TUYÊN NGÔN CỦA
MỘT NGƯỜI VIẾT SỬ VỀ GIÁO HỘI LA MÃ
Nguyễn Mạnh Quang
http://sachhiem.net/NMQ/TUYENGON/TuyenNgon01.php
15 tháng 6, 2010
1 2 3
Một Vài Điều Cần Làm Sáng Tỏ
Trong Việc Biên Soạn Sách Sử Về Giáo Hội La Mã
(Tiểu mục này được viết chung cho các tác phẩm như bộ sách Lịch Sử và Hồ
Sơ Tội Ác của Giáo Hôi La Mã, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư, Bài Thơ Cho
Con, Thực Chất của Giáo Hội La Mã, Chân Dung Người Việt Quốc Gia, Họ và Chúng
Ta, Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam, Người Việt Nam và Đạo Giê-su (viết chung với
Giáo-sư Trần Chung Ngọc), Khi Nhà Văn Lạm Bàn Lịch Sử, Mối Ác Cảm Của Nhân Dân
Thế Giới Đối Với Giáo Hội La Mã, v.v...)
Viết sử là phải viết sự thật về những sự kiện lịch sử tức phải là diễn tả lại
những việc đã xẩy ra càng đúng với những sự thật càng tốt. Thế nhưng, “thuốc
đắng đỡ tật, sự thật mất lòng.” Nói lên những sự thật, nhất là những sự thật
về những việc làm không tốt hay tội ác của các cá nhân hay thế lực tác nhân của
lịch sử là làm mất lòng họ và sẽ bị trả thù. Tương tự như vậy, viết về Giáo Hội
La Mã tức là phải viết về sự thật của những đặc tính hoang đường, loạn luân,
loạn dâm, phi nhân, phản nhân luân và man rợ trong hệ thống tín lý Ca-tô cũng
như trong Giáo Hội La Mã và về những khu rừng tội ác của Giáo Hội La Mã chống
lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua. Viết như thế là làm mất lòng toàn bộ
Giáo Hội Lã Mã và sẽ gặp phải những phản ứng thiếu văn hóa và hết sức mãnh liệt
cả bằng ngôn từ lẫn bạo lực đúng theo truyền thống của hệ phái tôn giáo này.
Biết rõ như vậy, chúng tôi vẫn phải cương quyết làm tròn nghĩa vụ người viết sử
đúng như quan thái sử Quí trong thời Đông Chu Liệt Quốc đã từng nói với tên
quyền thần Thôi Chữ rằng: ”Chép sử mà chép sai là điều nhục, thà chết còn
hơn.”
◙ ◌ ◙ ◌ ◙
I.- Một Vài Đặc Tính Của Tín Đồ Ca Tô
Có một điều hết sức quan trọng chúng ta cần nên biết là
Giáo Hội La Mã mang danh nghĩa là một tôn giáo nhưng bản chất là một thế lực
chính trị và theo đuổi chính sách đế quốc thực dân xâm lược bằng những thủ đoạn:
1.- Tự nhận là “Catholicism” (Tôn Giáo Của Toàn Cầu), rồi
nhập nhằng tuyên xưng là “Công Giáo” và huênh hoang hợm hĩnh tự phong là “Hội
Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền”.
2.- Theo đuổi chủ trương thần quyền chỉ đạo thế quyền và
triệt để thi hành chính sách bất khoan dung (bằng bạo lực) đối với các tôn giáo
và nền văn hóa khác.
3.- Cấu kết với các cường quyền và đế quốc thực dân xâm
lược để củng cố quyền lực và bành trướng ảnh hưởng.
4.- Sử dụng tín đồ địa phương để đánh phá và cướp chính
quyền bản địa rồi thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô (papacy), một chế độ độc tài
siêu toàn trị, siêu phong kiến, cực kỳ gian tham, vô cùng tàn ngược và hết sức
dã man.
5.- Thi hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ:
- Không cho học sử thế giới, để cho tín đồ không biết gì về những bước tiến của lòai
người từ thuở hồng hoang cho đến thời đại văn minh như ngày nay.
- Không cho học quốc sử, để tín đồ không có ý niệm về tổ quốc,
- Giành độc quyền giáo dục để nhồi sọ thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo, nghĩa là tất cả các ý niệm về
công bằng và nhân đạo đều bị méo mó theo chiều có lợi cho Giáo Hội Công Giáo. Bất kỳ cái gì của hay thuộc về Giáo Hội đều cao cả, đều
tốt đẹp, đều tuyệt vời, bất kỳ cái gì của hay thuộc về các tôn giáo hay nền văn
hóa khác đều tầm thường, hoặc xấu xa, đáng phỉ nhổ hay tiêu diệc. Kết quả là “biến tín đồ thành “những
tên sát nhân cuồng nhiệt”.
[i] Họ không còn biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật và để phân biệt được sư
khác nhau giữa sự kiện (facts) và ý kiến (opinions), giữa phải và trái, giữa
thuận lý và nghich lý, giữa nguyên nhân và hậu quả, v.v..,
Chính vì thế văn hào Voltaire đã phải gọi hệ phái tôn giáo
này là “cái tôn giáo ác ôn”, học giả Henri Guillemin gọi nó là “cái giáo hội
khốn nạn”, học giả Charlie Nguyễn gọi nó là “đạo máu”, “đạo bịp”. Đồng thời,
người Pháp gọi giới tu sĩ của nó là “lũ quạ đen” (les corbeaux noirs), và nhà
báo Long Ân gọi những tên sát nhân cuồng nhiệt này là “con người súc sinh”:
“Con người đã nhân danh tôn giáo để làm những chuyện điên cuồng nhất, đã
nhân danh tôn giáo để biện minh cho quyền lực phi nhân áp đặt lên đầu kẻ khác.
Con người đã phản lại tôn giáo, đã chặt đứt cây cầu đưa đến cuộc tìm kiếm chính
mình, đã cúi đầu đi trên bốn chân để từ con người trở về với nguồn gốc của con
người súc sinh.”[ii]
Từ những dự kiện này suy ra, chúng ta có thể mường tượng được toàn bộ các
thành phần của Giáo Hội La Mã từ giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục, giám mục,
linh mục, sư huynh và giáo dân đều là những hạng người đã bị điều kiện hóa, mất
hết nhân tính và trở thành vô cùng nguy hiểm cho xã hội loài người. Đây là sự
thật đã xẩy ra trong suốt chiều dài lịch sử từ thế kỷ 4 cho đến nngày nay. Sự
thật này đã được sách sử ghi lại rõ ràng và nói rõ rằng cái tôn giáo ác ôn này
đã liên tục cấu kết với các cường quyền địa phương và các đế quốc thực dân xâm
lược Âu Mỹ để củng cố quyền lực và bành trướng ảnh hưởng, rồi dùng quyền lực để
“diệt tận gốc, trốc tận rễ” tất cả các di sản văn hóa và các công trình kiến
trúc của các tôn giáo và nền văn hóa khác.
Vì có chủ trương và hành động dã man như vậy, cho nên trong gần hai ngàn năm
qua, cái giáo hội khốn nạn này đã gây ra không biết bao nhiêu là tội ác trùng
trùng như hàng chục rặng núi Hy Mã Lạp Sơn, nước Thái Bình Dương cũng không rửa
sạch. Sách Deceptions của tác giả Theo sử gia Lloyd M. Graham, có tới hơn 250
triệu nạn nhân bị cái tôn giáo này trực tiếp hay gián tiếp sát hại.[iii]
Con số nạn nhân bị nó giết hại lớn lao như vậy cũng đủ nói
lên tính cách và mức độ dã man của nó thật là khủng khiếp! Khủng khiếp hơn nữa
Nếu được chứng kiến hay đọc những bản văn sử nói về (1) những di sản văn hóa và
văn minh của các tôn giáo khác bị nó hủy diệt, (2) cung cách của “bọn quạ đen”
và “những tên sát nhân cuồng nhiệt” hành hạ nạn nhân của chúng, thì chúng ta sẽ
thấy cái tính cách và cường độ dã man của cái “đạo máu” này còn khủng khiếp gấp
triệu lần. Vấn đề này đâ được trình bày khá đầy đủ với nhiều chi tiết ở trong
Chương 8, Mục Mục III, Phần II trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo
Hội La Mã và ở trong Chương 13, sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Cả hai
chương sách này đều có thể đọc online trên sachhiem.net.
Với chủ trương và những hành động dã man khủng khiếp như
vậy, tất nhiên là nhân dân của quốc gia bất hạnh chẳng may rơi vào thảm trạng
nằm dưới ách thống trị của của chính nó hay của các cường quyền và đế quốc liên
kết với nó ắt là phải điêu đứng khốn nạn trằm bề.
Riêng về Việt Nam, dân ta thực sự đã trở thành nạn nhân
khốn khổ của nó kể từ ngày tên quạ đen Pigneau đe béhaine (Bá Đa Lộc) liên kết
với băng đảng của tên “cóng rắn cắn gàn nhà” Nguyễn Phúc Ánh vào giữa thập niên
1780 kéo dài cho đến ngày 30/4/1975, cái ngày đế quốc Mỹ cuốn gói ra đi và quyền
lực của Mỹ không còn ở miền Nam Việt Nam nữa. Mất đi cái dù che chở của thế lực
ngoại cường, băng đảng quạ đen và “những tên thập ác sát nhân cuồng nhiệt”
người Việt cũng mất hết quyền lực, không còn ngàng tang hống hách, hét ra lửa
mửa ra khói giống như cái thời Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican đem quân tấn
công và chiếm đóng nước ta từ năm 1858 đến năm 1945 và trong những năm 1954-1975
ở miền Nam Việt Nam.
Những tưởng rằng, kể từ đó dân ta đã thóat khỏi bàn tay của
cái “giáo hội khốn nạn” này và được yên bề hàn gắn vết thương chiến tranh, dựng
lại xóm làng, củng cố hòa bình đem lai an cư lạc nghiệp cho mọi người. Nhất là
từ khi Hoa Kỳ thiết lập bang giao với Việt Nam vào năm 1994, chính quyền Việt
Nam bắt đầu đồi mới, thi hành chính sách hòa hợp và hòa giải dân tộc với hy vọng
tất cả mọi thành phần người Việt ở trong nước cũng như ở hải ngoại cùng bắt tay
nhau đoàn kết mở mang kinh tế, nâng cao dân trí, đem lại công bằng, hạnh phúc
cho toàn dân và đất nước được phồn vinh sánh vai cũng các nước tiên tiến trong
công đồng quốc tế hiện nay.
Thế nhưng, “giang sơn dị cải, bản chất nan di.” Con
người súc sinh vẫn là con người súc sinh, nhất là chúng đã bị chính sách ngu dân
và giáo dục nhồi sọ của Vatican làm cho bị điều kiện hóa, biến thành hạng người
mất hết nhân tính, không còn biết đến dân tộc và tổ quốc là gì nữa. Đặc biệt là
chúng lại “biến thành những tên sát nhân cuồng nhiệt” để làm những con thiêu
thân trong ác đạo quân thứ 5 nằm tiềm phục trong các xóm đạo để chờ lệnh thì nổi
lên gây bạo loạn theo sách lược “quậy cho nước đục để Vatican thả câu”
bằng cách “lấy cớ là chính quyền ta đàn áp tôn giáo để la lối và vận động các
thế lực ngọai cường bắt chẹt và cữong bác chính quyền ta phải nhượng bộ hoặc đem
quân chiếm nước ta và phục hồi quyền lực cho Vatican. Sách lược này đã đưỡc
Vatican triệt để thi hành ở Pháp trong những năm sau khi Cách Mạng Pháp 1789
bùng nổ và ở Việt Nam trong thế kỷ 19.
Cũng vì đã bị điều kiện hóa mất hết nhân tính, giới tu sĩ
áo đên và chon chiên người Việt cuồng tín người Việt vẫn còn mang cái bản chất
súc sinh “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, cho nên chúng mới không
còn biết gì đến danh dự và quyền lợi tối thượng của dân tộc và đất nước. Vì thế
mới có tình trạng tên quạ đen Ngô Quang Kiệt dám ngang nhiên tuyên bố rằng, “Chúng
tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt
Nam”.
Vì ngu dốt không được học lịch sử thế giới và cũng không
được lịch sử Việt Nam, giứoi tu sĩ áo đen và nhóm con chiên người Việt mới lầm
tưởng rằng thời cơ đã chín mùi cho chúng tái diễn trò hề thi hành sách lược “quậy
cho nước đục để thả câu” như chúng đã làm trong thế kỷ 19 để đánh phá triều
đình nhà Nguyễn và rước đần voi Pháp và Vatican về giày xéo mà tổ Việt Nam chúng
ta. Cũng vì thế mà và tháng 11 năm 1994, quạ đen Nguyễn Văn Lý mới dở trò đưa
ra cái gọi là bản “Tuyên Ngôn 10 điểm về vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam.”để
lấy đó làm cái cớ cho chúng kích động và xúi giục giáo dân mang thập tự giá và
tượng bà già xề Maria đi dựng bừa bãi (bất chấp cả luật pháp quốc gia) ở những
nơi công cộng của nhân dân và những nơi nào chúng định chiếm đoạt cho Vatican
rồi “họp nhau cầu nguyện” với dã tâm gây bạo loạn, đánh phá chính quyền và nhân
dân ta. Đồng thời, vào ngày 8 tháng 4 năm 2006, ông linh mục này cùng với
Linh-mục Phan Văn Lợi và một số “cừu non” (con chiên) còn công bố đã thành lập
cái gọi là “Khối 8406” để làm cơ sở trung ương vừa nhận lệnh của Vatican và Hội
Đồng Giám Mục có trụ sở tại Xuân Lộc, vừa ban hành lệnh và chuyển lệnh đến họ
đạo địa phương nào được chọn là nơi nổi lên quấy phá và kêu gọi các tu sĩ cùng
giáo dân ở các nơi khác “hiệp thông” hỗ trợ. Kể từ đó, cái trò hề lưu manh này
đã được chúng liên tục tái diễn tại các địa điểm:
1.- Vụ mưu đồ chiếm đọat sở đất và tòa nhà công quyền tại
số 142 Phố Nhà Chung và Hà Nội trong những ngày 18/12/2007 đến ngày 30/1/2008,
2.- Vụ mưu đồ chiếm đọat sở đất của Công Ty May Chiến Thắng
tại số 178 đường Nguyễn Lương Bằng, Đống Đa, Hà Nôi trong những ngày từ
18/8/2008 cho đến ngày 22/9/2008.
3.- Vụ dựng tượng bà Maria bừa bãi ở bãi biển ở
làng An Bằng, Huế, trong năm 2008,
4.- Vụ dựng tượng bà Maria mà họ gọi là “Mẹ Sầu Bi”
bất hợp pháp vào ngày 15/8/2008 ở ngòai nhà thờ của xóm đạo Đồng Đinh (Ninh
Bình) rồi gây bạo loạn chống lại lệnh chính quyền kéo dài trong nhiều ngày.
5.- Vụ nổi lọan mưu đồ cướp đoạt tài sản quốc gia và chống
chính quyền tại Nhà Thờ Tam Tòa (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình) khởi đầu từ ngày
207/2009 kéo trong nhiều ngày,
6.- Vụ bạo loạn ở xóm đạo Loan Lý (xã Lăng Cô, huyện Phú
Lộc, tỉnh Thừa Thiên-Huế) do Linh-mục Ngô Thanh Sơn chỉ huy khởi đầu vào khuya
ngày 13/9,/2009 kéo dài trong nhiều ngày.
7.- Vụ Núi Chẽ ở gần Nhà Thờ Đồng Chiêm (xã An Phú, huyện
Mỹ Đức, Hà Nội): Họ dựng thập giá bất hợp pháp trong mưu đồ cướp ngọn núi này
cho Nhà Thờ Vatican, khinh thường luật pháp, khởi loạn chống chính quyền kể từ
ngày 06/01/2010.
8.- Vụ Cồn Dầu (Đà Nẵng, chuần bị từ cuối tháng 1/2010 và
đến ngày 4 tháng 5/2010 thì chúng khai hỏa gây loạn theo đúng như cung cách và
sách lược mà chúng đã tiến hành như 7 vụ khác như đã nói ở trên.
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rằng Giáo Hội La
Mã cũng như toàn thể giới tu sĩ và tín đồ của Giáo Hội La Mã chỉ là một băng
đảng phi nhân, phi luân, phi cầm, phi thú, cực kỳ vô liêm sỉ, chỉ biết trông cậy
vào những thủ đoạn phỉnh gạt, lừa dối, bịp bợm và bạo lực để đạt được mục đích
bất chính, đại gian và đại ác của chúng. Thực sự, băng đảng này không cần biết
đến quyền sống và quyền làm người của những người thuộc các tôn giáo hay nền văn
hóa nào khác. Rõ ràng là chúng đã trở thành những quân vong bản, phản dân tộc,
phản tổ quốc và hoàn toàn không còn biết gì đến quy tắc đạo lý “tổ quốc trên
hết” của người dân Đông Phương với truyền thống “quốc gia hưng vong, thất phu
hữu trách”!
Vấn đề đặt ra là trước khi đạo Thiên Chúa La Mã chưa được
du nhập vào Việt Nam, người dân Việt vốn là những người hiền lành, sống theo nếp
sống văn hóa tam giáo cổ truyền với những quy tắc đạo lý “nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, dũng”, lúc nào cũng phải mở rộng lòng nhân đối với mọi người trong
thiên hạ (tứ hải giai huynh đệ), phải hiếu hòa (dĩ hòa vi quý), khiêm cung, từ
tốn và cầu tiến (bất sỉ hạ vấn, tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư), không tham
lam, không gây hấn, không lấn lướt, không vơ vào, mà luôn luôn cố gắng hành xử
sao cho vừa mắt ta ra mắt người (kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân). Thế rồi, từ
khi xuất hiện ở Việt Nam vào năm 1553 cho đến ngày nay, cái tôn giáo ác ôn này
đã làm cho những người Việt Nam đi theo nó mất hết nhân tính và mất hết liêm
sỉ. Bằng chứng cho sự kiện này là chính những ngôn từ và hành động của chúng chống
lại tổ quốc và dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch từ cuối thế kỷ 18 cho đến
ngày nay:
A.- Về ngôn ngữ, xin đọc 10 câu tuyên bố của những người theo Thiên
Chúa Giáo đi vào lịch sử sau đây, có đăng trong http://sachhiem.net/LICHSU/TR/TQD15.php.
1- Cố đạo Alexandre de Rhodes: “Vậy thì ta làm
cho Thích Ca, là thằng hay dối người ta, ngã xuống, thì mọi truyện dối
trong đạo bụt bởi Thích Ca mà ra, có ngã với thì đã tỏ.”(Sách “Phép
giảng Tám ngày”, Ngày thứ Bốn: Những đạo Vạy – Roma, 1651)
2- Giáo hoàng John Paul II: “Phật giáo đại thể là
một hệ thống vô thần” (Buddhism is in large measure an “atheistic”
system).- Crossing the Threshold of Hope, 1994
3- Giáo hoàng Benedict XVI (khi còn là Hồng y Ratzinger):
“Phật giáo là một loại tâm linh tự dâm” (Buddhism was an autoerotic
spirituality), Feb. 1999 – “Phật giáo sẽ thay thế chủ nghĩa Mácxít như
là kẻ thù lớn nhất của Giáo hội kể từ năm 2000” (Buddhism would replace
Marxism as the church's biggest foe by 2000), March 1997.
4- Phúc trình của Đô đốc thực dân Pháp Page: “Không
có giáo dân Việt Nam thì nước Pháp như con cua không có càng”, 1859 (Sau
khi đức cha Trần Lục dẫn 5000 giáo dân Việt Nam giúp quân thực dân Pháp đánh
chiếm chiến lũy Ba Đình của anh hùng Đinh Công Tráng), Đạo Thiên Chúa
và Chủ nghĩa Thực dân tại Việt Nam, Cao Huy Thuần..
5- “Đức cha Nguyễn Bá Tòng đọc bài diễn văn tỏ lòng cám
ơn chính phủ (Pháp), tỏ lòng trung thành con dân Việt-Nam đối với Mẫu Quốc.”
Trong Autour des Fêtes du 3 Décembre 1940 à Phát Diệm (trang
33đến 41) - Trích lại từ “Hội hè Đình đám”, Toan Ánh, 1969, Sài Gòn
6- Đức cha Phêrô Máctino Ngô Đình Thục: “Chúng con hết
lòng thành kính hiến dâng Giáo Hội và tổ quốc Việt Nam cho Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” - Diển văn tại Tiểu Vương cung Thánh đường La Vang,
Quảng Trị, 1960. Hơn 90% người Việt không theo đạo Chúa có cho phép
ông Ngô Đình Thục, dù là anh của tổng thống Diệm, dâng Tổ quốc của mình
cho một người đàn bà Do Thái xa lạ không ? Việt Nam trở thành toàn tòng
Công giáo lúc nào mà ông muốn dâng tổ quốc cho ai thì dâng ?
7- Bà Trần Lệ Xuân, đạo theo, vợ của Cố vấn Ngô Đình Nhu,
nói về vụ tự thiêu của Hoà thương Thích Quảng Đức: “Hãy để chúng cháy tiêu
và chúng ta sẽ vỗ tay” (Let them burn and we’ll clap our hands – Our
Vietnam the War 1954-1975, Langguth A.J., 2000, trang 216), và đó chỉ là
“món đồ nướng” (Barbecue) mà “ nếu Phật tử có thiếu
xăng và hộp quẹt thì tôi sẽ cho" (New York Times, 25-8-1963, trang E1).
8- Linh mục Tổng Chỉ huy Tự vệ Giáo khu Phát Diệm Hoàng Quỳnh:
“Thà mất Nước, không thà mất Chúa”, Nhật báo Hòa Bình, tường
thuật lại lời tuyên bố trong cuộc biểu tình của giáo dân tại cổng Bộ Tổng Tham
mưu, Sài Gòn 1964.
9- Trí thức Công giáo chủ trương “Liên tôn” để chống Cộng Chu
Tất Tiến: vu khống rằng “Phật giáo Việt Nam giết hại hơn 100
nghìn người cùng máu đỏ da vàng chỉ vì họ theo đạo Ca Tô”, “Đòn
khiêu khích tôn giáo của bọn tay sai Cộng sản”, phổ biến trên các diễn
đàn Internet, California, 12/2010.
10- Trí thức Công giáo Vũ Linh Châu muốn chạy tội làm
tay sai theo giặc của Công giáo VN nên đề nghị Phật tử cũng nên cảm ơn Thực
dân Pháp:
“Như vậy, phải chăng việc Nguyễn Ánh giao Hoàng Tử Cảnh cho Giám Mục Bá
Đa Lộc để cầu viện nước Pháp là một sự lựa chọn …sáng suốt. Một hành động
sinh tử đối với Đạo Phật tại nước ta. Nếu Nguyễn Ánh, thay vì móc nối
với Bá Đa Lộc, lại giao Hoàng Tử Cảnh cho một giáo sĩ …Tây Ban Nha, thì Việt
Nam đã trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha và dân Việt Nam cũng đã toàn tòng
100% Công giáo giống như Philippines và các quốc gia tại Trung và Nam Mỹ
châu rồi. Như vậy, phải chăng các tín đồ Phật Giáo Việt Nam cũng nên nói
lời cám ơn Lịch Sử và cám ơn thực dân Pháp? Phải chăng Phật Giáo
Việt Nam cũng nên cám ơn Vua Gia Long, cám ơn Hoàng Tử cảnh và cám ơn
cả Giám Mục Bá Đa Lộc nữa.” (Diễn đàn Internet - Quốc hận 2011).
Đây là loại ngụy biện đểu cáng ba xu, cảm ơn người đã rước
con rắn độc, thay vì rước con chó điên, vào nhà. “Rắn độc” Pháp hay “Chó
Điên” Tây Ban Nha thì cũng thế ! Chỉ có đầu óc nô lệ kiểu “con chiên con
cừu”, kiểu “tôi tớ hèn mọn” khấu đầu trước Cha Cố thực dân
đang cướp nước mình để cảm ơn, mới có lý luận phản quốc như thế !
B.- Về hành động, đọc lịch sử trong thời cận
và hiện đại, chúng ta thấy rằng, trong suốt chiều dài lịch sử, ít nhất từ thế
cuối thế kỷ 18 cho đến ngày nay, tín đồ Ca-tô người Việt lúc nào cũng tuyệt đối
vâng lời Giáo Hội La Mã, luôn luôn đứng về phía quân thù ngọai nhập liên minh
với Giáo Hội chống lại đổ quốc dân tộc Việt Nam ta.
Tất cả những lời lẽ và hành động phản quốc trên đây của
chúng cho chúng ta thấy rằng dân tộc và tổ quốc không còn chỗ đứng trong thâm
tâm của chúng nữa. Quả thật là cái thiện tính bẩm sinh (nhân chi sơ, tính bản
thiện) và nếp sống đạo lý “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng và trung với đất
nước” của người Việt Nam được bồi dưỡng bời nền đạo lý Đông Phương đã bị
hoàn toàn hủy diệt bởi những tín lý Ki-tô và những lời dạy của cái tôn giáo ác
ôn này! Mất đi những thiện tính bẩm sinh và nếp sống đạo lý này, chúng đã trở
thành một thứ quái thai trong cộng đồng dân tộc.
Phải chăng chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của “cái
giáo hội khốn nạn” này đã biến một nhóm thiểu số đồng bào hiền lành của chúng ta
thành những “bọn quạ đen”, “những tên sát nhân cuồng nhiệt” và “những
con người súc sinh” đúng như Linh-mục Trần Tam Tỉnh và nhà báo Long Ân đã
ghi nhận như trên?
Phần trình bày dưới đây của chúng tôi sẽ làm sáng tỏ vấn đề
này.
II.- Biến Người Hiền
Lành Thành Loài Súc Sinh
Như đã nói ở trên, chủ trương của Giáo Hội La Mã là phải
hủy diệt tất cả các di sản văn hóa và công trình văn minh của tất cả các tôn
gíao và nền văn hóa khác. Trong gần hai ngàn năm qua, Giáo Hội đã triệt để theo
đuổi chủ trương này bằng bất cứ giá nào. Trong số những di sản văn hóa bị hủy
diệt này, có cả những quy tắc đạo lý cao đẹp như “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
dũng, và phải biết đặt việc nước trước việc nhà với tinh thần “quốc gia hưng
vong, thất phu hữu trách” trong nếp sống văn hóa tam giáo cổ truyền cúa
người dân Đông Phương. Chủ trương dã man này của Giáo Hội La Mã đã được nói rõ
ràng trong thánh kinh cũng như trong lời dạy tín đồ của Giáo Hội và trong những
hành động của họ. Dưới đây là một số những bằng chứng bất khả phủ bác cho sự
kiện này:
1.- Đọc Cựu Ước, chúng ta sẽ thấy có những lời dạy trong sách Leviticus như :
“26.15: Và nếu các ngươi khinh
thường những quy luật của Ta, hay nếu linh hồn của các ngươi khinh ghét những
lời phán xét của Ta, cho nên các người không thực thi tất cả những lời răn dạy
của Ta, và không tuân hành quy ước của Ta. 26.16: Ta sẽ gây ra những tai
họa dưới đây cho các ngươi: Ta sẽ đem lại cho các ngươi những gì khủng khiếp
nhất, những bệnh tật tàn phá các ngươi, dịch sốt rét sẽ hủy hoại những tròng mắt
của các ngươi và nhiều cảnh đau buồn khác nữa. Những hạt giống m các người gieo
xuống đất sẽ không nẩy mầm được nữa vì rằng kẻ thù của các người sẽ ăn mất đi
hết những hạt giống đó. 26.17: Ta sẽ nhìn thẳng vào mặt các ngươi, và các
ngươi sẽ bị thảm bại trước kẻ thù. Những người nào thù ghét các ngươi sẽ đè đầu
cỡi cổ các ngươi, và các ngươi sẽ phải chạy trốn cả những khi không có người nào
đuổi bắt các ngươi.”
Đoạn văn trên đây cho chúng ta thấy rõ cái đặc tính đại bất
nhân của Giáo Hội La Mã.
2.- Đọc Tân Ước, chúng ta sẽ thấy trong Matthew (10:
34-37) có những lời phán dạy của Chúa Jesus với nguyên văn như sau:
“Ta đến đây không phải mang lại sự bình an, mà là mang
gươm dáo. Ta đến để con trai chống lại cha, con gái chống lại mẹ, con dâu chống
lại mẹ chồng và làm cho người trong nhà trở thành thù địch chống lại nhau. Kẻ
nào yêu kính cha mẹ hơn ta thì không đáng gì đối với Ta, và kẻ nào yêu thương
con cái hơn Ta cũng không đáng gì đối với Ta. ”
Đoạn văn này nói lên cái đặc tính phản nhân luân, bất hiếu,
bất nhân và bất nghĩa của cái đạo hợm hĩnh tự phong là “Hội Thánh duy nhất,
thánh thiện, công giáo và tông truyền.”
3.- Đọc lịch sử Giáo Hội La Mã, chúng ta sẽ thấy:
a.- “Năm 1232, Giáo Hoàng Gregory IX (1227-1241) thiết
lập tòa án xử bọn dị giáo, gọi là Inquisition… Cha con tố các nhau, vợ
chồng tố cáo nhau, anh em tố cáo nhau, bạn hữu tố cáo nhau, hàng xóm láng giềng
tố cáo nhau, v.v. trước tòa án của Giáo Hội. Giáo Hoàng Paul IV (1555-59)
tuyên bố: "Nếu bố tôi là dị giáo đồ, tôi cũng sẽ chụm củi thiêu sống ông ta
luôn." Phan Đình Diệm, Tuyên Cáo 6.
tanvien@kitohoc.com Ngày 15/6/1999.
Hành động thiết lập tòa án xử bọn dị giáo, gọi là
Inquisition…và lời phán dạy của Giáo Hoàng Paul IV (1555-1559)cho chúng
ta thấy rõ đặc tính dã man, phi nhân, phi luân, phi cầm, phi thú của những người
tự phong là “dân Chúa” hay ”những là những được Chúa chọn”.
b.-"Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) can tội loạn luân
(incest) ăn ở với chị (em) gái sinh ra đứa con trai tên là Pietro Riario và cũng
là giáo hoàng đầu tiên cấp giấy hành nghề mở "nhà chứa" (nhà thổ)) tại Kinh
Thành La Mã. Nhờ vậy mà mỗi năm, ông thu hoạch được 30 ngàn tiền ducats.
Ông cũng thâu hoạch được những khoản tiền khá lớn bằng cách đánh thuế các tu sĩ
nào muốn công khai sống với tình nhân (bạn gái). Tệ hơn nữa, ông còn làm tiền
bằng cách bán giấy phép cho các ông nhà giầu được quyền "an ủi" các bà có chồng
xa nhà, v.v..." Nguyên văn: "Sixtus ' favourite was Pietro
Riario, whom the historian Theodor Griesinger believed was his son by his own
sister.... Sixtus was the first pope to license the brothels of Rome; they
brought him in thirty thousand ducats a year. He also gained considerably from a
tax imposed on priests who kept a mistress. Another source of income was
granting privileges to rich men "to enable them to solace certain matrons in the
absence of their husbands."[iv]
Đoạn văn này cho chúng ta thấy rõ tính cách súc sinh
(loạn luân) của Đức Thánh Cha Sixtus IV. Điểm đặc biệt là ông ta đã thực sự đã
biến Tòa Thánh Vatican thành một ổ điếm, ông ta đã kinh tài bằng nghề mãi dâm.
Có thể đây là một trong những lý do khiến cho sách sử ghi nhân Vatican là một ổ
điếm, hay đúng hơn là “con điếm mặc khải”. Sách Smokescreens viết:
“Vào cuối Thời Hắc Ám (Thời Trung Cổ), khi giáo
hoàng thống trị Âu Châu một cách vô cùng tàn ngược, thì Chúa đánh thức nam nữ
tín hữu Ki-tô hiểu rõ thánh kinh và lớn tiếng tuyên bố rằng cái cơ chế Ca-tô
chết người này chỉ là “thứ con điếm Mặc Khải.” Nguyên văn: “At the
end of the Dark Ages, when the pope ruthlessly controlled Europe, God raised up
Christian men and women who knew the Bible and loudly proclaimed that the deadly
Roman Catholic Institution was the whore of Revelation.”[v]
4.- Theo dõi những hành động và cung cách hành xử của Giáo
Hoàng John Paul II, chúng ta thấy rằng, vào đầu tháng 8 năm 2001, ông ta ra lệnh
cho Giám-mục Emmanuel Milingo 71 tuổi, nguyên gốc là người nước Zambia (Châu
Phi) phải bỏ rơi bà vợ yêu quý là bà Maria Sung 43 tuổi mới cưới vào ngày
27/5/2001, nếu không, sẽ bị rút phép thông công, bất kể là cặp vợ chồng này đã
có hôn phối và đã làm phép cưới tại một nhà thờ Thiên Chúa Giáo (thuộc hệ phái
khác) tại New York do tu sĩ Sun Myung Moon làm chủ lễ.
Chỉ riêng hành động cưỡng bách Giám-mục Emmanuel Milingo
phải bỏ rơi người vợ thân thương vừa mới cưới được mấy tháng cũng đủ cho chúng
ta thấy rõ cả Giáo Hoàng John Paul II và Giáo Hội La Mã quả thật là cực kỳ ác
độc và dã man đến cùng độ của dã man!
Tóm lại, mấy đoạn văn trên đây cũng đủ cho chúng ta thấy
rằng nền tảng tín lý Ki-tô cũng như toàn bộ Giáo La Mã chỉ là một tổ chức tội ác
dã man nhất trong lịch sử nhân loại vì nó chủ trường biến con người hiền lành
thành những hạng phi luân, lọan luân, loạn dâm, phi nhân, phi nghĩa,. Chủ
trương này của Vatican hoàn toàn trái ngược với nền văn hóa lý Đông Phương co
chủ trương rèn luyện con người phải sống theo quy tắc đạo lý “nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín, dũng, hiếu và trung”, những quy tắc mà tất cả mọi người ở vào
bất kỳ thời đại nào, ở bất kỳ nơi nào và ở vào bất kỳ địa vị hay tư thế nào
trong xã hội cũng đều coi đó như là những khuôn vàng thước ngọc để cho mọi
người theo đó mà hành xử.
Làm sao tín đồ Ki-tô có thể trở nên những người có nhân,
có nghĩa, có lễ được khi mà Cựu Ước đã dạy họ điều phi nhân, phi nghĩa và
vô cùng xấc xược ngược ngại như đã ghi trong đoạn văn ghi số 1 trích ra từ trong
sách Lviticus ở trên và cưỡng bách họ phải triệt để tuân hành những điều này?
Làm sao tín đồ Ki-tô có thể có hiếu và có nghĩa được
khi mà Chúa Jesus đã phán dạy họ phải tuân thủ những điều phi luân, bất nhân,
bất nghĩa, đại nghịch bất đạo như đã nói rõ trong Matthew (10: 34-37) ở trên?
Làm sao tín đồ Ki-tô có thể trở nên những con người thật
thà, chân chất, thành thực với chính mình và thành thực với mọi người khi mà
Giáo Hội La Mã dạy họ rằng:
“Phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ,
không nên để cho người ngoại đạo được biết.”?
[vi]
Với lối dạy dỗ con chiên như vậy và đòi hỏi họ phải triệt
để vâng lời của các đấng bề trên và bứt bít ché giấu những việc làm tội ác trong
đạo, thì tất nhiên là giáo dân Ca-tô không thể nào lại không trở thành hạng
người lưu manh, lươn lẹo, gian dối, mất hết lương tâm, mất hết liêm sỉ, và trở
thành những quân vong bản phản quốc, chỉ biết cúi đầu nghe theo những lời kích
động và xúi giục của bọn người mà người Pháp gọi là “lũ quạ đen” để đánh
phá tổ quốc và dân tộc gốc của họ theo sách lược cố hữu “quậy cho áo nược
Việt Nam đục ngầu lên” để cho Vatican nhầy vảo thả câu, giống như họ đã làm
trong thế kỷ 19.
Làm sao tín đồ Ki-tô có thể vận dụng trí thông minh
để tìm hiểu sự vât (cách vật trí tri) và để phân biệt sự khác nhau
giữa đúng và sai, giữa phải và trái, giữa tốt và xấu, giữa thuận lý và nghịch
lý, giữa nhân đạo và độc ác, giữa đạo đức và phi luân, giữa cao đẹp và
tồi tệ hay tầm thường, v.v…, khi mà Giáo Hội luôn luôn dạy họ rằng:
“Niềm tin tôn giáo không cần đế lý trí.”
“Phúc cho ai không thấy mà tin.”
“Vâng lời quý hơn của lễ.”
“Chỉ cần có một niềm tin bằng hạt cải thì có thể bê cả trái
núi quăng xuống biển.”
“Phải tuyệt tin tưởng và trung thành với Tòa Thánh
Vatican.”
“Phải triệt để vâng lời và tuân hành lệnh truyền của các
đấng bề trên.”
“Cha (linh mục) là đại diện của Chúa. Phải coi cha như
Chúa.”
“Những gì cha nói và hành động là nói và hành động theo ý
Chúa.”
“Nếu các cha có làm gì sai trái, thì đã có Chúa phán xét.”
“Là giáo dân ngoan đạo, không được bàn tán, nói xấu, nói
hành nói tỏi các cha.”
“Bàn tán, nói xấu, nói hành nói tỏi các cha là nói xấu
Chúa, thì sẽ bị Chúa trừng phạt đày xuống hỏa ngục đời đời.”
“Là tín đồ ngoan đạo, phải giấu kín những chuyện tội
lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoại đạo được
biết.”?
Có người cho rằng họ cũng có trí thông minh đấy chứ! Đúng vậy! họ cũng
có trí thông minh, nhưng tiếc rằng họ chỉ dùng cái trí thông minh của họ để làm
những việc làm lưu manh để thỏa mãn dục vọng bất chính của họ đúng như ông
Charlie đã ghi nhận:
“Hầu hết các tu sĩ là những kẻ đại gian đại ác ngụy trang dưới những lớp
áo đen, áo đỏ, áo trắng đóng vai đạo đức giả để phỉnh gạt tín đồ. Bề ngoài, họ
làm ra vẻ thuận thảo với nhau, thật sự bên trong nội bộ, họ ganh tị tranh đua
nhau và sẵn sàng hạ thủ nhau để tranh quyền đoạt thế. Họ dùng đủ mọi thủ đoạn để
bòn rút tiền bạc xương máu của giáo dân để xây nhà thờ nguy nga đồ sộ chỉ cốt
được vênh vang với đời. Mái nhà thờ của họ càng lớn rộng bao nhiêu, thì càng
che khuất ánh sáng mặt trời chân lý bấy nhiêu. Các bức tường của nhà thờ càng
cao bao nhiêu thì càng ngăn cách con người với nhau bấy nhiêu. Giáo sĩ là những
con ký sinh trùng vừa ăn bám, vừa phá hoại xã hội. Họ tội lỗi cùng mình lại nắm
quyền tha tội cho đám tín đồ vô tội hoặc ít tội hơn họ. Họ thực sự là một bọn
cướp nguy hiểm hơn bọn cướp thường vì những kẻ cướp thường đều bị luật pháp
trừng trị. Trái lại, bọn cướp đội lốt giáo sĩ lại được giáo dân tôn kính, tâng
bốc là những vị lãnh đạo tinh thần. Tất cả các tệ nạn này đều xuất phát từ sự
thiếu hiểu biết của đại đa sô giáo dân. Do vậy, việc giáo dục khai sáng tâm
linh là việc vô cùng cần thiết để cứu nước và bảo vệ nền văn hóa nhân bản rất
cao đẹp của dân tộc ta mà tuyệt đại đa số giáo dân không hề biết tới.”
[vii]
Làm sao tín đồ Ki-tô có thể trung với đất nước hay tổ quốc và giữ
chữ tín với mọi người được khi mà Giáo Hội dạy dỗ họ phải triệt để
tuân hành những lời giáo huấn rằng (1) “Phải tuyệt đối trung thành với
Vatican”, (2) “Phải tuyệt đối nghe lời dạy bảo của Giáo Hội”, (3) “Phải
triệt để tuân hành những lệnh truyền của Giáo Hội”, (4) “Không được thừa nhận
nhà vua (chính quyền – NMQ) và luật pháp của nước họ”, (5) “Giáo hoàng ở Roma
mới là vị vua tối cao duy nhất củ họ, họ chỉ phải tuân phục quyền lực của Tòa
Thánh Vatican mà thôi”? Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Thiết Lập Hệ Thống
Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam 1858-1897 (Saint Raphael, France, 1995), tr. 17.
Còn cái dũng của họ? Họ vẫn thường huênh hoang khoe khoang rằng họ đã
từng chiến đấu rất dũng cảm trong các đạo quân đánh thuê cho Liên Minh Xâm Lược
Pháp – Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican trong suốt chiều dài lịch sử
từ gần cuối thập niên 1940 cho đến ngày 30/5/1975.
Xin thưa rằng, hầu hết tín đồ Ca-tô là những người có bản chất tham lợi
(“đi đạo lấy gạo mà ăn”), háo danh và thèm khát quyền lực (“theo đạo để
tạo danh đời”) cam tâm tình nguyện làm lính đánh thuê cho quân cướp xâm lược
Pháp và Vatican, không có một lý tưởng cao cả vì nước vì dân, thì làm sao họ có
được cái dũng của kẻ sĩ Đông Phương coi cái chết nhẹ như lông hồng mà chúng ta
đã từng thấy như Trần Bình Trọng đã lớn tiếng nói thẳng cho tướng giặc rằng “Ta
thà lằm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”, như Nguyễn Thái Học khi
bước lên đọan đầy đài vẫn thản nhiên ung dung tự tại cất cao lời thơ hùng hồn:
Chết vì tổ quốc,
Cái chết vinh quang,
Lòng ta sung sướng,
Trí ta nhẹ nhàng.
Chúng ta cần nên biết là những người tham lợi, háo danh và thèm khát quyền
lực dù xuất thân hay được rèn luyện từ bất kỳ tôn giáo, văn hóa hay đạo lý
nào thì họ cũng vẫn là hạng người mất hết nhân tính, mất hết liêm sỉ và có
thể làm bất cứ việc làm đại gian đại ác nào kể cả việc dâng vợ cho người ta,
giết cha giết mẹ, và đem nước dâng cho quân cướp ngoại thù miễn sao đạt được mục
đích bước vào của quyền và có thể tiếp tục ngồi yên vị trên cái ghế quyền lực.
Đây là sự thật đã từng xẩy ra rất nhiều lần trong lịch sử.
Vì háo danh và thèm khát quyền lực mà:
1.- Ngô Khởi đã giết vợ là Điền Thị (con quan Tướng Quốc Điền Hòa của nước
Tề) để tỏ lòng tin với nước Lỗ trong ý đồ cầu danh mong được cho làm Đại Tướng
ở nước Lỗ.
2.- Lữ Bát Vì đã muối mặt đem cả người vợ thân thương yêu quý của ông ta là
Triệu Cơ dâng hiến cho công tôn Dị Nhân nước Tần (đang bị giữ làm con tin ở nước
Triệu) để lót đường tiến vào cửa quyền.
3.- Thương Thần (thời Đông Châu Liệt Quốc) đã nhẫn tâm giết cả cha ruột là Sở
Thành Vương để có thể nhẩy lên ngai vàng cai trị nước Sở với vương hiệu là Sở
Mục Vương.
4.- Dương Quảng giết cả cha là Dương Kiên Tùy Văn Đế (581- 605), giết mẹ và
giết cả anh ruột là Dương Dũng để nhẩy lên ngai vàng, lấy đế hiệu là Tùy Dạng Đế
(605-618).
5.- Lê Chiêu Thống đã trốn chạy sang Tầu cầu viện nhà Thanh đem quân sang
Việt Nam giúp ông ta phục hồi quyền lực để rồi chuốc lấy tiếng nhơ bị nguyền rủa
tên vua phản quốc cõng rắn cắn gà nhà.
6.- Giám-mục Talleyrand (1754-1838) trở thành ông vua trở cờtrong thời Cách
Mạng Pháp1789 mà người viết đã trình bầy khá đầy đủ trong Chương 16, sách Thực
Chất Của Giáo Hội La Mã (Tacoma, WA, TXB, 1999).
[viii]
7.- Tên phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm đã dám nói ra những lời
nói ngu dốt sặc mùi vong bản để làm hài lòng quan thày Vatican và Hoa Kỳ rằng,
“ông
ta tin tưởng vào quyền lực của Vatican và chống cộng một các cực lực[ix]”,
rồi ngay sau khi được quan thày Vatican và Mỹ đưa về Việt Nam cầm quyền, vì
muốn được ngồi yên lâu dài trên chiếc ghế quyền lực, cho nên ông ta mới tổ chức
một cuộc đại lễ vô cùng trọng thể rồi thỉnh mời vị khâm sử của Vatican tại Sàigòn
đến làm chủ tế để dâng nước Việt Nam cho Vatican với danh nghĩa là dâng cho
Đức Mẹ Vô Nhiễm.[x]
Cũng vì cái máu tham lợi, háo danh và thèm khát quyền lực mà đám “cừu non”
người Việt mới tình nguyện làm những tên lính đánh thuê cho Liên Quân Xâm Lược
Pháp - Vatican trong thời Kháng Chiến 1945-1954 và cho Liên Quân Xâm Lược Mỹ -
Vatican ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Khởi đầu, ngày
1/10/1946, Liên Quân Xâm Lược Pháp – Vatican quyết định thành lập một đạo quân
đánh thuê gọi là “Vệ Binh Cộng Hòa Nam Kỳ” để giúp chúng giữ trật tự và
ổn định các khu vực mà chúng đã chiếm được để chúng rảnh tay tiến hành những
cuộc hành quân tấn công quân đội Kháng Chiến Việt Nam ở các vùng khác. Đến
đầu tháng 6/1948, sau khi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican dùng Bảo Đại lập
chính phủ làm công cụ cho chúng thi hành chính sách chia để trị, dùng người Việt
đánh người Việt và dùng giáo dân Ca-tô để cai trị đại khối nhân dân thuộc tam
giáo cổ truyền, thi đạo quân thập tự bản địa đánh thuê này được mở rộng và đổi
danh xưng là “Quân Đội Quốc Gia Việt Nam”.
Khi Việt Nam bị tạm thời chia đối thành hai miền Bắc Nam vào tháng 7 năm
1954, đạo quân thập tự bản địa đánh thuê này được đưa vào miền Nam và trở thành
đạo quân đánh thuê cho Liên Minh Xâm Lược lược Mỹ - Vatican. Kể từ đó, nó được
gọi là quân đội miền Nam Việt Nam, được Mỹ trang bị, huấn luyện và trả lương
tính theo căn bản từng tháng. Từ ngày 26/1955, sau khi tên phản thần tam đại
Việt gian Ngô Đình Diệm tổ chức cuộc làm phản với danh nghĩa cuộc “Trưng Cầu Dân
Ý” vào ngày 23/10/1955 hất cẳng tên Bảo Đại ra khỏi cái ghê quốc trưởng để nhầy
lên bàn độc, tuyên bố miền Nam là nước Việt Nam Cộng Hòa, thì đạo quân thập tự
bản địa đánh thuê này lại được khóac cho một danh xưng mới khác nữa là “Quân Đội
Việt Nam Cộng Hòa.”
Người Trung Quốc thường nói ”giang sơn dễ đổi, bản chất khó chừa”. Bản
chất của đạo quân thập tự Việt Nam là đạo quân đánh thuê. Cái bản chất này đã có
từ khi nó được Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican cho ra đời vào ngày 1/10/1946
để phục vụ quyền lợi của cả hai thế lực xâm lăng Pháp và Vatican. Năm 1954, sau
vụ thảm bại tại tập đòan cứ điểm Điện Biên Phủ, Pháp phải công nhận chủ quyền
độc lập của dân tộc Việt và rút quân về nước, đạo quân này bị Pháp bở rơi và
chuyển sang chủ mới là Mỹ và kể từ đó, nó trở thành đạo quân thập tự Việt Nam
đánh thuê cho Liên Minh Xâm Lược Mỹ-Vatican để là phục vụ cho quyền lợc của Mỹ
và Vatican.. Bản chất của nó là như vậy, cho nên dù cho nó mang danh xưng là cai
gì gì đi nữa, thì cái bản chất của nó cũng vẫn là một đạo quân đánh thuê cho
quân giặc xâm lăng với tất cả những đặc tính của những thằng lính đánh thuê. Đặc
tính của những tên lính đánh thuê cho quân giặc xâm lăng là tham lam, lợi dụng
những cuộc hành quân để giết người, hãm hiếp đàn bà con gái, bốc hổt, cướp của
mang đí, nhưng lại rất nhát gan. Cái dũng cảm của chúng là cái dũng cảm của
quân ăn cướp. Chúng chỉ hùng hổ ỷ vào sức mạnh cảc đám đông hay sức mạnh của
quân cướp xâm lăng để theo voi ăn bã mía, đốt đình phá miếu, thiêu hủy chùa
chiền, hãm hiếp đàn bà con gái, giết người cướp cúa mang đi để thỏa mãn dục vọng
thấp hèn của chúng. Nhưng tới khi phải đối diện với sức mạnh quân sự của quân
dân ta mà không có sức mạnh quân sự của quân cường xâm yểm trợ, thì chúng nhát
như thỏ đế, vội vàng hối hả tìm cách lẩn trốn, bỏ chạy đào nhiệm và đào ngũ, nếu
là sĩ quan nắm giữ những chức vụ chỉ huy, thì chúng cũng bỏ mặc cho quân lính
dưới quyền như rắn mắt đầu. Bằng chứng là:
1.- Sách Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa -Quân Sử 4 viết:
"Pháp phải tập trung để rút các đơn vị biệt kích hoạt
động trong miền rừng núi thuộc Lai Châu. Đây là một việc khó khăn và gây cho
Pháp một thất bại nặng nề vì Việt Minh đã có đủ thì giờ để chặn đánh. Các đơn vị
biệt kích là những đại đội com măng đô, binh sĩ người Thái, cấp chỉ huy là người
Pháp. Các đơn vị này có nhiệm vụ rút sau đoàn quân của Trancart để bảo đảm an
toàn cho đoàn quân này vì Pháp cho rằng các đơn vị biệt kích được tổ chức nhẹ
nhàng và quen thuộc với địa thế sẽ rút sau một cách dễ dàng. Nhưng trên các ngả
đường, Việt Minh đều xuất hiện chặn đánh. Các toán com măng đô Thái đã bỏ trốn,
một số bị bắt hoặc bị chết trong các cuộc đụng độ, nên khi về tới Điện Biên Phủ,
lực lượng biệt kích Lai Châu với số quân 2.101 người trong đó có 37 người Pháp
chỉ còn lại 175 người và 10 người Pháp."[xi]
2.- Trung Tá Ca-tô Trần Thanh Chiêu được TT Ngô Đình Diệm trao cho nắm giữ
chức vụ Trung Đòan Trưởng Trung Đoàn 32 thuộc Sư Đòan 21. Vì nhát gan, ông ta
không dám ló đầu ra ngoài trại đóng quân để đi thanh sát tình hình và địch tình
nơi chung quanh căn cứ đóng quân. Vì vậy mà đêm 25 rạng ngày 26/1/1960, quân đội
Giải Phóng Miền Nam mới có thể đột nhập bất ngờ vào ngay bộ chỉ huy của trung
đoàn, gây thiệt hại nặng nề về cả quân số và vũ khí. Hậu quả cô vấn quân sự Mỹ
ra lệnh cho chính quyền Diệm phải bãi chức ông ta.
3.- Đại Tá Ca-tô Bùi Đình Đạm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh và Thiếu Tướng Ca-tô
Huỳnh Văn Cao Tư Lệnh Quân Đoàn IV cũng vì nhát gan mới không dám ló đầu đi
thanh sát tìm hiểu tình hình và địch tình trong chung quanh căn cứ đóng quân.
Vì thế mới xẩy tình trạng thảm bại tại Ấp Bắc vào ngày 2/1/1963. Hậu quả lả cố
vấn Mỹ là Trung Tá Vann yêu cầu chính phủ Diệm phải cách chức cả hai ông Tướng
và Tá Ca-tô này.
4.- Các ông tướng Ca-tô Hoàng Văn Lạc, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I, Tướng Ca-tô
Lâm Quang Thi, Tư Lênh Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Quân Đòan I và Tướng Nguyễn Đức
Khánh, Tư Lệnh Sư Đoàn I Không Quân (trú đóng Quân Khu I) vì quá nhát gan cho
nên đều đào ngũ trong khi sĩ quan và quân lính dưới quyền đang phải đương đầu
với những đợt tấn công của Bắc quân.[xii]
5.- Tướng Ca-tô Lý Tòng Bá, Tư Lệnh Sư Đoàn 25 đồn trú tại Củ Chi, vì quá
nhát gan, cho nên ông đã bỏ lại quân lính dưới quyền, bỏ cả vũ khí và quân phục,
đầu trần không đội mũ, giả làm thường dân, lẻn trốn ngay khi vừa mới nghe tín
Bắc quân đang tiến tới gần nơi, nhưng rồi ông cũng bị quân dân ta bắt được vào
ngày 27/4/1975 ở nơi một ruộng lúa khi đó ông ta chỉ mặc có một chiếc quần
đùi.
III.- Người Viết Liên Tục Bị Hạch Sách
Chúng ta cũng nên biết là hầu hết tín đồ Ca-tô người Việt
là hạng người tham lợi háo danh và thèm khát quyền lực. Vì thế, họ mới có những
ác tính cữc kỳ ghê tởm như đã trình bày ở trên. Một trong những ác tính cực kỳ
ghê tởm này là khi chúng ở thế thuợng phong hay cỏ một nhóm đông người thì chúng
lại quay ra làm tàng, ăn nói và hành động ngang ngược đối với những người đồng
hương khác tôn giáo với chúng, đúng như nhà sử học Loraine Boettner đã ghi nhận
trong sách Roman Catholicism với nguyền văn như sau:
“Khi ở thế yếu, nó là con cừu, khi tương đương, nó trở
thành con cáo, và khi trội hơn, nóì trở thành con cọp.” Nguyên văn: “Rome
the minority is a lamb, Rome as an equal is a fox, Rome in theo majority is ạn
tiger.”[xiii]
Cái bản chất của “cái tôn giáo ác ôn” và tập đòan “cừu non”
là như vậy! Cũng vì thế mà sau khi các cuốn sách Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn
Thư 1954-1975, Bài Thơ Cho Con (A Poem For My Children), Thực Chất của Giấo Hội
La Mã được phát hành và được phổ biến rộng rãi, đặc biệt là từ khi một số khoảng
trên dưới 50 chương sách trong số 125 chương của bộ sách Lịch Sử và Hồ Tội Ác
của Giáo Hội La Mã được đưa lên giaodiemonline.com (từ năm 2006) và sachhiem.net
(từ năm 2007), thì người viết bị rất nhiều “dân Chúa” người Việt viết các bài
viết với nội dung chửi rủa và hạ nhục bằng những ngôn từ đê tiện nhất của nền
văn hóa Ca-tô. Những bài viết này được đưa lên đăng trên tờ bán nguyệt san Văn
Nghệ Tiền Phong có trụ sở tại số 15 N Highland Street, Arlington, VA 22201. Đồng
thời, có một số dân Chúa hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp nêu lên khá nhiều
thắc mắc. Những thắc mắc này đều có tính cách hạch sách và cự nự người viết thế
này thế nọ đại loại như sau:
1.- Tại sao lại gọi Vatican là một đế quốc thực dân xâm
lược?‘
2.- Tại sao lại gọi là Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược
Pháp – Vatican?
3.- Tại sao lại gọi Công Giáo là Ca-tô? Gọi như vậy là có ý
miệt thị đạo Chúa!
4.- Tại sao lại gọi ông Ngô Đình Diệm là thằng bạo chúa
phản thần tam đại Việt gian?
5.- Tại sao ông Nguyễn Mạnh Quang lại không nói gì đến Đảng
Cộng Sản Việt Nam ở trong các tác phẩm của ông ta?
6.- Tại sao ông Nguyễn Mạnh Quang không viết về miền Bắc và
các chế độ Cộng Sản, mà lại chỉ viết về các chính quyền miền Nam và Giáo Hội La
Mã?
v.v...
Trên đây là một số những câu hỏi có tính cách cự nự và hạch
sách nêu với người viết. Ở sau lưng chúng tôi, họ còn nói nhiều điều bằng những
ngôn từ thiếu văn hóa để miệt thị chúng tôi nữa. Sự kiện này được độc giả Lê
Xuân Thanh nói cho chúng tôi biết qua một E-mail gửi cho sachhiem.net đề ngày
14/11/2009 với nguyên văn như sau:
“Xin chào ban biên tập trang sách hiếm.
Tôi là một đọc giả thường xuyên của trang web, tôi rất thích những bài
viết của trang web đã đăng, qua đó tôi biết rõ hơn về những sự thật về công
giáo, nhất là tin lành.
Thật ra không cần phải tranh cãi về những sự vô lý hay những điều huyền
hoặc của những truyền thuyết trong công giáo. Vì đọc qua nếu một người có suy
nghĩ thì tự nhận biết nó đúng hay sai. Lâu nay tôi đang rất quan tâm đến vấn đề
tâm linh và khoa học tâm linh. Tôi thấy dù xã hội ngày càng tiến bộ mà còn rất
nhiều người thiếu hiểu biết mà nghe theo sự xúi giục của những kẻ đội lốt tôn
giáo (không riêng gì công giáo) để chống đối lại nhà nước.
Nếu là một tôn giáo tốt thì tự nhiên nó có sức hút mãnh liệt đối với dân
chúng chứ không cần phải dùng tiền để lôi kéo tín đồ, càng không được xúi giục
tín đồ đi làm các việc chống phá...tôn giáo khác, phải mục đích là làm cho con
người trở nên tốt hơn, sống yếu đời hơn, tu dưỡng rèn luyện tâm linh đó mới là
mục đích cao nhất của con người.
Tôi lúc rảnh cũng hay thử lang thang vào mấy trang web về công giáo, đặc
biệt là tin lành. Tôi thấy có nhiều trang sặc mùi phản động, vào đó toàn là quỳ
lạy van xin, đe dọa, phục tùng...có lúc tôi tự hỏi, nếu mà theo tôn giáo để mang
của nợ vào thân như vậy thì theo làm gì. Nếu suy nghĩ một cách công bằng tôi
nghĩ rằng đức Chúa Jesu trước đây đi giảng đạo chắc cũng sẻ không giảng như vậy.
Tôi thì rất thích phật giáo, vì đạo phật rất chú trọng đến sự tự lập của mỗi cá
nhân, muốn cứu lấy mình thì trước hết là phải tự nỗ lực sau đó mới mong người
khác giúp mình.
Tôi có thấy một số cá nhân theo tin lành rất quá khích
đã chửi rủa trang web
sachhiem.net và
giaodiemonline.com chúng vu khống bịa đặt rất trắng trợn, lời lẽ rất thô bỉ,
mà tôi không tưởng tượng những người đó mạo nhận là người có đạo. Tôi rất bực
mình nên quyết định viết lá thư này một mặt là bày tỏ sự bất bình đối với những
kẻ như trên, mong ban biên tập không xem đó là trở ngại và tiếp tục có những bài
viết hay hơn nữa để là rõ bộ mặt thật của những kẻ lợi dụng tôn giáo để trục lợi
cá nhân, đồng thời thức tỉnh những ai đang còn mê muội.”
[xiv]
Vì những câu hỏi có tính cách hạch sách, cự nự cùng với
những lời lẽ chửi rủa thiếu văn hóa như trên, chúng tôi xin dành ra mấy trang
giấy dưới đây để giải đáp những câu hỏi này và cũng là làm sáng tỏ công việc của
chúng tôi.
1 2 3
___________________
AUDIO/VIDEO CLIPS
1.- Video tuyên ngôn của một người viết sử về giáo hội la mã phần 01
2.- Video tuyên ngôn của một người viết sử về giáo hội la mã phần 02
3.- Video tuyên ngôn của một người viết sử về giáo hội la mã phần 03
4.- Video tuyên ngôn của một người viết sử về giáo hội la mã phần 04
[i] Trần Tam Tình, Thập Giá
và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978), tr. 104.
[ii] Nguyễn Mạnh Quang,
Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1953 (Houston, TX: Văn Hóa,
2000), tr. 340.
[iii] Lloyd M. Graham, and
Myths of the Bible (New York: Bell Publisihing Company, 1979), tr.
463.
[iv] Peter de Rosa, Vicars of
Christ (Dublin, Ireland: Poolbeg, 2000), tr.101.
[v] Jack T. Chick,
Smokescreens (Chino, CA:Chick Publications, 1983), tr. 37.
[vi] Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm
Đạo (Đông KIinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr.320.
[vii] Charlie Nguyễn, Công
Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr.
63-64.
[viii] Nguyễn Mạnh Quang,
Thực Chất Của Gíao Hội La Mã (Tacoma, WA, 1999), tr. 517-582.
[ix] Lê Hữu Dản, Sự Thật –
Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, CA: TXN, 1997), tr.23.
[x] Trần Tam Tỉnh, Thập Giá
và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978), tr.126-127.
[xi] Phòng 5 Bộ Tổng Tham Muu,
Quân Sử 4: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Trong Giai Ðoạn Hình Thành
1946-1955 (Glendale, CA: Đại Nam (in lại, không đề năm), tr..154. .
[xii] Hồ Văn Kỳ Thoại, Can
Trường Trong Chiến Bại (Fall Church, VA: TXB, 2007), tr. 181-284.
[xiii] Loraine Boettner,
Roman Catholicism (Phillipsburg, New Jersey:The Presbyterian
Refoemed Publishing Compant, 1962), tr. 424.
[xiv] Nguồn:
http://sachhiem.net/EMAILS/SH/Sachhiem18.php
Database #223
Trang Nguyễn Mạnh Quang