Tiễn Bạn, Nhớ Chuyện Ngày Xưa
Nguyễn Mạnh Quang
http://sachhiem.net/NMQ/NMQ015.php
07 tháng 3, 2009
Xúc động khi nghe tin bạn Hà Mai Phương từ trần (23 tháng 2, 2009), nhắc lại
những ngày cùng ngồi bên nhau dưới mái trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn về những kỷ niệm trong việc ghi bài và tìm tài liệu.
Khóa 4 Sử Địa chúng tôi có 40 sinh viên trúng tuyển, trong đó có khoảng một nửa là người miền Nam và 1 nửa là dân
Bắc Kỳ di cư. Tất cả có vào khỏang 4 hay 5 người học chương trình
Pháp và độ 4, 5 ngưiời chỉ học theo chương trình Pháp đến Đệ Tam
(lớp 10) hay Đệ Nhị (lớp 11).
Phần lớn sinh viên người Nam thường có thái độ khinh rẻ và kỳ thị người Bắc.
Họ thường dùng cụm từ hàm ý nghĩa không
đẹp như
“Bắc Kỳ xao”, “Bắc Kỳ lưu manh”, "dân rau muống"
để gọi dân Bắc Kỳ. Tình trạng này cxng giống như người Pháp dùng cụm
từ "Les corbeaux noirs" để nói về các ông tu sĩ Công Giáo.
Họ gọi như vậy cũng đúng và cũng không đúng.
ĐÚNG là vì chỉ có một số khoảng 5, 6
người có những hành vi đã làm cho những sinh viên người Nam có lý do để khinh khi. (Chuyện
này sẽ điược nói sau.)
KHÔNG ĐÚNG là vì gọi như vậy có tính cách vơ đũa cả nắm. Trong số
hơn 10 sinh viên gốc Bắc Kỳ
di cư, chỉ có mấy người “xạo” và “lưu manh” đúng như họ nói. Còn
rất nhiều người khác là những người chân chất, hiền lành, thật thà như
đếm, cung cách hành xử của họ rất là chững chạc và nghiêm túc. Đó là
các bạn Hà Mai Phương (người Nam Định), Phan Thị Quỳnh Dzư (Thái
Bình), Lương Văn Liên (Thái Bình), Nguyễn Hà Trỵ (Thái Bình), Vũ Lượng (không biết thuộc tỉnh nào ở Bắc).
Toàn lớp, suốt trong ba niên
học, có khoảng hơn 10 giáo sư giảng dạy, trong đó có gần một nửa là
người Pháp.
► Các giáo sư người Việt gồm có
Giáo-sư Tăng Xuân An dạy địa lý Việt Nam,
Giáo-sư Hùynh Văn Hai dạy
môn sư phạm thực tập,
Giáo-sư Nguyễn Ngọc Cư dạy sử Trung Cổ Việt
Nam,
Giiáo–sư Nguyễn Khắc Kham dạy Sử Ấn Độ,
Giáo-sư Trương Bửu Lâm
dạy phương pháp sử,
Giáo-sư Quách Thanh Tâm dạy cổ sử Ai Cập, cổ sử
La Mã và đia lý thực hành,
Giáo-sư Phan Thi Nguyệt Minh (Bà Nguyền Văn Thơ)
dạy Anh văn,
Giáo-sư Nguyễn Huy Bảo và Giáo Sư Trương Công Cừu dạy
môn tâm lý sư phạm,
Giáo-sư Tước dạy môn quản trị học đường,
Giáo sư
Bửu Lịch và Giáo-sư Nguyễn Biình Minh dạy môn xã
hội học,
Giáo-sư Nguyễn Bá Nhẫn dạy môn địa lý
tài nguyên thiên nhiên.
►
Các giáo sư người Pháp gồm có:
Giáo-sư Rescoussier dạy môn Climatology,
Giáo-sư Teulière dạy môn
Geography humaine,
Giáo-sư Bourrier dạy môn Sử Trung Cổ Âu Châu,
Giáo-sư Flamand dạy môn Sử Nhật Bản và Sử Đông Nam Á,
Bà Teulière
dạy môn Pháp Văn.
Khó khăn 1:
Học ban sử mà chúng tôi không có một nguồn tài liệu nào cả. Nhà
trường và các giáo sư cũng không có sách giáo khoa để phân phát hay
bán cho chúng tôi như ở bên trường Luật Sàigòn hay ở các đại học Hoa
Kỳ, Canada. Tất cả chỉ trông cậy vào những lời giảng dạy của giáo sư
ở trong lớp.
Khó khăn 2:
Một số các giáo sư khi giảng bải hoặc là chỉ nhìn lên trần như thày
Trương Bửu Lâm, hoặc là chỉ cúi mặt nhìn vào tài liệu hay sách đọc
(như Giáo-sư Nguyễn Khắc Kham và Giáo-sư Nguyễn Ngọc Cư) và nói thao
thao bất tuyệt mà không ngó ngàng nhìn đến sinh viên xem họ có hiểu
bài hay ghi được những lời giảng dạy hay không.
Các giáo sư người Pháp giảng dạy
tương đối chậm rãi. Thế nhưng, dù là chậm rãi đến đâu đi nữa thì hơn
90% sinh viên trong lớp cũng chẳng hiểu gì cả, nói chi đến chuyện
“ghi bài”.
Mối âu lo:
Mối âu lo này là khó khăn 1 và 2 gây ra. Không có sách giáo khoa,
không có tài liệu, không ghi được lời giảng của giáo sư, anh em
chúng tôi lấy đâu ra tài liệu để học và thi? Cũng vì thế, đã có một số anh
em ở lớp trước đã bị rớt ở lại, hiện đang ngồi học chung với chúng
tôi.
Vì tình trạng nguy ngập như vậy,
cho nên toàn thể anh em trong lớp đều đồng ý đưa tôi lên làm trưởng
lớp để tìm cách giải quyết. Các bạn đều cho rằng tôi lớn tuổi hơn, đã từng
là quân nhân và công chức, tính tình thật thà, mau mắn, luôn luôn có
thái độ nghiêm túc và chững chạc. Thực ra, mối âu lo này cũng là môi
lo rất lớn đối với tôi. Vì thế mà tôi sốt sắng nhận lời làm
trưởng lớp.
Tôi nói với anh em: Muốn vượt qua
những khó khăn trên đây, chúng ta cần phải thành lập hai ban
ghi bài: Một ban ghi bài tiếng Pháp và một ban ghi bài tiếng Việt.
Về vấn đề ghi bài tiếng Pháp, toàn
lớp chỉ có một mình anh Bùi Văn Thuật là có thể ghi được trọn vẹn và
anh Thuật nhận lãnh công việc này. Có một số anh em khác nói
rằng cũng đã học chương trình Pháp và có tú tài Pháp, nhưng lại
không ghi được. Chuyện đó cũng rất bình thường.
Về vấn đề ghi bài tiếng Việt, anh
em đều đồng ý giới hạn chỉ ghi bài học của các Giáo-sư Nguyễn Ngọc
Cư, Nguyễn Khắc Kham, Trương Bửu Lâm, còn các bài giảng của các giáo
sư khác, anh em phải tự lo lấy. Anh Hà Mai Phương,
anh Bùi Bá Nhẫn, anh Võ Thanh Sum
và tôi đảm trách việc ghi bài tiếng Việt của các giáo sư trên đây.
Sau đó, tôi đề nghị anh Hà Mai
Phương làm thư ký (mà tôi gọi là bí thư), chị Phan Thị Quỳnh Dzư làm
thủ qũy và anh Võ Thanh Sum phụ tá giúp tôi. Tất cả anh em đều đồng
ý. Mấy cái chức vụ “vác ngà voi” này được anh em toàn lớp tái chỉ
định cho đến khi ra trường.
Khó khăn 3:
Việc ghi bài mất rất nhiều thì giờ, vì rằng ghi xong, phải đọc đi,
đọc lại để hiệu chính và sửa lại sao cho rõ ràng để người đánh máy
có thể đọc được, rồi lại phải thuê người đánh máy và in Ronéo. Do
đó, công lao của những người ghi bài không phải là nhỏ. Tôi nói với
các anh em rằng: Học bổng của chúng ta là 1500 đồng một tháng. Hiện
này, tiền lương hàng tháng của anh em quân nhân binh nhì chỉ có 516
đồng, và anh em tân binh quân dịch chỉ có 4 đồng một ngày hay 120
đồng một tháng. Như vậy, nếu so với đồng lương của anh em quân nhân,
học bổng của chúng ta nhiều hơn gấp 3 lần. Vậy xin đề nghị, mỗi
tháng trong niên học (không tính 3 tháng hè), chúng ta trích ra 50
đồng góp vào quỹ của lớp.
Khỏan tiền này dùng để thuê người đánh
máy, chi phí cho các phí khỏan in ronéo, mua bông tặng các giáo sư
vào dịp tết, tiền trả cho Giáo-sư Rescoussier kiểm soát bài
climatology (tính theo số trang), và tiển trả công cho anh Bùi Văn
Thuật ghi bài tiếng Pháp và đánh máy stencil. Xin gửi tiền đóng góp
này đến chị Phan Thị Quỳnh Dzư (thủ quỹ). Tất cả mọi người đều đồng
ý. [Các giáo sư Teulière, Bourrier và Flamand biết chúng tôi có ghi
bài và in ra để phân phối cho nhau học, nhưng lờ đi, không đặt ra
vấn đề kiểm soát xem chúng tôi ghi có đúng hay không, cho nên không
đòi trả tiền.]
Thấy rằng chi phí nhiều quá, tôi
đề nghị anh em trong ban ghi bài tiếng Việt nên đóng tiền vào quỹ
giống như các anh em khác ở trong lớp. Các anh Hà Mai Phương,
Bùi Bá Nhẫn và
Võ Thanh Sum đều đồng ý. Thế là khó khăn 3 đã được giải quyết và
cũng là giải quyết cả khó khăn 1 và 2.
Khó khăn 4: Trong số 40
anh em cùng lớp, có tới 5 hay
6 người, không chịu đóng tiền, nhưng
tới khi có bài phân phối, thì họ lại nằng nặc đòi lấy bài. Chị Phan Thị Quỳnh Dzư nhắc nhở họ đóng tiền thì họ
nói cho qua. Tôi đến nói chuyện trực tiếp với những anh em này, họ
cũng nói cho qua. Có lúc tôi phải làm găng, nghĩa là giữ bài lại,
thì họ gây gỗ, nói toàn những lời “anh chị” không hợp với tư cách
sinh viên sư phạm. Tôi đành phải đấu dịu theo tinh thần “dĩ hòa vi qúy”
để giữ cái vẻ đẹp cho lớp học.
Điều đáng buồn là cả 5, 6
anh bạn “đặc biệt” này đều là dân Bắc Kỳ di cư mà hầu hết là những
người đồng đạo với Tổng Thống Diệm lúc bấy giờ. Cung cách hành xử
ngang ngược của họ giống như mấy ông an ninh
quân đội trong Không Quân và các ông công an, mật vụ mà tôi đã
thường gặp. Hầu hết mấy người này thường chỉ đến lớp ký tên hiện
diện trong bảng điểm danh rồi “lỉnh” hay “chuồn” mất. Đặc biệt là
hai anh bạn cùng có họ và tên nếu viết tắt đều là NgThCh.
Một
trong hai anh này, ngày nào cũng như ngày nào, ký tên xong, rồi
“lỉnh” ra quán ăn bên gốc cây điệp ở sau trường, ngồi uống bia, mặt
đỏ gay.
Có người cho biết, khi còn ở Bắc, anh bạn này đã từng là
lính đạo từ khi mới có 16 tuổi và đã có những hành động đối với
người dân lương ở các làng xung quanh giống như những người lính đạo trong các đoàn quân thập tự ở Âu Châu trong
thời Trung Cổ khi tiến vào vùng Palestine và miền Nam nước Pháp.
Có người nghi ngờ họ là mật vụ của chính quyền. Lại có người cho
rằng họ là người của các ông linh mục đưa vào. Đối với họ, thi cử chỉ là chiếu lệ, không thành vấn đề, vì dù thế nào họ
cũng lên lớp và cũng ra trường như ai. Cái thời “Nhất Chúa, nhì
Cha, thứ ba Ngô Tổng Thống”[i]
là như vậy! Họ là “dân Chúa”, ai mà dám đụng tới?
Vì các anh em sinh viên người Nam, nhất là anh NgK Kh (Công Giáo)
rất ghét dân Bắc Kỳ, tôi tâm sự và dặn dò anh Hà Mai Phương và chị
Phan Thị Quỳnh Dzư đừng để cho anh em sinh viên khác biết về chuyện
mấy ông bạn Bắc Kỳ không chịu đóng tiền. Chuyện này tuy chỉ là cá
nhân, nhưng liên hệ đến danh dự người Bắc. Nếu biết được, anh em sinh viên người Nam chắc chắn sẽ dùng chuyện này để chứng minh cái đặc tính “xạo” và “lưu manh” của người Bắc và họ sẽ lấy đó làm
cái cớ để nhục mạ và bếu riếu tất cả tụi mình. Cả anh Phương và chị Dzư đều đồng ý như vậy.
Tình trạng này cứ thế kéo dài và
cả ba niên học. Cả ba chúng tôi đều nhẫn nại chịu đựng cho đến khi
ra trường.
Chuyện bên lề 1: Vào khoảng hạ tuần
tháng 4 Dương lịch, sinh viên Trường Đại Học Sư Phạm Sàigòn đã rộn
ràng thi các bài thi cuối niên khóa và vào khoảng một hai ngày đầu
tháng 5là có kết quả. Sau đó, sinh viên được nghỉ hè và đến khoảng
giữa tháng 8 Dương Lịch thì trường bắt đầu hoạt động cho niên khóa
tới.
Không biết các khóa trước và các khóa sau
chúng tôi như thế nào. Riêng Khóa 4 (1961-1962), tôi thấy mùa hè năm
1962 và 1963, Đại Học Sàigòn có tổ chức khoảng 200 sinh viên
di du ngoạn Đa Lạt dưới quyền hướng dẫn của ông Tăng Kim Tây (không
biết có phải là giáo sư hay không) với sự phối hợp của Tổng Hội Sinh
Viên. Thời gian ở Đà Lạt vào khoàng 10 ngày. Mỗi trường đều cử một
số sinh viêm tham dự. Tất cả tốn phí di chuyển ăn và ở đều do tiền
viện trợ Mỹ đài thọ. Cả hai kỳ hè năm 1962 và 1963, tôi và anh Hà
Mai Phương đều được trường đề cử tham dự chuyến đi này. Có lẽ
vì tôi là trưởng lớp và anh Phương là thư ký.
Trong chuyến đi vào mùa hè năm 1962, tất
cả anh em sinh viên được đưa đến lưu ngụ trong đại học xá Đà Lạt. Ở
đây, anh Hà Mai Phương thường rủ tôi đên thăm gia đình hai cô Lưu
Thị Lục
Tần và Lưu Chu Thanh Tảo tai nhà số 21 Đường Võ Tánh. Lúc đó,
cô Lục Tần vào khoảng 17 hay 18 và cô Thanh Tảo vào khoảng 16
hay 17. Cô nào cũng xinh như mộng, đẹp tuyệt trần. Chắc chắn
là bất kỳ chàng trai nào gặp hai nàng Kiều này cũng bị hớp hồn. Đã
có lmột lần tôi nói với Phương rằng, ngày xưa Tào Tháo mới chỉ nghe
thấy tiếng đồn về sắc đẹp của Đại Kiều và Tiểu Kiều mà đã mê mẩn
viết thành một câu thơ "Đồng Tước thâm xuân tỏa nhị Kiều." (Một nền
Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.) Bây giờ, chúng ta đã gặp nhị Kiều
này bằng xương bằng thịt, Phương có nghĩ rằng, chúng ta phải xây nhà
vàng để nhốt hai nàng Kiều này lại không? Phương cười nói, "Nếu
làm được, thì mình cũng làm!"
Chuyến đi du ngoạn vào mùa hè năm 1963, chúng
tôi được đưa đến ở Lữ Quán Thanh Niên, không cách xa Chợ Hòa Bình là
bao nhiêu và cũng rất gần nhà số 21 Đường Võ Tánh. Tôi cũng được Phương dẫn
đến đây thăm gia đình của hai nàng Kiều và cũng là để
được nói chuyện với người đẹp Đà Lạt. Tôi có cảm tưởng là
Phương và cô Thanh Tảo đã có cảm tình sâu đậm với nhau rồi.
Còn tôi và cô Lục Tần thì dù là "tình trong như đã,
nhưng mặt ngoài còn e"
Mùa hè năm 1964, lúc này, Tướng
Nguyễn Khánh đang nắm giữ chức vụ thủ tướng. Chương trình du ngoạn
của anh em chúng tôi vẫn đưiợc tiến hành và cũng do tiền Mỹ viện trợ
đài thọ, nhưng do tổ chức Thanh Niên Thiện Chí đảm nhiệm và giới hạn
chỉ có 100 sinh viên và học sinh tham dự. Hai anh Huỳnh Phú Hạnh và
Võ Thanh Sum (đều là người cùng lớp Sử Địa của chúng tôi) được
chỉ định lãnh trách nhiệm điều khiển chuyến đi này, chứ không phải
do ông Tăng Kim Tây điều khiển nữa. Tôi được chỉ định làm quản lý mua thực
phẩm và nấu ăn cho tanh em. Thay vì đi Đà Lạt, ban tổ chức đưa anh
em học sinh sinh viên lên cắm trị tại Buôn Chu Đăng (viết như vậy
không biết có đúng không), cách thị trấn Ban Mê Thuột khoảng 17 cây
số về phía bắc. Thời gian là 10 ngày. Chuyên đi này không có anh Hà Mai Phương. Có lẽ anh
mắc phải đi Đà Lạt. Khi đi, chúng tôi dùng xe đò lên Ban Mê Thuột,
rồi dùng xe Lambretta ba bánh di chuyển tới Buôn Chu Đăng. Khi về,
chúng tôii được đưa về bằng máy may Hàng Không Việt Nam.
Chuyện bên lề 2:
Anh Lâm Văn Bé (người miền Nam) đến định cư ờ Montréal (Quebec) từ
năm 1975. Chị Phan Thị Quỳnh Dzư cùng gia đình đi theo diện bảo lãnh
đến định cư tại thành phố này vào khoảng năm 1982. Tha hương ngộ cố
tri. Anh Bé gặp lại chị Dzư mừng lắm và có chuyện gì họ cũng thông
tin báo cho nhau biết.
Như đã nói ở trên, chị Dzư là người chân
chất, thật thà, dễ bỏ qua những cái gì không tốt của các bạn. Cũng
vì thế mà khi có tin một trong "những gánh nặng năm xưa" (NgThCh.) đến định cư ở
thành phố này, Chị Dzư vẫn đến gặp để hàn huyên.
Tình cờ, trong một tiệc cưới, có cả các bạn ở trong đó. Muốn tạo một bất ngờ cho các bạn, chi Dzư mau mắn đưa anh Bé
đến bàn khác, để gặp "một người bạn cũ". Khi đến nơi, chị Dzư giới thiệu, anh NgThCh mừng ra mặt,
đứng lên, vừa chào vừa chìa bàn tay ra, nhưng, đúng là "bất ngờ," anh Bé không thèm đáp lễ,
ngoảnh mặt bỏ đi.
Chuyện này cho chúng ta thấy rõ
hai khía cạnh:
Khía cánh thứ nhât:
Anh Lâm Văn Bé là người miền Nam. Ở vào thế hệ của anh, tất nhiên là
không thể tránh khỏi cái đặc tính khinh chê dân Bắc kỳ là “xạo” và
“lưu manh”. Tuy nhiên, chị Dzư và cá nhân tôi đều là dân Bắc Kỳ di
cư. Ấy thế mà anh Bé vẫn rất lịch thiệp đối với chúng tôi, giống như
những người bạn miền Nam. Khi tôi du học ở Mỹ mới về, vào
khòang đầu năm 1970, tôi cùng anh Võ Thanh Sum đến thăm anh Lâm Văn
Bé. Lúc bấy giờ anh đang giữ chức Chánh Sở Giáo Dục giống như
chức Trưởng Ty Giáo Dục ở Mỹ Tho. Gặp chúng tôi, anh Bé rất vui
mừng và điệu hai đứa chúng tôi ra một nhà hàng sang trọng ở trên bờ
sông để thết chúng tôi một chầu ăn rất là thịnh sọan.
Khía cạnh thứ hai: Có lẽ ngoài việc không đóng tiền quỹ cho lớp ròng rã 3 năm
ở Đại Học Sư Phạm Sàigòn, anh bạn NgThCh còn biểu hiện tư cách không tốt như thế nào đã in sâu trong trí nhớ anh Bé. Vì thế mới có tình trạng giáp mặt nhau mà không thèm bắt tay và
bỏ đi liền như vậy.
Nhắc lại đây những gương mặt khác nhau trong những kỷ niệm giống nhau hoàn toàn không phải để làm bài học nào cho ai nữa. Chúng ta đã giả từ nhau ở cổng trường, vài người trong chúng ta được hân hạnh tương phùng thêm
chốc lát. Rồi thì chúng ta cũng đến lúc giã từ nhau lần cuối, người trước người sau.
Đời còn lại gì ngoài những tấm lòng ?
Nguyễn Mạnh Quang -
Ngày
1/3/2009 - Ngày lễ mai táng của bạn Hà Mai Phương
Phụ đính: Khóc Bạn Hà Mai Phương
[i]
Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân
Văn, Xóm Đạo, 2003), tr. 18.
Trang Lịch Sử