacie ở một đường phố lớn. Nhà thơ làm duyên chúc mừng kiểu cách: - Năm mới em kính chúc ông anh bà chị nhị xuân trùng lai vạn xuân như ý, kim cương vàng bạc lai láng ê hề, hạnh phúc tràn trề! Bà giáo cười đáp lễ vì bà vốn không ưa và không lạ gì ông em rể này của người chồng cũ sính chơi chữ để xỏ xiên. Ông giáo nói cho qua: - Ôi… tràn trề lai láng quá như trận mưa xuân trái mùa suốt từ lúc giao thừa tới tảng sáng ngày mồng một cứ tưởng như cả thành phố sẽ đi thuyền đi ghe đến chúc tết nhau! Nhà thơ quay qua vợ chồng người hàng xóm cũ dí dỏm: - Chọn nghề như ông bạn đây mới thật là khôn ngoan. Luật sư và Dược sỹ là những nghề vừa cao qúy vừa thực dụng, muốn ban phát lòng nhân ái vị tha hay phá gia treo cổ người ta lên đều được. Thời nào cũng phát tài phát lộc, ấm tử vinh thê! Không ngờ ông luật sư, dược sỹ lại rút ra tờ báo Xuân Tự Do giơ lên trước mọi người than: - Phát tài phát lộc bao nhiêu lại vào hết bụng lũ chuột này thì thê chẳng còn mà tử cũng đói meo thôi!
Cả trang đầu báo là bức biếm họa sáu con chuột đang thi nhau đục khoét một quả dưa hấu trên tấm bản đồ Nam Việt! Chủ nhà mời mọi người ngồi và rót rượu ra: - Dù sao theo tục lệ ta cùng nâng ly rượu đào xua đi những bận bịu lo toan trong năm cũ để vui vẻ đón mùa xuân mới! Nhưng cô Thêm vẫn không giải được nỗi lo, ghé sát tai bà chị: - Em đi lễ chùa mà tới đâu người ta cũng kháo nhau đầu năm trời đã khóc chứa chan nước mắt thế này chắc là làm ăn khó lắm đây… chị ạ! Nhà thơ cười hề hề vẻ hứng chí lắm : - Trời có khóc là vì việc khác. Chứ việc làm ăn buôn bán của các bà thì trời lại cười kia đấy! Cười quá cũng ra nước mắt phải không ông anh? Anh ta tự châm đầy ba ly rượu cạn và ngửa cổ hướng về ông dược sỹ, dốc ngược cái ly : - Miền Nam này đâu phải chỉ là một quả dưa hấu? Dưới bàn tay của phù thủy Hoa Kỳ sẽ là cả một vườn dưa hấu hàng ngàn vạn quả! Anh ta đặt cái ly trên bàn, hạ giọng vẻ hí hửng lắm: - Trâu bò húc nhau sẽ có con chết lăn quay ra. Ruồi muỗi có cơ no bụng đấy! Ba người đàn bà chụm lại với chuyện làm ăn. Ba người đàn ông rảnh rang nói chuyện đời. Ông luật sư, dược sỹ thăm dò: - Phía chính quyền có phản ứng gì không? - Chửi vỗ mặt thế ai chịu nổi! Canh Tý trọn vòng can chi lục tuần qúy thọ một đời người. Lại là sáu con chuột huynh đệ nhà người ta! Nhà thơ nghiêng về phía ông dược sỹ, mắt liếc nhìn ra cửa: - Tan hoang cả rồi. Báo đình bản! Vào tù cả đám. Chỉ còn một thằng lặn biệt tăm! Y nháy mắt: - Sờ chim cả một bầy chuột cống con đực con cái có thua gì mó dái ngựa đâu! – Và cười ranh mãnh. Ông chủ vẻ mặt bình thản, chuốc thêm rượu mừng: - Trong giới ký giả, toa thấy thế sự có sáng ra không? - Sáng hay tối là do ông chủ Mỹ. Mình đâu phải là Tề Thiên Đại Thánh có phép tàng hình chui vào bụng để hiểu được lòng người. Nhưng rõ ràng thế cuộc đang bất ổn! Ông giáo từ tốn với chén rượu xuân trong khi nhà thơ – ký giả được dịp trổ ra sự từng trải lăn lóc xuôi ngược của mình: - Từ cuối năm ngoái vùng nông thôn đang yên ả bỗng rộ lên khác thường. Điển hình là tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre), dân chúng ào ào nổi lên đốt phá đồn bót tháp canh, phá bung các Khu dinh điền trù mật, làm tan rã cả hệ thống chính quyền liên gia ấp xã. Quân chủ lực từ Sài Gòn điều về nhưng vô phương ổn định. Du kích chống trả quyết liệt! Không hiểu súng đạn họ lấy từ đâu ra? Nghe nói có cả chủ lực miền Bắc về hỗ trợ? Từ đó nông thôn nổi loạn lan rộng ra khắp vùng châu thổ sông Tiền, sông Hậu lên tới cả vùng rừng núi miền Đông. Chính quyền không cai quản nổi! Mấy ngày trước Tết, trung đoàn 13 thuộc sư đoàn 21 đóng ở căn cứ ta kêu là Trảng Sập – bên ấy kêu là Tua Hai, chỉ cách tỉnh lỵ Tây Ninh chừng chục kilômét nghĩa là cách Sài Gòn mình đây chỉ dăm chục kilômét đường chim bay thôi mà bị Việt cộng đánh cho te tua. Lính chết nghe nói nhiều lắm, cả kho vũ khí khổng lồ lọt vào tay cộng quân mà bên Tổng hành dinh cứ dấu như mèo dấu cứt! Ông giáo vẫn giữ vẻ trầm tư : - Toa đi nhiều, biết nhiều chứ như moa cứ ru rú ở thành phố với mấy đứa học trò rồi về nhà ngắm… bà đầm già! Chỉ đọc báo nghe đài thôi. Vậy mà mấy ngài ký giả, học giả ngoại quốc tên tuổi chức danh hẳn hoi nói nghe sáng sủa vững vàng lắm. Những là: Cuộc nổi dậy tại miền Nam Việt Nam chỉ là hoạt động rời rạc của cán bộ Việt Cộng ở những vùng xa xôi hẻo lánh mà thôi! Tổng thống Diệm đã củng cố vững chắc địa vị của ông ta và vô hiệu hóa những lực lượng chống đối!… Chả biết thế sự thực hư ra sao nữa? Vị ký giả đã ngà ngà hết cần để ý ngoại cảnh nữa : - Ối dào ôi! Thời bây giờ Hoàng đế, Tổng thống cũng dởm kể chi mấy ngài đại sứ, mấy ông cố vấn, mấy anh học giả, ký giả… Cứ Dollar và pretty girl (gái đẹp) là nó cho thăng thiên chốc lát. Anh chết sống có hại gì đến nó?! - Không hại gì đến mấy ông cả bà lớn vì lỡ có sao họ lên máy bay chuồn trước tự lúc nào rồi! Chỉ chết mình thôi. Tan nát hết! – Ông dược sỹ lo lắng rõ trên nét mặt. Vị ký giả vẻ rành thế sự : - Việt cộng khôn hồn thì làm vừa vừa thôi, đủ để ngăn chặn sự tàn ác của bọn cường hào chức dịch địa phương và răn đe sự lộng hành qúa đáng của một gia đình trị! Chớ qua mặt người Mỹ để họ nóng đầu lên nhảy vào như ở bán đảo Koréo (Triều Tiên) là lôi thôi to. Anh ta sỗ sàng vỗ mạnh vai ông dược sỹ hồ hởi lắm: - Không chừng lúc đó ông bạn phất lên như diều gặp gió! Cô vợ trẻ ngồi lâu nóng chỗ đưa mắt nhìn chồng. Nhà thơ đứng lên, khật khưỡng bước về phía bà chị, giọng bùi ngùi: - Chị em mình vì cái số trời không cho trọn đời dâu, rể với một nhà nhưng cái đạo làm người thì không sao quên được! Em vẫn kính chị như người chị của em từ dạo nào còn chung một mái nhà ở quê hương. Từ hai hốc mắt nhà thơ tuôn ra những hạt lệ ròng ròng làm bà giáo cũng không cầm lòng được, đưa tay ra nắm lấy hai bàn tay ấy run run. Nỗi xúc động lan ngay sang mọi người bởi sự nhạy cảm chất chứa sẵn trong lòng. Ai cũng nhớ tới một quá khứ êm đềm ấm cúng đầy tình thân mến thương ở chốn quê nhà. Nhớ những người thân yêu ruột thịt ở ngoài ấy không hiểu đang sống ra sao. Nhà thơ vẫn để yên tay mình trong tay bà chị, giọng thương cảm lắm : - Em vẫn xót xa thương nhớ năm đứa bé trai gái cháu của bà bác đây không biết hiện tình chúng no đói làm sao? Và em thay mặt các con em nhận quà lì xì của bác! Đương nhiên bà bác phải xì ra. Và những năm đứa cháu ở nơi xa xôi côi cút lầm than như thế thì phải là năm cái bao lì xì không bình thường được. Cô Thêm cũng biểu lộ tình cảm của mình với người hàng xóm ngày xưa. Khách ra về, bà giáo ngồi thừ người ra, nước mắt tuôn rơi lã chã. Bà nghĩ tới hai đứa con xa mẹ. Khổ thế chúng nó chịu được không? Ông giáo biết những lời khuyên can lúc này là vô ích. Nước mắt với người đàn bà nhiều khi làm cho lòng họ được nhẹ đi. Người Mỹ chủ quan chưa đánh giá hết sự bất lực thảm hại của hệ thống bộ máy chính quyền do ngoại bang dựng nên trên đất nước này. Họ không quan tâm tới quá trình lịch sử, truyền thống văn hóa và nguyện vọng chính đáng của cả một dân tộc ở một quốc gia Châu Á xa xôi kỳ lạ ấy là gì. Họ chỉ nghĩ theo cái lý của viên lãnh chúa thời trung cổ: Người Mỹ giúp ai kẻ ấy thắng! Người Mỹ thích ai kẻ ấy sống! Sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (FNLSVN) hồi cuối năm 1960 chỉ là sự tập hợp của nhóm phiến quân suy yếu bày ra trong rừng để hợp thức hóa dần sự can thiệp của quân Bắc Việt! Vì thế trước những biến cố ngày một xấu đi họ chỉ nghĩ rằng do mình chưa ra tay thực sự. Đầu năm 1961, ông Ngô Đình Diệm tái đắc cử Tổng Thống trong niềm vui đắc thắng, được Phó Tổng Thống Johnson đích thân sang tận Sài Gòn chào mừng với lời khen ông tài như “một Winston Churchill của Á châu”. Đồng thời Hoa Kỳ bảo đảm sự viện trợ toàn diện nhiều hơn nữa! Được lời như cởi tấm lòng, ông Diệm lần thứ hai buột gan ruột ra: “Biên giới của Thế giới tự do chạy từ Alaska đến sông Bến Hải”! Người Việt Nam vốn không quen với kiểu ví von mập mờ ấy vì trong tiềm thức cố hữu, họ coi biên cương lãnh thổ như hàng giậu quanh nhà, dãy duối rào quanh xóm, lũy tre quanh làng không ai xâm phạm được. Thế là bộ máy tuyên truyền của đối phương kháo rầm lên: “Ngô Tổng thống tự vứt bỏ cái lá nho đi”! Và quốc sách Ấp chiến lược ra đời! Nó là sản phẩm đúc kết từ kinh nghiệm của bộ máy thực dân xâm lược như các ấp tự vệ gọi là Kibbytz của người Do Thái và Homeguard của người Anh đã được áp dụng thành công ở một số nơi như Palestine và Malayxia từng có phong trào chống ách đô hộ của ngoại bang, ví như việc tát ao bắt cá để cô lập lực lượng kháng chiến với nhân dân. Bây giờ nó được vận dụng sáng tạo có sự hỗ trợ tích cực của không ít những chiến binh mặc áo chùng thâm có nhiều kinh nghiệm chống phá các phong trào nổi dậy chống ngoại xâm của dân chúng trước đây để đối phó với sự bành trướng của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam! Mỗi ấp là một pháo đài chống cộng cả về mặt quân sự, chính trị và dân sinh: Hàng trăm nóc gia quần tụ trong một diện tích vừa phải bao bọc trong những hàng rào bùng nhùng dây kẽm gai có gài mìn tự động, những hào nước cắm chông với đám gia cầm gia súc nhậy cảm hơi người như vịt, ngỗng, chó để cách ly sự xâm nhập tự bên ngoài vào! Trong mỗi ấp đồng thời tiến hành một cuộc cách mạng xã hội. Hàng viện trợ Mỹ được phát không hoặc bán giá rẻ! Tổ chức phòng vệ dân sự là biến tướng của hình thức dân quân du kích địa phương được trang bị tốt vừa kiểm tra giám sát thường xuyên những kẻ chống đối ngấm ngầm tại chỗ, vừa đủ sức chiến đấu với một tiểu đoàn đối phương khi cần đụng độ cầm chừng chờ quân chủ lực tới cứu viện! Cứ năm nhà liền kề lập thành một tổ gọi là ngũ liên gia bảo dòm dỏ mọi sinh hoạt của nhau. Các tổ trưởng liên gia và chính quyền ấp xã cùng với đám cảnh sát nổi chìm quản lý tới từng người trong mỗi hộ gia đình! Con trai con gái lớn lên tụ tập trong tổ chức Thanh niên cộng hòa – Phụ nữ liên đới, trước tiên giúp việc trị an xóm ấp rồi đôn dần lên bổ sung vào lính quốc gia hoặc là tổ chức phượng hoàng chuyên dùng sắc đẹp để làm gián điệp hoặc tha hóa những người mềm yếu lôi kéo họ về chiêu hồi chính nghĩa quốc gia! Đàn bà con gái lấy ai? Lỡ có “bầu” không thể giấu được đâu là thủ phạm! Mỗi nhà chỉ được phép đem số lúa nhất định đến nhà máy trà lượng gạo đủ dùng trong mấy ngày quy định theo số nhân khẩu gia đình. Cổng ấp có lính canh kiểm soát chặt chẽ, người ra vào phải có thẻ căn cước và theo giờ quy định. Người đi làm đồng chỉ được phép mang cơm và đồ ăn nước uống đủ dùng cho một bữa trưa nghỉ ở ngoài đồng! Tháp canh cao chót vót như cái tháp chuông nhà thờ để từ đây đám lính dân vệ theo dõi mọi hành động dân ấp đang làm những gì ngoài đồng ruộng bờ kênh! Và cũng từ đấy, các xóm đạo, xứ đạo công giáo được sự ưu ái độc quyền đặc biệt bành trướng mạnh phát triển giáo dân. Theo lý thuyết, ấp chiến lược làm được cả sự đời sự đạo! Thực tế năm 1962 đã xây dựng được gần 4.000 mô hình như thế ở những nơi trọng yếu. Chính quyền dự định đến năm 1963 toàn miền Nam sẽ hoàn thành 16.000 ấp chiến lược và người Mỹ đảm bảo viện trợ đầy đủ tiền của để thực hiện bằng được một quốc sách diệt trừ cộng sản chưa từng có để làm mẫu cho cả thế giới tự do! Đồng thời với ba trăm ngàn quân chủ lực Việt Nam cộng hoà, khi cần có thể tăng quân số gấp đôi, được trang bị vũ khí Mỹ tối tân với chiến thuật cực kỳ cơ động thiết vận xa M113, trực thăng vận cùng với 12.000 cố vấn Mỹ có mặt tới các tiểu đoàn bộ binh chiến đấu và các đại đội binh chủng kỹ thuật thì ba mươi ngàn Quân giải phóng trang bị nghèo nàn và thiếu thốn mọi thứ phỏng cầm cự được bao lâu? Họ chỉ còn cách quanh quẩn đào củ măng, củ mài, củ môn… rồi chết rục xương vì sốt rét ở rừng sâu! Quan chức Mỹ lạc quan. Anh em ông Diệm tin phần thắng trong tay mình. Một mặt tỏ ra cứng đầu và eo xèo đòi hỏi người Mỹ nhiều hơn nữa, một mặt xé toạc cái chiêu bài dân chủ, thẳng tay đàn áp các lực lượng đối lập kể cả các đảng phái lâu nay từng liên minh chống cộng và các tôn giáo lâu nay đã có ảnh hưởng sâu sa tới tâm linh và đã thành truyền thống văn hóa thiêng liêng của số đông dân chúng miền Nam. Đầu năm 1960, tuyên bố Caravelle của nhóm 18 nhân sỹ trí thức các đảng phái đối lập phản đối chính quyền không tôn trọng tự do dân chủ và cuối năm, cuộc binh biến của đám lính dù con cưng và hai quả bom tạ của Không lực Việt Nam cộng hòa dội vào dinh Độc Lập tháng 2 năm 1962 suýt làm anh em ông Diệm sớm về chầu Chúa cũng chỉ nói lên sự bất mãn của những nhóm người thuộc các phe cánh khác nhau và được nhà cầm quyền Mỹ lờ đi, vừa để cho chính thể ấy có cái vẻ tự do và cũng là để dằn mặt kiểu cách gia đình trị họ Ngô cần phải biết điều thức tỉnh kịp thời. Vậy mà tình hình chiến sự vẫn ngày một xấu đi đến nỗi ông Diệm hốt hoảng tuyên bố chính thức rằng chiến tranh đã thật sự xảy ra ở miền Nam và kêu gọi tăng cường sự trợ giúp trực tiếp bằng quân sự của Hoa Kỳ và cộng đồng các quốc gia liên minh! Nhiều ấp chiến lược mới lập xong đã bị phá banh, dân chúng trở về với ruộng vườn của họ. Năm 1963, vừa qua ngày đầu năm, phát hiện một tiểu đoàn Quân giải phóng ở địa bàn Ấp Bắc thuộc tỉnh Mỹ Tho, chỉ cách Sài Gòn chừng 50 kilômét đường chim bay. Nơi đây địa hình đồng bằng trống trải, kề con lộ huyết mạch Đông Dương số Bốn (sau này là số Một) về phía bắc chừng dăm kilômét. Quân lực Việt Nam cộng hòa với số quân đông gấp mười lần, hoả lực mạnh gấp trăm lần, lại có sự yểm trợ tích cực bằng binh khí và phương tiện chiến tranh của quân lực Mỹ, chủ động tấn công, áp dụng chiến thuật phối hợp tân kỳ Bủa lưới phóng lao và Phượng hoàng vồ mồi. Đối phương chẳng những đã không bỏ trốn mà trụ lại các công sự, đương đầu trực diện từ sáng đến tối. Khi họ rút đi để lại sự thiệt hại cho hàng trăm binh sỹ Việt Nam cộng hoà bị thương vong trong đó có ba cố vấn Mỹ bỏ mạng và hàng chục xác máy bay trực thăng và chiến xa M113 còn bỏ lại trên chiến trường! Thất bại này lộ rõ sự bất tài kém cỏi của đám tướng tá chỉ huy và sự bạc nhược về tinh thần của đội quân đánh thuê dù được trang bị vũ khí tối tân hiện đại thế nào. Trái lại nó chứng tỏ tinh thần chiến đấu gan dạ và quyết liệt của một đội quân yêu nước chiến đấu bảo vệ quê hương cùng với mưu trí và tài thao lược của những người chỉ huy từng trải qua nhiều thử thách. Với đám cố vấn quân sự Mỹ và quân lực Việt Nam cộng hòa là một thất bại cay đắng, bị mất mặt trước dư luận trong nước và thế giới! Nhưng anh em ông Diệm vẫn đành phải ngậm bồ hòn trong miệng, ra lệnh cho đám bồi bút ca ngợi một chiến công to lớn của quân đội quốc gia, đánh cho địch quân thất điên bát đảo, sau một ngày cầm cự yếu ớt đã phải lợi dụng đêm tối lôi kéo xác nhau co giò bỏ chạy mất tiêu! Trước sức ép nội công ngoại kích ngày càng gia tăng làm lung lay cái ngai quyền lực, anh em ông Diệm lúng túng loay hoay, không biết dựa vào ai và tin vào ai nữa, lại càng bộc lộ rõ bản chất độc đoán, độc quyền lộng hành tàn ác gia đình trị. Lại càng bị nhân dân oán ghét, phe cánh rã đám tẩy chay và người Mỹ đã đến lúc nhận ra phải tìm một nhân vật mới dễ hợp tác và hữu hiệu hơn! Cậu em Phát Lộc đi thụ huấn tại trường tình báo lớn nhất của quân lực Hoa Kỳ tại Đông Á–Thái Bình Dương trên đảo Okinawa–Nhật Bản trở về, vinh thăng thêm một bông mai bạc trên vai áo. Trong buổi họp mặt gia đình mừng người em vinh qui thăng tiến trở về, có cả cha con ông bạn nhà giáo của chủ nhân. Trung tá Phát Lộc thân tình hỏi Thiếu tá Chu: - Người Mỹ rất quan tâm tới sự thành bại trong chương trình xây dựng ấp chiến lược vì nó là xương sống của Kế hoạch Staley–Taylor bình định miền Nam trong 18 tháng. Tổng Thống Kennedy đặt niềm tin vào đó. Tuy nhiên có nhiều ý kiến nghi ngờ về những báo cáo lạc quan của ngài Cố vấn. Các cơ quan tình báo khác nhau của Hoa Kỳ trong đó có DIA (Defense Intelligence Agency=Cơ quan An ninh quân đội Mỹ) muốn tìm hiểu rõ thực hư làm sao. Điều ấy rõ ràng không thuộc phạm vi trách nhiệm của tôi tuy rằng tôi cũng lờ mờ biết được một số chuyện không hay nhưng vì quốc thể và cũng sợ điều tai vách mạch rừng nên tôi lựa chiều nói đại là tiến triển đáng mừng! Chu là sỹ quan của Bộ Tổng Tham mưu biệt phái qua Ban thanh tra Ấp chiến lược do đích thân ông Ngô Đình Nhu chỉ định Đại tá Phạm Ngọc Thảo làm trưởng ban. Anh đi nhiều, thấy nhiều, trước người nhà thân tín cả nên không cần giữ ý: - Về lý thuyết, đó là một kế sách tuyệt vời. Chỉ cần thực hiện tốt phân nửa như kế hoạch thôi thì Mặt trận giải phóng đã điêu đứng lắm rồi! Tiếc rằng những hình mẫu mà chúng ta trưng ra để biểu dương quảng bá như ở Ninh Thuận và một vài nơi khác chẳng đáng là bao. Đặc biệt chỉ ở những nơi gần thị xã, thị trấn lớn có sự kiểm soát chặt chẽ của quân đội thôi. Còn đại bộ phận chỉ có tên trên giấy hoặc đang làm dở dang đã bị chính dân sở tại phá bỏ đi rồi. Lý do trước hết vì tham nhũng lớn quá. Mọi qui hoạch rất rõ ràng chi tiết. Để xây dựng một ấp chiến lược thì được nhận bao nhiêu tiền xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá, trạm y tế, trường học, chợ búa, trụ sở hành chính quân dân… và định xuất việc di dân về nơi ở mới tính theo nhân khẩu cho mỗi nóc gia kể cả chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nhưng thực tế từ trên xuống dưới thi nhau xà xẻo cho đến người dân nhiều lắm chỉ là mấy tấm tôn hình thức chưa đủ che một mái nhà! Gom người ta vào để ở túm tụm chen chúc trong những túp lều không khác gì chuồng trâu chuồng bò, với ba tấm tôn trời nắng thì nóng, trời mưa không khác gì ở ngoài sân, cả người và vật sống gần như lẫn lộn… có khác chi ở tù đâu? Trong khi bọn chức dịch lính lệ địa phương mặc sức trấn lột, o ép, hà hiếp dân chúng, cưỡng bức đàn bà con gái người ta thì ai mà chịu nổi? Một điều mà ta chưa tính đến là cuộc sống phóng khoáng tự do gắn bó với thiên nhiên đã thành nếp sống truyền thống dân gian tự bao đời, là sự gắn bó đồng cam cộng khổ gần như ruột thịt của những cán bộ kháng chiến với dân chúng có từ bao nhiêu năm quân với dân chung một lòng chống ách đô hộ của ngoại bang. Chúng tôi đã cho điều tra và thấy dù bọn cảnh sát dân vệ địa phương rà soát ngặt nghèo, nhẫn tâm đổ số gạo dư xuất qui định mấy ngày ăn vào lu nước chỉ còn để cho heo ăn được thôi nhưng người dân lại nhẫn nhịn vớt lên, hong phơi cho khô đi để họ chịu ăn số gạo hẩm mốc ấy và dành dụm dấm dúi lén lút chuyển từng bọc gạo nhỏ ngon lành tiếp tế cho du kích ở ngoài địa hình căn cứ. Nhiều trường hợp cảnh sát mật vụ rình mò phát hiện ra cơm và thức ăn mỗi người được mang theo để ăn bữa trưa ở ngoài đồng thì họ cũng chịu nhịn hoặc chỉ ăn qua quýt rồi để lại giấm giúi đâu đó dành nuôi cán bộ! Anh có tưởng tượng nổi không? Có khi nó lôi ra cả can rượu đế nữa! Anh cười chua chát: - Hỗ trợ tích cực vào là nạn buôn lậu tràn lan. Không kể việc buôn lậu thuốc phiện có tính quốc gia quốc tế của các ngài tai to mặt lớn thì viên chức chính quyền các cấp, sỹ quan tướng tá, thương nhân lớn nhỏ, lính tráng và quân trộm cướp đều là những nguồn cung cấp cho phía bên kia từ lương thực, thực phẩm, thuốc men, các hàng chiến lược quân trang quân dụng, máy móc điện đài kể cả vũ khí từ trái lựu đạn, lưỡi dao lê tới các loại súng ống tối tân! Anh lắc đầu bất lực: - Kết hợp vào đó dường như từ năm 1960 phía bên kia không còn bị ràng buộc vào hiệp định Genève nữa. Họ thành lập Mặt trận chống đối công khai, phục hồi và phát triển lực lượng vũ trang rất nhanh. Đến nay ngoài lực lượng du kích xã, ít ra mỗi huyện đã có được trung đội, mỗi tỉnh có tới đại đội, mỗi quân khu của họ có cả tiểu đoàn và toàn miền Nam họ đã thành lập được mấy trung đoàn cơ động, có khả năng đánh phá các chi khu trọng điểm chiến lược và cản trở các cuộc hành quân của ta. Càng làm hậu thuẫn cho phong trào phá bung các ấp chiến lược ở nông thôn tiến triển rất nhanh! Thiếu tá nói liền một hơi rồi mệt mỏi ngồi thừ người ra. Ký giả Tường Minh đệm vào: - Việc giành giật được vùng nông thôn mang tính quyết định kẻ thua người thắng trong chiến cuộc này. Vậy là quốc sách ấp chiến lược sẽ thành cái thây ma? Chính thể Việt Nam cộng hòa cùng xuống mồ theo nó? Thiếu tá thở dài: - Tầm cỡ như mình không thể chủ động cuộc đời mình được! Chỉ biết rằng lời huấn thị của Tổng Thống “phải giành lại chính nghĩa từ tay đối phương” nghe xa vời quá! - Liệu rồi chúng ta sẽ sống với chính thể nào đây? – Ký giả nhún vai hỏi chỏng. - Cũng chưa đến nỗi bi quan lắm đâu. Đấy chỉ là số thanh niên nông thôn ít học ở trong Nam này mới bị lôi kéo vào đội quân du kích, vũ khí nghèo nàn lại không được huấn luyện căn bản. Một số sỹ quan chỉ huy điều lắng còn sống sót với một số ít tập kết vượt tuyến mới trở về cũng chưa đủ sức đương đầu với quân lực Việt Nam cộng hòa mình có số quân hùng hậu và vũ khí tân kỳ áp đảo dưới sự chỉ huy phối hợp của những sỹ quan Việt – Mỹ được đào tạo từ những học viện quân sự lừng danh trên thế giới đâu! – Tân Trung tá tự tin lắm. - Kẻ khoe lắm chữ trong đầu có ngựa tốt giáo dài, thần công đại bác mà lạc lõng bơ vơ lạ lẫm xứ người cũng thành lúng túng nhát gan thua anh dân cày ít chữ với cây đòn càn, cái phảng, hỏa mai, súng kíp mà liều mạng giữ gìn vườn tược ruộng vườn, sông biển, núi rừng của họ… Lịch sử còn rành rành trên từng trang sách đấy! – Vị giáo sư Sử học giọng điềm đạm mà đanh thép. - Giả như quân đội Bắc Việt ào ạt vượt tuyến vào Nam thì họ có thể tràn ngập các thị xã, thành phố ngay cả thủ đô Sài Gòn này được không? – Ký giả Tường Minh thăm dò. - Đó chỉ là ý tưởng của những kẻ điên rồ dại mồm dại miệng! – Trung tá Phát Lộc vỗ mạnh xuống bàn, đứng bật lên vung rộng cả hai tay:… Chúng ta còn nước Mỹ! Sẽ đến lúc người Mỹ ra tay. Bao lâu nay họ còn lưỡng lự để các nhà lãnh đạo chúng ta suy tính. Nhưng khi cần là họ quyết! Lúc đó liệu cái gọi là Quân giải phóng miền Nam lẫn Quân đội nhân dân ngoài Bắc có nhanh chân chạy kịp qua Ải Nam quan như thầy trò ông Kim Nhật Thành tưởng đã bị chết chìm dưới sông Áp Lục! Cũng chưa biết đất nước này tan hoang tới mức độ nào? Lạy Chúa! Mặt anh đanh lại trong khi tay anh làm dấu thánh. Vừa lúc có tiếng chuông điện thoại reo vang. Bà giáo cầm máy rồi cuống quýt lên: - Có đây! Cả nhà đang… à… đông đủ cả. Có cậu con đây! Tay bà run run trao máy qua người em. Trung tá Phát Lộc vẫn còn hưng phấn: - Ừ! Khoẻ! Vui! Cháu cố học giỏi lên rồi về sẽ có vị trí xứng đáng! Đặt máy xuống, anh quay qua khoe với mọi người: - Thằng Nhân Tín này rồi khá! Nó đạt loại giỏi trong số những phi công lái máy bay oanh kích. Sẽ đến lúc rất cần những phi công tài ba như thế! Mọi người lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau không ai bình luận một câu. Bà giáo đứng như trời trồng giữa nhà giọng run rẩy: - Liệu rồi cha-con-anh-em-chú-bác-cậu-cháu nhà này có bắn giết lẫn nhau không? Bà hướng lên tượng Đức Mẹ hiền từ âu yếm nhìn xuống đàn con. Chân bà run run khụy xuống, tay làm dấu thánh, miệng bật lên tiếng kêu yếu ớt: - Amen! Cầu xin sự bằng an cho người dưới thế! Thủy Tiên đứng lên giận dỗi: - Chẳng ai đem đến sự bằng an cho mình đâu! Học xong Tú Tài, Thủy Tiên vào Đại học Văn khoa thì Nhân Tín xuất dương qua Mỹ theo mộng được gắn với trời xanh. Chỉ có bé Bích Liên là không hiểu gì hết, mở rộng đôi mắt tròn to nhìn từng người như muốn được nghe một lời giải thích.
Trung tá Phát Lộc được triệu gấp vào Phủ Tổng Thống nhận lệnh trực tiếp của ngài Cố vấn: - Anh bay ngay ra Huế xem tình hình Phật giáo làm sao, giúp chúng nó ổn định tình hình và trình báo gấp về cho tôi biết! Phật tử thành phố Huế và các tỉnh Trung phần đang sôi động và phẫn uất về việc nhà cầm quyền dùng áp lực không cho dân chúng trưng cờ của tôn giáo mình trong ngày lễ Phật Đản mồng 8 tháng 4 năm Qúi Mão tức ngày 8 tháng 5 năm 1963 dựa vào điều qui định đã có từ lâu: Cờ tôn giáo nào chỉ được treo ở những cơ sở của tôn giáo ấy! Tiếc rằng điều đó mặc nhiên coi như được miễn trừ riêng với Đạo Kitô cùng với sự tồn tại của nền Đệ nhất cộng hòa và được nhà cầm quyền ngang nhiên coi như là quốc đạo ở một đất nước đa phần dân chúng coi đó như là một thứ đạo ngoại lai đối lập với truyền thống độc lập và tín ngưỡng địa phương. Cùng với những chính sách ưu ái đặc biệt những tín đồ Kitô giáo sùng tín quá khích đầy tham vọng cá nhân làm nòng cốt trong bộ máy chính quyền các cấp với ý đồ chèn ép triệt tiêu dần các tôn giáo khác và mau chóng công giáo hóa quốc gia phục vụ cho tham vọng của một cá nhân, một gia đình và một giáo quyền có truyền thống gắn kết với những thế quyền bằng mọi hình thức nhằm bành trướng tiến tới độc tôn một đức tin. Anh em ông Thục, ông Diệm khát vọng nắm trọn cả thần quyền lẫn thế quyền ở miền Nam rồi mở rộng ra cả nước này. Trước việc Giám mục Ngô Đình Thục nghêng ngang hãnh tiến trêu ngươi cả một nền giáo lý truyền thống ngay tại một trung tâm lớn thiêng liêng của những tín đồ Phật giáo buộc các Phật tử ở Huế phải biểu dương ý chí của họ một cách kiên quyết bất dung gian mặc dù bản chất của đạo là khoan hòa – từ bi hỉ xả. Kẻ nào hám quyền lực sẽ chết vì quyền lực. Là nhà lãnh đạo quốc dân mà anh em ông mù quáng buộc một tôn giáo phải đối lập với chính quyền và thẳng tay đàn áp công khai đã gây nên một làn sóng căm thù phẫn uất được cả sự đồng tình trong nhiều tôn giáo khác ở miền Nam. Đồng thời làm phân hóa ý chí chiến đấu bảo vệ chế độ của những sỹ quan Phật giáo và một bộ phận những sỹ quan công giáo có lương tâm. Chính quyền đã cho nổ súng vào đám người tay không đi đòi sự bình đẳng tín ngưỡng tôn giáo và máu nhiều Phật tử đã đổ xuống! Vậy mà họ còn ra sức giải thích rằng thảm họa đó là do Việt cộng gây ra?! Làn sóng phản đối bất công tôn giáo mau chóng lan ra các thành thị miền Nam, đặc biệt là ở Sài Gòn – Trung tâm quyền lực chính trị, cũng là nơi tập trung mọi lực lượng đối kháng công khai. Các cuộc thương lượng giữa chính quyền và đại diện Phật giáo vẫn lâm vào bế tắc vì phía nhà cầm quyền không muốn khai thông, thậm chí đám tay sai côn đồ cơ hội lưu manh còn bày ra những giả chứng để vu cáo các nhà tu hành là tay sai cộng sản hoặc bôi nhọ họ giả danh tu hành có những việc làm, cách sống mờ ám và đồi trụy! Để bảo vệ đạo pháp Phật, đến lúc các nhà tu hành phải đem mạng sống của mình thiêu đốt tà tâm của loài yêu qủy đội lốt người. Ngày 11 tháng 6 năm 1963, giữa thanh thiên bạch nhật, tại đô thành Sài Gòn, trước hàng ngàn chúng sinh, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Đức để nhục thể Người thăng hoa thành ngọn đuốc thiêng chánh pháp! YÙ chí phi thöôøng vì ñaïo phaùp laø pheùp maàu ñeå traùi tim baát dieät cuûa ngaøi keát thaønh ngoïc xaù lôïi linh thieâng. Người người bừng tỉnh ra trên đời này ngoài mặt trời tỏa ra những hạt ánh sáng cho mắt ta định hình rõ muôn loài muôn vật, còn có một mặt trời của chân lý lương tâm cho trí tuệ ta phát sáng để soi rõ bóng đêm trong tâm thức con người! Tấm gương tuẫn đạo cúng dường càng làm cho bao trái tim rung lên với lời thơ dậy sóng của thi sỹ Vũ Hoàng Chương đăng trên mặt báo: Lửa! Lửa cháy ngất tòa sen Từ lâu, anh em ông Diệm thoả mãn nghĩ rằng người Mỹ muốn chống cộng thắng lợi ở Á Châu này tất phải cần đến dòng họ nhà ông. Ngô Đình Nhu công khai tuyên bố: “Tôi bất cần nhân dân nghĩ gì”! Và bây giờ vợ ông – Đệ nhất phu nhân của chế độ nói điều đơm đặt: “Quyết không để cho những kẻ núp sau bóng từ bi cùng những kẻ ngoại nhân gây rối khuynh đảo quốc gia” và lạnh lùng tuyên bố “vỗ tay hoan hô và sẵn sàng cấp xăng cho các vụ nướng thịt người như thế”càng như quạt gió vào ngọn lửa đang cháy giữa mùa khô! Để chứng minh sức mạnh quyền lực của mình, ông Diệm lệnh đưa các tổ chức và nhân vật đối kháng từ mấy năm trước ra xét xử với những bản án nặng nề lại càng dấy lên công luận bất bình. Đầu tháng bảy, nhà văn đầu đàn của nhóm Tự lực văn đoàn một thời vang bóng, chính khách tên tuổi Nguyễn Tường Tam – người đã từ chối không đi dự cuộc hòa đàm Pháp–Việt ở Fontainebleau và sau đó rời bỏ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh đi tìm con đường riêng cho mình, uống độc dược quyên sinh như một người tử tiết, để lại lời di chúc bi tráng: “Đời tôi để lịch sử xử. Tôi tự hủy mình cũng như Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự do”, lại càng bộc lộ rõ tính phi lý vô nhân ngậm máu phun người dưới chế độ Ngô gia cai trị! Công việc ngoài cửa hàng Nhài giao cho Thủy Tiên trông coi. Cô thường xuyên có mặt ở các chùa trong thành phố để làm công quả hoặc theo các đoàn uý lạo đi thăm hàng ngàn tăng ni, Phật tử đang bị bắt cầm cố trong những trại giam hoặc bị thương nằm trong các bệnh viện do bị quân đội và cảnh sát của chính quyền đàn áp. Hai chị em ít có dịp gặp nhau ở nhà. Thủy Tiên trở về lúc khuya. Cô đứng sững trước cảnh người chị đã xuống tóc, ngồi trên giường trong bộ áo lam, lưng quay ra phía cửa, tay lần tràng hạt, miệng lầm rầm những điều gì cô không hiểu nổi. Ngoài trời mưa sầm sập mà cánh cửa sổ vẫn mở toang ra, những tiếng sấm ầm ì dường như không thấu tai người đang ngồi đấy. Những tia chớp loằng ngoằng phát lên những ánh hào quang giận giữ giữa bầu trời đen kịt. Làn gió tây thổi mạnh hắt vào từng đợt bụi mưa và thổi tung đi tờ giấy màu vàng mà người chị vẫn ngồi bất động. Thủy Tiên cầm tờ giấy lên. Càng đọc tay cô càng run bần bật: Đơn xin được hóa thân để bảo vệ uy danh Đức Phật. Nam mô A di đà Phật ! Kính đệ lòng thành của con tới các vị Hòa thượng, Đại đức, tăng ni cùng chư vị tín hữu. Phật tử Thích Diệu Trang nương bóng Phật tổ tu tâm tịnh trí hướng thiện làm lành mong cùng chúng sinh thoát vòng trần ai khổ hạnh, trọn vòng quả phúc nhân duyên trên đường hành hương đến gốc bồ đề nương hồn bóng Phật. Nay trên bước đường đi có bóng đen ma qủy cản ngăn hòng che lấp tuệ trí minh quang nhà Phật. Tấm lòng từ-bi-hỷ-xả không cảm hóa được loài yêu qủy đã thoát khỏi sự kiềm tỏa của lương tâm cùng các bậc thánh thần! Phật tử noi gương các vị chư tăng đệ tử, tự nguyện biến thân xác phàm này thành ngọn lửa xua tan đi những bóng đen ma quỷ để chúng sinh rộng đường đến gần ánh thiền quang ! Mô Phật! Nỗi xúc động không kìm được nữa, Thủy Tiên buông rơi tờ giấy và lao tới ôm chầm người chị: - Không!... Không!... Chị ơi! Việc gì chị phải làm như thế?! Hàng chục người đã biến thành những ngọn lửa thiêu như thế. Thậm chí còn cháy bừng lên ngay dưới mắt Mẹ Maria trước Vương Cung Thánh Đường cũng có làm động lòng những kẻ đam mê quyền uy thế tục đâu?! Hãy đi với em. Một trăm, một ngàn người chúng còn chống được. Nhưng hàng vạn hàng triệu người thì chúng phải thua thôi! Cô lay mạnh hai vai người chị đang định thiền phiêu diêu ở một thế giới nào. Nhài như từ một cơn mộng du sực tỉnh. Mắt cô chớp chới nhiều lần, định thần mãi mới nhận ra mình đang ở đâu và người con gái đang lay thức mình là ai. Cô mệt mỏi nằm lăn ra và mau chóng chìm vào trong giấc ngủ chợp chờn. Cô loáng thoáng thấy một làng quê nghèo xơ xác và một tuổi thơ đói rét. Một căn nhà yên ấm tình người và một tình yêu chớm nở… Những ngày lửa đạn lang thang đó đây đi tìm cứu cánh. Những ngày tuyệt vọng tưởng đang bước tới bờ vực của âm ty địa ngục bỗng như có Trời Phật cho người tới đỡ cô lên. Những ngày sống thấp thỏm và hy vọng. Rồi cơn hụt hẫng tình yêu và cô nhắm mắt đưa chân trốn chạy tới một chân trời xa lắc. Cô sống bên cả Chúa và Phật. Đấng bậc nào cô cũng tôn kính và coi như một cõi thiêng liêng. Không ai ép dụ cô theo thờ một đạo. Đạo nào cô cũng thuộc vài câu giáo lý dạy con người biết sống lành tâm và hành thiện. Cô vẫn không quên cái cảnh lúc nhỏ theo mẹ đi lễ chùa hoặc theo đám con trai chạy đuổi bắt nhau quanh sân đình, có lúc rủ nhau chui mãi vào trốn trong hậu cung, đến tối nằm bên mẹ mà vẫn còn sợ run cầm cập. Cô lớn lên có nghe người ta bài bác chê trách đạo này đạo nọ, chùa chiền thành hoang phế, nhà thờ thành đồn bót và những hồi chuông dóng lên không chỉ để báo giờ cầu lễ mà có lúc nó đột ngột hốt hoảng thúc giục báo một sự bất an. Cô sống ngày một đầy đủ hơn nhưng lại già đi nhanh chóng và mơ hồ hy vọng vào một hình bóng nào hư hư thực thực. Đã đến lúc cô cần một cõi yên tĩnh làm nơi nương dựa của tâm hồn những lúc cô đơn mệt mỏi. Như một lẽ tự nhiên, cô tìm vào cửa Phật. Những ngày một ngày rằm, cô ăn chay tới chùa trong hương trầm bảng lảng, nghe lời kinh điểm nhịp tiếng chuông tiếng mõ đều đều cũng làm lòng cô thư thả. Cô không được học nhiều để hiểu những điều giáo lý cao sâu nhưng dần cô cũng hiểu ra: Đi tới Phật là đi tới sự diệt khổ để giải thoát! Trong mỗi người đều có Phật tánh mà giữa chúng sinh với Phật chỉ có điểm khác nhau bởi sự mê và ngộ. Nghĩ nhiều cho mình là mê. Nghĩ nhiều cho người là ngộ. Chuyển mê khải ngộ tự nơi mỗi người. Càng ngộ càng rộng lòng từ-bi-hỷ-xả, càng biết sống bình đẳng công bằng và càng giác tuệ lòng càng thảnh thơi hành thiện… Vẳng nghe tiếng khóc, Nhài mở mắt thấy ánh lửa lập lòa. Cô nhận ra đứa em gái đang đốt đi tờ giấy màu vàng nhà Phật. Cô đưa bàn tay yếu ớt nắm tay em: - Trước cảnh thế nhiễu nhương, áp chế, tàn độc, bất công… thì dù có hiến dâng mạng sống của mình không phải chị làm điều mê muội! – Cô đọc lời thơ các Phật tử truyền nhau mà như câu hỏi phát ra tự lòng mình: Chỉ đôi tai Phật nghe sao xiết Tiếng khóc giờ đây của chúng sinh! Thủy Tiên ôm choàng lay tỉnh chị: - Em không nghĩ chị làm điều mê muội. Chúa cũng dạy người ta yêu sự công bằng bác ái! Chị muốn hiến dâng. Em cũng muốn hiến dâng. Nhiều người cùng muốn hiến dâng. Sao chúng ta không hợp lại với nhau? Ngay từ những ngày đầu lộn xộn, anh em ông Diệm biết có bàn tay người Mỹ và ngày càng nhúng sâu vào để buộc họ cải tổ nền chính trị độc tài khắc nghiệt, mở rộng nội các cho những người thân tín của Mỹ chen vào. Trong cơn mê quyền lực, lời khuyên của người anh giám mục chăm sự đời hơn sự đạo càng khích lệ hai người em dùng những biện pháp cực đoan hơn nữa: Ở Việt Nam cộng hòa ni, mình là chủ. Mỹ không có quyền giữ ai, bỏ ai! Cùng lúc họ ra lệnh không từ cả những hành động tàn ác nhất để đàn áp sư sãi, Phật tử ở các chùa chiền lớn trên khắp miền Nam! Nhiều vị sư bị giết hại ngay trước Phật đài tại trung tâm Xá Lợi, Từ Đàm… Trên những tấm áo cà sa rách mướp đậm bết những vết máu loang! Các trại giam Chí Hòa, Tổng Nha chật ních những nhà tu hành xuất thế hoặc tại gia. Cơn đại hồng thủy đang đến gần với một gia tộc tham quyền cố vị, coi thường quyền lợi của quốc gia dân tộc! Phản ứng trước sự lộng hành bất công quá đáng của chế độ Ngô gia trị đã thành những làn sóng truyền dậy lên nỗi công phẫn lan ra tất cả các thành phần xã hội miền Nam. Vấn đề Phật giáo liên quan sâu sắc tới tín ngưỡng truyền thống của mọi bộ phận công dân. Các tôn giáo khác cùng bất bình. Ngay cả Vatican cũng thấy vấn đề này tế nhị. Vị Khâm sứ Toà Thánh khuyến cáo giáo hội Việt Nam phải đứng ngoài cuộc mới giữ được thể diện cho Hội thánh. Toà Tổng Giám mục Sài Gòn ra thông báo nhắc nhở các giáo phận chớ làm điều gì khinh xuất khác chi đổ thêm dầu vào lửa. Tiếng vang dậy đất thấu trời khiến tổ chức Liên Hiệp Quốc phải lập ngay một phái đoàn sang miền Nam để điều tra. Tuy nhiên chứng cớ rành rành nhưng phái đoàn vẫn ngơ đi vì những mánh khoé nhỏ nhen của chính quyền sở tại khiến không ít vị đại diện chót dại nhúng chàm mà há miệng nói ra sự thật sẽ bị mắc quai! Giới trẻ ào ạt xuống đường quyết liệt hơn cả phụ huynh của họ. Sinh viên, học sinh các trường trung học và cả tiểu học ở nhiều đô thị lớn đồng thời bãi khóa, xuống đường biểu thị lòng phẫn uất trước bất công xã hội. Bên cạnh họ có đủ những thành phần giới chức hoặc những quần chúng tự nguyện cùng xuống đường hưởng ứng, hỗ trợ con em mình… Thủy Tiên và Nhài luôn có mặt trong dòng người đông đảo ấy. Cảnh sát dã chiến được lệnh can thiệp gây nên nhiều cuộc xô xát. Trên các đường phố ngổn ngang những guốc dép, gậy gộc, gạch đá, mũ nón, khăn, dù và những tà áo trắng rách bươm vương vãi. Những người bị thương nằm la liệt. Người bị bắt rãy rụa quằn quại trong tay lực lượng vũ trang hung bạo của chính quyền. Ngày 25 tháng 8, ngay trước cửa chợ Bến Thành, cảnh sát nổ súng. Nữ sinh Quách Thị Trang trúng đạn. Thấy bạn ngã xuống, Thủy Tiên chạy tới nâng dậy. Máu từ bạn thấm ra ướt đầm áo quần cô. Lũ cảnh sát không ghê tay giơ cao matraque bồi khắp người cô những đòn chí mạng và giật xác cô học sinh nhỏ tử thương quẳng lên xe chạy biến đi để phi tang! Thủy Tiên gục xuống. Trong bộ áo lam, Nhài xông tới bế thốc em gái chạy băng băng vào bệnh viện Đô Thành. Hàng ngàn nam nữ thanh thiếu niên áo trắng học trò bị bắt tống lên xe tải chở đến giam ở trại Quang Trung! Ông giáo Phú đôn đáo khắp nơi tìm Nhài và Thủy Tiên. Ông không ngờ tới cái kết cục lạ lùng đau thương như thế. Ông tìm tới các điểm tụ hội đông người, thậm chí cả những nơi giam giữ và tin rằng với khả năng quen biết rộng rãi, ông sẽ giải thoát được cho các cháu dù sự vụ có hệ trọng đến đâu. Vì các chợ rủ nhau bãi thị, bà giáo cũng ở nhà mà lòng không sao yên được khi hai đứa vẫn biệt tích. Trung Tá Phát Lộc đang vướng trọng trách đặc phái ở miền Trung vì ngoài ấy cũng như chảo lửa! Khi chị em Nhài dẫn nhau về nhà với thân mình bầm giập, thâm tím, áo quần cứng đen và hôi tanh mùi máu khiến bà tưởng như đang trong cơn ác mộng! Ông giáo hiểu ra, mời ngay người bạn bác sỹ tới nhà chăm lo các cháu. Bà giáo thất thần quanh quẩn vào ra không biết bao nhiêu lần qùy dưới chân Thánh tử nạn và Đức Mẹ nhắc đi nhắc lại lời cầu: - Lạy Đức Mẹ lòng lành... Xin ban phúc cho chúng con! - Lạy Chúa cứu thế. Xin cứu vớt chúng con! Trung tá Phát Lộc nhận được tin từ chị tức tốc trở về khi đứa cháu đã gần bình phục. Người anh gầy rộc đi, mặt bơ phờ hốc hác, đôi mắt trõm sâu. Anh ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành. Thủy Tiên từ trong nhà bước ra lạnh lùng nhìn chú. Nhìn đứa cháu gái mồ côi từ nhỏ mà bây giờ mặt nó xanh xao, mắt nó quầng thâm, anh hiểu phần nào sự việc nhưng phải nén lại trong lòng cảm giác xót thương. Mặt anh đanh lại, lên giọng giận dữ: - Mày làm chi để nên nông nỗi thế này? Đứa cháu không nhìn vào chú, giọng mỉa mai chua chát: - Ở ngoài đó chú cũng làm những việc như đồng đội của chú ở đây?! Lần đầu tiên đứa cháu dám hỗn với ông chú như thế. Nhiều nỗi căng thẳng phải nén lại và lúc này lại một nỗi giận nữa thêm vào. Cơn nộ khí bùng lên. Trung Tá bật đứng dậy, dang rộng tay ra tát thẳng vào mặt nó! May sao khi bàn tay chạm vào má cháu cũng vừa lúc ông kịp chùng tay lại chứ không thì con bé không thể cứ đứng nguyên như vậy được. Nhưng dù sao vẫn là một cái tát! Thủy Tiên vênh mặt lên, giơ cái má bên kia ra thách thức! Ông chú như đuối sức, ngồi thụp xuống ghế, hai tay tỳ trên má, đầu ông rung rung, tóc tai rối bù. Thủy Tiên vẫn đứng trơ trơ nhưng giọng nó hoàn toàn khác lạ: - Cám ơn Trung Tá! Coi như đó là cái tát của Chúa được không? – Nó bỏ chạy vào nhà trong. Bà giáo chưa bao giờ nghĩ tới cái cảnh xào xáo như thế này trong gia đình nên bà quýnh lên, luống ca luống cuống, quẩn quanh không biết làm gì. Bà quì trước tượng Chúa đang dang tay ra bất lực, tay làm dấu cầu ba ngôi: - Lạy Chúa tử nạn. Hãy cứu vớt linh hồn chúng con! Ông giáo đi đi lại lại trong phòng hồi lâu. Khi thấy cậu em dần bình tĩnh lại rồi, ông ngồi đối diện và nói từng lời rành mạch: - Các anh làm như vậy chỉ lợi cho phía bên kia thôi! Số phận cái gia đình trị này được định đoạt rồi! Chỉ không biết kết cục cụ thể của nó thế nào thôi! Trung tá nhìn ông giáo trong ánh mắt mệt mỏi, giọng yếu ớt run run: - Là người lính, tôi chỉ biết làm theo lệnh của cấp trên!
Một thời, người Mỹ tự hào coi việc phát hiện ra Ngô Đình Diệm là một kỳ tích hiếm hoi. Thực vậy, ở một quốc gia châu Á thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam, thực chất của tôn giáo là vấn đề dân tộc và vận mệnh quốc gia là đặc quyền đặc lợi của hàng quan lại, thì một con người hội tụ nét đặc trưng đối kháng của dân tộc và giai cấp cố hữu như vậy khác nào đồ qúy hiếm. Đó là một đối trọng thật tương xứng với phía bên kia. Từ giữa thế kỷ XVI, các giáo sỹ phương tây tìm tới Việt Nam và Hội truyền giáo hải ngoại Paris được Pháp hoàng Louis Philippe tích cực ủng hộ đã chiếm địa vị độc quyền trong việc bành trướng đạo ở một vùng đất mới. Nhà nước thực dân cùng với Giáo hội công giáo câu kết chặt chẽ với nhau trong việc xâm chiếm thuộc địa và mở mang nước Chúa ở một xứ sở nghèo nàn lạc hậu. Người giống lạ, tín đạo lạ cùng với việc xâm thực dễ dàng cả đất lẫn người của ngoại bang khiến giới cầm quyền vốn bất tài, cố chấp lại hẹp hòi, bảo thủ và trong lúc người dân bản xứ chìm trong cảnh bần cùng, ở vào buổi giao thời, giao lưu hạn chế, dễ coi như lũ qủy ngoại nhân đi truyền tà đạo! Đã có những việc làm cực đoan quá khích, không phân biệt người lành kẻ dữ, quân xâm lược với đồng bào mình, không nhìn vào thể chế xã hội lạc hậu và đời sống cực khổ về vật chất, đơn điệu về tinh thần của dân mình để sửa sang cải tổ. Chẳng những đã không ngăn nổi sự phát triển của một đạo mới lại còn mang họa cho đất nước! Tổ phụ họ Ngô Đình gốc ở Quảng Bình, sớm theo tân đạo. Ông Ngô Đình Khả được sự tín nhiệm của các giáo sỹ thừa sai cho sang học trường Dòng ở Mã Lai. Về nước, ông làm thông ngôn ở Tòa Khâm Huế. Khi vua Hàm Nghi cùng triều thần yêu nước rời bỏ kinh thành vào rừng kháng chiến, ông Khả lập công to giúp người Pháp bình định phong trào Cần vương. Mãi sau, người con trai giám mục còn khoe ra trong thư gửi cho Toàn quyền Decoux một năm trước khi nhân dân ta giành được độc lập: “Thân phụ tôi được phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp đến An Nam, và đã nhiều lần giao mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, chống lại các cuộc nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy”! Được cả giáo hội và giới thực dân tin cẩn đặt ông lên tới chức Thượng thư, Phụ đạo đại thần, cặp kè bên vua Thành Thái. Khi nhà vua tỏ thái độ bất bình với nhà bảo hộ, lập tức bị phế truất và tống đi đày biệt xứ. Không biết từ đâu, ở kinh thành Huế truyền khẩu câu vè: “Đày vua không Khả / Đào mả không Bài”,để thanh minh cho hai lão đại quan công giáo không liên can gì tới vụ phế vị cựu vương và đào mả vua Tự Đức tìm vàng. Nhưng mấy ai không biết việc ở căn cứ kháng chiến Vụ Quang, theo lệnh Nguyễn Thân, Ngô Đình Khả cho quật mộ cụ Phan Đình Phùng lên, đốt xác tán thành tro, trộn với thuốc súng làm đạn thần công bắn rải khắp khu căn cứ dọc sông La, giống như vua Gia Long từng làm với bậc anh hùng Quang Trung thuở trước! Hậu hồi thì mộ ông cũng bị Thiên Lôi đánh bật lên lúc các con ông cả đời lẫn đạo đang nghênh ngang một cõi. Ông Diệm là thứ ba trong số sáu người con trai của ông Khả. Học dở dang Trung học, ông vào trường Dòng, rồi bỏ theo trường Hậu Bổ (hành chánh) dưới triều vua Khải Định. Vốn chữ Hán, chữ Pháp vừa đủ để làm một viên chức thừa hành của Nam triều dưới sự giám sát chặt chẽ của chính quyền bảo hộ. Cũng như phụ thân, dù không xuất thân từ giới khoa bảng nhưng đường hoạn lộ thăng tiến rất nhanh. Chỉ trong 10 năm, từ một viên quan huyện trẻ 22 tuổi, ông bước lên ngồi chót vót trên ghế Thượng thư một bộ đầu triều lúc vừa 32 tuổi. Do mẫn cán trong việc đàn áp các tổ chức và phong trào yêu nước ở miền Trung, cũng bởi ông là người công giáo được sự tín nhiệm của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp, lại có sự ưu ái đặc biệt của vị quan trên Nguyễn Hữu Bài thế lực tột đỉnh lúc bấy giờ cũng là đồng đạo, đồng môn, đồng liêu và thông gia với cha ông. Nào ngờ cha con đồng cảnh công danh giữa đường đứt gánh! Đúng lúc ấy một nhân vật mới là Phạm Quỳnh xuất hiện. Tuy học lực chỉ như ông mà phẩm hàm chức tước lại thua xa nhưng ông ta tự học để có được vốn học vấn uyên thâm, nổi danh trên trường báo chí văn chương nên được nhiều người nhất là giới trí thức tân học biết tới như một con người tân tiến của tương lai phong hóa Việt Nam, lại hợp với ý đồ cải cách xã hội mà nhà cầm quyền Pháp đang tìm cách mỵ dân. Cảm thấy bị lép vế và thất sủng, ông Diệm từ quan sau bốn tháng nhậm chức Lại bộ Thượng thư. Tuy nhiên vẫn nuôi mộng công hầu, ông quan trẻ thất thế quay ra trông chờ hy vọng phò vị tân vương đang lưu vong nơi góc bể chân trời đông bắc. Triều Nguyễn đặc biệt không đặt ngôi Hoàng hậu, ngoại trừ vua Bảo Đại sau này bất cần di mệnh của tiên vương. Vua Gia Long có tới mười ba người con trai với những bà phi. Tuy nhiên chỉ mười một người có con cháu nối dòng. Khi chết, tổ vương di chiếu truyền ngôi cho Nguyễn Phúc Đảm là con một thứ phi, với niên hiệu Minh Mệnh. Để định rõ ngôi thứ trong hoàng tộc, tân vương đặt ra mười một bài thơngũ ngôn tứ tuyệt với hy vọng giữ lâu dài đế nghiệp ít ra tới hai mươi đời trong đó bài Đế hệ thi dành riêng cho con cháu vua. Mười bài Phiên hệ thi dành cho con cháu mười người anh em khác. Dòng người anh cả là Hoàng tử Cảnh với câu mở Mỹ–Dụê–Anh–Cường–Tráng. Vậy ông Cường Để thuộc thế hệ thứ tư (ngang hàng với Bửu Đảo tức là vua Khải Định=Miên–Hường–Ưng–Bửu–Vĩnh), được phong tước Hầu, người đời quen gọi Kỳ ngoại Hầu Cường Để. Sau khi phong trào Cần Vương bị đàn áp, nhiều vị sỹ phu khoa giáp từ bỏ quan trường tìm đường phục quốc. Giải nguyên Phan Bội Châu nhìn tấm gương quốc gia lân bang đồng văn đồng chủng có minh vương xuất thế biết canh tân đưa Nhật Bản mau tiến kịp các cường quốc tây phương. Nhìn cảnh non nước điêu linh, u vương mê muội, quan lại triều thần đa phần là phường giá áo túi cơm, Sào Nam chí sỹ lớn tiếng hô hào các sỹ tử Đông Du cầu học, thuyết phục Hầu Cường Để xuất dương và tôn làm minh chủ của Hội Việt Nam quang phục. Tiếc rằng kỳ vọng hưng quốc của nhà đại ái quốc không thành. Hoàng thân Cường Để chỉ ôm mộng đế vương chứ không lo việc nước suy dân yếu nên vừa bước sang xứ Phù Tang, gặp đôi điều trắc trở là ông ngã lòng, chóng quên đi cả “quốc” lẫn “gia”, bổn phận trước tiên vương xã tắc, trọng trách với muôn dân đang trông đợi ở mình! Phan chí sỹ – “Bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sung” (lời ca ngôïi cuûa Nguyễn Ái Quốc), bị tay xích chân xiềng giải từ bên nước người về quản thúc ngay trước hoàng thành của triều đình Nam Việt! Tuy nghiệp lớn dở dang nhưng Người đã để lại danh thơm muôn thuở với một nhân cách lớn. Người đã bộc bạch trong lời tự vãn: Lòng tôi những lo cứu giang sơn, bảo tồn nòi giống nhưng hữu chí bất tài nên đại sự bất thành để cho bao nhiêu người vì theo tôi mà mang họa. Xin quốc dân tha thứ cho đại tội của tôi! Lúc sinh thời, Người không than vãn về cảnh túng khổ của riêng mình mà luôn day dứt căn dặn con cháu nếu có dịp hãy tìm mọi cách giúp đỡ gia đình ông Cường Để. Thầy nào tớ vậy. Ông Ngô Đình Diệm đăm đăm con mắt trông chờ vị hoàng thân kia lưu lạc xứ người mau trở về phục quốc và khi quân đội Nhật hoàng đặt chân vào Đông Dương thì ông có những hoạt động chống Pháp dưới sự chở che của ông chủ mới! Ngày Nhật đầu hàng Đồng minh, vào mùa thu tháng Tám năm 1945, cả nước dưới ngọn cờ đỏ sao vàng của Mặt trận Việt minh đứng lên giành độc lập. Người anh cả nguyên là Tổng đốc Quảng Nam và người con đích tôn dòng tộc, làm hiến binh cho Nhật cùng với một số phần tử từng gắn bó chặt chẽ với chính quyền đô hộ Pháp-Nhật trước đây hoặc bất đồng chính kiến, chủ trương đối kháng, trong đó có học giả nổi danh Phạm Quỳnh, bị những người nổi dậy trừ khử ngay từ những ngày đầu. Sau nhiều ngày trốn tránh, ông Ngô Đình Diệm bị bắt ở Tuy Hòa, giải ra Huế rồi đưa ra Bắc giam ở Tuyên Quang. Để tranh thủ số quan lại Nam triều và viên chức cai trị cao cấp cũ, Chính phủ Hồ Chí Minh phóng thích một số người trong đó có ông với mục tiêu đoàn kết quốc dân kháng chiến chống ngoại xâm. Lúc đó tình hình cả nước rối ren bất ổn. Thành phố Sài Gòn về tay nhân dân chưa đầy một tháng thì liên quân Anh–Ấn tiếp tay cho binh lính Pháp thoát ra khỏi những nhà tù của Nhật chiếm lại và ở đấy sớm là nơi tụ hội an toàn cho những tay trùm sò của các chính quyền phong kiến, bảo hộ trước kia quyết liệt chống lại sự thống nhất đất nước và nền độc lập dân tộc của người Việt Nam trong thế bấp bênh của buổi giao thời – trong đó có anh em ông Diệm. Tuy nhiên họ Ngô tưởng đã bị chìm trong quên lãng! Năm 1950 ông Diệm xuất dương sang Nhật thăm dò Hầu Cường Để, qua La Mã ra mắt Tòa Thánh, tới Hoa Kỳ quan hệ với các nhân vật CIA cao cấp, trở lại Pháp xem khả năng quay về với chủ cũ là ông Vĩnh Thụy – đang được mang một danh xưng mới là Quốc trưởng của cái quốc gia Việt Nam thảm hại! Ông lưu lại khá lâu ở Mỹ dưới sự đỡ đầu của Hồng y Spellman. Cuối năm 1953, người Pháp đuối sức không gánh nổi cuộc chiến ở Việt Nam nữa phải xin người Mỹ cứu viện. Trận thất thủ ở thung lũng Điện Biên Phủ nơi biên giới Việt–Lào phía Bắc buộc mẫu quốc Pháp không thể tiếc rẻ xứ Đông Pháp nữa đành lòng để nó tuột sang tay người Mỹ, và hành động thỏa hiệp đầu tiên là nhà đương cục Pháp ép Bảo Đại giao chức Thủ tướng cho Ngô Đình Diệm đã hoàn toàn nằm trong tay người Mỹ. Tân Thủ tướng qùy gối trước cựu Hoàng đế bề ngoài bóng bẩy mà bên trong nhàu nát, thề một dạ trung thành nhưng hồn đã hướng về ông chủ mới! Hiệp định Genève mang lại hòa bình và tương lai thống nhất cho xứ sở Việt Nam. Người Mỹ ngoảnh đi không ký, báo trước một tương lai bi thảm cho cả một dân tộc, cũng là niềm hy vọng dấy lên trong lòng những kẻ mưu cầu một lợi ích riêng. Nghiệp chướng là anh em ông Diệm không biết mình để hiểu người. Cái ông được dễ dàng và to lớn qúa ngoài sức tưởng tượng của mộng công-hầu-khanh-tướng nên ông nghĩ rằng đó là do công nghiệp của tổ phụ đến hồi đại cát cho một người tài năng đức độ như ông được hưởng. Ông thành người hoang tưởng và mơ mộng. Dòng họ ông toàn những con chiên trung thành với Thánh tử nạn, ông chỉ chịu quỳ dưới chân Chúa và dâng hồn cho Chúa. Ông sẽ thành một lãnh tụ quốc gia thật sự, còn khôn ngoan hơn cả Cụ Hồ Chí Minh. Ông muốn tuột khỏi vòng tay người Mỹ. Thậm chí họ xin đem quân vào giúp, ông cũng không cho. Ông quên rằng mấy đời dòng họ ông đã cúc cung tận tụy với người Pháp, để nói ra nỗi lòng yêu nước thương dân: “Với người dân Việt, hình ảnh hãi hùng của quân đội viễn chinh Pháp còn hằn sâu trong tâm trí họ. Nếu quí vị mang quân đội Mỹ vào tôi phải giải thích thế nào đây với đồng bào của tôi”! Ông trở nên ương ngạnh và ngày càng khó bảo. Ông chỉ tin dùng người thân cận trong gia đình, gia tộc và đám cần lao công giáo cuồng tín chỉ biết Chúa chứ không nghĩ gì đến tổ quốc, đồng bào! Ông chủ quan tin vào đám tướng tá gia nô, tưởng phong cấp này chức nọ cho hưởng đặc ân đặc sủng đổi lấy sự trung thành và mong họ sẽ bảo vệ ông tuyệt đối. Tuy cúi đầu bẩm dạ tỏ lòng tri ân cụ lớn nhưng họ thừa hiểu rằng cái lợi được no ấm và phè phỡn chẳng đáng gì so với cái lợi to lớn của gia đình Tổng Thống với bao nhiêu gia tư điền sản đó đây, hàng đống tiền vàng gửi nhà bank ngoại quốc, có ngân khoản riêng dâng hiến sang Tòa Thánh… đều là tiền của người Mỹ dốc hầu bao ra! Mà cái quyền của họ lại vô cùng nguy hiểm bấp bênh: Đem thân đi chinh chiến với phía bên kia tương lai mờ mịt! Đưa mạng mình làm bia che cho vị Tổng Thống cũng chỉ là con thò lò trong tay ông chủ Mỹ! Vậy khi ông chủ giàu có thực dụng kia trở chứng lắc đầu không móc hầu bao, thay đổi con bài thì lính đói khổ, quan tướng xác xơ lại ngơ ngáo đi tìm chỗ dựa?!… Ông phớt lờ để mặc cho anh em nhà ông thao túng cả đạo lẫn đời, ngạo mạn khinh khi, thi hành những chính sách cực đoan tàn độc coi thường dân chúng, coi thường công luận. Chẳng lẽ ông ngây thơ đến nỗi không hiểu điều đơn giản rằng người Mỹ chọn ông, bỏ tiền của ra giúp ông nhằm vì họ chứ không phải vì ông. Cái họ cần là ngăn chặn làn sóng giải phóng dân tộc đang dâng lên khắp thế giới mà ở Việt Nam là khâu đột phá trong khi phía bên kia bức màn sắt triệt để lợi dụng vào đó làm suy yếu sức mạnh và uy tín của thế giới tự do. Thực tế là tình hình chiến sự ở miền Nam có chiều nguy cấp. Vùng nông thôn giải phóng càng mở rộng chiếm gần hai phần ba lãnh thổ. Quốc sách ấp chiến lược có nguy cơ phá sản. Ảnh hưởng của Mặt trận giải phóng ở nông thôn và thành thị ngày càng to lớn trong khi chính quyền gia đình trị họ Ngô càng bị cô lập, không đủ khả năng tập hợp ngay cả những phần tử và tổ chức đã từng cộng tác và giúp đỡ ông, từng có quá trình chống phá đoàn kết quốc gia dân tộc, căm thù cộng sản. Người Mỹ làm sao chịu đứng đó mà trông! Những cuộc ẩu đả, cãi vã trong nghị trường, chính luận hoặc ngay cả những vụ nổi loạn võ biền trước nay mới chỉ là việc người Mỹ chơi trò độc-lập-dân-chủ để dọa thôi. Cũng là dịp họ thử thách để tìm ra con bài mới. Nhưng sự kiên nhẫn của người Mỹ đã tới ngưỡng. Nhà trắng không thể chờ đợi lâu hơn được nữa. Sẽ tới lúc lật lên được con bài tẩy! Đại sứ Nolting có mối quan hệ thân thiết với gia đình ông Diệm đã bị triệu hồi và chuyên gia lật đổ Cabot Lodge sang thay. Họ có sự chuẩn bị chu đáo cả rồi và bây giờ bấm nút bật đèn xanh lên! Thánh bổn mệnh Gioan Baotixita cũng không cứu nổi ông. Cuộc binh biến ngày 01 tháng 11 năm Quý Mão – 1963 lật đổ một triều đại gia đình trị ròng rã chín năm không mấy khó khăn, trong khi toàn bộ quyền uy điều hành quốc gia vẫn nằm trong tay Tổng thống! Các tướng tá dễ dàng tụ tập lại với nhau bàn chuyện phản thầy tuy trong lòng họ rất phân tâm lỡ chuyện xôi hỏng bỏng không. Một số thì tảng lờ đi chờ xem kết cục. Một ít máu đổ ra nhưng là của những người lính ngây ngô không biết gì thế cuộc. Duy cái chết bi thảm của mấy anh em nhà họ Ngô Đình vẫn lưu vài dòng trong một chương lịch sử như lời cảnh báo của người xưa: Tai họa do Trời làm ra còn có thể tránh. Tai họa do mình gây ra đành phải chịu! Một câu chuyện được lưu truyền mãi về một điều dị thường mà người dân Á Đông trong tiềm thức vẫn hồ nghi. Trước đó chừng dăm tháng, vào một buổi chiều, ai đó thả ra năm con khỉ cho trang phục khác nhau tượng trưng cho các nhân vật thống trị đầu triều nhà Ngô lúc ấy, đã gây náo loạn trong chợ Bến Thành. Trước một sự việc xúc phạm thể diện quốc gia, viên cảnh sát trưởng đô thành phải thỉnh thị lên Phủ đầu rồng để xin chỉ thị. Ngài cố vấn cho lệnh hạ thủ tức thì các con vật kia để kịp thời dẹp đi những lời đàm tiếu bất lợi cho chính thể. Các tay xạ thủ nhanh chóng trổ tài, hạ ngay được ba con rớt xuống giữa nhà lồng chợ trước sự mục sở thị của bàn dân thiên hạ đứng đó xôn xao. Tuy nhiên, con mặc áo chùng thâm và con mặc chiếc áo dài nữ hở cổ kịp nhanh chân vượt qua mái chợ biến mất vào khối nhà quanh đấy. Với những gì xảy ra sau đó, nhiều người tin vào sự linh nghiệm của một điềm quả báo nhãn tiền đúng vào năm mèo mà chuột là cốt tinh ông Diệm!
Suốt mấy năm sau đó, hình bóng ông Ngô Đình Diệm vẫn chập chờn trên chính trường Nam Việt. Tình hình chính-trị-xã-hội rối loạn trước hết vì Phật giáo và Công giáo đều muốn gây áp lực với chính quyền. Mâu thuẫn tôn giáo kéo dài sâu xa ức chế không dễ hòa giải, lúc thì âm ỉ lúc thì bùng phát thậm chí gây ra những vụ xung đột chết người. Giới tướng lĩnh ganh nhau tranh công, mau chóng bộc lộ sự bất đồng trong việc phân chia ghế vị và ngày càng tỏ ra không có bản lĩnh trong quản lý xã hội và thu phục nhân tâm. Các chính khách đảng phái bao lâu nay thành vô dụng tưởng có cơ hội ngàn vàng quay lại chính trường nhưng đã không còn ảnh hưởng gì trong dân chúng nữa và biến thành trò hề cho đám quân nhân thao túng nghênh ngang, tự coi Quân đội như một Đảng quyền thế mạnh nhất, thậm chí là cha cả quốc gia dân tộc(!). Quân đội muốn đảo chính lùa-xua-xúc-hốt đám chính khách xôi thịt nhát gan chuyên lý sự cùn lúc nào cũng được! Các tổ chức quần chúng bị chi phối bởi nhiều thế lực đưa ra mục tiêu đòi hỏi mỗi hội đoàn một khác. Đặc biệt là phong trào của học sinh – sinh viên tập hợp được nhiều giới trẻ gây nên áp lực khiến giới cầm quyền lúng túng. Chỉ 10 ngày sau khi bản Hiến chương Vũng Tàu thâu tóm quyền lực vào giới quân nhân đã bị chính cái gọi là Hội đồng quân đội cách mạng thu hồi! Đây cũng là cơ hội có một không hai để người Pháp quay lại một xứ sở đã mất nhưng còn giữ được một ít quyền lợi kinh tế và đặc biệt là dấu ấn văn hóa Pháp vẫn còn hấp dẫn trên thềm lục địa Châu Á xa xôi. Trong khi những tướng lĩnh có công đầu trong cuộc chính biến lật đổ chính quyền độc tài gia đình trị họ Ngô đều thoát thai từ trường học Pháp ra. Thái tử Norodom Shihanouk vẫn giữ thâm tình với Pháp nay tỏ ra cởi mở, quên đi những điều từng bị xúc phạm của đám quan viên triều Nguyễn trước đây. Đấy là những tiền đề cho một giải pháp trung lập hóa miền Nam. Nhà ông giáo Phú là nơi tụ hội của nhiều anh em trong gia đình và bạn bè vì ngoài ông là người có kiến thức trong nhiều lĩnh vực luật pháp, triết học, văn học và sử học còn có cha con ký giả Tường Minh có mối quan hệ xã hội rộng rãi. Trong lúc thời sự rối beng thế này, ai cũng muốn tìm hiểu để định hướng tương lai cho mình. Chu được thêm một bông mai bạc cấp Trung tá như là điều giải thoát cho anh về sự trung thành với đạo Phật của người vợ gốc Huế. Anh nêu ra câu hỏi: - Người ta đồn rằng ông Diệm bị giết vì có ý định bắt tay với Bắc Việt? Trung tá Phát Lộc trả lời không cần suy nghĩ: - Đó chỉ là cách chạy tội của bọn giu đà tráo trở! Cộng sản vô nhân, vô thần, vô đạo trong khi gia tộc cụ vẫn thâm thù và có dòng máu dâng mình cho Chúa mấy đời nay! - Trong chuyện này người ta đồn thổi nhiều lắm. Tôi nghe hình như ông Nhu đã nhìn ra: Ta sẽ chết trước vì cộng sản ở nông thôn hay vì Mỹ ở ngay các đô thị ? Một đồng nghiệp tiết lộ với tôi: Hồi đầu năm trước, trong chuyến công cán của ngài Đại sứ Ba Lan trong Ủy hội quốc tế ra Hà Nội. Nhân buổi tiếp kiến, Cụ Hồ Chí Minh có phát biểu đại ý: Nhờ ngài nói với ông Diệm rằng nếu ông ta thật lòng vì Tổ quốc độc lập thì chúng tôi sẵn sàng bàn bạc với ông ấy trên tinh thần anh em một nhà. Có thể vì bức xúc trong lúc bế tắc nên anh em ông Diệm nảy ra ý ấy vậy thôi vì hơn ai hết anh em ông biết rõ chỉ trong mấy năm đầu để thâu tóm quyền lực, với chiến dịch tố Cộng và bằng luật 10/59, họ đã bắt bớ giết hại hàng trăm ngàn người không ủng hộ chế độ của ông, trước hết là những người đã tham gia kháng chiến chống Pháp và không từ cả những người trước đây từng ủng hộ ông nhưng nay vì lý do nào đó trở thành đối kháng với ông. Trong quá khứ cũng như hiện tại, dù tình thế ra sao thì gia đình ông ta nắm tay người Mỹ vẫn dễ hơn là quay về với phía bên kia! – Ký giả Tường Minh dè dặt. Ông giáo Phú lập luận chặt chẽ: - Mọi chuyện được quyết định từ Washington chứ không phải ở Sài Gòn này. Khi biến cố Phật giáo vừa nổ ra, để tránh tai họa cho hàng giáo phẩm Việt Nam, Tòa thánh đã triệu gấp các giám mục qua Roma. Giám mục Ngô Đình Thục bị đối xử nhạt nhẽo ngay ở Vatican. Qua Mỹ, Hồng y Spellman không cho gặp, cả Thượng nghị sỹ Mansfield cũng khước từ diện kiến. Duy bà vợ ông Nhu họp báo ở Los Angeles dám nói toẹt ra rằng: Trừ khi được chính quyền Mỹ xúi giục và hậu thuẫn thì bất cứ cuộc đảo chính nào cũng không thể thành công! Chỉ có điều bà ta dại dột dám thách thức người Mỹ làm việc đó! Trong khi ông Diệm một mực tin rằng người Mỹ muốn chống cộng thắng lợi ở đây chỉ có cách duy nhất phải dựa vào ông! Ông đọc Kinh Thánh đêm ngày mà quên lời Chúa: Hãy thức tỉnh! Trên đường đời, chúng ta là những khách lữ hành. Mọi sự đều có thể xảy ra! Luật sư, dược sỹ Dương Trọng Đức thăm dò và hy vọng: - Tôi nghe nói có khả năng trung lập mà Tổng Thống Pháp De Gaulle sẵn sàng đứng ra làm trung gian cho hai bên hòa giải, hoà bình và thống nhất? Được vậy thì còn gì bằng nữa! Ông giáo Kiến phấn khởi lắm : - Ông Dương Văn Minh là người Nam thứ thiệt và là một vị tướng ôn hòa rất được lòng giới Phật giáo. Ông cũng tỏ ý muốn thương lượng, tuyển cử tự do, thành lập một chính phủ liên hiệp trung lập ở miền Nam này. Vấn đề là Bắc Việt có chịu hay không? Nhà báo Tường Minh thận trọng: - Tôi nghĩ là Cụ Hồ chấp nhận. Qua những diễn biến lịch sử, Cụ luôn tỏ ra là một nhà lãnh đạo mềm dẻo, biết cương biết nhu, biết mình biết người, biết thành biết bại. Cụ chịu ký hiệp nghị Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 nhân nhượng người Pháp để thoát khỏi cái thế thù trong giặc ngoài bủa vây bốn bề. Cụ chịu ký hiệp nghị Genève trong thế đối phương đang nản lòng tan rã nhưng các nước lớn ngấm ngầm thoả hiệp với nhau bởi Cụ không muốn đương đầu với Mỹ. Bây giờ Cụ cũng muốn tránh sự đương đầu ấy. Hai miền tuy thể chế chính trị khác nhau nhưng còn dễ nói chuyện với nhau hơn khi có ngoại bang ngoại chủng xía vào. Nhưng… Ông giáo Phú tiếp luôn: - Chắc hẳn là người Mỹ không bao giờ chịu. Mc Namara đã ra thông cáo tiếp thêm viện trợ để tăng cường quân lực Việt Nam cộng hòa về mọi mặt và phát triển lực lượng cán bộ xây dựng nông thôn, quyết tâm hoàn thành việc bình định miền Nam trong hai năm 1964 – 1965, hy vọng sẽ rút hết mười sáu ngàn sỹ quan binh lính Mỹ về nước. Trong khi dư luận xã hội không thuận một chiều. Dưới mắt người lớn tuổi, Pháp quốc là một lão thực dân già cỗi hết thời rồi! Với lớp trẻ, Mỹ quốc là một anh nhà giàu cỡ bự, bậc nhất về quân sự, giỏi giang về kỹ thuật, hào phóng về tiền của và phóng túng về tự do xã hội. Nhà thơ Kim Qúy phì cười: - Khối anh mong người Mỹ nhảy vào nhanh hơn, đông hơn và ở bao lâu cũng được! Đã no nê phè phỡn lại thả cửa biểu tình chửi bới lẫn nhau. Nhưng còn vướng bầy ngựa chứng tướng tá nhốt chung một tàu này háu đá qúa! Ông giáo Kiến thở dài: - Đảo chính rồi lại phản đảo chính cứ như cơm bữa! Hai mươi tháng, sáu chính phủ! Đủ kiểu đầu lĩnh quốc gia từ Chủ tịch hội đồng này nọ đến Thủ tướng, Quốc trưởng, Tổng thống… ngồi chưa nóng chỗ đã hê nhau đi như quả banh trên sân bóng! Chẳng hiểu thực hư thế nào mà Đại tá Phạm Ngọc Thảo được coi là con nuôi của ông Giám mục, sau mấy vụ đảo chính hụt bỗng dưng bị thủ tiêu luôn! Trong khi người ta gian nan khổ cực vào sinh ra tử mà lúc nào cũng có những người học thức xứng đáng không màng danh lợi phú quý vinh hoa, trung thành tận tụy vì sự nghiệp quốc gia dân tộc. Các ông Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, Bác sỹ Phùng Văn Cung, Giáo sư Lê Văn Huấn… các bà Dược sư Mã Thị Chu, Phạm Thị Yên và bao nhiêu trí thức người Sài Gòn này có xa lạ gì đâu! Thấy người mà ngẫm đến ta càng buồn! Trung tá Phát Lộc mím môi bật dậy: - Nếu còn ông cụ thì làm chi nên nông nỗi ấy! Chính những người quốc gia công giáo đã đuổi tên thầy dùi nguy hiểm Cabot Lodge cuốn xéo ngay về nước không đợi đến hết nhiệm kỳ. Tướng Maxell Taylor là người quả đoán. Ông sẽ thẳng tay! Mọi người nhìn nhau cùng đứng dậy tản dần ra. Chủ nhà quen với cách nói của người dạy sử : - Chỉ cần một phần mười chữ nếu được thành sự thật, người ta có thể bỏ cả kinh thành Paris vào trong một cái chai! Lịch sử là lịch sử. Nó là quan hệ nhân quả của các mối tương quan giữa ta và người trong những thời thế chính sự khác nhau! - Thưa bác! – Một thanh niên dáng học thức, phong thái đĩnh đạc đứng lên lễ phép cúi đầu chào khi ông giáo Phú bước ra. Ông giáo đưa tay ra, cười khiêm tốn nhưng đang gợi trí bởi khách có nét quen quen quá. Khách gỡ rối cho ông: - Cha cháu là giáo sư Vũ Văn Chương! Ngày truy điệu nhà văn Nhất Linh ở vườn hoa Tao Đàn, lần đầu tiên cháu được bác đọc cho nghe bài thơ tổng luận cuộc đời một văn nhân danh tiếng – và anh trang nghiêm, trân trọng xướng lên: Buổi chiều vàng đâu nhỉ Nắng thu? Đời mưa gió – Lạnh lùng – Bướm trắng Người quay tơ – Đôi bạn – Tối tăm Anh phải sống chớ sao Đoạn tuyệt! Ông giáo vồn vã chập mạnh tay trên hai vai người khách trẻ, buột ra câu tiếng Pháp rất cảm động: - Oh! C’est le fils de mon ami! (Ô! Thì ra là con trai ông bạn tôi) – Và ông thanh minh:… Nhà thơ bạn ông là Vũ Hoàng Chương đã dùng tên những tác phẩm của nhà văn ghép lại thành bài thơ điếu thật độc đáo! Ông hướng dẫn khách ngồi xuống ghế và ngồi sát một bên. Ông vẫy cô cháu đang giúp ông tiếp khách, kéo xuống ngồi một bên ông, giới thiệu cùng một lúc : - Chỗ người nhà thân thuộc cả thôi. Đây là anh Vũ Văn Khoa! Ông thân là bạn học với tôi thời niên thiếu, là giáo sư Văn-Sử nổi tiếng một thời của đất Hà thành. Và đây là Thủy Tiên, cháu gọi bà nhà tôi là cô ruột! Khách đứng lên, nghiêng mình, nét mặt hân hoan, đưa tay về phía cô: - Vinh dự cho tôi quá! Một sự tình cờ hân hạnh được biết qúy danh và hơn nữa hai nhà từng là chỗ thâm giao. Nhưng thực ra tôi đã được chiêm ngưỡng cô là người đẹp nhất trong dàn đồng ca của sinh viên Đại học Văn Khoa! Thủy Tiên cũng đứng dậy bẽn lẽn đưa tay ra : - Tôi không dám nhận lời khen qúa đáng ấy đâu! Nhưng làm sao anh biết? Cả hai lại ngồi xuống. Anh nói nhỏ nhẹ thân tình nhưng vẻ mặt đăm chiêu: - Ôi! Cái ngày 20 tháng 7 của người Việt Nam. Tôi không biết thật sự nên gọi đúng nó như thế nào. Ban ngày cả đám đông hàng ngàn người tụ tập trước chợ Bến Thành, đỏ mặt hò hét nhao nhao lên gọi là ngày quốc hận! Vậy rồi còn đông hơn thế ở khu đại học, người ta – nhiều nhất là thanh thiếu niên nam nữ, đã thức suốt đêm không ngủ nắm tay nhau hát hò coi như một ngày vui chiến thắng! Tôi tình cờ có mặt ở cả hai nơi. Và cùng thức suốt đêm không ngủ nghe các bạn hát, các bạn nói. Nhất là được chiêm ngưỡng một người con gái hiền thục thế mà lại hát hò hăng say qúa! Bài đồng ca nào cũng có bạn đứng giữa, ở hàng đầu, nhìn xuống như giục mọi người hãy cùng nhau hát lên, hát thật to lên! Tôi lúc đó cũng bị lôi cuốn, hát lầm rầm theo miệng người ta rồi cũng thuộc và hát to dần lên vì lời bài ca như tự trong lòng bật ra. Tuy nhiên thực sự tôi vừa hát mà đôi mắt cứ bám chặt vào cô. Chỉ lo lồng ngực của cô bật tung ra! Anh nhìn thẳng vào người bạn gái một cách kính nể và trìu mến lắm. Thủy Tiên ngượng qúa, cúi mặt quay đi: - Anh Văn Khoa nói comique (khôi hài) qúa! Chắc lúc đó trông Thủy Tiên buồn cười lắm nhỉ?! - Trái lại, rất dễ thương và hình ảnh ấy không sao quên được! Đây nhé, tôi xin phép hát lại một đoạn bài ca. Anh đứng bật dậy, giọng trầm ấm, hát đúng âm độ và trường độ tỏ ra là người biết nhạc : - Rừng núi dang tay nối lại biển xa / Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà / Mặt đất bao la anh em ta về / Gặp nhau mừng như bão táp quay cuồng trời rộng / Vòng tay ta nắm nối trọn một vòng Việt Nam ! Anh dừng lại, đằm thắm nhìn chủ nhân. Hai bác cháu lặng người cảm động. Ông giáo chuyển qua ghế đối diện để khách và cô cháu ngồi hai đầu cùng một chiếc ghế dài. Bác cười, nhớ lại bạn xưa, giọng thân tình: - Ba cháu ngày trẻ đa tài hoa mỹ lắm! Thế cháu đến đây có việc gì khác không? - Thưa bác đây là cháu xúc cảm thật sự vì cuộc gặp này kỳ ngộ qúa! Cháu học xong ở ÉNA (École Nationale de l’Administration=Trường quốc gia hành chính Pháp) và đang kết thúc một khóa luận ở Matchachusete University. Biết bác là bằng hữu cố cựu của ba cháu, lại là một trí thức theo chính phủ Hồ Chí Minh ngay từ buổi đầu rồi lại bỏ kháng chiến về thành. Vào đây bác không hợp tác giao du với ai, chỉ làm một giáo sư dạy Sử được nhiều người kính nể. Cháu tới xin bác chỉ giáo cho một điều mà cháu vừa nói lên đấy! Ông giáo ngạc nhiên chưa hiểu ý khách ra sao. Nét mặt phân vân mà giọng anh nghiêm túc: - Thấy các bạn trẻ học thức hăng hái say sưa qúa, cháu suy nghĩ mãi mà không giải đáp ra. Cộng sản kỳ thị giai cấp thì làm sao họ thật bụng nối vòng tay lớn với mình? Anh nhìn bác giáo chờ đợi. Ông giáo chậm rãi thận trọng: - Đó là một câu hỏi lớn. Tôi không đủ tư cách trả lời. Một số việc họ làm khó hiểu. Nhưng có những việc làm thuyết phục. Họ đang là biểu trưng cho ý chí bất khuất và tinh thần quật cường truyền thống của người Đại Việt. Đó là sự thật hiển nhiên mà những ai có lương tâm không thể không nhìn thấy. Khách lấy ra từ chiếc cặp nhỏ mấy tờ báo tiếng Anh, tiếng Pháp, xếp ra mấy bản tin có in hình khổ lớn ở trang đầu: Hình bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc Namara đứng trên boong một tuần dương hạm phất cờ lệnh cho máy bay Hải quân Mỹ xuất kích tấn công các căn cứ ở miền Bắc Việt Nam và tấm hình người thanh niên Nguyễn Văn Trỗi hai tay bị trói giật vào một chiếc cọc mà vẫn tỉnh táo bình tĩnh hướng tới các ký giả trước giờ hành quyết nói lời tin tưởng cuối cùng vào buổi sáng ngày 15 tháng 10 năm 1964. Vẻ mặt căng thẳng, giọng trang nghiêm, anh hỏi: - Nhìn hai tấm ảnh này, mỗi người có nhận định khác nhau. Đâu là nhân và đâu là quả? Ai mạnh? Ai yếu? Ai thắng? Ai thua? Mọi cuộc chiến tranh đều xuất phát từ những mâu thuẫn không điều hòa được. Vậy thực chất của những mâu thuẫn ấy là gì? Tư tưởng? Tôn giáo? Dân tộc hay Quyền lợi? Người Mỹ được gì trong cuộc chiến tranh này? Giọng ông giáo rành rọt như lúc giảng bài trên lớp: - Suy cho cùng là quyền lợi! Những lý do khác chỉ là nguyên cớ trong từng điều kiện cụ thể thôi. Chủ nghĩa cộng sản ra đời từ giữa thế kỷ XIX nhưng trước đó đã có những cuộc chiến tranh tôn giáo và sắc tộc vô cùng khủng khiếp! Người Pháp đặt chân đến Việt Nam khi ở đây chưa ai biết cộng sản là gì nhưng họ đã khủng bố tàn sát những cuộc nổi dậy của người bản xứ rất khốc liệt với lý do gì? Lịch sử không xa, cuộc khởi nghĩa Yên Bái ai cũng biết do những người yêu nước thuần tuý lập ra Việt Nam quốc dân Đảng chủ xướng, cũng bị Giáo hội thừa sai Ba lê (Missions Étrangeres de Paris) gắn cho nó tội làm theo lệnh của Moscow, để chính quyền Pháp bảo hộ mặc sức tàn sát đến nỗi biến tướng một Đảng dân túy thực sự thành những hình nhân thảm hại để cho người Việt mình triệt hạ lẫn nhau! Quyền lợi luôn là cục mồi kích thích sự ham muốn tột cùng của mỗi cá nhân. Và dân tộc là cái tôi nhìn ở diện vĩ mô! Cái cớ là bình phong cho những việc làm ám muội. Lúc đầu là truyền bá văn minh. Đến việc bảo vệ đạo. Rồi là bảo vệ nhân quyền, dân chủ, tự do! Bây giờ quyền lợi của người Mỹ ở đây là trên thế giới này sẽ không ai dám qua mặt họ để vững ngôi bá chủ hoàn cầu! Anh thanh niên tỏ ra băn khoăn: - Trong chiến cuộc, bên nào cũng lộ ra lắm kẻ hèn và không ít người tử đạo. Có điều là hiến dâng cho một mục đích viển vông không chắc thắng liệu có là vô nghĩa và vô ích hay không? - Xả kỷ vị tha bao giờ cũng là việc làm cao cả! Ông giáo đứng lên chỉ vào tượng Chúa tử nạn : - Từ những cây đinh kia, vết thương đang rỉ máu mà nét mặt Ngài không lộ chút đau đớn sợ hãi. Sự mãn nguyện lại ngời lên lòng bác ái đang tỏa ra những ánh hào quang. Tuy nhiên đạo Chúa có những lúc, những nơi bị xua đuổi, chối từ vì có những kẻ nhân danh sáng làm những việc tà tâm! Ông ngồi xuống nhìn vào đôi bạn trẻ, giọng nhỏ hơn như sự tâm tình: - Người trí thức thật sự không cuồng tín, không sùng bái một ai, không tuyệt đối một điều gì nhưng biết trọng liêm sỉ, chỉ hướng tới điều Chân – Thiện – Mỹ, biết dấn thân khi cần và ra đi đúng lúc! Hai người trẻ ngồi lặng suy nghĩ hồi lâu trước khi Văn Khoa đứng lên nói lời tạm biệt: - Bác cho phép cháu có nhiều dịp tới đây để xin những lời chỉ bảo? Anh quay sang bạn: - Nếu Thủy Tiên không cảm thấy bị quấy rầy liệu có vui lòng nhận thêm một người bạn mới được không? Anh mở bàn tay ra. Thủy Tiên nhẹ nhàng nắm tay anh. Hai bác cháu tiễn khách ra và dừng ở cửa nhìn dòng người qua lại: - Bác có nghĩ anh ta gặp cháu ở đây là sự tình cờ thật sự? - Bác nghĩ thế! Đấy cũng là một thân phận do thời thế tạo nên. Ba anh ta là một chính khách nửa vời xấu số. Anh ta đang bối rối trước muôn điều thế sự chưa rõ trắng đen. Nhưng cần thận trọng vì ba anh ta bị cách mạng thủ tiêu ngay từ hồi đầu kháng chiến! Hai bác cháu quay vào. Mấy tờ báo với những tấm hình nằm y nguyên giữa bàn. Bác cháu cùng ngồi xuống, không ai biết nhau đang nghĩ gì. Điều người Mỹ quan ngại là tình hình chiến sự đang có nguy cơ thảm bại. Từ Ấp Bắc đến Bình Giã, Ba Gia, Phước Long, Đồng Xoài trận sau thua đau hơn trận trước. Từng tiểu đoàn đến trung đoàn theo nhau tan tác. Quan lính đua nhau chạy dài. Từng mảng ấp chiến lược với các Chi khu–Quận lỵ bị san bằng. Không ít Tiểu khu–Tỉnh lỵ bị phong toả và cô lập. Không những phần nông thôn rộng lớn hoàn toàn nằm trong vòng kiểm soát của đối phương và họ đang mở rộng tầm vóc ảnh hưởng của bên kia ở ngay trong lòng các đô thị lớn. Những hoạt động ngoại giao của họ đã có tiếng vang ra ngoài và ngay ở Mỹ, người ta đã nhận ra âm hưởng của nó dù còn mơ hồ. Trong khi chính quyền Sài Gòn tỏ ra bất lực, lúng túng như gà mắc tóc thì sự chi viện toàn diện từ Bắc Việt vào miền Nam không còn là điều giấu diếm che mắt được ai. Con đường men dọc giải Trường Sơn không còn là con đường rừng bí ẩn nữa, nó đã thành con đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng với những hệ thống giao thông nhỏ to chằng chịt cả hai phía Đông và Tây. Quân chủ lực giải phóng phát triển tới đơn vị sư đoàn, đang mở rộng và làm chủ ở một số địa bàn chiến lược. Quân lực Sài gòn chỉ quanh quẩn những nơi đồn trại như bị chia cắt, không có được những cuộc hành quân phản ứng nào đáng kể. Cái thế mất còn đã rõ. Hoa Kỳ không bỏ cuộc ! Đám ngựa này đều ăn cỏ một tàu của Mỹ. Chỉ cần loại ra những con ngựa khác bầy. Tướng quậy râu dê và tướng đầu đàn Minh lớn đều khăn gói ra đi để đám tướng trẻ không còn ai có khả năng thủ xướng và người Mỹ dễ dàng phân hóa họ. Miền Nam này không thể tái diễn hội nghị Genève 1962 hợp nhất nước Lào ba phái. Dù vẫn đá nhau nhưng chúng đồng lòng ra lệnh đặt cộng sản và trung lập ra ngoài vòng pháp luật và loại bỏ ông bạn già Pháp ăn ở hai lòng ra ngoài tầm ảnh hưởng. Thành thị còn giữ được thì chế độ này chưa mất. Chưa tới lúc thổi còi phạt cho những cú đá ngang nhưng người Mỹ được dễ dàng can thiệp sâu hơn nữa vào nội tình Việt Nam theo ý họ. Ông giáo đi đi lại lại vẻ bồn chồn lo lắng. Ông lầm rầm nói vừa đủ nghe: - Sau 20 năm, một vòng lịch sử mới bắt đầu! Chữ “ngờ” đã cho bài học lớn! Tuy nhiên cái thế mạnh yếu xem ra chưa thể cân bằng. Cái thắng của lẽ phải vẫn mong manh. Trong khi dân tình khác xưa nhiều lắm. Ở ngoài kia không hiểu mối quan hệ lân bang quốc tế thế nào nhưng xem ra cơm không lành, canh chẳng ngọt. Trí thức thời nào cũng là bộ mặt của xã hội nhưng tiếng nói của họ nghe lẻ loi, đơn điệu, một chiều. Trong khi ở miền Nam này, Hoa Kỳ độc quyền thao túng và sức mạnh của họ mọi đối thủ không thể xem thường. Lòng yêu nước giữ cho dân tộc này trường tồn nhưng bây giờ đang bị phân hóa bởi những luồng tư tưởng đối nghịch nhau khó dung hòa được. Ngày xưa Hưng Đạo đại vương thắng được giặc Nguyên-Mông là bởi: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh”… Ông ngồi bịch xuống ghế, hai tay vò đầu muốn xoa đi điều bế tắc!
(trang 196)
Link https://sachhiem.net/NGVTHINH/NguyenvThinh_TBTc.php _________________ • Các bài của Nguyễn Văn Thịnh: link https://sachhiem.net/NGVTHINH/ListNVTh.inc.php Trang Văn Học |